Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2020

Những hình ảnh lịch sử về chiến dịch Hồ Chí Minh

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử – chiến dịch quyết chiến, chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 – là mốc son chói lọi đánh dấu cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi.


Bộ đội lên máy bay vận tải vào miền Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn (tháng 4/1975). Ảnh: TTXVN.



Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại căn cứ Tà Thiết – Lộc Ninh (tháng 4/1975). Ảnh: TTXVN.


Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định đặt tên cho Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh với phương châm “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Trong ảnh: Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí trong Quân ủy Trung ương duyệt phương án tác chiến Chiến dịch Hồ Chí Minh (Hà Nội, 4/1975). Ảnh: TTXVN.


Đứng trước thời cơ chiến lược lớn với điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị, tháng 10/1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thảo luận kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN.


Quân Giải phóng chuẩn bị lực lượng trước giờ tổng công kích vào Sài Gòn – Gia Định với tinh thần “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” (26/4/1975). Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Xe tăng của Quân đoàn 1 vượt sông, chuẩn bị tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 2/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 1 vượt đường 16 tiến vào giải phóng Sài Gòn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Sư đoàn 312, Quân đoàn 1 đánh chiếm sân bay Ông Lĩnh – Bình Chuẩn, ngày 27/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Ngày 9/4/1975, các đơn vị bộ binh và xe tăng thần tốc tiến về giải phóng Xuân Lộc, “cánh cửa thép” – căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông Bắc. Ngày 21/4, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy, cửa ngõ vào Sài Gòn từ hướng Đông Bắc đã được mở. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Lực lượng tăng-thiết giáp của cánh quân phía Đông Bắc quân giải phóng vượt xa lộ Biên Hòa, phát triển đánh thẳng về Sài Gòn sau khi tấn công tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Biên Hòa. Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN.


Trên đường tiến về Sài Gòn, quân ta tiêu diệt nhiều xe tăng, xe bọc thép của địch. Ảnh: Hoàng Thiểm/TTXVN.


Ngày 9/4/1975, quân ta tiến công thị trấn Xuân Lộc, căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông Bắc. Ngày 21/4, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy, cửa ngõ vào Sài Gòn từ hướng Đông Bắc đã được mở. Ngay khi mất Xuân Lộc, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ảnh: TTXVN.


Lực lượng xe tăng và bộ binh Sư đoàn 320 đánh chiếm căn cứ Đồng Dù (Củ Chi), sáng 29/4/1975, mở cánh cửa thép Tây Bắc Sài Gòn để quân ta thọc sâu đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu Ngụy quyền Sài Gòn. Ảnh: Lê Trung Hưng/TTXVN.


Bộ đội Sư đoàn 320A (Quân đoàn 3) đánh chiếm căn cứ Đồng Dù ngày 29/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Sau 4 ngày đêm chiến đấu, đến sáng 30/4/1975, các đơn vị của Sư đoàn 304 đã chính thức tiêu diệt toàn bộ cứ điểm căn cứ Nước Trong (Long Thành, Đồng Nai) của địch, mở toang “cửa ngõ” cho lực lượng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu trong nội thành Sài Gòn. Đây cũng là một trong các trận đánh khốc liệt nhất của quân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Phi đội Quyết thắng tại sân bay Thành Sơn (Phan Rang) chiều 28/4/1975 sau khi tấn công sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Sư đoàn 5 chặn đánh địch trên Quốc lộ 4 Bến Lức – Long An, mở đường cho quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, ngày 29/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Xe tăng của Lữ đoàn tăng – thiết giáp 203, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975. Ảnh: Trần Mai Hưởng/TTXVN.


Cờ giải phóng tung bay trên sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30/4/1975. Ảnh: Quang Thành/TTXVN.


Xe tăng quân giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy, trưa 30/4/1975. Ảnh: Quang Thành/TTXVN.


Xe tăng và bộ binh quân giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, trưa 30/4/1975. Ảnh: Mai Hưởng/TTXVN.


Trung úy Bùi Quang Thận, Đại đội trưởng xe tăng 4 (cầm cờ, phía trước) cùng 3 chiến sĩ của Lữ đoàn Tăng – Thiết giáp 203, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến vào cắm cờ trên nóc Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn, trưa 30/4/1975. Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN.


Tổng thống Ngụy Dương Văn Minh cùng nội các ra trước Đài Phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, kết thúc chiến tranh Việt Nam, trưa 30/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường đón chào quân giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy, trưa 30/4/1975. ẢẢnh: Tư liệu/TTXVN.


Nhân dân Sài Gòn ra đường đón chào quân Giải phóng, ngày 30/4/1975. Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN.


Người Mỹ rời khỏi Việt Nam bằng máy bay trực thăng trên nóc một tòa nhà cách sứ quán Mỹ ở Sài Gòn 500m, ngày 29/4/1975. ẢẢnh: Tư liệu/TTXVN.

Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân Giải phóng và nguy cơ thất bại hiển hiện, Mỹ tiến hành chiến dịch di tản người Mỹ và những người Việt có liên hệ bằng trực thăng khỏi Sài Gòn (chiến dịch Gió lốc – Frequent Wind), bắt đầu từ sáng 29/4 và chấm dứt vào sáng sớm ngày 30/4/1975. Trong vòng gần 20 tiếng đồng hồ, đã có hơn 7.800 người được di tản khỏi Sài Gòn và cuộc di tản này đã trở thành một thảm họa đen trong lịch sử, một hình ảnh về sự thất bại toàn diện của Mỹ trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN.


Lực lượng xe tăng Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) được nữ chiến sĩ biệt động Nguyễn Trung Kiên (Cao Thị Nhíp) dẫn đường, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30/4/1975. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.


Cờ giải phóng tung bay trên sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 30/4/1975. Ảnh: Quang Thành/TTXVN.


Khoảnh khắc gặp lại mẹ của anh Lê Văn Thức, một trong 36 tử tù Côn Đảo trong ngày trở về đất liền, sáng 4/5/1975 tại Vũng Tàu. Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN.


Nhân dân thành phố Sài Gòn mít tinh chào mừng Ủy ban Quân quản thành phố ra mắt, ngày 7/5/1975. Ảnh: Minh Lộc/TTXVN.


Sáng 7/5/1975, hơn 50 vạn nhân dân thành phố Sài Gòn – Gia Định tổ chức mít tinh mừng thành phố hoàn toàn giải phóng và hoan nghênh Ủy ban quân quản thành phố ra mắt. Trong ảnh: Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh mừng Ủy ban Quân quản thành phố ra mắt 7/5/1975. Ảnh: Văn Bảo/TTXVN.

Sáng 15/5/1975, hàng triệu nhân dân Sài Gòn – Gia Định đổ về quảng trường trước trụ sở Ủy ban quân quản thành phố để dự Lễ mừng chiến thắng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, MTTQ Việt Nam tham dự buổi lễ trọng đại này. Ảnh: TTXVN.


áng 13/5/1975, các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục và quân, dân miền Nam ra sân bay Tân Sơn Nhất đón Chủ tịch Tôn Đức Thắng dẫn đầu Đoàn đại biểu BCHTƯ Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào dự Lễ mừng chiến thắng tại thành phố Sài Gòn. Trong ảnh: Đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng bộ miền Nam đón Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh: Văn Bảo/TTXVN.

Theo Vietnamplus
0

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2019

Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không


0

Chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tổng hợp

Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh trên chiến trường Đông Dương (1945–1979), bắt đầu ngày 1 tháng 11 năm 1955 khi Phái bộ Cố vấn và Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ (MAAG) được thành lập ở miền Nam Việt Nam và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

1. Chiến tranh Việt Nam (tài liệu PDF, Wikipedia)

2. Phim tài liệu của Mỹ: The Vietnam War (Vietsub)

3. Phim tài liệu: Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày

4. Phim tài liệu Việt Nam: Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không
0

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019

Thụy Điển: Một đế quốc hùng mạnh, chỉ vì xâm lược Nga mà mất tất cả

400 năm trước, quốc gia Bắc Âu từng là cường quốc quân sự, thậm chí đạt đến tầm của một đế quốc, nhưng một sai lầm khi xâm lược Nga đã khiến tất cả tan thành mây khói.


Trận Polatava giữa Nga và Thụy Điển năm 1709.


Nhắc tới Thụy Điển ngày nay, ai cũng nghĩ tới đồ nội thất IKEA, những vụ án giết người thế kỷ hay chính sách đối ngoại mang thiên hướng trung lập.

Ít người biết rằng cách đây khoảng 400 năm, Thụy Điển nổi lên là đế chế hùng mạnh, một cường quốc quân sự. Điều mà cho đến bây giờ, Thụy Điển không bao giờ có thể lập lại được.

Từng nổi danh là đế chế hùng mạnh

Thụy Điển nổi lên như một cường quốc châu Âu dưới thời Axel Oxenstierna và vua Gustavus Adolphus – người nổi tiếng là một chỉ huy quân sự đại tài. Thụy Điển ban đầu là một quốc gia nghèo, không có nguồn tài nguyên rộng lớn như Pháp hay Nga ở thời kỳ đó.

Vậy nên Gustavus Adolphus đã phải đề ra các hình thức chiến tranh linh hoạt hơn. Trong thời đại mà quân đội, bao gồm cả nông dân và lính đánh thuê được trả lương nghèo nàn, Adolphus vẫn xây dựng được một đội quân thường trực chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản.

