Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mỹ-Trung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mỹ-Trung. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2018

ĐS Mỹ: Chiến lược "ba mũi nhọn" của Mỹ tại Biển Đông

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam khẳng định Washington có chiến lược "ba mũi nhọn" rất rõ ràng tại Biển Đông và tranh chấp chủ quyền không ảnh hưởng đến những dự án hợp tác giữa hai nước.

Chi tiết: https://news.zing.vn/dai-su-my-washington-co-chien-luoc-3-mui-nhon-rat-ro-tai-bien-dong-post898958.html

Tài liệu PDF: https://drive.google.com/file/d/12sw4atCXRtAtCLPlWLbwRYRc-FBF6ztl/view
0

Thứ Tư, 5 tháng 12, 2018

Hưu chiến thương mại Mỹ-Trung ảnh hưởng đến Việt Nam và nhiều nước

Ảnh chụp ngày 14/01/2018 tại một xưởng chế tạo phụ tùng xe đạp tại Chiết Giang. Công ty đã di dời sản xuất sang nhiều nước sang Việt Nam, Serbia và Mêhico.
Ảnh chụp ngày 14/01/2018 tại một xưởng chế tạo phụ tùng xe đạp tại Chiết Giang. Công ty đã di dời sản xuất sang nhiều nước sang Việt Nam, Serbia và Mêhico.
0

Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2018

Không quân Mỹ xây dựng chiến thuật mới đối phó Trung Quốc


Không quân Mỹ sẽ phân tán lực lượng giữa nhiều căn cứ và đề cao năng lực chỉ huy độc lập để tăng khả năng tác chiến trước Trung Quốc.
0

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2018

Trump đã khuấy đảo thương mại toàn cầu như thế nào

ổng thống Mỹ - Donald Trump liên tiếp tung đòn thuế nhập khẩu, nhằm lấy lại sản xuất và quyền lực cho nước Mỹ.
Cái cớ của Trump

Ông Donald Trump thường xuyên phàn nàn về thâm hụt thương mại lớn của Mỹ. Ông cho rằng đây là biểu hiện cho sản xuất và quyền lực nước Mỹ suy giảm. Theo ông, nhiều nước trong đó có Trung Quốc đã hoạt động không công bằng với Mỹ, như ăn cắp công nghệ của người Mỹ, trợ cấp các ngành công nghiệp và bán phá giá sản phẩm ra toàn cầu.


Thâm hụt (đỏ) và thặng dư (xanh) thương mại của Mỹ với các nước năm ngoái.
0

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

Mỹ "bức xúc" với TSB Liêu Ninh của Trung Quốc

28/11/2012- Cuộc thử nghiệm hạ cánh của máy bay chiến đấu Trung Quốc trên boong hàng không mẫu hạm Liêu Ninh đã gây sự bức xúc khó kiềm chế từ phía Washington.


Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Victoria Nuland tuyên bố quốc gia sẽ không ngừng hỗ trợ các đồng minh châu Á trên bình diện sự tăng cường sức mạnh quân sự Trung Quốc. Nhà ngoại giao Mỹ thậm chí đe dọa những động thái phù hợp trong trường hợp cần thiết.

Vào hôm Chủ nhật 25-11, Trung Quốc thực hiện thành công các chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của phi cơ chiến đấu trên boong từ tàu sân bay số một của nước này. Mặc dù vậy, giới chuyên gia quốc tế vẫn phân vân về dự báo thời hạn đi vào hoạt động chính thức của hàng không mẫu hạm Trung Quốc.


Nhưng Washington cho thấy, họ nhìn nhận sự kiện như mối đe dọa tiềm năng cho sự hiện diện của mình tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương

Konstantin Sivkov, Phó Chủ tịch Học viện Các vấn đề địa chính trị Nga, nhận định: “Trung Quốc lúc này đang đặc biệt tích cực thâm nhập khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nếu trước đó quốc gia huy động tiềm năng ảnh hưởng về kinh tế và dân số, thì giờ đây sẵn sàng nhấn cả bằng sức mạnh quân sự.


Hải quân Trung Quốc xây dựng tàu sân bay của mình trên cơ sở hàng không mẫu hạm Varyag cũ của Liên Xô. Bên cạnh đó, quốc gia đang triển khai đóng bốn tàu sân bay mới.”

Theo ông Konstantin Sivkov, năm tàu sân bay của Trung Quốc sẽ trở thành lời đáp có trọng lượng cho chiến lược tăng cường tiềm lực và sự hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Việc Bắc Kinh chuyển hướng tập trung vào sự có mặt quân sự trên biển trùng lặp về thời gian với động thái huy động đến 60% tiềm lực hải quân tới khu vực của Lầu Năm Góc.


Mỹ hiện liên tục duy trì không dưới hai cụm tàu sân bay ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Quốc gia còn thường xuyên có mặt trong các cuộc tập trận hải quân chung với Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines và Úc.

Tâm điểm của cuộc đối đầu địa chính trị đang được chuyển dịch về phía châu Á – Thái Bình Dương, bởi cả Mỹ và Trung Quốc đều đánh giá đây là khu vực lợi ích sống còn - Giám đốc Trung tâm Các nghiên cứu xã hội chính trị, ông Vladimir Yevseyev phân tích: “Cái Mỹ đang triển khai là một hệ thống toàn cầu kiềm chế Trung Quốc. Bao hàm trong đó có các căn cứ không quân và hải quân hùng mạnh trên lãnh thổ Úc. Rõ ràng, sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Philippines cũng sẽ được tăng cường. Mỹ đang bằng mọi cách tiến sát tới Trung Quốc. Một vòng cung phòng thủ tên lửa được rải từ Úc đến Alaska.”


Theo các chuyên gia, mục tiêu của hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Á là vô hiệu hóa tiềm năng tên lửa Trung Quốc. Rõ ràng, sự xuất hiện của các tàu sân bay Trung Quốc cũng điều chỉnh hệ thống Mỹ chuyên giám sát tiềm lực hải quân Trung Quốc. Lúc này, trong các cuộc đàm phán quân sự với Mỹ, Trung Quốc cương quyết đưa yếu sách đòi chấm dứt các hoạt động tình báo ở Thái Bình Dương.

Mới đây tại Bắc Kinh, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã hứa sẽ không can thiệp vào tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc với các nước láng giềng. Trên thực tế, tuyên bố của bà Victoria Nuland rằng Mỹ sẵn sàng hỗ trợ các đồng minh ở châu Á trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường quân sự đã gạt bỏ lời hứa hẹn này của người đứng đầu Lầu Năm Góc.

Theo Voice of Russia

0

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

Trung - Mỹ tranh giành quyền lực gay gắt ở Đông Nam Á

11/11/2012- (PL&XH) - Cuộc chiến tranh ở Campuchia, hay còn gọi là cuộc chiến tranh Đông Dương thứ ba, đã kết thúc được 21 năm. Tuy nhiên, theo báo Sankei của Nhật Bản, bóng đen không tốt lành một lần nữa lại đang kéo đến Campuchia và toàn khu vực Đông Dương.

Vũ đài tranh giành quyền lực mới

“Bóng đen” mà báo Sankei đề cập chính là sự tranh giành quyền lực quyết liệt giữa Mỹ và Trung Quốc tại Đông Dương, và rộng hơn là khu vực Đông Nam Á. Do đó, có khả năng Đông Dương sẽ một lần nữa trở nên bất ổn. Kể từ khi Tổng thống Barack Obama lên nắm quyền năm 2009, Mỹ đã coi “tương lai của Mỹ là ở châu Á” và tăng cường quan hệ với Đông Nam Á. Nước cản đường Mỹ tại khu vực này chính là Trung Quốc.

Từ nửa cuối những năm 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc đã tăng cường ảnh hưởng ở khu vực bán đảo Đông Dương. Trừ Việt Nam, Trung Quốc đã sử dụng các khoản đầu tư và viện trợ lớn cho 4 nước Myanmar, Lào, Campuchia và Thái Lan để tăng cường sự hiện diện ở khu vực này. Sự trở lại Đông Nam Á của Mỹ bắt đầu từ Myanmar. Ngay sau khi thành lập năm 2009, chính quyền Obama đã bắt đầu tiếp xúc công khai và bí mật với chính quyền quân sự Myanmar khi đó đang bị cấm vận. Kết quả là đến tháng 11-2011, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã thăm Myanmar. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một Ngoại trưởng Mỹ trong vòng 57 năm qua. Một minh chứng rõ nét nữa là ngay sau khi tái đắc cử Tổng thống Mỹ, chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Obama chính là đến Myanmar. Chiến lược quay trở lại châu Á của Mỹ ít nhất cũng đang thành công ở Myanmar.

Tại Lào, nơi Trung Quốc đã tạo được sự hiện diện áp đảo từ những năm đầu thế kỷ này, Mỹ cũng bắt đầu nỗ lực lôi kéo rời xa ảnh hưởng Trung Quốc. Tháng 7-2012, bà Hillary Clinton trở thành Ngoại trưởng Mỹ đầu tiên thăm Lào sau 57 năm. Tháng 10-2012, nguyện vọng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của Lào được chấp thuận với sự hậu thuẫn của Mỹ.

Tiếp theo là Campuchia. Trung Quốc đã ủng hộ Campuchia và không ngừng tăng cường hiện diện ở nước này. Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tháng 7-2012, Campuchia với tư cách là nước Chủ tịch luân phiên đã điều hành hội nghị theo hướng có lợi cho Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa Philippines và Việt Nam với Trung Quốc ở biển Đông.

Một hiện tượng nữa ở Đông Dương cũng thu hút sự chú ý của dư luận là việc Mỹ và Việt Nam nhanh chóng tăng cường quan hệ song phương. Mỹ có thiện ý với Việt Nam trong vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông và hai bên cũng đã bắt đầu tiến hành thao diễn quân sự chung. Đối với Mỹ, Việt Nam là đê chắn ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Dương và khu vực Đông Nam Á. Đối với Việt Nam, Mỹ là sự hậu thuẫn cần thiết để Việt Nam đối phó với sức ép từ phía Trung Quốc.

Sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Mỹ và Trung Quốc là hai kẻ thù của nhau. Tuy nhiên, khi mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô trở nên quyết liệt, chuyến thăm Trung Quốc của cựu Tổng thống Richard Nixon đã biến “kẻ thù ngày hôm qua” thành “bạn bè ngày hôm nay”. Mặc dù vậy, khi “mối đe dọa từ phương Bắc” biến mất cùng sự sụp đổ của Liên Xô, giới lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu “Nam tiến” mở rộng ảnh hưởng. Sau đó, Trung Quốc một lần nữa lại đối đầu với Mỹ - nước bắt đầu coi trọng khu vực Đông Nam Á.

Khi cuộc nội chiến ở Campuchia kết thúc năm 1991, thế giới đã nghĩ rằng “lần này thì hòa bình đã quay trở lại bán đảo Đông Dương”. Nhưng hiện nay bán đảo này đang trở thành vũ đài tranh giành quyền lực mới giữa Trung Quốc và Mỹ. Nền hòa bình đạt được ở Campuchia 21 năm trước liệu có phải chỉ là “thời gian tạm nghỉ” của lịch sử chiến tranh đối kháng lâu dài ở bán đảo Đông Dương?


Ngoại trưởng Hillari Clinton (trái) trong chuyến thăm Myanmar. Ảnh: TL

Đối tác hay đối thủ?

Trong cùng một tuần lễ, tại cả Mỹ và Trung Quốc đã diễn ra hai sự kiện quan trọng. Tại Mỹ, Tổng thống Obama tái đắc cử, còn tại Trung Quốc, dù Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc khai mạc ngày 8-11 và 14-11 mới bế mạc, nhưng kết quả đại hội gần như đã được ấn định từ trước. Nhiều chuyên gia quan sát nhận định, thế kỷ 21 là thế kỷ đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc, song nhật báo "La Croix" của Pháp lại cho rằng, dù có tiềm năng đối đầu về quân sự và kinh tế nhưng tình hình thế giới đã khiến các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, trong đó có Mỹ và Trung Quốc. Bởi vậy, bên cạnh sự đối đầu, hai nước này còn có sự nương tựa lẫn nhau.

Nhìn vào lĩnh vực quân sự, "La Croix" nhận định, từ những năm 80 của thế kỷ trước, quân đội Trung Quốc đã bắt đầu được chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa. Ngân sách dành cho quân đội của Trung Quốc không ngừng tăng và hiện lên tới 129 tỷ USD. Lập trường chính thức của Trung Quốc là bảo vệ lãnh thổ và chuẩn bị “đương đầu với các cuộc xung đột quân sự từ mọi phía”. Theo báo trên, trong mọi phía đó thì hàng đầu là đương đầu với ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương và Đông Nam Á, nơi mà Trung Quốc muốn thiết lập bá quyền.

Còn đối với Mỹ, năm 2011, nước này dành đến 711 tỷ USD cho chi tiêu quốc phòng, chiếm đến 41% chi tiêu quốc phòng của toàn thế giới. Trong những năm tới, dù cắt giảm ngân sách song ngân sách của Nhà Trắng sẽ dao động từ 650-700 tỷ USD. Như vậy vẫn còn cao hơn rất nhiều so với Trung Quốc, và Mỹ vẫn sẽ là cường quốc quân sự lớn nhất thế giới. Còn ở Thái Bình Dương, hạm đội của Mỹ đóng tại Ấn Độ Dương cũng có đến 180 đơn vị với 2.000 máy bay và 125.000 quân nhân. Mỹ cũng có các đồng minh thân cận trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Chính phủ Mỹ cũng đã chuyển hướng tập trung quân sự về vùng châu Á-Thái Bình Dương để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mỹ đã tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực như Philippines, Việt Nam, Indonesia, Singapore và Malaysia.

Về kinh tế, mấy thập niên qua, kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng với mức tăng trưởng bình quân 10%. Thế nhưng, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc là không bền vững vì nhắm mắt chạy theo tăng trưởng GDP mà để phát sinh những bất công và bất bình đẳng xã hội, nạn phân hóa giàu nghèo rất cao và tình trạng ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng. Nền kinh tế nước này vốn dựa vào đầu tư và xuất khẩu, nhưng trong bối cảnh kinh tế phương Tây đang khó khăn, xuất khẩu Trung Quốc giảm đi, đầu tư xuống dốc và tăng trưởng vì thế cũng mất đà. Trong khi đó, Mỹ hiện vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng. Tăng trưởng của Mỹ hiện ở mức 2%, tỉ lệ thất nghiệp ở mức trên dưới 8%, bảo hiểm xã hội đang hạn chế. Trung Quốc hiện đang nắm trong tay rất nhiều trái phiếu của Mỹ.

Trong thời gian tới, các lãnh đạo mới của hai nước sẽ đối đầu với hàng loạt thách thức. Đối với Trung Quốc, dù kinh tế phát triển nhanh song tình trạng bất bình đẳng xã hội ở mức nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường cũng đáng báo động, nạn tham nhũng hoành hành, lòng tin của dân vào Đảng giảm sút nghiêm trọng, dư luận bức xúc gây nguy cơ bạo động xã hội. Đối với Mỹ, trong thời gian tới, nợ công là vấn đề hóc búa nhất cần giải quyết. Sắp tới, để hạn chế nợ công, Chính phủ Mỹ sẽ phải cắt giảm chi tiêu và nếu cắt giảm chi tiêu, sẽ ảnh hưởng đến chế độ hưu bổng, đến an sinh xã hội, đến quốc phòng, tức đến những vấn đề nhạy cảm nhất. Về việc Trung Quốc nắm nhiều trái phiếu của Mỹ, nếu Trung Quốc nắm càng nhiều thì hai bên càng lệ thuộc lẫn nhau, bởi khi món nợ càng cao thì khi con nợ chết, chủ nợ cũng không sống nổi.