Quân đội Thụy Điển chủ trương lấy chất lượng bù số lượng, đội hình thay đổi linh hoạt trước những kẻ thù đông đảo nhưng chậm chạp hơn. Giai đoạn thế kỷ 17 cũng là lúc các đội quân trên thế giới dần thay đổi từ kiếm và giáo sang súng và pháo.

Adolphus tỏ ra thức thời khi cho sản xuất hàng loạt vũ khí dùng thuốc súng. Hầu hết các loại pháo trong thời đại này đều có ít khả năng cơ động chiến trường, nhưng nhà vua Thụy Điển đã trang bị cho các đơn vị bộ binh của mình những khẩu pháo cơ động, có thể hỗ trợ binh sĩ trong suốt trận đánh.

Trong cuộc chiến tranh 30 năm (1618-1648), quân đội Thụy Điển tiến sâu xuống phía nam, chạm đến cả Prague, thủ đô CH Czech ngày nay và Vienna, thủ đô Áo ở miền trung châu Âu.

Một trong những trận đánh nổi tiếng nhất phải kể đến trận Breitenfeld vào tháng 9/1631. 23.000 quân Thụy Điển và 18.000 quân Saxon gần như quét sạch toàn bộ đội quân Đế quốc La Mã Thần thánh với 35.000 người. Ở trận đánh đó, Adolphus chỉ mất 5.500 quân.

Trong trận Lutzen năm 1632, Adolphus đánh bại đội quân Đế quốc La Mã Thần thánh, nhưng phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Adolphus sơ hở khi đích thân dẫn quân chiến đấu, bị trúng nhiều phát đạn và cuối cùng là một nhát đâm kết liễu mạng sống. Vị vua vĩ đại nhất của Thụy Điển qua đời khi mới 37 tuổi.

Đóng góp không nhỏ của Adolphus ở thời kỳ đầu giúp Thụy Điển giành chiến thắng cuối cùng vào năm 1648, kiểm soát vùng đất rộng lớn bao gồm cả lãnh thổ Đông Đức và Ba Lan, trở thành cường quốc quân sự ở châu Âu và khu vực Baltic.

Tất cả sụp đổ ở Nga

Để có thể duy trì sự cường thịnh của đế chế, năm 1708, vua Thụy Điển khi đó là Charles XII quyết định mở chiến dịch xâm lược Nga. Chiến dịch kết thúc tạo bước ngoặt lớn cho đế chế Thụy Điển, nhưng là theo chiều ngược lại.

Chiến dịch xâm lược Nga nằm trong cuộc chiến phương Bắc kéo dài từ năm 1700-1721, trong đó Thụy Điển đối đầu với một liên minh do đế quốc Nga đứng đầu.

Giống như cha ông, vua Charles XII nổi tiếng là người cai trị thông minh, hoạt bát, được mệnh danh là “Sư tử phương Bắc”. Nhưng đế quốc Nga khi đó cũng không kém cạnh, do Peter Đại đế nắm quyền. Peter Đại đế là người đưa nước Nga sang một trang mới, từ quốc gia rộng lớn nhưng nghèo khó, trở thành cường quốc châu Âu.

Sự nổi lên của Nga đe dọa lãnh thổ do Thụy Điển kiểm soát ở Đông Âu, đặc biệt là khu vực Baltic. Charles XII chủ động tiến quân trước, tiến vào lãnh thổ Nga năm 1708, bắt đầu chiến dịch chinh phạt lớn nhất trong cuộc đời.

40.000 quân Thụy Điển tham gia chiến dịch tuy không phải là quân số lớn, nhưng đều là những binh sĩ tinh nhuệ. Trong trận đánh ở nơi là Estonia ngày nay, 12.000 quân Thụy Điển đánh tan 37.000 quân Nga.

Nga hoàng Peter Đại đế ra lệnh tàn phá một vùng rộng lớn để Quân đội Thụy Điển không thể thu hoạch được gì bất kể họ tiến quân theo hướng nào. Dọc mọi con đường dẫn từ doanh trại Thụy Điển hướng về bắc, đông hoặc tây, quân Nga tạo một vành đai vườn không nhà trống dài gần 200km.

Charles XII tiến quân đến đâu, quân Nga lại dùng chiến thuật du kích, khiến quân Thụy Điển dần dần bị cô lập, không còn nhận được nhu yếu phẩm tiếp tế.

Năm 1709, đến thời tiết cũng quay lưng với vua Thụy Điển, đó là khi châu Âu trải qua đợt rét nhất trong 500 năm. Vùng lãnh thổ rộng lớn của Nga vô hình trung biến thành mồ chôn kẻ thù vì giá rét.

Hơn 2.000 binh sĩ Thụy Điển chết rét chỉ trong một đêm. Đến tháng 6/1709, đội quân chinh phạt của Thụy Điển chỉ còn lại 20.000 người và 34 khẩu pháo.

Trong trận quyết định ở nơi ngày nay là Ukraina, Peter Đại đế đem tới 80.000 quân ra nghênh chiến. Ưu thế quá lớn về số lượng và cả tinh thần chiến đấu đã tạo cơ hội để Peter Đại đế đập tan quân Thụy Điển, gây tổn thất tới 19.000 người.

Nga cũng tổn thất nặng nề, nhưng nhờ ưu thế sân nhà nên có thể dễ dàng củng cố lực lượng, còn Charles XII thì không. Kết cục là Charles XII rời Nga với 543 người còn lại.

Thụy Điển cũng mất luôn lãnh thổ ở Baltic và không bao giờ lấy lại được sức mạnh như xưa. Các nhà sử học sau này đều đồng ý rằng, trận Poltava ở Ukraina năm 1709 đã khiến cho “kỷ nguyên đế quốc” của Thụy Điển kết thúc một cách đột ngột. Những năm cuối đời Charles XII điên cuồng chống Nga và chết ở tuổi 36 trong một chiến dịch vào năm 1718.

3 năm sau, vua mới của Thụy Điển buộc phải ký hòa ước Nystad, đồng ý công nhận các vùng lãnh thổ chiếm được trước đây, nay thuộc về Nga, bao gồm vùng Baltic và phía nam Phần Lan.

Theo DÂN VIỆT
0

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2019

Trần Ích Tắc là siêu gián điệp nhà Trần cài cắm vào Trung Hoa?

Đối với kẻ phản bội quá rõ ràng như Trần Ích Tắc thì tại sao không xoá tên khỏi tông thất mà vẫn để là Ả Trần? Nhà Trần vốn rất mạnh tay với kẻ thực sự phản bội như Trần Di Ái, tại sao có thể để Ích Tắc yên ổn sống bên Trung Quốc nhiều năm?



Bài viết mang tính giả thuyết của một thành viên trên diễn đàn Lịch Sử Việt Nam.

Mình có một vấn đề thấy thắc mắc lắm nên mới tạo topic này muốn cùng mọi người thảo luận, đây là ý cá nhân của mình không phải nghiên cứu gì đâu nhưng mình dựa theo tâm lý một con người mà cảm nhận thấy thế, mình thấy trong vụ phản quốc của Trần Ích Tắc có gì đó bất ổn nên nghi ngờ thật ra làm phản hay là gián điệp thầm lặng đây.

Ông ấy rất tài giỏi, thì tất phải hiểu chuyện, ông còn từng mở trường đào tạo nhân tài để lại cho nhà Trần sử dụng và bao ăn ở nên không thế nói là chỉ nghĩ tới danh lợi bản thân được, ngôi báu truyền cho trưởng tử là tất nhiên có gì mà ganh tỵ, nếu là người bất tài hám vinh thì không nói nhưng ông rất có tài không lý nào không hiểu, càng không thể không hiểu đạo lý cõng rắn cắn gà nhà, nhất là dòng máu yêu nước của người việt rất cao lúc đó, và chính vì cái tài đó của ông mà mình có suy nghĩ khác,lịch sử cho ông là kẻ phản quốc nhưng không biết sự thật có đúng vậy không, mình cứ cảm thấy ông ấy có vẻ như hy sinh bản thân mang tiếng là phản quốc để làm gián điệp tay trong khiến nhà Nguyên tin tưởng, bởi vì làm tay trong cần người tài giỏi thông minh,quyết đoán, làm tay trong không phải chuyện dễ dàng.

Để đạt được chiến thắng trong cuộc chiến không phải chỉ cần các chiến sĩ đánh trận là được mà còn cần tới các tay trong, gián điệp, những người hy sinh bản thân mang tiếng phản quốc để hoàn thành sứ mệnh, những tay trong này sẽ hy sinh thầm lặng bị người phỉ nhổ chỉ cần làm việc có ích cho đất nước là họ mãn nguyện rồi, có không ít người đã hy sinh mình làm những việc đó mà cam tâm bị lịch sử phỉ nhổ thì sao, chính vì Trần Ích Tắc quá tài giỏi mà có thể ông được chọn cho nhiệm vụ này thì sao.

Về việc đi hàng của Trần Ích Tắc thì mình còn thấy là sau khi ông ấy đi hàng giặc thì giặc bắt đầu bị thua thảm hại, lần sau chuẩn bị tốt hơn nhưng thua thảm hơn lần trước, trong khi trước khi Ích Tắc đi hàng thì nhà Trần thua thảm hại đến nỗi An Tư bị hiến cho Thoát Hoan. Nhưng vấn đề mình thấy thêm ở đây chính là An Tư người con gái có công rất lớn nhưng bị lãng quên, theo mình thấy không phải nhà Trần quên mà là vì bảo vệ An Tư, cô ấy không chết mà sống ở đất Bắc nên nếu nêu công là kết án tử cho cô ấy.