Châu Âu có trọng lượng như thế nào trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc? Đối với Mỹ, châu Âu chỉ là một không gian thương mại, không hơn không kém. Chính sách chuyển ưu tiên chiến lược về vùng châu Á-Thái Bình Dương của Tổng thống Obama cho thấy trong suốt nhiệm kỳ đầu ông Obama đã không xem trọng quan hệ với châu Âu nói chung, thậm chí với các nhà lãnh đạo châu Âu nói riêng. Trong Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-EU diễn ra năm 2009 tại Washington, Tổng thống Obama chỉ dành chưa tới 2 tiếng đồng hồ có mặt tại hội nghị. Ông cũng không dành thời gian đến Đức tham dự lễ kỷ niệm 20 năm ngày Bức tường Berlin sụp đổ.

Cũng như Mỹ, Trung Quốc lo ngại khủng hoảng kinh tế châu Âu vì châu Âu là thị trường lớn nhất cho xuất khẩu của Mỹ và Trung Quốc. Thế nhưng, Trung Quốc vẫn ở thế thượng phong vì nắm trong tay một khối lượng khổng lồ ngoại tệ và sẽ có đủ sức để mua lại nợ công của châu Âu. Theo nhận định của một chuyên gia, đối với Mỹ và Trung Quốc, châu Âu chỉ là một khối quốc gia hoạt động thiếu đoàn kết. "La Croix" cho rằng, chính sự thiếu đoàn kết này tạo điều kiện cho các đối tác Mỹ và Trung Quốc có cơ hội trục lợi.

Nguồn: Pháp Luật & Xã Hội
0

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

Mỹ xây dựng chiến thuật mới kiềm chế quân đội Trung Quốc

03/11/2012- (GDVN) - Một loạt kế hoạch tác chiến cụ thể của 4 binh chủng quân Mỹ cũng được bắt đầu xây dựng để thực hiện chiến lược quốc phòng đưa ra năm 2012...


Mỹ đưa ra tư tưởng "tác chiến hợp nhất trên không-trên biển"

Hải, không quân trước tiên đề xuất “tác chiến trên không-trên biển”

Trang mạng “Jane’s Defense Weekly” Anh ngày 24/10 đăng bài viết “Quy hoạch ngoài trọng tâm chiến lược” của Catherine Lee cho rằng, từ sau khi chính quyền Obama công bố chiến lược quốc phòng năm 2012, các chuyên gia chính sách ngoại giao bắt đầu triển khai tranh luận công khai về ưu điểm của chiến lược này và ảnh hưởng của nó đối với quan hệ Mỹ-Trung.

Nhưng, điều quan trọng tương tự lại không được truyền thông tích cực nhắc đến, đó là một loạt kế hoạch tác chiến cụ thể của 4 binh chủng quân Mỹ cũng được bắt đầu xây dựng để đáp ứng việc dịch chuyển trọng tâm chiến lược này.

Trong Chiến tranh Lạnh, chiến lược ngăn chặn là cốt lõi của mọi sách lược chiến tranh. Lục quân Mỹ thực hiện theo tư tưởng “tác chiến trên không-mặt đất”, mục tiêu của chiến lược này là để đánh trực diện trên mặt đất khi châu Âu bị xâm lược, và sử dụng lực lượng đường không tấn công hậu phương của kẻ thù, từ đó chiến thắng Liên Xô.

Nhưng hiện nay lại không có chiến lược trực tiếp như vậy chỉ đạo phương thức của Mỹ đối với Trung Quốc, chủ yếu là do ý đồ bá chủ của Trung Quốc trong quá trình trỗi dậy không rõ rệt như Liên Xô trước đây. Vì vậy, nguyên tắc chỉ đạo quốc phòng mới của Chính phủ Mỹ chỉ có thể là cẩn thận thăm dò.


Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-31 của Pháo binh 2 Trung Quốc

Nguyên tắc chỉ đạo này vừa không coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là một mối đe dọa khu vực, nhưng vừa thực sự bày tỏ lo ngại đối với ý đồ trở thành bá chủ khu vực của Trung Quốc.

Trên thực tế, nguyên tắc chỉ đạo này thể hiện sự cân nhắc của Mỹ trong vấn đề có liên quan tới Trung Quốc, thận trọng hành động, phải áp dụng phương thức “hai bút cùng vẽ/tiến hành đồng bộ”, một mặt khuyến khích tiến hành tiếp xúc với Trung Quốc, mặt khác cũng cần có “khả năng và sức mạnh quân sự”.

Năm 2009, Bộ Quốc phòng Mỹ bắt đầu tiến hành hoạch định lâu dài đối với các hành động quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và cuối cùng trong “Báo cáo Đánh giá Quốc phòng 4 năm” chính thức công bố năm 2010 đã đưa ra khái niệm chỉnh thể mới – “tác chiến trên không-trên biển”.

Khái niệm này hoàn toàn không chỉ đích danh Trung Quốc, nhưng kêu gọi các binh chủng kết hợp được các khả năng trên không, trên biển, trên mặt đất, trong không gian và trên mạng với nhau, để ứng phó với những thách thức mới mà lợi ích của Mỹ và các nước khác phải đối mặt.

Kết quả đưa ra khái niệm mới này là, toàn bộ 4 binh chủng đều bắt đầu quan tâm đến thách thức “chống can dự/ngăn chặn khu vực” (A2/AD). Các quan chức cho biết, thách thức này là hệ quả của việc vũ khí dẫn đường chính xác tầm xa tiên tiến phổ biến trên phạm vi toàn cầu.


Tàu sân bay động cơ hạt nhân USS George Washington mang theo nhiều loại máy bay quân dụng.

Các quan chức Lầu Năm Góc kiên nhẫn chỉ ra, những vũ khí này có thể lan rộng ở các nước và các tổ chức phi chính phủ.

Nhưng, trong một số cuộc thảo luận ở hậu trường, điểm quan tâm của các quan chức rõ ràng đặt vào mối đe dọa từ Trung Quốc, hơn nữa Iran ngẫu nhiên cũng sẽ là thách thức “chống can thiệp/ngăn chặn khu vực” tiềm tàng được đề cập.

Mục tiêu chủ yếu nhằm vào sức mạnh quân sự của Trung Quốc

Sự lo ngại chủ yếu của những người lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc chính là, nếu Mỹ không có khả năng răn đe mạnh, Trung Quốc có thể cuối cùng sẽ cho rằng khả năng “chống can dự và ngăn chặn khu vực” ngày càng mạnh của họ có thể ngăn chặn Mỹ triển khai các hành động quân sự ở sân sau của họ.

Tình hình lo ngại nhất trong mắt của một số chuyên gia vấn đề Trung Quốc ngoài Lầu Năm Góc chính là, Trung Quốc có thể sẽ cho rằng họ có khả năng gây thiệt hại nặng cho lực lượng truyền thống của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương, làm cho Mỹ không có sự lựa chọn khác ngoài việc sử dụng vũ khí hạt nhân.

Mặc dù ý đồ của Trung Quốc có thể không rõ lắm, nhưng có một điểm có thể khẳng định chính là sức mạnh quân sự của họ đang tăng cường. Theo Bộ Quốc phòng Trung Quốc, trong 10 năm qua, số lượng bản quyền sáng chế đăng ký của công nghiệp quốc phòng Trung Quốc luôn tăng với tốc độ 30% bình quân mỗi năm.


Trung Quốc phát triển tên lửa hành trình DH-10

Trung Quốc còn đang tiếp tục mở rộng phạm vi hoạt động hải quân của họ, nghiên cứu chế tạo tên lửa chống hạm và tên lửa đạn đạo tầm xa, chẳng hạn tên lửa đạn đạo DF-21D, tên lửa hành trình tầm xa DH-10, và đã cải tiến tên lửa đạn đạo và phòng không gồm tên lửa của Nga và HQ-9 của Trung Quốc.

Ngày 25/9, tàu sân bay đầu tiên Liêu Ninh của Trung Quốc đã bắt đầu đi vào hoạt động, tiếp tục cho thấy ý đồ xây dựng hải quân tầm xa của Trung Quốc.

Một số chuyên gia nói bóng gió rằng, các hành động quân sự gần đây của Trung Quốc là phản ứng đối với kế hoạch quân sự mới của Mỹ, đồng thời cho biết, nhưng kế hoạch này, chẳng hạn như tư tưởng “tác chiến trên không-trên biển” đã gây áp lực cho Trung Quốc. Nhưng, một số chuyên gia khác thuyết phục rằng, từ năm 1995 đến nay, Trung Quốc luôn đưa Mỹ vào kế hoạch tác chiến của họ.

Phillip Saunders, chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu quân sự Trung Quốc, Đại học Quốc phòng Mỹ cho rằng: “mục đích cuối cùng của rất nhiều hệ thống của Trung Quốc đều là để đối phó hoặc đánh bại chúng ta, hơn nữa xảy ra trước khi Không quân và Hải quân Mỹ đưa ra tư tưởng “tác chiến trên không-trên biển””.


Máy bay chiến đấu tàng hình J-31 Trung Quốc

“Phương án can dự tác chiến liên hợp”

Do ý thức được Trung Quốc quan tâm chặt chẽ nhất cử nhất động của Washington, khi đưa ra tư tưởng chiến lược đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Lầu Năm Góc cũng đã áp dụng phương thức rất thận trọng như Nhà Trắng.

Mặc dù khi chuyển trọng tâm tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương, sức mạnh quân sự hầu như đang đóng vai trò quan trọng, nhưng vai trò ảnh hưởng tiềm tàng về chính trị và ngoại giao đã làm cho nhiệm vụ này trở nên phức tạp hơn.

Lầu Năm Góc đã đưa ra vài kế hoạch giải quyết mối đe dọa “chống can dự/ngăn chặn khu vực”. Kế hoạch “tác chiến trên không-trên biển” của Hải quân và Không quân Mỹ đã gây chú ý nhất, nhưng từ khi đưa ra tư tưởng này vào năm 2009 đến nay, còn có vài kế hoạch khác cũng đã hé lộ.

Quy hoạch chung của tất cả các kế hoạch được gọi là “phương án can dự tác chiến liên hợp”, tư tưởng này tính toán phương án hành động phối hợp giữa các binh chủng, ứng phó với thách thức “chống can dự/ngăn chặn khu vực”.


Theo Giaoduc.net.vn






0

Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012

Thách thức từ Trung Quốc

The National Internet, 21/8/2012

Hoàng Nguyễn: dịch

“Trung Quốc là mối đe dọa chiến lược lớn nhất của Hoa Kỳ” và Hoa Kỳ phải làm gì để đối phó với thách thức ấy? Bài của Robert W. Merry – tiếp theo bài nghị luận của TNS James Webb mà Bauxite Việt Namđã giới thiệu (ở đây) – đề xuất những chính sách ngoại giao mà Hoa Kỳ cần thực hiện trong nhiệm kỳ tổng thống sắp tới trước mối đe dọa từ Trung Quốc. Tuy viết cho độc giả là công chúng Hoa Kỳ, những ý kiến và đề xuất chính sách này một lần nữa khẳng định thực tế: vấn đề Biển Đông không phải, và không thể, là chuyện “song phương” giữa Trung Quốc và các nước láng giềng mà là một vấn đề toàn cầu, một tâm điểm trong mối quan hệ giữa các cường quốc và do đó đòi hỏi một giải pháp đa phương mang tầm quốc tế.

Hoàng Nguyễn

Bài nghị luận mới đây của Thượng nghị sĩ James Webb trên báo Wall Street Journal là lời cảnh báo mạnh mẽ cho người sẽ làm chủ Phòng Bầu dục của Nhà Trắng sau ngày đăng quang vào tháng Giêng năm tới, cho dù người đó là Tổng thống Obama trong nhiệm kỳ thứ hai hoặc đối thủ từ đảng Cộng hòa Mitt Romney trong nhiệm kỳ thứ nhất. Ông Webb, đảng Dân chủ bang Virginia, người sẽ rời chiếc ghế ở Thượng viện sau cuộc bầu cử vào tháng 11-2012, đã kêu gọi chú ý tới sự lộng hành tăng nhanh chưa từng thấy của Trung Quốc trong việc đòi hỏi chủ quyền những khu vực rộng bao la ở châu Á, bao gồm 200 hòn đảo (trong nhiều trường hợp chỉ là những núi đá không cư trú được nhưng có ý nghĩa về chiến lược) và hai triệu ki-lô-mét vuông mặt nước.

Ông Webb viết: “Vì tất cả những mục tiêu thực tế đó, Trung Quốc đã đơn phương quyết định thôn tính một khu vực từ lục địa Đông Á trải rộng về phía đông xa tới Philippines và về phía nam gần tới Eo biển Malacca”. Yêu sách lãnh thổ khổng lồ này, bao gồm gần như toàn bộ vùng Biển Đông, xung đột với yêu sách lãnh thổ của các nước láng giềng của Trung Quốc trong khu vực, bao gồm Việt Nam, Nhật Bản và Philippines. Gạt qua một bên những yêu sách đối nghịch này, Trung Quốc đã tạo ra một đơn vị hành chính mới, gọi là “thành phố Tam Sa” đặt trụ sở tại quần đảo Hoàng Sa và có quyền báo cáo trực tiếp với chính phủ trung ương ở Bắc Kinh.

Quần đảo Hoàng Sa cách hơn 200 dặm về phía đông nam điểm cực nam của lãnh thổ Trung Quốc và trong nhiều thập niên qua Việt Nam đã mạnh mẽ tuyên bố chủ quyền trên quần đảo này. Nhưng giờ đây, quần đảo là nơi đặt văn phòng cho khoảng 45 “dân biểu” Trung Quốc được bổ nhiệm để cai trị thành phố mới, cùng với một ủy ban thường trực 15 thành viên, 1 thị trưởng và 1 phó thị trưởng. “’Thành phố’ mới của Trung Quốc rộng gần gấp đôi tổng diện tích đất liền của ViệtNam, Nam Hàn, Nhật Bản vàPhilippinescộng lại”, ông Webb viết.

Việc kiểm soát các tuyến đường biển, quyền đánh bắt cá và trữ lượng khoáng sản khổng lồ cũng như vấn đề ai sẽ nắm quyền thống trị chiến lược trong khu vực đều đang bị đe dọa. Có vẻ như Trung Quốc nhất quyết giật khỏi tay Hoa Kỳ quyền thống trị chiến lược ấy để họ có thể trở thành cường quốc thống trị của khu vực. Khả năng của Hoa Kỳ từ trước tới nay trong việc duy trì sự ổn định – và từ đó là sự thịnh vượng – của khu vực sẽ không còn nữa.

Ông Webb không phải là người đầu tiên đưa ra lời cảnh báo như vậy, nhưng bài nghị luận của ông nêu bật một thực tế cốt lõi của tấn kịch đang lộ ra – đúng ra là một tấn kịch đang lộ ra nhanh hơn nhiều so với những gì mà phần lớn người dân Hoa Kỳ nhận thức được. Châu Á đang nhìn để quyết định xem có phải Hoa Kỳ sẽ “làm trọn vai trò khó khăn nhưng cần thiết là người bảo đảm sự ổn định ở Đông Á hay không, liệu khu vực này có sẽ một lần nữa bị thống trị bởi sự hiếu chiến và hăm dọa hay không”, như ông Webb diễn tả.

Trung Quốc ngày nay là một sự thách thức địa chính trị quan trọng nhất mà Hoa Kỳ đang đối mặt. Nhiều năm tháng đã trôi đi kể từ khi Hoa Kỳ lại cần có sự dũng cảm và sáng tạo sắc bén như bây giờ dưới ánh sáng sự thách đố của Bắc Kinh. Do đó, vị tổng thống đăng quang năm tới không chỉ phải đối phó với thách thức này mà ông ta cũng phải chuẩn bị để đất nước sẵn sàng cho thách thức ấy. Điều đó gợi ra một số nhu cầu bức thiết về chính sách.

Rút ra khỏi Afghanistan một cách suôn sẻ: Khi lên cầm quyền, Tổng thống Obama đã nâng cấp sứ mệnh ở Afghanistan, bao hàm cả một nỗ lực chống bạo loạn, nghĩa là một công cuộc xây dựng quốc gia to lớn. Nhưng kể từ đó, ông đã hạ cấp cái sứ mệnh này theo một quan niệm gọi là “Afghanistan đủ tốt”. Ý nghĩa chính xác là gì thì tổng thống chưa bao giờ nói rõ ra, tuy nhiên ông đã nói rằng, đến cuối năm 2014,Afghanistan sẽ “hoàn toàn chịu trách nhiệm về an ninh của đất nước họ”.

Dưới ánh sáng sự thách thức mang tên Trung Quốc, “Afghanistanđủ tốt” sẽ không đủ tốt nữa. Và một hạn cuối cùng mơ hồ năm 2014, không có thêm lời giải thích rõ ràng về những nỗ lực nào của Hoa Kỳ sẽ được thực hiện tiếp tục sau thời hạn đó, sẽ thiếu đi sự trong sáng về chính sách mà đất nước cần. Trong cuốn sách về chính sách ngoại giao của ông Obama, cuốn “Đối đầu và Che giấu”, nhà báo David E. Sanger của báo New York Times viết rằng một thập niên nữa kể từ hôm nay, du khách thăm viếng Afghanistan sẽ nhìn thấy rất ít dấu vết cuộc thử nghiệm của Hoa Kỳ tại đó – “ngoại trừ những căn cứ và những thiết bị quân sự”. Dù vậy, trong thực tế, Hoa Kỳ không có nhu cầu đặt nhiều căn cứ quân sự ởAfghanistan. Al-Qaeda đã bị quét sạch khỏi khu vực này (dù vẫn là vấn đề ở nơi khác); Taliban không phải là mối đe dọa chính đối với nước Mỹ; người dân Afghanistan sẽ đi con đường của họ như họ đã đi trong nhiều thế kỷ qua bất chấp những nỗ lực chinh phục đất nước họ và Hoa Kỳ cũng không đủ sức duy trì nỗ lực của mình bằng máu, tài sản và sự tập trung.

Dàn hòa với Nga: Trong cuốn sách mới ra gần đây của mình “Sự trả thù của địa lý”, Robert D. Kaplan viết rằng, sở dĩ Trung Quốc có khả năng triển khai lực lượng ra Thái Bình Dương là vì họ thống trị được các biên giới trên đất liền vùng Trung Á, “từ Mãn Châu Lý (Manchuria) ngược chiều kim đồng hồ đến Tây Tạng”. Ông Kaplan giải thích: “Chỉ đơn giản với cách vươn ra biển theo kiểu hiện nay, Trung Quốc đã thể hiện cái vị trí ưu thế của mình trên đất liền ở trái tim châu Á”. Tuy nhiên, lợi ích của nước Nga không phải là để Trung Quốc thanh thản trên vùng biên giới phía tây của mình, gia tăng ảnh hưởng lên vùng Trung Á và kiểm soát việc khai thác tài nguyên thiên nhiên quý giá ở đó. Cũng không phải là lợi ích của Hoa Kỳ (hoặc của Nga) khi nhìn thấy Trung Quốc liều lĩnh trong các đòi hỏi lãnh thổ trong Thái Bình Dương chỉ vì Bắc Kinh cảm thấy an toàn trên đất liền.

Như vậy, nếu Trung Quốc là mối đe dọa chiến lược lớn nhất của Hoa Kỳ thì một mối quan hệ vững chắc với Nga lại là một trong những nhu cầu chiến lược lớn nhất. Đã đến lúc Hoa Kỳ bớt đi nỗi khó chịu của mình trước sự cai trị độc tài và tham nhũng tràn lan của Nga. Nước Nga dù gây phiền toái đến mấy thì đó cũng không phải là loại thực thể xấu xa mà Franklin Roosevelt và Winston Churchill đã chung vai sát cánh trong suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ Hai. Là một cường quốc khu vực, nước Nga có những quyền lợi khu vực chính đáng; Hoa Kỳ phải công nhận những lợi ích này và tích hợp chúng vào nỗ lực của mình nhằm thiết lập một mối quan hệ bền vững, đôi bên cùng có lợi với nước Nga – một mối quan hệ mà nếu cần có thể trở nên hữu ích trong bất kỳ cuộc đối đầu nào với Trung Quốc trong tương lai.

Tránh chiến tranh với Iran: Hoa Kỳ hiện đang trên con đường đi tới chiến tranh với Iran và con đường đó lúc đầu được vạch ra bởi Israel – quốc gia đã đưa ra lời đe dọa tấn công đơn phương vào Iran để gia tăng thái độ của Hoa Kỳ chống lại nước Cộng hòa Hồi giáo này. Cho đến nay, Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu vẫn tìm cách buộc ông Obama ngăn cản bất kỳ ý định nào của Hoa Kỳ chấp nhận khả năng Iran có thể có vũ khí hạt nhân (nghĩa là không đưa ra chính sách cản trở). Điều đó để ngỏ vấn đề liệu Hoa Kỳ có nên cho phép – và liệuIran có chấp nhận – việc làm giàu uranium ở mức độ thấp chỉ dùng cho mục đích hòa bình hay không. Netanyahu chống lại một giải pháp như vậy và chưa rõ điều đó có thể mở đường tiến tới một giải pháp hòa bình cho vấn đề hay không. Nhưng những biện pháp cấm vận ngặt nghèo hiện hành sẽ không tạo ra được phản ứng mong muốn từIran nếu phản ứng đó tỏ ra là một nỗi nhục đối vớiIran. Đó là lý do tại sao trong vấn đề này tư duy của Hoa Kỳ nên hướng tới giải pháp làm giàu uranium với mục đích hòa bình, cho dù điều đó có nghĩa là một cuộc tuyệt giao công khai với Netanyahu.

Nhân dân Hoa Kỳ nên tập hợp sau lưng tổng thống trong những tình huống như vậy nếu tổng thống nói thẳng với người dân về những được mất có liên quan. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ không nên vướng vào những vụ giễu võ giương oai theo kiểu báo chí, được thấy rõ trên bìa tạp chí The Weekly Standard tuần qua, trên đó in hình nhà lãnh đạo tối cao Iran Ali Khamenei dưới dòng tít lớn: “Con người nguy hiểm nhất thế giới”. Mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ đang nằm cách người đàn ông này hàng ngàn dặm. Và Hoa Kỳ cũng không nên tìm kiếm một cuộc đụng độ quân sự với Iran, nếu có thể tránh được, bởi vì một cuộc xung đột như vậy sẽ phá hủy hoàn toàn nền kinh tế thế giới và có thể gây bất ổn lan tràn khắp khu vực.

Không đặt chân lên đất Hồi giáo nữa: Trung Đông đang hỗn loạn và cả khu vực này đang có nguy cơ mất ổn định vì cuộc nội chiến ởSyria. Những biến cố ở đó có thể giáng một đòn nặng nề vào các quyền lợi của Hoa Kỳ, của phương Tây và của đa số các quốc gia công nghiệp còn lại. Một hành động quân sự của Hoa Kỳ thực sự có thể là cần thiết để ổn định khu vực này nhưng Hoa Kỳ nhất thiết phải làm mọi chuyện có thể làm được để tránh một hành động như vậy. Một cuộc can thiệp nữa của Hoa Kỳ vào khu vực này chắc chắn sẽ kích động một phong trào chống đối mạnh mẽ hơn. Nhưng thủ tọa bàng quan cũng không phải là chính sách thích hợp. Tình huống hiện nay đòi hỏi những nỗ lực thầm lặng, sáng tạo và khôn khéo, luôn kết hợp với các thế lực Hồi giáo trong khu vực, đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ, để tránh những hậu quả tồi tệ nhất có thể xảy ra và giữ cho tình hình luôn nằm trong tầm kiểm soát tới mức tối đa. Nên chống lại mạnh mẽ các áp lực đòi Hoa Kỳ phải can dự vàoSyria trên cơ sở nhân đạo.

Nhu cầu tăng trưởng kinh tế: Obama chưa phải là vị tổng thống thành công trong lĩnh vực kinh tế. Tăng trưởng kinh tế diễn ra khá èo uột trong gần hết nhiệm kỳ tổng thống của ông. Thực trạng này cần được thay đổi ngay lập tức. Nhưng xử lý vấn đề tăng trưởng mà không làm trầm trọng thêm vấn đề nợ công rất đáng ngại của đất nước lại không phải là chuyện dễ. Đó là lý do tại sao nhiệm kỳ tổng thống kế tiếp cần phải được dành hẳn một cách cần mẫn cho cuộc cải tổ toàn diện về ngân sách và tài khóa, được thiết kế để xử lý vấn đề chi tiêu ngoài tầm kiểm soát của liên bang trong lúc thúc đẩy hoạt động kinh tế và tăng trưởng. Chương trình cải tổ tài khóa sẽ phải được kết hợp với một chương trình cải tổ toàn diện về thuế khóa, giảm thuế suất đồng thời xóa bỏ một số lượng lớn các ưu đãi về thuế, bao gồm những ưu đãi mà nhiều thập niên qua vẫn được coi là những con bò thiêng không ai đụng đến được. Chỉ bằng cách khôi phục sự lành mạnh về tài khóa thì đất nước mới có thể đương đầu với những thách thức to lớn như kiểu thách thức đang hiển hiện lù lù ở châu Á. Nhưng tất cả những chuyện này đòi hỏi sự lãnh đạo của tổng thống phải được ủng hộ rộng rãi, một kiểu lãnh đạo mà đã lâu chúng ta chưa nhìn thấy.

Như bài báo của ông Webb trên báo Wall Street Journal đã làm rõ, ông Obama đã khôn ngoan khi khởi xướng cuộc “chuyển hướng” sang châu Á. Nhưng sẽ không đủ nếu chỉ chuyển dịch trọng tâm, tiến hành qua loa chính sách ngoại giao châu Á và đưa ra những lời tuyên bố. Như ông Webb đã viết, “Vấn đề là liệu Trung Quốc năm 2012 có thực sự mong muốn giải quyết các vấn đề thông qua các tiêu chuẩn được quốc tế chấp nhận hay không, và liệu Hoa Kỳ năm 2012 có ý chí và khả năng để nhấn mạnh rằng, giải pháp này là con đường duy nhất đi tới ổn định hay không”.

Nói một cách chính xác, Hoa Kỳ sẽ đáp ứng thách thức này như thế nào vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ. Nó cần có một đường lối ngoại giao khôn khéo, sáng tạo, linh hoạt và cứng rắn, hòa trộn với sự cương quyết và sự hiểu biết rõ ràng về những được mất liên quan. Nhưng nó cũng đòi hỏi sự thừa nhận rằng Hoa Kỳ phải tập trung vào những ưu tiên, phải chấp nhận rằng mình không thể làm mọi việc ở mọi nơi trên thế giới và phải tránh bị xao lãng trong lúc đối mặt những thử thách nặng nề nhất bằng đôi mắt tỉnh táo. Trong những ngày tháng này, trong những thử thách đó, không thử thách nào nặng nề hơn Trung Quốc.

(*) Robert W. Merry là chủ bút tạp chí The National Interest và tác giả của nhiều tập sách về lịch sử và chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Cuốn sách gần đây nhất của ông là: “Họ đứng ở đâu: Các tổng thống Mỹ trong mắt của cử tri và sử gia”.

R.W.M.

Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN

http://www.boxitvn.net/bai/40515
0

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

Viễn cảnh chiến tranh Mỹ - Trung

12/8/12- Phác họa về cuộc chiến tương lai Mỹ - Trung Quốc được hé lộ khi 2 bên đang có nhiều bất đồng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Không chờ đến khi Tổng thống Barack Obama hồi đầu năm nay tuyên bố chuyển trọng tâm về châu Á - Thái Bình Dương, các chuyên gia lão luyện của Lầu Năm Góc thực tế đã sẵn sàng đáp ứng chính sách này. Theo tờ The Washington Post, nhà tương lai học Andrew Marshall (91 tuổi) là người chịu trách nhiệm hoạch định chiến lược quân sự cho mục tiêu trên.



 Viễn cảnh chiến tranh Mỹ - Trung 1

Cuộc tập trận RIMPAC cho thấy khả năng lôi kéo đồng minh của Mỹ - Ảnh: U.S Navy


Cha đẻ của Tác chiến Không - Biển

 

Chiến lược gia Andrew Marshall

Chiến lược gia Andrew Marshall


Ông Marshall lớn lên tại thành phố Detroit, thuộc bang Michigan (Mỹ) và tốt nghiệp ngành kinh tế của Đại học Chicago rồi gia nhập Tổ chức Nghiên cứu chính sách RAND, theo tạp chí In These Times.


Trong thập niên 1950 và 1960, Marshall nằm cùng nhóm chuyên gia nghiên cứu với ông James Schlesinger, người giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ từ năm 1973 - 1975. Năm 1973, Tổng thống Mỹ khi đó là ông Richard Nixon quyết định lập Văn phòng Đánh giá các mối đe dọa thực (ONA) và bổ nhiệm ông Marshall đứng đầu văn phòng này. Từ đó đến nay, chiến lược gia Marshall tiếp tục được các đời tổng thống Mỹ tin tưởng giao trọng trách trên. Ông trở thành một trong những người ảnh hưởng nhất đến chính sách quân sự của Washington. Thậm chí, ông còn ảnh hưởng cả đến chính sách quốc phòng của Trung Quốc. Gần đây, tờ The Economist dẫn lời Giáo sư Trần Chu, thành viên nhóm soạn thảo sách trắng quốc phòng Trung Quốc 2011, nói: “Anh hùng của chúng tôi là Andrew Marshall. Chúng tôi nghiền ngẫm từng lời của ông ta”.



Chiếm một vị trí khiêm tốn bên trong Lầu Năm Góc, văn phòng nhỏ của ông Marshall, gọi là Văn phòng Đánh giá các mối đe dọa thực (ONA). Tại đây, một nhóm chuyên gia không ngừng nỗ lực trong suốt 2 thập niên qua để lên kế hoạch cho cuộc chiến chống lại “một Trung Quốc hung hăng, hiếu chiến và vũ trang hạng nặng”.


Từ mục tiêu trên, nhóm của ông Marshall vạch ra một khái niệm có tên gọi “Tác chiến Không - Biển” (ASB). Theo đó, đầu tiên là các oanh tạc cơ tàng hình và tàu ngầm hạt nhân có nhiệm vụ hạ gục hệ thống radar tầm xa cùng những hệ thống tên lửa chính xác nằm sâu trong lãnh thổ Trung Quốc. Tiếp đến, hải quân và không quân Mỹ hợp tác triển khai các cuộc tấn công lớn hơn bằng đường biển và đường không. Điển hình cho khái niệm trên là Chiến dịch Hừng đông Odyssey hồi năm 2011 mà phương Tây tiến hành để ủng hộ phe đối lập khi đó ở Libya. Trong những tháng qua, không quân và hải quân Mỹ đưa ra ít nhất 200 sáng kiến được cho là cần thiết để người cầm quân tiếp thu những gì tinh túy của ASB. Danh sách trên gồm các cuộc tập trận do văn phòng ông Marshall vạch ra, đồng thời yêu cầu thế hệ vũ khí mới, đề nghị tăng cường hợp tác giữa các hải quân với không quân.