Thêm nữa là mình thấy An Tư cũng chính là một gián điệp của nhà Trần làm chậm bước tiến công của quân Nguyên, nhưng cô ấy thân gái một mình sẽ làm được gì đây, vì thế đây chính là nguyên nhân Trần Ích Tắc ra hàng nhằm hỗ trợ cho An Tư.

Nước ta vốn yếu hơn nước Nguyên phải nói là kiến so với voi nên phải có gián điệp tham gia trực tiếp vào quân Nguyên mới được vì thế Trần Ích Tắc là người sáng giá nhất cho việc này, ông là người thông minh nhưng giỏi văn không giỏi võ, ông không thể giúp cho đất nước nếu đi đánh giặc trực tiếp nên phải dùng trí thông minh làm một chuyện có ích khác, với vị trí là Chiêu Quốc Vương thì ai cũng đoán được là nhà Nguyên sẽ chơi chiêu cũ với Trần Di Ái là đưa ông lên làm An Nam Quốc Vương, với vị trí này ông đương nhiên ít nhiều sẽ được tham gia trực tiếp vào nội bộ giặc Nguyên và đưa thông tin về cho nhà Trần vì thế nhà Trần liên tiếp nhận tin giặc đi đâu về đâu mà chuẩn bị đón đánh.

Nhất là trận Bạch Đằng có lịch sử Ngô Quyền để lại thì không ai dạy đâm đầu vô đó nếu không có ai đó khích lệ ngầm và Trần Quốc Tuấn càng không ngồi chuốt chông rồi đi cấm ở đó như thế mà không biết giặc sẽ chạy vô đó, việc dựng chông này vất vả chứ chả chơi. Trần Quốc Tuấn còn tự tin tuyên bố rằng năm nay đánh giặc nhàn khi quân Nguyên chuẩn bị tốt hơn để tấn công lần 3, ông ấy sao tự tin thế chứ.

Có thêm một chuyện nhỏ là sứ thần nước ta có sỉ nhục Ích Tắc khi gặp ông ở bên đó nhưng ông chả nói gì mà còn tránh mặt nữa, người ta nói thẹn quá hoá giận nên nếu ông đã bỏ tất cả để phản quốc vì danh lợi mà gặp thế thì chả nổi khùng lên rồi dù sao cũng từng là hoàng tử mà với lại đâu gì khẳng định lúc đó quân Nguyên không đánh thêm lần 4 và thắng thì sao lúc đó ông sẽ là vua mà sao chấp nhận một sứ thần sỉ vả thế.

Dù không thắng cũng thể hiện thể diện chứ sao lại không nói gì và tránh mặt, đó không giống xấu hổ mà là muốn tránh đi thôi, ông không muốn xích mích với dân tộc mình, chỉ trời hiểu ông mà thôi như câu thơ của ông ấy.

Đối với kẻ phản bội quá rõ ràng như Trần Ích Tắc thì tại sao không xoá tên khỏi tông thất mà vẫn để là Ả Trần, nhà Trần vốn rất mạnh tay với kẻ thực sự phản bội như Trần Di Ái là giết không tha kia mà, tại sao có thể để ông ấy yên ổn sống bên Trung Quốc nhiều năm, chẳng lẽ ám sát cũng không làm được sao, tại sao con trai ông là Trần Hữu Lượng lại lãnh đạo đội quân chống Nguyên, Minh lúc đó, tại sao Trần Hữu Lượng cầu sự giúp đỡ từ nhà Trần?

Mấy câu thơ khác thì không biết nhưng Trần Ích Tắc có câu này:

Bỏ nước ra đi nhớ tự ngày
Lòng trung canh cánh có trời hay.


Mình cứ thấy cái câu này là ông ấy vẫn nhớ quê hương nhưng lòng trung canh cánh có trời hay, ông không ngu ngốc để không hiểu phản quốc nghĩa là gì đó chứ sao còn than là lòng trung chỉ có trời hay, vì thế mình cứ thấy ông ấy có vẻ không ổn lắm, có thật ông phản quốc hay làm gian điệp đấy,nếu ông thật làm gián điệp thì đúng là chỉ có trời mới hay mà thôi và nếu làm rồi thì không có đường lui nữa,ông ở lại đó chắc cũng có mục đích gì nữa thì sao.

Còn chi tiết nhỏ nữa là nếu Trần Ích Tắc thật sự phản bội tại sao vua Trần Thái Tông lại tung ra tin đồn về việc mình nằm mơ cố ý muốn bào chữa cho Trần Ích Tắc: “Trước kia, khi Ích Tắc chưa sinh, Thái Tông mộng thấy thần nhân ba mắt từ trên trời xuống, nói với Thái Tông rằng, thần bị thượng đế quở trách, xin thác sinh làm con vua, sau lại sẽ về phương Bắc. Đến khi Ích Tắc sinh, giữa trán có cái vết lờ mờ như hình con mắt, hình dáng giống hệt người trong mơ”.