Khái niệm trên không chỉ chọc giận quân đội Trung Quốc mà còn bị chỉ trích từ nội bộ nước Mỹ vì quá đắt đỏ. Một số nhà phân tích châu Á còn lo ngại những cuộc tấn công Trung Quốc bằng vũ khí thông thường có thể khiến Bắc Kinh phản kích bằng vũ khí hạt nhân, làm bùng nổ chiến tranh giữa 2 cường quốc hạt nhân. Ban đầu, ASB ít thu hút được sự chú ý của giới quân sự, theo tờ The Washington Post. Tuy nhiên, khi ngân sách quốc phòng gần đây bị cắt giảm, các lãnh đạo Lầu Năm Góc lại tìm đến văn phòng của ông Marshall để tìm hướng đi mới khi Washington chuyển trọng tâm về châu Á - Thái Bình Dương. Đối mặt với những chỉ trích ONA tập trung quá mức vào Trung Quốc như một kẻ thù tương lai, chiến lược gia Marshall phản bác rằng nhiệm vụ của ông là tính toán những kịch bản tồi tệ nhất. “Chúng tôi có khuynh hướng phải đối mặt với các tương lai không mấy gì vui vẻ”, ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn mới đây.


Tăng cường hiện diện


Tờ China Daily dẫn một nhận định từ Bắc Kinh cho rằng Mỹ, song song với việc đánh giá ASB, đang tăng cường kiềm chế Trung Quốc tại châu Á - Thái Bình Dương. Trong vòng 1 tuần, Mỹ liên tục có thêm đổi mới trong các quan hệ hợp tác quân sự với những đồng minh chủ chốt của nước này tại châu Á. Chẳng hạn như Washington vừa cùng Tokyo thông qua bản điều chỉnh thứ 2 về hợp tác quốc phòng khi Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Satoshi Morimoto đến thăm Lầu Năm Góc hồi tuần trước, theo tờ Sankei Shimbun. Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản cũng tuyên bố kế hoạch tham gia tập trận chung với Mỹ tại Okinawa vào cuối tháng. Yonhap thì đưa tin Seoul và Washington đang thảo luận về việc thành lập đơn vị tác chiến hỗn hợp mới.


Bên cạnh đó, các quan chức ngoại giao và quốc phòng Mỹ liên tục triển khai các chuyến thăm đến những nước đặt căn cứ cũ tại Đông Nam Á. Đồng thời, Lầu Năm Góc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu các tư lệnh trong khu vực. Mới đây, tướng Herbert Carlisle trở thành người đứng đầu Bộ Tư lệnh không quân tại Thái Bình Dương, bao quát các căn cứ tại Alaska, Guam, Hawaii, Nhật Bản và Hàn Quốc. Việc bổ nhiệm tư lệnh Carlisle diễn ra chỉ vài tháng sau khi tướng hải quân bốn sao Samuel Locklear trở thành Tư lệnh của Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương.


Ngoài ra, Mỹ cũng cấp tập tổ chức nhiều cuộc tập trận với đồng minh ở châu Á - Thái Bình Dương trong thời gian gần đây. Đáng kể nhất là đợt tập trận Vành đai Thái Bình Dương năm 2012 (RIMPAC 2012), được chủ trì bởi Washington, và diễn ra tại Hawaii cùng các vùng biển lân cận với sự tham gia của 22 nước vào mới được khép lại vào cuối tuần trước. Theo thống kê của Tân Hoa xã, tàu chiến và chiến đấu cơ của Mỹ cũng tham gia gần 20 cuộc tập trận tại châu Á - Thái Bình Dương trong 7 tháng qua, chiếm hơn phân nửa toàn bộ các cuộc tập trận được triển khai trong cùng thời gian. Điều đó cho thấy Mỹ đang đẩy nhanh chính sách tăng cường hiện diện tại châu Á - Thái Bình Dương mà Washington đã vạch ra.  



Hé màn bí mật Tác chiến Không - Biển


Vào năm 2009, hải quân và không quân Mỹ hợp lực giới thiệu một khái niệm chiến đấu mới gọi là “Tác chiến Không - Biển” (viết tắt: ASB). Theo tạp chí Wired, ASB do Lầu Năm Góc vạch ra nhằm ngăn chặn một thế lực tấn công xâm lược bên thứ 3. Đồng thời, ASB còn làm xói mòn khả năng xâm nhập lãnh thổ của thế lực đó, chẳng hạn như trường hợp của eo biển Đài Loan. Vì thế, giới chuyên gia suy luận rằng Trung Quốc cùng với Iran và CHDCND Triều Tiên đều bị xếp vào nhóm “thế lực tấn công xâm lược”. Trên thực tế, ASB không phải là một học thuyết hoặc chiến lược, có nghĩa là sẽ chẳng có tài liệu hướng dẫn hoặc lên kế hoạch trên chiến trận. Từ nhiều cuộc trao đổi trong vòng 9 tháng qua với các quan chức quốc phòng, chuyên gia cố vấn, tạp chí Wired đã rút ra kết luận sau: ASB là tổ đặc trách cố vấn cho chiến tranh ở thế kỷ 21. Văn phòng ASB tập trung những chuyên gia có thể đưa ra một giải pháp đáp ứng tức thời cho tư lệnh chiến trường để đối phó các đe dọa tại biển Đông, eo biển Hormuz hoặc bất cứ nơi nào trên hành tinh.





Thanh Niên
0

Thứ Năm, 9 tháng 8, 2012

"Trận Không-Biển" có thể châm ngòi chiến tranh hạt nhân, chuyên gia

09/8/12- Chính phủ Mỹ có thể muốn phủ nhận nó, nhưng cựu giám đốc tình báo của Tổng thống Barack Obama đã khẳng định Trung Quốc là một mục tiêu chính của một kế hoạch chiến tranh lớn của Hoa Kỳ.


Một mũi tấn công Trung Quốc trong kế hoạch "Trận Không-Biển", Mỹ dùng tàu ngầm, máy bay tàng hình, tên lửa tầm xa chính xác để tiêu diệt radar giám sát tầm xa và tên lửa chính xác của đối phương, theo sau bởi một cuộc tấn công cấp tập của không quân và hải quân Hoa Kỳ. Ảnh minh họa

Kế hoạch của Mỹ, được biết đến ở Washington là Trận Không-Biển, là chiến lược không hoàn thiện, chuyên gia quốc phòng quan trọng nhất khu vực của Úc, Hugh White, cho biết, cuộc chiến Mỹ-Trung có nguy cơ leo thang lên mức độ một cuộc tấn công hạt nhân. Kế hoạch Trận Không-Biển đã làm quân đội Trung Quốc nổi đóa, và được xác nhận là Bắc Kinh có những biểu hiện không hài lòng. Đô đốc Dennis Blair, chuyên gia về và là giám đốc tình báo quốc gia của ông Obama cho đến năm 2010 đã khẳng định như vậy. Trước đó, ông là người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (The U.S.Pacific Command).


Kế hoạch "Trận Không-Biển"
Phóng to

Ông đã trả lời các câu hỏi đặt ra bởi các hãng tin quốc phòng về "Trận Không-Biển", một chiến lược của Lầu Năm Góc dùng tàu ngầm, máy bay tàng hình, tên lửa tầm xa chính xác để tiêu diệt radar giám sát tầm xa và tên lửa chính xác của đối phương, theo sau bởi một cuộc tấn công cấp tập của không quân và hải quân Hoa Kỳ.

Khi được hỏi về Trận Không-Biển và liệu nó có liên quan gì đến Trung Quốc, Đô đốc Blair nói: "Tôi không ở trong Lầu Năm Góc nữa, vì vậy tôi không thể nói một cách chi tiết, nhưng không phải mất công phân tích thông tin để bạn biết rằng các nước như Iran và Trung Quốc ... đã phát triển công nghệ tàu ngầm và tên lửa có thể tấn công Hải/ Không quân Mỹ từ xa."

Kết quả là, ông nói, đó là công việc của các chỉ huy quân sự của Mỹ để "tìm ra cách mà chúng tôi có thể gửi lực lượng của chúng tôi để tiến hành các hoạt động quân sự bất chấp mối đe dọa".

Có thể thấy rằng Iran đặt ra mối đe dọa rất ít đối với một chiến dịch quy mô của Quân đội Mỹ, và Trận Không-Biển không chính thức được thừa nhận tại Washington như là kế hoạch trung tâm của Mỹ để đối phó với gả khổng lồ Trung Quốc hung hăng được trang bị vũ khí hạng nặng.

"Tôi không nghi ngờ một chút nào ... mục tiêu thực sự của Trận Không-Biển là Trung Quốc," Giáo sư White, tác giả của một cuốn sách "Mối quan hệ Mỹ-Trung, Sự lựa chọn của Trung Quốc" vừa xuất bản.

Giáo sư White là một nhà phê bình "Chiến lược Không-Biển" rất mạnh mẽ, ông nói rằng có ba vấn đề cơ bản. "Thứ nhất, tôi không nghĩ rằng nó sẽ được áp dụng; thứ hai, ngay cả nếu nó không được thực hiện nó sẽ không đạt được mục tiêu chiến lược, và thứ ba, nó chạy một cảm giác rất mạnh mẽ là kế hoạch này sẽ làm leo thang một cuộc chiến tranh hạt nhân".

Giáo sư White cho biết kế hoạch chiến tranh này cũng là một khái niệm ở thế kỷ 20 đang được "đóng gói lại" cho một kẻ thù ở thế kỷ 21.

"Hoa Kỳ đã luôn luôn thực hiện kiểm soát ở Thái Bình Dương, nhưng những gì đang thay đổi? Kẻ thù đã thay đổi. Và họ có một chiếc thuyền, như họ nói, "Giáo sư White cho biết.

Đô đốc Blair cũng tin rằng đó là một chiến lược cũ đã được "đóng gói lại".

"Khái niệm này là không có gì mới, nó là mốt điển hình của người Mỹ, chúng ta thường đổ rượu cũ vào chai mới với nhãn hiệu ưa thích mới. Tuy nhiên, kế hoạch hiệp đồng tác chiến hải quân và không quân để tạo niềm tin với các đồng minh - những nước nằm trong trong phạm vi của tên lửa Trung Quốc - của Mỹ là không có gì mới, và hầu hết người Mỹ hy vọng vào công việc của họ.

Theo FarmOnline.com
0

Mỹ khiến Trung Quốc lúng túng

09/8/12- Các chuyên gia cho rằng Washington đang ngầm đứng về phía các nước nhỏ trong cuộc đối đầu với Bắc Kinh ở vùng biển này

Sự căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ xung quanh vấn đề biển Đông tiếp tục là đề tài nóng thu hút nhiều bình luận của báo chí phương Tây. Báo The New York Post (Mỹ) hôm 8-8 nhận định rằng Trung Quốc đang bối rối trước phản ứng mới đây của Mỹ về những động thái đơn phương sai trái của nước này ở biển Đông.

Điều này thể hiện qua việc Bắc Kinh vào cuối tuần rồi đã triệu tập ông Robert Wang, phó đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, để phản đối tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ. Tuyên bố này chỉ trích những động thái mới đây của Trung Quốc ở biển Đông đã “cản trở nỗ lực ngoại giao nhằm giải quyết bất đồng và khiến tình hình căng thẳng có nguy cơ tiếp tục leo thang”.


Tàu USS Blue Ridge của Hải quân Mỹ cập cảng ở Manila, Philippines tháng 3-2012. Ảnh: AP

Theo bài báo, Mỹ giờ đây không thể giữ lập trường “trung lập” đối với vấn đề biển Đông nữa và việc chỉ trích Trung Quốc nói trên là sự khởi đầu tốt. Giờ đây, Mỹ cần hành động mạnh mẽ hơn để khiến Trung Quốc càng thêm lúng túng. Chẳng hạn như Mỹ phải nói rõ rằng bất kỳ một sự hung hăng nào của Trung Quốc sẽ được đáp trả tương tự như thế, đồng thời trấn an các đồng minh rằng Washington sẽ nhanh chóng hỗ trợ họ nếu bị tấn công. Tổng thống Mỹ Barack Obama cũng cần tuyên bố rằng nước này sẽ sử dụng sức mạnh nếu cần ở châu Á – Thái Bình Dương. Đó là cách chắc chắn nhất để hạ nhiệt căng thẳng và ngăn chặn nguy cơ xung đột vũ trang ở khu vực.

Tương tự, báo The Christian Science Monitor (Mỹ) hôm 7-8 nhận định rằng Trung Quốc đang bối rối vì sự tham gia của Mỹ vào cuộc tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông. Các nhà phân tích nhận định rằng dù lập trường chính thức của Washington đối với vần đề biển Đông là trung lập nhưng nước này đang ngầm đứng về phía các nước nhỏ trong cuộc đối đầu với Bắc Kinh ở vùng biển này. Điều này lý giải cho phản ứng mạnh mẽ của chính quyền và giới truyền thông Trung Quốc trước tuyên bố nói trên Bộ Ngoại giao Mỹ. Dù vậy, đây là tất cả những gì Bắc Kinh có thể làm vì nước này nhận thấy rằng tốt nhất là không nên biến những đe dọa thành hành động trong cuộc đấu khẩu với Mỹ về vấn đề biển Đông.

Ngoài Mỹ, một số chuyên gia cho rằng đã đến lúc Liên hiệp châu Âu (EU) cân nhắc vai trò của mình ở biển Đông. Nếu xung đột xảy ra, các nước châu Âu có thể hành động để duy trì trật tự và an toàn hàng hải nhằm bảo vệ những lợi ích thương mại của mình ở vùng biển này. Ngoài ra, các nước châu Âu, như Anh hoặc Pháp, cũng có thể hành động đơn lẻ nếu thấy cần thiết. Cả hai nước này đều có lực lượng hải quân mạnh và khả năng triển khai tàu sân bay.

Sri Lanka và Nga thả ngư dân Trung Quốc

Sri Lanka đã trao trả 37 ngư dân Trung Quốc (TQ) cho các nhà ngoại giao TQ chiều 7-8, 2 ngày sau khi họ bị hải quân Sri Lanka bắt giữ vì đánh bắt cá trái phép trong vùng biển Sri Lanka. Các ngư dân này bị bắt trên 2 con tàu đánh cá ngoài khơi thành phố biển Batticaloa cùng với 2 người Sri Lanka.

Người phát ngôn hải quân Sri Lanka Kosala Warnakulasuriya nhấn mạnh: “Lỗi không thuộc về thủy thủ đoàn người TQ mà là của chủ tàu người Sri Lanka. Chúng tôi đã trao họ cho các cán bộ ngoại giao của Đại sứ quán TQ”. TQ hiện đang tranh giành ảnh hưởng ở Sri Lanka với Ấn Độ, đồng minh quan trọng nhất của đảo quốc này và đang là chủ nợ lớn nhất của Sri Lanka trong 2 năm nay. Vì vậy, theo hãng tin Reuters, việc cầm giữ các ngư dân này lâu hơn có thể gây căng thẳng trong mối quan hệ đang ngày càng thân thiết giữa 2 nước.

Trong khi đó, theo Tân Hoa Xã, 65 ngư dân TQ bị phía Nga bắt giữ hồi tháng trước do đánh bắt hải sản trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Nga đã được trả tự do và về đến TQ đầu giờ chiều 8-8. Tuy nhiên, 4 thuyền trưởng đã bị phía Nga giữ lại để phục vụ cho cuộc điều tra.

http://nld.com.vn/20120808100548180p0c1006/my-khien-trung-quoc-lung-tung.htm
0

Báo Mỹ: “Đã đến lúc làm cho Trung Quốc sợ”

08/8/12- (VnMedia) - Tờ Bưu điện New York (New York Post) hôm nay (8/8) đã đăng tải một bài viết của phóng viên kỳ cựu Benny Avni trong đó kêu gọi Mỹ đã đến lúc phải làm cho Trung Quốc sợ.

Hồi cuối tuần vừa rồi, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã triệu tập Phó Đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh - ông Robert Wang đến để bày tỏ sự phản đối trước phát biểu gần đây của Washington về những diễn biến căng thẳng ở Biển Đông.

Theo phóng viên Avni, "nếu Bắc Kinh có một chút lo sợ về sự can thiệp của Mỹ vào trong khu vực thì đó là điều tốt. Mỹ nên làm mạnh hơn để khiến cho Trung Quốc – nước đang trở thành một kẻ chuyên đi bắt nạt trong khu vực – trở nên lo sợ hơn nữa".

Mọi việc khởi nguồn từ việc Bắc Kinh trong hai tháng 6 và 7 vừa qua liên tiếp thông báo các kế hoạch thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” và dựng lên một căn cứ quân sự ở quần đảo Trường Sa, phớt lờ thực tế rằng quần đảo này thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ - ông Patrick Ventrell hồi tuần trước đã lên tiếng phản đối những động thái trên của Trung Quốc. Ông này nói rằng, những hành động đó “đi ngược lại với các nỗ lực ngoại giao tập thể nhằm giải quyết bất đồng và có nguy cơ làm leo thang căng thẳng trong khu vực”.

Ngay ngày hôm sau, Bắc Kinh đã triệu tập Phó Đại sứ Mỹ Wang đến để chỉ trích, mắng mỏ. Báo chí Trung Quốc cũng phụ hoạ theo bằng những tiêu đề yêu cầu Mỹ “câm miệng” hoặc cáo buộc Washington “thổi bùng ngọn lửa” căng thẳng trong khu vực.

Tranh chấp xung quanh những hòn đảo nhỏ, hầu như không có người sinh sống, và những vùng lãnh hải xung quanh ở Biển Đông đã có từ nhiều thập kỷ nay nhưng khi Trung Quốc ngày càng trở nên khát nguồn lực thì các cuộc đụng độ địa phương có nguy cơ biến thành thành một cuộc đọ súng toàn diện, phóng viên Avni cho biết. Một số hòn đảo nhỏ đang nằm trong tranh chấp có nguồn cá dồi dào trong khi những hòn đảo khác hứa hẹn chứa đựng những kho dầu mỏ và khí đốt khổng lồ.

Theo phóng viên Avni, chính quyền Tổng thống Obama theo đuổi một chính sách trung lập trong các cuộc tranh chấp khu vực nói trên, tránh xa những cuộc đụng độ thậm chí kể cả khi Bắc Kinh phái hàng loạt tàu quân sự (thỉnh thoảng được nguỵ trang bằng tàu cá) đến đe doạ, xua đuổi tàu thuyền của các nước có tranh chấp khác.

“Các nước láng giềng của Trung Quốc như Philippines, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản... – từ lâu vốn phụ thuộc vào sự bảo vệ của Mỹ, chắc chắn sẽ băn khoăn tự hỏi: Liệu lập trường trung lập của chúng ta có phải là đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ đứng bên ngoài nếu một cuộc xung đột nhỏ biến thành chiến tranh toàn diện”, phóng viên của tờ Bưu điện New York đã viết như vậy.

Nhưng đó mới chỉ là một nửa câu chuyện. Mùa đông vừa qua, tại Lầu Năm Góc, Tổng thống Obama đã thông báo chính sách “cân bằng” mới của mình. Theo đó, Mỹ sẽ chuyển một phần lớn vũ khí và thiết bị quân sự từ Châu Âu và Trung Đông sang khu vực Châu Á-Thái Bình Dương – nơi “không có tổ chức đa phương nào như NATO để duy trì hòa bình”

Một phóng viên China Daily khi đó đã hỏi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Ashton Carter rằng, liệu có phải tất cả các kế hoạch thay đổi trên của Mỹ là nhằm kiềm chế một Trung Quốc đang lên. Thực chất, Bắc Kinh cảm thấy bị đe dọa trước các hoạt động củng cố quân sự của Mỹ ở khu vực Châu Á.

Đáp lại câu hỏi của phóng viên China Daily, ông Carter khẳng định, sự thay đổi chiến lược của mỹ “không liên quan đến Trung Quốc. Chúng tôi không đứng về bên nào. Chúng tôi ở đó chỉ để bảo đảm sự tự do hàng hải cho tất cả mọi người”.

Tuy nhiên, động thái phản đối về mặt ngoại giao và cuộc “tấn công” dồn dập của báo chí Trung Quốc nhằm vào Mỹ thời gian qua đã chứng tỏ một điều, Bắc Kinh không tin vào tuyên bố của Thứ trưởng Carter, phóng viên Avni nhận định. Mặt khác, “các đồng minh lâu đời của chúng ta cũng sẽ tự hỏi: Nếu Mỹ không đứng về bên nào thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ cần dùng đến những hiệp ước phòng thủ chung mà chúng ta đã ký với những nước đó”, ông Avni cho biết.

Ông Avni thừa nhận, hiện tại, nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc phụ thuộc quá nhiều vào nhau đến mức nó không cho phép có một cuộc đối đầu quân sự xảy ra. Chính sách tốt nhất của chúng ta lúc này là phải bảo đảm giữ cái đầu lạnh cho đến khi thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc ra mắt, phóng viên kỳ cựu Avni cho hay. Tuy nhiên, theo ông này, điều đó không có nghĩa là “chúng ta nên nuông chiều Bắc Kinh bằng lá bài trung lập”.

Phóng viên của tờ Bưu điện New York cho rằng, hành động phản đối nỗ lực của Trung Quốc trong việc dựng lên những thực tế mới ở Biển Đông bằng cách chiếm đóng những vùng lãnh thổ tranh chấp là một sự khởi đầu tốt. “Mỹ giờ đây cần phải làm rõ với tất cả mọi người rằng, sự hiếu chiến sẽ được đáp lại bằng sự hiếu chiến và chúng ta cũng cần phải bảo đảm với các đồng minh rằng, chúng ta sẽ nhanh chóng trợ giúp họ nếu họ bị tấn công”, ông Avni cho biết.

Theo phóng viên Avni, việc Mỹ phô trương lực lượng ở Châu Á-Thái Bình Dương là hành động đúng đắn. “Ông Obama cần phải cho mọi người biết rõ, nếu cần chúng ta sẽ sử dụng sức mạnh của mình – và không chỉ là để đảm bảo sự tự do hàng hải. Đó là cách chắc chắn nhất để làm dịu căng thẳng và đảm bảo rằng, súng không được rút ra khỏi bao”, phóng viên Avni đã kết luận như vậy trong bài viết của mình.

Ông Benny Avni là phóng viên phụ trách chuyênmục Op-Ed (Opposite Editorial) của tờ Bưu điện New York từ cuối năm 2008. Op-Ed là một chuyên mục phân tích và phê bình của những tờ báo uy tín tại Mỹ. Phụ trách chuyên mục này thường là những nhà báo và học giả bậc thầy. Ông Avni chuyên viết về mảng chính sách đối ngoại của Mỹ và các vấn đề quốc tế kể từ khi chuyển đến sinh sống ở New York năm 1986.

Trước khi đầu quân cho tờ Bưu điện New York, ông Avni từng là phóng viên Liên Hợp Quốc của tờ New York Sun (Mặt trời New York), phụ trách chuyên mục các vấn đề thế giới. Ông từng có nhiều bài viết độc và đột phá trong thời kỳ trước và sau cuộc chiến tranh Iraq. Ngoài ra, phóng viên Avni còn chuyên cả về các vấn đề Trung Đông.

http://www6.vnmedia.vn/home/NewsId_308228_Catid_17.html
0

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

Mỹ-Nhật lập "vòng cung lửa" bao vây Trung Quốc

06/8/12- Washington xem xét lại hợp tác quân sự của mình cuối tuần qua với hai đồng minh lớn ở châu Á như là một phần của chiến lược châu Á mới của Mỹ, các nhà phân tích cho biết là nhằm mục đích kiềm chế Trung Quốc.

Hoa Kỳ và Nhật Bản đã đồng ý một phiên bản Nguyên tắc chỉ đạo hợp tác Quốc phòng Nhật-Mỹ thứ hai trong suốt chuyến đi của Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Satoshi Morimoto đến Washington vào ngày thứ Sáu.


Morimoto đã có cuộc gặp với Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ ông Leon Panetta ngày 3 tháng 8 để trao đổi quan điểm về một tài liệu phát hành vào năm 1978 và lần đầu tiên được sửa đổi vào năm 1997. Hai bộ trưởng đã đồng ý để bắt đầu các cuộc thảo luận có liên quan.

Tuy nhiên, một số người tin rằng các kế hoạch sửa đổi là nhằm mục đích kiềm chế Trung Quốc, và chuẩn bị cho sự kiện bất ngờ trong vùng biển Hoa Đông, tờ báo hàng đầu của Nhật Bản Sankei Shimbun cho biết.

Hai bộ trưởng quốc phòng đã đồng ý rằng tình hình an ninh trong khu vực đã thay đổi kể từ năm 1997 do sự tăng cường hiện diện hàng hải của Trung Quốc và kế hoạch hạt nhân của Bình Nhưỡng, Thông tấn xã Jiji Press của Nhật Bản cho biết.

Panetta đã nhận được sự ủng hộ của Tokyo để triển khai máy bay quân sự Osprey tới các căn cứ Mỹ ở Okinawa, Nhật Bản, mặc dù loại máy bay này gặp tai nạn trước đó.

Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Koichiro Gemba cho biết vào cuối tháng Bảy rằng sự hiện diện của Trung Quốc trong đại dương là "hiển nhiên" và việc triển khai các máy bay quân sự Osprey tới Okinawa sẽ giúp tăng cường quốc phòng của Tokyo.

Lực lượng vũ trang của Nhật Bản hôm thứ Năm cũng đã công bố kế hoạch cho một cuộc diễn tập quân sự chung với quân đội Mỹ ở Okinawa vào cuối tháng này, Kyodo News Agency cho biết.

Các hãng tin dẫn lời một phát ngôn viên cho biết cuộc diễn tập sáu ngày, dự kiến ​​bắt đầu vào ngày 21 Tháng Tám, nói rằng cuộc tập trận nhằm mục đích "tăng cường khả năng quốc phòng để bảo vệ hải đảo", và không được lên kế hoạch để nhắm đến "bất kỳ quốc gia cụ thể nào".

Trong khi đó, Thông tấn xã Yonhap cho biết hôm Chủ nhật, Seoul và Washington đang đàm phán để tạo ra một cơ chế hoạt động quân sự chung mới là cả hai bên đồng ý giải tán các lực lượng chỉ huy kết hợp Mỹ-Hàn (CFC - Combined Forces Command), và Seoul có kế hoạch để giành lại quyền kiểm soát liên quân Mỹ-Hàn trong thời chiến vào năm 2015.

CFC đã phục vụ như là một cấu trúc chỉ huy cho các hoạt động chung của các lực lượng quân sự của hai nước đồng minh này kể từ chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, Seoul đã trao quyền kiểm soát cho Mỹ ngay sau khi bắt đầu chiến tranh.

Khi chính quyền Obama từng bước thực hiện chiến lược châu Á-Thái Bình Dương, lực lượng vũ trang Hoa Kỳ đang xem xét lại một số căn cứ trong khu vực Đông Nam Á để mở rộng tầm với của nó trong khu vực.

Lầu Năm Góc đã tăng cường các cuộc thảo luận với Thái Lan về việc tạo ra một trung tâm cứu trợ thiên tai khu vực tại một sân bay mà Mỹ đã từng dùng làm căn cứ cho các máy bay ném bom B-52 trong những năm 1960 và 1970.

Trong tháng sáu, Panetta cũng đã đến thăm căn cứ hải quân và không quân tại Vịnh Cam Ranh (Việt Nam), ông là quan chức quân sự cấp cao nhất của Mỹ chính thức đến thăm căn cứ cũ của hải quân nước này kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam. Vị bộ trưởng quốc phòng đã ca ngợi Cam Ranh là quân cảng tiềm năng đầy hứa hẹn cho các tàu Mỹ phổ biến trở lại tại cảng nước sâu này.

Các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ cũng đang tìm kiếm một sự hiện diện lớn ở Philippines, trong đó có căn cứ hải quân Subic Bay và căn cứ không quân Clark, một khi Mỹ chuyển phần lớn sức mạnh quân đội sang châu Á, cũng như sửa chữa một trung tâm hâu cần cho quân đội Mỹ trong thời gian chiến tranh Việt Nam.

Washington đã xây dựng các mối quan hệ quân sự chặt chẽ hơn với các nước trong khu vực và đã công bố 60% sức mạnh Hải quân Mỹ sẽ chuyển sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương vào năm 2020, tăng từ dưới 55% hiện nay.

Hiện nay, sức mạnh hạm đội Mỹ gần như chia đều giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.

Trong khi đó, Lầu Năm Góc đã đẩy nhanh tiến độ tái bố trí chỉ huy quân đội Mỹ trong khu vực, Tướng Herbert Carlisle chính thức nhậm chức vào ngày thứ Sáu là người chỉ huy mới của Bộ Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương Hoa Kỳ.

Vị tướng này chỉ huy các đơn vị ở Alaska, Guam, Hawaii, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tướng Carlisle được bổ nhiệm chỉ vài tháng sau khi đô đốc bốn sao Samuel Locklear được bổ nhiệm làm Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ vào tháng ba.

Các chuyên gia cho biết các cuộc tập trận quân sự chung và tăng cường hợp tác an ninh là lựa chọn ưa thích của Mỹ để tăng cường sự hiện diện quân sự của Washington, và kể từ đầu năm, lực lượng vũ trang Mỹ đã ngày càng tham gia tập trận chung trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Cuộc tập trận The Rim of the Pacific Drills 2012 (RIMPAC 2012), do Washington dẫn đầu được tổ chức tại Hawaii với sự tham gia của 22 quốc gia.

Tàu chiến và máy bay chiến đấu đã tham gia gần 20 cuộc tập trận trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong vòng bảy tháng qua, hơn một nửa của tất cả các cuộc tập trận được tiến hành trong khu vực trong khoảng thời gian đó, Tân Hoa xã báo cáo.

Phó Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đến Thái Lan vào cuối tháng Bảy, và khen ngợi cuộc tập trận quân sự đa phương được gọi là Cobra Gold (Hổ mang vàng) hàng năm bắt đầu từ năm 1980 và Carter cho biết đây là "chìa khóa để tăng cường hợp tác trong khu vực".


Trích dẫn từ China Daily

http://www.chinadaily.com.cn/cndy/2012-08/06/content_15645903.htm
0

Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

Mỹ chuẩn bị kịch bản chiến tranh với Trung Quốc

Hành động gây hấn của Trung Quốc ở biển Đông đã làm Mỹ lo ngại.

05/8/2012

Từ lâu Bộ Quốc phòng Mỹ đã âm thầm chuẩn bị kịch bản cho một cuộc chiến có thể xảy ra với Trung Quốc (TQ). Thông tin này vừa được báo Washington Post (Mỹ) ngày 2-8 (giờ địa phương) tiết lộ.

Chiến lược “không-hải chiến”

Báo Washington Post cho biết tại Bộ Quốc phòng Mỹ có một văn phòng nhỏ gọi là Văn phòng Thẩm định mạng lưới phụ trách khảo sát các mối đe dọa tiềm tàng đối với Mỹ. Giám đốc văn phòng này là chuyên gia dự báo Andrew Marshall 91 tuổi.

Trong 20 năm qua, ông Andrew Marshall đã tập trung xây dựng một kịch bản chiến tranh chống lại TQ với chiến lược đáp trả mang tên “không-hải chiến” (phối hợp tác chiến giữa không quân và hải quân).

Theo chiến lược này, máy bay ném bom tàng hình tầm xa và tàu ngầm của Mỹ sẽ tấn công mở màn nhằm làm tê liệt hệ thống tên lửa định vị chính xác và radar tầm xa trong TQ. Sau đó, tàu chiến và máy bay Mỹ tiếp cận TQ để tiến hành tấn công tổng lực.