Đã là kẻ phản bội không chửi thì thôi sao nhà Trần có vẻ nhiều lần bao che như vậy, vì thế mình mới giả thuyết về việc có thật ông ấy phản bội hay có mục đích khác phải làm, các bài thơ của ông luôn hiện rõ việc nhớ về đất nước của mình nhưng ở bên nhà Nguyên lại cố gắng xu nịnh họ, nếu với tính cách ỷ tài kiêu ngạo coi anh mình không ra gì, luôn nhòm ngó ngôi vua như sử miêu tả sẽ đủ nhẫn nhục làm được cái việc hèn kém đó sao.

Nhà Trần toàn là nhân sĩ yêu nước có tính cách như Trần Bình Trọng thà chết chứ không làm vương đất bắc hay Trần Quốc Toản còn trẻ mà thà chết cũng vẫn ra trận giết địch thì một người như Trần Ích Tắc tài giỏi lại không thấy được mình sẽ giúp nước như thế nào hay sao mà lạ nhất là ông nhận chức đại tướng quân nhưng mới thua có một trận đã phất cờ đầu hàng rồi, cứ thấy cái việc ông làm với cái tính cách mà lịch sử miêu tả về ông nó tỷ lệ nghịch nhau sao ấy.

Chi tiết quan trọng nữa là Ích Tắc là dòng thứ không phải chính do Thuận Thiên Hoàng Hậu sinh ra, biết chắc là ngôi vua không có cửa rồi thì ghen tỵ làm gì , nếu như có cửa thì Trần Thủ Độ đâu quậy um sùm vụ cướp vợ của Trần Liễu làm gì, đem đại đứa con thứ phi lên làm vua cho không mang tiếng rồi.

Vụ đó um sùm ai cũng có cái gai thì một người con thứ như Ích Tắc sao có cửa làm vua mà ganh tỵ cái gì, muốn ganh thì ít ra cũng có cái cửa chứ, như Quang Khải mà ganh thì có lý hơn ấy, chính vì vụ cướp vợ ấy mà phủ nhận vụ ganh tỵ rồi, với lại nói tới thông minh thì Ích Tắc chỉ là một trong những người thông minh thôi đâu phải xuất sắc lắm đâu mà tự cao, riêng vụ ngoại ngữ thôi là thua Nhật Duật rồi.

Với lại nếu thông minh và thêm quân đội hùng mạnh của Nguyên thì làm gì Nguyên thua thảm vậy, nhất là bại rất nặng tại Bạch Đằng trong khi nơi đó Ngô Quyền từng dùng rồi, nếu không có nguồn tin sai hay có người cố tình dụ vô đó thì đã không thảm bại như vậy, vì quân ta yếu có gián điệp là điều tất nhiên, còn phải ở bên trong ngầm phá hoại nữa mới thắng được, mà những gián điệp này phải chịu người ta coi thường nhưng họ cam tâm tình nguyện.

Có thể nhà Trần cảm thấy có lỗi nhưng không thể làm khác hơn vì thế không xóa tên khỏi họ hay đổi họ ông như những kẻ phản thật sự và để lại trong dân gian một giấc mộng ông là vị thần 3 mắt bị nạn nên ở lại phương nam khi lớn sẽ về bắc, nhà Trần rất nghiêm trong việc xử phạt nên không thể nào bào chữa cho phản quốc thành vị thần được và việc đó không cần thiết, bởi vì đưa ra một vị thần sẽ giảm nhẹ đến mức thấp nhất tội phản quốc này, còn chuyện giấc mơ vị thần 3 mắt đó chắc chắn là “bịa” của nhà Trần chứ làm sao mà mơ kiểu đó được, đã “bịa” còn đưa vô sử nữa là có dụng ý gì đây.

Điều cuối cùng mình muốn nói là sự thù ghét của người ra đi, của kẻ phản bội, ai cũng biết ngày xưa nhiều người của Việt Nam Cộng Hoà ra đi không vì họ phản quốc hay bị đuổi mà là tự họ chọn ra đi. Ông nội mình từng là giám đốc IBM có máy bay đưa đi mà ông không đi mà lựa chọn ở lại đất nước.

Cho nên lúc đó không ai ép họ ra đi cả cũng không ai nói họ phản quốc và đất nước luôn chào đón họ trở về trong hoà bình nhưng ai cũng biết các thế lực phản động luôn tìm mọi cách sỉ nhục, chửi mắng Việt Nam Cộng Sản.