Máy bay và tàu chiến Mỹ sẽ dễ dàng áp sát bờ biển Trung Quốc sau khi máy bay tàng hình và tàu ngầm vô hiệu hóa tên lửa và radar tầm xa. Ảnh: WAR NEWS UPDATE

Để bảo đảm kế hoạch thành công, các đồng minh của Mỹ sẽ tăng cường xây dựng nhiều hầm trú ẩn cho máy bay, trang bị đầy đủ trang thiết bị sửa chữa đường băng bị hư hại và sẵn sàng phân tán lực lượng bằng cách đưa máy bay di chuyển đến các đảo ở xa ngoài Thái Bình Dương để TQ khó xác định mục tiêu.

Chiến lược “không-hải chiến” được phát triển dựa vào thành tựu công nghệ mới về chiến tranh mà ông Andrew Marshall gọi là “cuộc cách mạng quân sự”. Theo ông, với công nghệ mới, quân đội chỉ tìm kiếm đối phương trong vài giây, bom định vị có thể đánh trúng mục tiêu gần như mọi lúc và bom quy ước sẽ có sức mạnh gần tương đương bom hạt nhân cỡ nhỏ.

Nghiên cứu của ông về “cuộc cách mạng quân sự” được nhiều tướng lĩnh và bộ trưởng Quốc phòng Mỹ quan tâm. Tuy nhiên, sau đó các nhà lãnh đạo quân đội Mỹ dồn hết tâm trí cho các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan nên lãng quên nghiên cứu của ông.

Những năm gần đây, khi TQ phát triển quân sự vượt xa dự báo của tình báo Mỹ và có hành động gây hấn ở biển Đông, chiến lược “không-hải chiến” được chú ý trở lại trong bối cảnh Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược về châu Á.

Chiến lược mới gây tranh cãi

Chi tiết về chiến lược “không-hải chiến” vẫn nằm trong vòng bí mật nhưng từ thông tin rò rỉ đã có nhiều ý kiến phản bác.

Một số tướng ở Bộ Quốc phòng Mỹ cho rằng ông Andrew Marshall đã thổi phồng mối đe dọa TQ, chiến lược này đòi hỏi chi phí quá cao và chỉ tập trung hạ gục hệ thống tên lửa định vị chính xác của TQ thôi thì chưa đủ.

Các chuyên gia quốc phòng cảnh báo thiệt hại thảm khốc về kinh tế, con người sẽ xảy ra, tấn công TQ sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ thảm họa và có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân.

Một số tướng ủng hộ ông Andrew Marshall nhận xét mục đích chính của chiến lược “không-hải chiến” là phản công, phá hủy hệ thống tên lửa và radar tinh nhuệ của TQ để tàu chiến Mỹ áp sát bờ biển TQ. Một quan chức hải quân Mỹ giấu tên nói “không-hải chiến” nhằm làm cho các nhà hoạch định quân sự TQ rối mù trước khả năng đáp trả của Mỹ.

Về phía TQ, tại một cuộc hội thảo do Trung tâm Nghiên cứu quốc tế và chiến lược (Mỹ) tổ chức hồi năm ngoái, Đại tá Cao Việt Phiên cảnh báo nếu Mỹ phát triển “không-hải chiến” để đối phó với TQ, quân đội TQ buộc phải phát triển kế hoạch đối phó.

Tướng Trần Chu ở Học viện Khoa học quân sự TQ, người soạn thảo chính của bốn Sách trắng quốc phòng gần đây của TQ, phát biểu mỉa mai: “Chúng tôi nghiên cứu thuyết “cuộc cách mạng quân sự” rất kỹ lưỡng. Người hùng vĩ đại của chúng tôi là Andrew Marshall ở Lầu Năm Góc. Chúng tôi dịch tất cả từ ông ấy viết ra”.

Ông Andrew Marshall sinh năm 1921 ở Detroit (Mỹ). Sau khi tốt nghiệp cử nhân kinh tế ở ĐH Chicago, ông gia nhập tổ chức tư vấn chính sách quốc phòng Rand Corporation. Trong đội ngũ chuyên gia nòng cốt tại Rand Corporation có James Schlesinger sau này giữ chức bộ trưởng Quốc phòng và là người giám sát công tác thành lập Văn phòng Thẩm định mạng lưới. Andrew Marshall giữ chức giám đốc văn phòng này từ năm 1973 và được bổ nhiệm lại qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Ông cũng nổi tiếng về công lao đào tạo nhiều phụ tá giỏi sau này giữ nhiều vị trí quyền lực. Các nghiên cứu của ông trong 40 năm qua được xếp vào loại tài liệu mật. Ông chưa bao giờ nói chuyện trước công chúng.

Theo Pháp luật
0

Thứ Hai, 16 tháng 4, 2012

Tương lai quan hệ Mỹ-Trung

15/4/12- Henry A. Kissinger, Foreign Affairs, March/April 2012

(Xung đột là một sự lựa chọn, chứ không phải là một điều tất yếu)

Trần Ngọc Cư dịch

HENRY A. KISSINGER là Chủ tịch của Kissinger Associates và là một cựu Ngoại trưởng và Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ. Bài tiểu luận này dựa vào lời bạt của ấn bản bìa giấy sắp ra mắt của cuốn sách mới nhất của ông, On China (Bàn về Trung Quốc) do Penguin xuất bản, 2012.
Foreign Affairs


Trong bài tiểu luận sau đây, Henry A. Kissinger đưa ra ý kiến của một “lưỡng quốc công thần”, cổ vũ một sự hợp tác chiến lược bền vững Mỹ-Trung, tiếp nối tình hữu nghị mà ông đã có công xây đắp kể từ khi hai nước ký kết Thông cáo chung Thượng Hải 1972, củng cố một mặt trận đoàn kết Mỹ-Trung chống Liên Xô trong thời Chiến tranh lạnh. Ông tỏ ra lo lắng về khả năng đối đầu của hai đại cường trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Là người Việt Nam, chúng ta không thể quên sự kiện lịch sử này: Trong thời điểm Kissinger làm Bộ trưởng Ngoại giao, Chính phủ Mỹ đã khoanh tay đứng nhìn Hải quân Trung Quốc đánh chiếm Quần đảo Hoàng Sa, lúc bấy giờ nằm dưới chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa, một đồng minh của Mỹ.

Bauxite Việt Nam

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tại hội nghị thượng đỉnh APEC tổ chức ở Hawaï, ngày 12/11/2011. REUTERS/Larry Downing
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tại hội nghị thượng đỉnh APEC tổ chức ở Hawaï, ngày 12/11/2011. REUTERS/Larry Downing

Ngày 19 tháng Giêng 2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã ra một tuyên bố chung vào lúc kết thúc cuộc thăm viếng Washington của họ Đào, nói lên cam kết chung đối với mối quan hệ Mỹ-Trung “tích cực, hợp tác, và toàn diện”. Mỗi bên trấn an bên kia về mối quan tâm chính của mình, bằng cách tuyên bố, “Hoa Kỳ nhắc lại rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chào đón một Trung Quốc vững mạnh, thịnh vượng, và thành công, có đủ khả năng giữ một vai trò to lớn hơn nữa trong các vấn đề quốc tế. Trung Quốc sẵn sàng coi Hoa Kỳ như một quốc gia châu Á-Thái Bình Dương có khả năng đóng góp cho hoà bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực.”

Từ đó, hai chính phủ đã bắt tay vào việc thực hiện những mục tiêu được công bố. Các quan chức hàng đầu của hai nước đã thăm viếng lẫn nhau và cơ chế hóa những trao đổi của họ trên các vấn đề chiến lược và kinh tế quan trọng. Những cuộc tiếp xúc giữa các phái đoàn quân sự hai nước đã được tái khởi động, mở ra một kênh truyền thông quan trọng giữa hai quân đội. Và ở một cấp độ không chính thức, cái gọi là những nhóm song hành (track-two groups) đã thăm dò các khả năng diễn biến của mối quan hệ Mỹ-Trung.

Nhưng trong khi sự hợp tác gia tăng, những tranh cãi cũng gia tăng. Nhiều nhóm có ảnh hưởng trong cả hai nước cho rằng một cuộc tranh giành vị trí siêu cường giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ là tất yếu và có lẽ đã diễn ra. Theo quan điểm này, những lời kêu gọi hợp tác Mỹ-Trung có vẻ lỗi thời và thậm chí ngây ngô.

Những cáo buộc lẫn nhau phát xuất từ các phân tích tình hình rất khác biệt nhưng tiến hành song song trong cả hai nước. Một số nhà tư tưởng chiến lược Mỹ lý luận rằng chính sách Trung Quốc theo đuổi hai mục tiêu dài hạn: thay thế vai trò siêu cường Mỹ trong vùng Tây Thái Bình Dương và củng cố châu Á thành một khối bài ngoại (exclusionary bloc) chịu thần phục các lợi ích kinh tế và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Quan niệm này cho rằng, mặc dù những khả năng quân sự tuyệt đối (absolute military capabilities) của Trung Quốc không chính thức ngang hàng với khả năng quân sự tuyệt đối của Mỹ, nhưng Bắc Kinh đủ sức tạo ra những rủi ro khủng khiếp trong một cuộc xung đột với Washington và đang phát triển những phương tiện ngày càng tinh vi để loại bỏ những ưu thế mà Mỹ nắm giữ từ lâu. Khả năng tấn công hạt nhân đợt hai vốn là vô địch của Mỹ cuối cùng sẽ bị cân bằng bởi một số lượng ngày càng gia tăng gồm các tên lửa đạn đạo chống chiến hạm và các khả năng quân sự bất đối xứng [asymmetric capabilities, lấy yếu chống mạnh] của Trung Quốc trong các lãnh vực như mạng lưới internet và không gian. Một số người lo ngại rằng Trung Quốc có thể giành được ưu thế hải quân có khả năng khống chế xuyên qua một loạt chuỗi đảo ở vòng ngoài lãnh hải của mình, và một khi tấm bình phong này thành hình, những nước láng giềng của Trung Quốc, vốn lệ thuộc vào nền mậu dịch Trung Quốc và không tin chắc vào khả năng phản ứng của Mỹ, có thể sẽ điều chỉnh chính sách theo sở thích của Trung Quốc. Điều này cuối cùng có thể dẫn đến sự hình thành một khối châu Á khống chế khu vực Tây Thái Bình Dương trong đó Trung Quốc giữ vị trí trung tâm. Bản báo cáo chiến lược Mỹ gần đây nhất phản ánh, ít ra một cách ngấm ngầm, một số lo ngại này.

Cho đến nay, chưa có một quan chức Trung Quốc nào tuyên bố một chiến lược như thế là chính sách đích thực của Trung Quốc. Thật ra, họ nhấn mạnh những điều ngược lại. Nhưng, chúng ta có đủ tư liệu trên báo chí bán chính thức và trong các viện nghiên cứu của Trung Quốc để chứng minh phần nào lý thuyết cho rằng quan hệ hai nước đang tiến tới đối đầu hơn là hợp tác.

Những lo lắng chiến lược của Mỹ được phóng đại do các khuynh hướng mang tính ý hệ, đó là phải chống lại toàn bộ thế giới phi dân chủ. Một số nhà nghiên cứu lý luận rằng các chế độ độc tài tự thân là rất dễ sụp đổ nên chúng buộc phải huy động hậu thuẫn dân chúng trong nước bằng luận điệu lẫn hành vi dân tộc chủ nghĩa và bành trướng chủ nghĩa. Theo những lý thuyết này – mà phiên bản của chúng vốn được nhiều bộ phận trong cánh tả cũng như cánh hữu Mỹ đón nhận – thì sự căng thẳng và xung đột với Trung Quốc phát sinh từ cơ chế nội bộ của Trung Quốc. Quan điểm này quyết đoán rằng hòa bình thế giới sẽ phát xuất từ thắng lợi toàn cầu của thể chế dân chủ chứ không do những lời kêu gọi hợp tác. Chẳng hạn, nhà chính trị học Aaron Friedberg viết rằng “một Trung Quốc dân chủ tự do sẽ không có lý do gì để sợ các nước dân chủ khác, lại càng không có lý do để dùng vũ lực chống lại họ”. Vì thế, “ gác bỏ mọi tế nhị ngoại giao qua một bên, mục tiêu nhiên hậu của chiến lược Mỹ [là phải] thúc đẩy một cuộc cách mạng, dù là một cuộc cách mạng ôn hòa”, nhằm quét sạch chế độ độc tài độc đảng của Trung Quốc và thay vào đó bằng một chế độ dân chủ tự do”.

Về phía Trung Quốc, những lý giải mang tính đối đầu đi theo một lô-gíc ngược lại. Họ thấy Mỹ là một siêu cường đang bị tổn thương, quyết ngăn chặn sự trỗi dậy của bất cứ đối thủ nào, mà Trung Quốc là đối thủ đáng nể sợ nhất. Một số học giả Trung Quốc tranh luận rằng, dù Trung Quốc có ra sức hợp tác bao nhiêu đi nữa, mục tiêu kiên định của Washington vẫn là bao vây một Trung Quốc đang trỗi dậy bằng cách triển khai các lực lượng quân sự và duy trì các cam kết bằng thỏa ước [với các nước trong khu vực] nhằm ngăn cản Trung Quốc đóng lại vai trò lịch sử của mình — một Vương quốc ở Trung tâm (the Middle Kingdom). Theo quan điểm này, bất cứ một hợp tác bền vững nào với Mỹ là tự chuốc lấy thất bại, vì một sự hợp tác như vậy sẽ chỉ phục vụ mục tiêu chủ yếu của Mỹ là vô hiệu hóa Trung Quốc. Lắm lúc họ cho rằng sự thù nghịch mang tính hệ thống đã nằm sẵn trong ảnh hưởng văn hóa và công nghệ Mỹ, được hình thành dưới dạng thức các áp lực có tính toán được thiết kế để xói mòn sự đồng thuận nội bộ và các giá trị truyền thống của Trung Quốc. Các tiếng nói quyết đoán nhất tranh luận rằng Trung Quốc đã tỏ ra thụ động một cách không thích đáng khi đối đầu với các xu thế thù nghịch và rằng (chẳng hạn, trong trường hợp các vấn đề lãnh thổ ở Biển Nam Trung Hoa) Trung Quốc cần phải trực diện đối đầu với các nước láng giềng có tranh chấp biển đảo và tiếp theo đó, theo lời của nhà phân tích chiến lược Long Đạo, “phải lý luận, tính toán trước và tấn công trước, trước khi tình hình dần dần vuột ra ngoài tầm kiểm soát…bằng cách mở ra một số trận đánh trên qui mô bé nhỏ có khả năng ngăn chặn những kẻ gây hấn lấn tới thêm nữa”.

QUÁ KHỨ KHÔNG NHẤT THIẾT LÀ MỘT ĐOẠN MỞ ĐẦU

Như vậy, liệu có một khởi điểm thích hợp cho việc tìm kiếm một quan hệ hợp tác Mỹ-Trung và cho các chính sách nhằm thực hiện quan hệ đó hay không? Chắc chắn là, sự trỗi dậy của các cường quốc trong lịch sử thường dẫn đến xung đột với các nước đã có thế đứng vững chắc. Nhưng ngày nay tình hình đã thay đổi. Không ai còn tin rằng các lãnh tụ từng hồ hởi tham gia thế chiến năm 1914 lại dám làm như thế nếu họ biết rõ thế giới sẽ đổ vỡ như thế nào vào lúc kết thúc cuộc chiến đó. Các nhà lãnh đạo ngày nay không mang trong đầu những ảo tưởng như thế. Một đại chiến giữa các cường quốc hạt nhân nhất định sẽ mang lại những tổn thất và biến động xã hội vượt ra ngoài những mục tiêu có thể tính toán. Khả năng đánh phủ đầu một nước khác gần như không thể xảy ra, nhất là đối với một thể chế dân chủ đa nguyên như Hoa Kỳ.