Vậy thì cứ liên tưởng đến một người bị cả dân tộc mắng là phản quốc càng không chào đón Ích Tắc trở về nhưng ông không hề tỏ bất kỳ thái độ thù địch gì với nhà Trần cả, trong thơ của ông luôn chứa đựng sự nhớ quê hương chứ không có chửi ẩn chửi ngầm hay bêu xấu gì nhà Trần hết, vì nếu mà đi bêu xấu thì chắc nhà Trần không cần tới người ta đặt điều đâu, chuyện xấu cũng nhiều lắm rồi, gia tướng theo ông còn sưu tầm thơ của vua Trần nữa mà.

Thêm vụ Trần Hữu Lượng chống Nguyên nữa và gia tướng của ông có đề cập đến người con gái họ Trần sinh cho thái tử Thoát Hoan 2 người con chưa rõ phải An Tư không nhưng không phải thì viết làm gì, vậy là ông cũng luôn ở bên An Tư đấy thôi. Vậy ông có thực sự là phản đồ của nước ta hay không khi nhà Trần luôn tránh đi việc xử nặng Ích Tắc và quên lãng An Tư?

Chân dung Trần Ích Tắc trong lịch sử

Trần Ích Tắc (1254-1329) là con của vua Trần Thái Tông, em vua Thánh Tông, chú của vua Nhân Tông nhà Trần nước Đại Việt, tước hiệu là Chiêu Quốc Vương, phong tháng 5 năm 1267.

Đại Việt Sử ký Toàn thư (ĐVSKTT) có viết Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng [Trần Thái Tông], thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v… gồm 20 người, đều được dùng cho đời…Đến 15 tuổi, thông minh hơn người, làu thông kinh sử và các thuật, vẫn còn có ý tranh đoạt ngôi trưởng đích. Ích Tắc đã từng gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam. Đến nay [1285], người Nguyên vào cướp, Ích Tắc xin hàng để mong được làm vua.

Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1285), ngày 15 tháng 3, Ích Tắc đem cả gia đình đi hàng giặc, được đưa về Trung Quốc và được Hốt Tất Liệt, vua nhà Nguyên, phong làm An Nam Quốc vương và chờ ngày đưa trở về nước.

Sau khi quân Nguyên Mông đại bại, Trần Ích Tắc ở lại Ngạc Châu (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc), giữ chức quan Hồ Quảng bình chương chính sự, gia phong tới Ngân Thanh vinh lộc đại phu rồi Kim tử quang lộc đại phu, nghi đồng tam tư và chết ở Trung Quốc mùa hè năm Thiên Lịch thứ 2 (1329) đời Nguyên Văn Tông, thọ 76 tuổi. Năm Chí Thuận thứ nhất (1330) được nhà Nguyên truy tặng tước Trung Ý vương.

Vì sự phản bội này mà sau này nhà Trần đã loại Ích Tắc ra khỏi tông thất, cho đổi tên thành Ả Trần. Việc này cũng được ghi lại trong ĐVSKTT: [1289], tháng 5, sau khi đánh thắng quân Nguyên lần thứ ba, bắt được cả một hòm biểu xin hàng. Thượng hoàng [Trần Thánh Tông] sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc.

Chỉ có kẻ nào đầu hàng trước đây, thì dẫu bản thân ở triều đình giặc, cũng kết án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử hình, tịch thu điền sản, sung công, tước bỏ quốc tính. Ích Tắc là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy. Vì thế, những ghi chép đương thời đều gọi là Ả Trần….
.
Theo PURPLEROSE2312 / LICHSUVN.NET
0

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2019

Vụ buôn lậu vô tiền khoáng hậu của phu nhân Tổng thống Thiệu

Một vụ buôn lậu với nhiều loại mặt hàng xa xỉ trên thị trường lúc đó: Rượu, thuốc lá, đồng hồ… với lượng lớn được di chuyển từ biển Gò Công về Sài Gòn.



Điều đáng nói là vụ buôn lậu này do một nhân vật có quyền lực tối cao trong chế độ Sài Gòn cũ, chính vì thế, hoạt động buôn lậu cũng có xe còi hụ dẫn đường và chuyên chở trên những chiếc xe quân vụ. Nếu không bị phát hiện thì đường dây này sẽ mãi chìm váo bóng tối. Vụ việc gây chấn động Sài Gòn và cả thế giới quan tâm tới chính trường Sài Gòn lúc đó, khi Mỹ đứng sau giật dây chính quyền Sài Gòn. Sau khi vụ việc bị phát hiện, cách hành xử của Sài Gòn cũng hết sức “đặc biệt” để bưng bít vụ buôn lậu vô tiền khoáng hậu này.