Nếu bị thách thức, Mỹ sẽ làm tất cả những gì phải làm để duy trì an ninh của mình. Nhưng Mỹ không nên chấp nhận sự đối đầu như một chiến lược đáng lựa chọn. Với Trung Quốc, Mỹ sẽ gặp phải một đối thủ có biệt tài qua hằng thế kỷ trong việc lấy chiến tranh trường kỳ làm chiến lược và lý thuyết của họ luôn luôn nhấn mạnh sự mệt mỏi tâm lý của đối phương. Trong một cuộc xung đột thật sự, hai bên đều có khả năng và trí tuệ để gây ra những thiệt hại khủng khiếp cho nhau. Vào thời điểm bất cứ một cuộc đại chiến giả tưởng nào như thế kết thúc, tất cả các phe lâm chiến đều sẽ kiệt lực và suy yếu hẳn đi. Lúc đó cả hai nước sẽ phải một lần nữa đối diện với chính cái nhiệm vụ mà họ đang đối diện ngày nay: kiến tạo một trật tự quốc tế trong đó Mỹ và Trung Quốc là những thành viên quan trọng.

Kế hoạch ngăn chặn rút ra từ các chiến lược thời Chiến tranh lạnh mà hai nước đã sử dụng để chống lại một Liên Xô bành trướng chủ nghĩa không còn áp dụng được cho tình hình hiện nay. Kinh tế Liên Xô lúc bấy giờ vốn là yếu kém (ngoại trừ các công nghiệp sản xuất quốc phòng) và không ảnh hưởng lên kinh tế toàn cầu. Một khi Trung Quốc cắt đứt quan hệ và trục xuất các cố vấn Xô viết, ngoại trừ những nước bị hút vào quĩ đạo Xô viết bằng vũ lực, ít có nước nào có lợi ích to lớn trong quan hệ kinh tế với Mácxcôva. Trung Quốc đương đại, trái lại, là một yếu tố năng động trong nền kinh tế thế giới. TQ là đối tác thương mại chính của tất cả các nước láng giềng và hầu hết các cường quốc công nghiệp phương Tây, kể cả Mỹ. Một cuộc đối đầu kéo dài giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ thay đổi nền kinh tế thế giới, để lại nhiều hậu quả bất ổn cho mọi quốc gia.

Trung Quốc thấy rằng chiến lược mà TQ theo đuổi trong cuộc xung đột với Liên Xô trước đây sẽ không còn phù hợp với một cuộc xung đột với Mỹ. Chỉ một vài nước – trong đó không có một nước châu Á nào — còn coi sự hiện diện của Mỹ tại châu Á như là “những ngón tay” cần phải “chặt bỏ” (nói theo từ ngữ máu me của Đặng Tiểu Bình dành cho các vị trí tiền đồn của Liên Xô trước đây). Ngay cả các quốc gia châu Á không phải là thành viên các liên minh quân sự với Mỹ cũng tìm kiếm những trấn an do một sự hiện diện chính trị của Mỹ ở trong khu vực và do các lực lượng Mỹ trong các vùng biển lân cận và coi đó như là một thế lực giám hộ cho cái thế giới mà họ đã trở nên quen thuộc. Đường lối của các quốc gia này đã được một viên chức cấp cao của Indonesia diễn tả với một người đồng nhiệm Mỹ như sau: “Đừng từ bỏ chúng tôi, nhưng cũng đừng buộc chúng tôi phải lựa chọn phe này hoặc phe khác”.

Việc Trung Quốc tăng cường lực lượng quân sự gần đây tự nó không phải là một hiện tượng kỳ lạ: một hậu quả bất thường hơn sẽ diễn ra nếu nền kinh tế lớn thứ nhì và là nước nhập khẩu tài nguyên thiên nhiên lớn nhất thế giới không chuyển đổi sức mạnh kinh tế của mình vào việc gia tăng một số khả năng quân sự. Vấn đề đặt ra là, sự tăng cường ấy phải chăng là không được hạn chế và nhắm vào những mục đích nào? Nếu Hoa Kỳ coi mọi tiến bộ trong các khả năng quân sự của Trung Quốc là một hành vi thù nghịch, Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng bị vướng vào một chuỗi tranh chấp vô tận trên danh nghĩa của những mục tiêu ít ai hiểu nổi. Nhưng Trung Quốc cũng phải ý thức, từ chính lịch sử của mình, về đường ranh mờ nhạt giữa các khả năng phòng thủ và tấn công và về các hậu quả của một cuộc chạy đua vũ trang không được kềm chế.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ có đủ lý do vững chắc để bác bỏ những đòi hỏi trong nước về một đường lối thù nghịch đối với Mỹ — như họ đã từng công khai tuyên bố. Lịch sử cho thấy sự bành trướng của các đế chế Trung Quốc được thực hiện bằng sự thẩm thấu (osmosis) hơn là chinh phục bằng vũ lực, hay bằng sự chuyển đổi sang văn hóa Trung Quốc của những người đi chinh phục, những người sau đó đã đem chính lãnh thổ của mình sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Khống chế châu Á bằng đường lối quân sự sẽ là một nỗ lực cực kỳ khó khăn. Liên Xô, trong thời Chiến tranh lạnh, tiếp giáp một chuỗi gồm những nước yếu bị tát cạn nguồn lực vì chiến tranh, bị nước ngoài chiếm đóng và lệ thuộc vào vào sự đồn trú của quân đội Mỹ vì lý do quốc phòng. Trung Quốc ngày nay đối diện với Nga về phía bắc; Nhật Bản và Nam Hàn, về phía đông; Việt Nam và Ấn Độ về phía nam; Indonesia và Malaysia không nằm xa bao nhiêu. Đây không phải là một chòm quốc gia dễ bị chinh phục bằng vũ lực. Tập hợp này có khả năng dấy lên trong lòng người TQ nỗi sợ hãi bị bao vây. Mỗi một quốc gia này đều có truyền thống quân sự lâu đời và sẽ đặt ra một trở ngại cực kỳ to lớn nếu lãnh thổ hay khả năng điều hành chính sách độc lập của họ bị đe dọa. Một chính sách đối ngoại hiếu chiến của Trung Quốc sẽ gia tăng sự hợp tác của tất cả hay chí ít một số nước trong nhóm này, gợi lên cơn ác mộng lịch sử của Trung Quốc, như đã diễn ra trong thời kỳ 2009-10.

ỨNG XỬ VỚI MỘT NƯỚC TRUNG HOA MỚI

Một lý do khác để Trung Quốc phải biết tự chế, chí ít trong trung hạn (the medium term), là tìm cách đối phó với người dân trong nước. Chênh lệch kinh tế trong xã hội Trung Quốc giữa những vùng phần lớn được phát triển dọc theo duyên hải và những vùng kém mở mang ở phía tây đã làm cho mục tiêu “một xã hội hài hòa” của Hồ Cẩm Đào vừa bức thiết vừa trở nên xa vời. Những chuyển biến văn hóa trong xã hội TQ cũng chồng chất thêm nhiều thách đố. Những thập niên sắp tới sẽ chứng kiến, lần đầu tiên, toàn bộ ảnh hưởng của chính sách gia đình một con lên xã hội người lớn Trung Quốc (adult Chinese society). Sự kiện này chắc chắn sẽ thay đổi những mô hình văn hóa trong một xã hội vốn có truyền thống là đại gia đình phải có bổn phận chăm sóc những thân nhân già nua và khuyết tật. Khi bốn người gồm ông, bà nội, ngoại cùng tranh giành sự chú ý của một đứa cháu và đặt hết hi vọng vào nó — những hi vọng trước đây thường được phân tán cho nhiều đứa cháu — thì một mẫu mực mới về sự thành đạt và về những kỳ vọng to lớn, có lẽ bất khả thi, có thể phát sinh.

Tất cả những phát triển này sẽ làm phức tạp thêm những thách đố trong giai đoạn chuyển giao chính quyền của Trung Quốc bắt đầu từ năm 2012, khi chức chủ tịch nước; phó chủ tịch nước; một đa số đáng kể các chức vụ trong Bộ chính trị, Quốc vụ viện, và Quân ủy Trung ương; và hằng ngàn các chức vụ quan trọng khác cấp quốc gia và cấp tỉnh sẽ được chuyển giao cho các quan chức mới được chỉ định. Đa phần nhóm lãnh đạo mới này bao gồm những thành viên của thế hệ đầu tiên trong vòng 150 năm nay được sống suốt đời trong một đất nước hòa bình. Thử thách chính của họ sẽ là, phải tìm ra một đường lối để đối phó một xã hội được cách mạng hóa do các điều kiện kinh tế đang thay đổi, do công nghiệp truyền thông bành trướng nhanh chóng chưa từng thấy, do một nền kinh tế toàn cầu tinh tế, và do việc di cư hằng trăm triệu người từ nông thôn Trung Quốc vào các thành thị. Mô hình chính phủ xuất hiện trong tương lai có thể là một tổng hợp đề của các tư tưởng hiện đại và các quan niệm chính trị-văn hóa truyền thống TQ, và việc tìm kiếm một tổng hợp đề như thế sẽ tạo ra kịch tính liên tục trong sự tiến hóa của xã hội Trung Quốc.

Những biến đổi xã hội và chính trị này nhất định sẽ được người Mỹ quan tâm theo dõi với niềm hi vọng. Nhưng nếu Hoa Kỳ trực tiếp can thiệp vào nội bộ TQ, thì đó là hành động thiếu khôn ngoan và phản tác dụng. Làm đúng nghĩa vụ của mình, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bày tỏ quan điểm về các vấn đề nhân quyền và một số trường hợp cá nhân. Và hành vi ứng xử thông thường của Washington sẽ là luôn luôn bày tỏ sự yêu chuộng các nguyên tắc dân chủ của người dân Mỹ. Nhưng một đề án có hệ thống nhằm chuyển đổi các cơ chế Trung Quốc bằng sức ép ngoại giao và trừng phạt kinh tế rất dễ đưa đến hậu quả ngược lại và cô lập chính các nhà dân chủ mà đề án này có ý định giúp đỡ. Tại Trung Quốc, đề án này sẽ bị một đa số đáng kể giải thích theo lăng kính dân tộc chủ nghĩa, gợi lại những kỷ nguyên Trung Quốc chịu đựng sự can thiệp của nước ngoài trước đây.

Điều quan trọng mà tình hình này đòi hỏi không phải là một sự từ bỏ các giá trị Mỹ nhưng là một sự phân biệt giữa việc khả thi và lý tưởng tuyệt đối. Không nên coi quan hệ Mỹ-Trung là một trò chơi bên lở bên bồi (a zero-sum game), bên này được thì bên kia phải mất, cũng không thể cho rằng sự trỗi dậy của một Trung Quốc phồn thịnh và hùng mạnh tự thân là một thất bại chiến lược của Mỹ.

Một đường lối hợp tác sẽ chống lại các thành kiến của cả hai phía. Hoa Kỳ không có nhiều tiền lệ trong lịch sử quốc gia mình về việc thiết lập quan hệ với một nước có diện tích tương đương, có tự tin, có thành tựu kinh tế và tầm cỡ quốc tế, với một nền văn hóa và hệ thống chính trị khác biệt. Lịch sử cũng không cung ứng cho Trung Quốc những tiền lệ về cách ứng xử với một ông bạn đại cường (a fellow great power) với một sự hiện diện thường trực tại châu Á, một viễn kiến về các lý tưởng phổ quát không phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc, và các liên minh quân sự với một số nước láng giềng của Trung Quốc. Trước Mỹ, tất cả các nước chiếm một địa vị như thế đã thể hiện điều này như một khúc dạo đầu (a prelude) dẫn đến âm mưu thống trị Trung Quốc.

Đường lối đơn giản nhất để tiến tới việc hình thành chiến lược quốc gia là nhắm vào các đối thủ tiềm năng có sức mạnh áp đảo với nguồn lực và phương tiện chiến tranh ưu việt. Nhưng trong thế giới đương đại, đường lối này hiếm khi có thể thực hiện. Như một điều tất yếu, Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục là những thực tế lâu dài đối với nhau. Không nước nào có thể phó thác an ninh của mình cho nước kia – không một đại cường nào chịu làm như vậy trong thời gian lâu dài – và mỗi nước sẽ tiếp tục theo đuổi những lợi ích quốc gia của mình, đôi khi gây tổn thất cho nhau. Nhưng cả hai đại cường đều có trách nhiệm phải xét đến những cơn ác mộng của nhau, và cả hai sẽ phải làm tốt để nhận ra rằng luận điệu tuyên truyền, cũng như các chính sách hiện nay, có thể nuôi dưỡng những mối ngờ vực lẫn nhau.

Nỗi sợ hãi chiến lược lớn nhất của Trung Quốc là, một hay nhiều cường quốc bên ngoài sẽ bố trí lực lượng quân sự chung quanh biên giới Trung Quốc, có khả năng xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc hay can thiệp vào các định chế nội bộ. Trong quá khứ, mỗi khi xét thấy mình đang đối đầu một mối đe dọa như thế, Trung Quốc đã chủ động tiến công hơn là chấp nhận rủi ro nhận lãnh hậu quả của điều mà họ cho là những xu thế [chiến tranh] đang hình thành — tại Triều Tiên năm 1950, với Ấn Độ năm 1962, dọc theo biên giới phía bắc với Liên Xô năm 1969, và với Việt Nam năm 1979.

Nỗi sợ hãi của Mỹ, đôi khi chỉ được biểu lộ một cách gián tiếp, là thấy mình bị một khối có chủ trương bài ngoại đẩy ra khỏi châu Á. Hoa Kỳ tham dự thế chiến chống lại Đức và Nhật để ngăn chặn một hậu quả như thế và dưới các chính quyền của cả hai đảng đã thực thi một số chính sách ngoại giao Chiến tranh lạnh mạnh mẽ nhất đối với Liên Xô cũng vì mục đích này. Trong cả hai sự kiện nói trên, điều đáng lưu ý là, những nỗ lực hỗn hợp Mỹ-Trung được nhắm vào việc chống lại mối đe dọa của một bá quyền mà hai nước đã nhận ra.

Các quốc gia châu Á khác sẽ nhấn mạnh đặc quyền phát triển các khả năng của mình vì những lý do riêng của nước họ, không tham gia vào một cuộc đọ sức của các cường quốc bên ngoài. Họ sẽ không muốn đặt mình trong một trật tự triều cống được phục hồi trở lại. Họ cũng không muốn coi mình là những thành tố trong một chính sách ngăn chặn của Mỹ hay trong một đồ án của Mỹ nhằm thay đổi các định chế nội bộ của Trung Quốc. Các quốc gia này chỉ muốn có quan hệ tốt dẹp với cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ và sẽ chống lại bất cứ áp lực nào buộc họ phải lựa chọn giữa hai nước.

Liệu mối sợ hãi về một bá quyền và cơn ác mộng bị bao vây quân sự có được hóa giải không? Liệu có thể tìm ra một không gian trong đó hai bên có thể đạt được những mục tiêu nhiên hậu mà không cần quân sự hóa chiến lược của mình không? Đối với những đại cường có những khả năng toàn cầu và những tham vọng khác biệt, thậm chí có phần tương khắc, đâu là khoảng cách giữa xung đột và từ bỏ địa vị bá chủ của mình?

Sự kiện Trung Quốc sẽ có một ảnh hưởng to lớn trong những khu vực chung quanh nội tại trong địa lý, giá trị văn hóa, và lịch sử nước này. Nhưng, những giới hạn của ảnh hưởng ấy sẽ được hình thành do tình hình và các quyết sách. Những yếu tố này sẽ quyết định liệu là việc tìm kiếm ảnh hưởng tất yếu của Trung Quốc có biến thành một nỗ lực phủ định hay loại bỏ các nguồn quyền lực độc lập khác hay không.

Trong gần hai thế hệ, chiến lược Mỹ dựa vào việc bảo vệ các khu vực địa phương [ở nước ngoài] bằng các lực lượng trú đóng trên bộ của Mỹ — phần lớn để tránh những hậu quả thảm khốc của một cuộc chiến tranh hạt nhân rộng lớn. Trong những thập niên gần đây, dư luận dân chúng và quốc hội đã thúc đẩy việc chấm dứt những cam kết như thế tại Việt Nam, Iraq, và Afghanistan. Hiện nay, những tính toán ngân sách đang hạn chế thêm nữa phạm vi của đường lối này. Chiến lược Mỹ đã chuyển từ bảo vệ lãnh thổ sang đe dọa giáng trả những đòn trừng phạt ngoài mức chịu đựng của kẻ thù có tiềm năng xâm lược. Đề án này đòi hỏi những lực lượng có khả năng can thiệp nhanh chóng và vươn tới mọi nơi trên thế giới, nhưng không đòi phải có những căn cứ vây quanh biên giới Trung Quốc. Điều cấm kỵ mà Washington không nên làm là kết hợp một chính sách quốc phòng bị hạn chế ngân sách với một chính sách ngoại giao đặt cơ sở trên những mục tiêu ý hệ không bị hạn chế (unlimited ideological aims).

Trong khi ảnh hưởng Trung Quốc tại các nước láng giềng có thể kích động những lo sợ về một bá quyền, những nỗ lực của Mỹ trong việc theo đuổi những lợi ích quốc gia truyền thống của mình có thể bị Trung Quốc coi là một hình thức bao vây quân sự. Hai bên phải hiểu rõ những điểm tế nhị theo đó các đường lối bên ngoài có vẻ truyền thống và có vẻ hợp lý có thể gợi lên nỗi sợ hãi cho nhau. Hai bên phải cùng nhau tìm cách định nghĩa lãnh vực trong đó sự cạnh tranh hòa bình của họ được giới hạn. Nếu việc này được quản lý khéo léo, thì tình trạng đối đầu quân sự lẫn bá quyền chính trị có thể tránh được; bằng không, sự căng thẳng giữa hai nước ngày một leo thang là tất yếu. Nhiệm vụ của chính sách ngoại giao là phải phát hiện được cái không gian cạnh tranh hòa bình này, nới rộng nó nếu có thể, và ngăn chặn mối quan hệ giữa hai nước khỏi bị các yêu cầu chiến thuật và nội bộ đè bẹp.

CỘNG ĐỒNG HAY XUNG ĐỘT?

Trật tự thế giới hiện nay được kiến tạo gần như không có sự tham dự của Trung Quốc, và vì thế đôi khi Trung Quốc không cảm thấy bị các luật lệ của nó ràng buộc như các nước khác. Trong các trường hợp trật tự này không phù hợp với nguyện vọng của Trung Quốc, Bắc Kinh đã sắp xếp lại cách khác, chẳng hạn trong các kênh ngoại hối riêng biệt (separate currency channels) đang được thiết lập với Brazil, Nhật Bản, và các nước khác. Nếu mô hình này trở nên thông dụng và lan sang các lãnh vực hoạt động khác, nhiều trật tự thế giới cạnh tranh nhau (competing world orders) sẽ triển khai. Nếu không có được những mục tiêu chung gắn liền với các luật lệ kiềm chế do các bên thoả thuận, một sự cạnh tranh mang tính cơ chế (institutionalized rivalry) có khả năng leo thang, vượt ra ngoài những tính toán và ý định ban đầu của những người khởi xướng. Trong một thời đại trong đó các khả năng tấn công chưa từng thấy và các công nghệ xâm nhập (intrusive technologies) gia tăng theo cấp số, những biện pháp trừng phạt của mô hình này có khả năng là rất quyết liệt và có lẽ không thể hủy bỏ.

Nỗ lực quản lý các cuộc khủng hoảng sẽ không đủ sức để duy trì một mối quan hệ có tầm cỡ toàn cầu rộng lớn và chịu quá nhiều sức ép khác nhau tự bên trong mỗi quốc gia và giữa hai quốc gia. Đó là lý do tại sao, tôi đã bênh vực ý niệm về một Cộng đồng Thái Bình Dương (a Pacific Community) và bày tỏ niềm hi vọng rằng Trung Quốc và Mỹ có thể cùng nhau tạo ra một ý thức về mục đích chung, ít ra trên một số vấn đề quan tâm tổng quát. Nhưng chúng ta sẽ không đạt được mục tiêu của một cộng đồng như thế nếu một trong hai phía coi nỗ lực này chủ yếu là một phương cách hữu hiệu hơn để đánh bại hay phá hoại phía kia. Giữa Trung Quốc và Mỹ, không thể có khả năng phía này bị phía kia thách thức một cách có hệ thống mà không hề nhận ra, và nếu một sự thách thức như vậy được phía kia ghi nhận, nó sẽ bị chống trả đích đáng. Cả hai nước cần phải cam kết hợp tác chân thật và tìm ra một đường lối để truyền đạt và phản ảnh viễn kiến của mình cho nhau và cho cả thế giới.

Một số bước dò dẫm theo chiều hướng ấy đã được thực hiện. Chẳng hạn, Mỹ đã tham gia cùng một số quốc gia khác trong việc bắt đầu các cuộc đàm phán về Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TTP), một thỏa ước mậu dịch tự do kết nối châu Mỹ với châu Á. Một sự sắp xếp như vậy có thể là một bước tiến tới một Cộng đồng Thái Bình Dương (a Pacific Community) vì nó sẽ hạ thấp những rào cản mậu dịch giữa những nền kinh tế có năng suất cao, năng động, và giàu tài nguyên nhất và nối hai bờ của đại dương trong những đồ án chung.



Obama đã mời Trung Quốc tham gia TPP. Nhưng, các điều kiện gia nhập theo cách trình bày của các thuyết trình viên và bình luận gia Mỹ đôi khi có vẻ như muốn đòi hỏi những thay đổi cơ bản trong cơ cấu nội bộ Trung Quốc. Nếu đúng là như vậy, TTP có thể bị Bắc Kinh coi là một phần chiến lược nhằm cô lập Trung Quốc. Về phần mình, Trung Quốc đã đưa ra những sắp xếp khác hơn, có thể sánh được với đề xuất của Mỹ. Trung Quốc đã thương thuyết một thương ước với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đã gợi ý về một thương ước Đông Bắc Á với Nhật Bản và Nam Hàn.

Những cân nhắc chính trị nội bộ quan trọng là rất phức tạp cho mọi quốc gia. Nhưng nếu Trung Quốc và Mỹ bắt đầu coi những nỗ lực thành lập thương ước của nhau là những yếu tố trong một chiến lược để cô lập phía kia, khu vực châu Á-Thái Bình Dương có thể biến thành nhiều khối quyền lực thù địch cạnh tranh nhau. Mỉa mai là, điều này sẽ là một thách thức đặc biệt cho Mỹ nếu Trung Quốc đáp ứng những kêu gọi thường xuyên trong đó Mỹ yêu cầu Trung Quốc chuyển đổi từ một nền kinh tế lấy xuất khẩu làm chủ đạo thành một nền kinh tế có động cơ tiêu thụ, như kế hoạch 5-năm gần đây nhất đã dự tính. Một sự phát triển kinh tế như thế có thể giảm bớt vốn đầu tư của Trung Quốc tại Hoa Kỳ như một thị trường xuất khẩu của Trung Quốc, ngay cả khi Trung Quốc khuyến khích các quốc gia châu Á khác định hướng nền kinh tế của họ thêm nữa về phía Trung Quốc.

Quyết định chủ yếu mà cả Bắc Kinh lẫn Washington phải đối diện là liệu hai nước sẽ tiến tới một nỗ lực hợp tác thật sự hay hai nước sẽ rơi vào một phiên bản mới của các mô hình lịch sử về cạnh tranh quyền lực quốc tế. Cả hai nước đều chọn luận điệu cổ vũ cộng đồng quốc tế. Họ thậm chí còn lập một diễn đàn cấp cao cho việc này, đó là diễn đàn Đối thoại Chiến lược và Kinh tế (the Strategic and Economic Dialogue), họp hai lần một năm. Diễn đàn này có một số kết quả trên các vấn đề cấp thời, nhưng nó vẫn chưa đi đến đâu trong nhiệm vụ sau cùng là tạo được một trật tự kinh tế và chính trị thực sự toàn cầu. Và nếu một trật tự toàn cầu không xuất hiện trong lãnh vực kinh tế, thì những trở ngại cho tiến bộ trên các vấn đề nhạy cảm và thiếu tích cực, như lãnh thổ và an ninh quốc gia, có thể trở nên rất khó khắc phục.

NHỮNG RỦI RO CỦA LỐI NÓI KHOA TRƯƠNG

Khi theo đuổi tiến trình này, cả hai bên cần phải nhìn nhận tác động của luận điệu khoa trương lên cảm thức và các tính toán. Vì yêu cầu chính trị nội bộ, lãnh đạo Mỹ thường tung ra các chỉ trích chống Trung Quốc, gồm cả việc đề xuất những chính sách cụ thể mang tính thù nghịch. Họ làm việc này kể cả — có lẽ dặc biệt là – khi một chính sách ôn hòa là ý định sau cùng của Mỹ. Vấn đề này không phải là những bất bình cụ thể, vốn phải được giải quyết theo ưu khuyết điểm của từng vụ việc, nhưng nằm ở các mũi tấn công nhắm vào những động lực cơ bản trong chính sách của Trung Quốc, chẳng hạn tuyên bố Trung Quốc là một kẻ thù chiến lược. Mục tiêu của các mũi tấn công này nhất định sẽ đưa đến vấn nạn là, liệu những yêu cầu cấp bách của nội bộ Mỹ đang đòi hỏi khẳng định thái độ thù nghịch với Trung Quốc không sớm thì muộn sẽ đòi hỏi luôn cả hành động thù nghịch hay không? Tương tự như thế, những tuyên bố có tính cách hù họa của Trung Quốc, kể cả những tuyên bố trên báo chí bán chính thức của Trung Quốc rất có thể được diễn giải thành những hành động mà chúng ám chỉ, bất luận các áp lực nội bộ hay ý đồ đưa đến những tuyên bố đó là gì đi nữa.

Cuộc tranh luận tại Mỹ, của cánh tả cũng như cánh hữu, thường mô tả Trung Quốc như một “cường quốc đang trỗi dậy” cần có thời gian để “trưởng thành” và học cách thi hành trách nhiệm trên sân khấu thế giới. Nhưng, Trung Quốc không tự coi mình như là một cường quốc đang trỗi dậy, nhưng là một cường quốc đang trở về tư thế cũ, từng có địa vị khống chế trong khu vực suốt hai thiên niên kỷ và tạm thời bị thay thế bởi các nước thực dân bóc lột, những thế lực đã lợi dụng tình trạng nội chiến và suy yếu của Trung Quốc. Trung Quốc coi viễn ảnh một nước Trung Hoa hùng mạnh sử dụng ảnh hưởng của mình trong các vấn đề kinh tế, văn hóa, chính trị, và quân sự không phải một thách thức bất thường cho trật tự thế giới nhưng thật ra đó là một sự trở lại với tình trạng bình thường. Người Mỹ không cần phải đồng ý với mọi khía cạnh trong cách lý giải của phía Trung Quốc để hiểu được rằng việc lên lớp một quốc gia có hàng ngàn năm lịch sử về nhu cầu “phải trưởng thành” và ứng xử “có trách nhiệm” có thể nghe chối tai vô ích.

Về phía Trung Quốc, những tuyên bố của các cấp chính quyền và các cấp bán chính thức, rằng Trung Quốc có ý định “hồi sinh nước Trung Hoa” trở lại địa vị đại cường truyền thống của nó, mang nhiều ý nghĩa khác nhau ở bên trong cũng như bên ngoài Trung Quốc.Trung Quốc có quyền tự hào chính đáng về những tiến bộ gần đây trong việc phục hồi ý nghĩa về hướng đi của đất nước, tiếp theo sau giai đoạn mà họ coi là một thế kỷ ô nhục. Tuy nhiên, ít có một nước nào khác tại châu Á luyến tiếc một thời đại mà họ chịu khuất phục dưới quyền bá chủ của Trung Quốc. Là những nước trước đây đã từng chiến đấu chống chế độ thực dân, hầu hết các nước châu Á là cực kỳ bén nhạy trong việc duy trì độc lập và tự do hành động khi phải đối diện với bất cứ cường quốc nào từ bên ngoài, dù là từ phương Tây hay châu Á. Họ tìm cách tham dự các hoạt động trong các lãnh vực kinh tế và chính trị chồng lấn lên nhau càng nhiều càng tốt; họ chào đón Hoa Kỳ đóng một vai trò trong khu vực nhưng với mục đích tìm kiếm một sự quân bình, chứ không phải tham dự một cuộc thánh chiến hay đối đầu.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc là do hậu quả của việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân sự thì ít, nhưng do thế cạnh tranh của Mỹ đang suy yếu thì nhiều, một sự suy yếu bị thúc đẩy bởi các yếu tố như là cơ sở hạ tầng cũ kỹ lỗi thời, sự thiếu quan tâm đối với công tác nghiên cứu và phát triển, và một qui trình chính phủ có vẻ rối loạn chức năng. Mỹ phải đối phó với những vấn đề này bằng sự khéo léo và quyết tâm của mình thay vì chỉ biết đổ lỗi cho một quốc gia bị coi là thù địch. Mỹ phải cẩn trọng để khỏi lặp lại trong chính sách đối với Trung Quốc mô hình của các cuộc xung đột mà Mỹ đã tham gia – lúc đầu với sự hậu thuẫn của đông đảo quần chúng và với những mục tiêu rộng lớn, nhưng về sau phải kết thúc khi tiến trình chính trị Mỹ đòi hỏi một chiến lược rút quân tương đương với một sự từ bỏ, nếu không muốn nói một sự đảo ngược hoàn toàn, những mục tiêu của quốc gia đã được công bố.

Trung Quốc có thể tìm thấy trấn an trong chính thành tích bền bĩ chịu đựng của mình và trong sự kiện chưa bao giờ có một chính quyền Mỹ nào tìm cách thay đổi tình hình thực tế của Trung Quốc như một trong những quốc gia, những nền kinh tế, và những nền văn minh quan trọng của thế giới. Người Mỹ phải nhớ rằng thậm chí cả khi GDP của Trung Quốc có ngang bằng với GDP của Mỹ, thì nó sẽ phải được phân bố trên một dân số đông gấp bốn lần Mỹ, đang già nua, và đang nằm trong những chuyển biến nội bộ phức tạp được gây ra do sự tăng trưởng và tiến trình đô thị hóa của Trung Quốc. Hậu quả thực tế là, một phần lớn năng lực của Trung Quốc sẽ được dồn vào những nhu cầu trong nước.

Hai bên phải đủ cởi mở để có thể coi các hành vi của nhau như một phần bình thường của sinh hoạt quốc tế và không coi chúng như là lý do để sợ hãi. Xu thế tất yếu là hai bên sẽ va chạm lẫn nhau, nhưng không nên coi đó như là một nỗ lực cố ý để ngăn chặn hay thống trị, bao lâu mà hai bên còn có thể phân biệt rạch ròi như thế và chịu rà soát, điều chỉnh hành vi của mình một cách thích đáng. Mỹ và Trung Quốc không nhất thiết phải vượt lên trên sự vận hành thông thường của một cuộc thi đua giữa các đại cường. Nhưng vì trách nhiệm đối với chính mình, và với thế giới, hai nước phải cố gắng làm điều này.

H. A. K.

Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.

http://www.boxitvn.net/bai/35682
0