Một con đường buôn lậu trên biển, sau đó chuyển về Sài Gòn bằng đường bộ và để qua mắt cú vọ là báo chí và dân đen thời bấy giờ, bọn buôn lậu đã sử dụng luôn những chiếc quân xa, có còi hụ dẫn đường. Vụ việc bất ngờ bị phát giác khi hai viên sỹ quan lo ngại về đoàn quân xa “phóng nhanh vượt ẩu”, trong khi Phủ đầu rồng lại có lệnh kiểm soát nghiêm ngặt vì nghi ngại đảo chính.

Sự thật phía sau những đoàn xe quân sự

Trước khi đi vào chi tiết vụ buôn lậu từng chấn động Sài Gòn này, chúng tôi muốn nói một chút về Nguyễn Văn Thiệu và đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh. Bởi chính sự hậu thuẫn và quyền lực của chính quyền Thiệu mà bà Mai Anh có đủ quyền để thực hiện những phi vụ này trót lọt.

Ngay từ giữa những năm 60 thế kỷ trước, Mỹ đã nhận thấy Nguyễn Văn Thiệu là một trong những quân bài mới trong ván bài đang dang dở ở miền Nam Việt Nam. Chính vì thế, Mỹ đã hỗ trợ rất nhiều để Thiệu và đảng Dân chủ do ông ta lập ra chiếm được thế thượng phong trên chính trường Sài Gòn.

Và sự thực đến ngày 4/9/1967, trong cuộc bầu cử giả hiệu, Thiệu đã liên danh với Nguyễn Cao Kỳ dù chỉ giành được 34,8% số phiếu bầu của các cử tri, nhưng vẫn trở thành tổng thống của cái gọi là nền đệ nhị cộng hòa.

Thiệu đã hậu thuẫn rất mạnh mẽ cho vợ mình cùng các đàn em mua bán hàng lậu, thu về những khoản lợi nhuận kếch xù. Sau này, khi vụ việc tại Long An được phát giác và cách hành xử của Thiệu sau đó, người ta mới té ngửa về sự hậu thuẫn đó như thế nào.

Đệ nhất phu nhân có tên thật là Nguyễn Thị Mai Anh – con gái thứ bảy trong một gia đình có tới 12 anh em. Gia đình bà có nghề y truyền thống nổi tiếng ở TP. Mỹ Tho, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay). Đây cũng là cơ sở cho bà Mai Anh thực hiện việc buôn bán của mình được thuận lợi. Là người theo đạo công giáo toàn tòng, nhưng bà Mai Anh ảnh hưởng khá lớn từ nếp gia phong của một gia đình phong kiến. Mỹ Tho thời ấy cũng không xa Sài Gòn, đặc biệt có tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho và ngược lại hết sức thuận lợi.

Ông Nguyễn Khánh Linh, một người nghiên cứu về Sài Gòn xưa cho biết, khi đương là đệ nhất phu nhân, bà Mai Anh được nhiều người nhận xét là có khuôn mặt phúc hậu, thường quan tâm đến người khác. Đồng thời, bà cũng lập ra nhiều quỹ, trung tâm bảo trợ xã hội… Sau này, người ta mới biết được rằng, những quỹ, trung tâm đó là một trong những tấm bình phong cho các hoạt động buôn lậu của bà và đàn em.

Đặc biệt, sau khi vụ Long An bị phát giác vào năm 1974, trước khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước 1 năm. Vào những năm trước giải phóng, tình hình miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn hết sức ngổn ngang. Chính vì vậy, nạn buôn lậu, đặc biệt là bạch phiến, cướp giật… diễn ra như cơm bữa. Thi thoảng nhà chức trách lại phát hiện hay tóm cổ vài ba tên đầu sỏ cho vào nhà đá. Tuy nhiên, đó là những tên tác chiến độc lập, không có ô dù che đỡ, còn khó khăn chính là nạn buôn lậu do những người cầm quyền thực hiện. Đến nay, những nghi án về đường dây buôn lậu “an toàn nhất thế giới” do Ngô Đình Nhu cầm đầu vẫn còn được bàn tán nhiều. Bên cạnh đó, vụ của bà Mai Anh là rõ ràng hơn cả.

Ông Trần Nguyễn Hoa, năm nay đã ngoài 70 tuổi, ngụ tại Chợ Lớn, TP.HCM cho biết, thời ấy, ở miền Nam không có tình trạng buôn lậu qua biên giới Tây Nam. Con đường nhập hàng lậu chủ yếu từ tàu biển đậu ở ngoài khơi dùng các thuyền đưa vào đất liền. Bà Mai Anh cũng đã biến cung đường này thành một con đường “tơ lụa” hết sức chặt chẽ. Theo đó, từ biển Gò Công, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) khi các tàu lớn neo đậu tại đây, sẽ có những chiếc thuyền nhỏ của Định Tường nối đuôi nhau ra nhận hàng chở vào Mỹ Tho. Từ Mỹ Tho, theo đường 4 (QL1A ngày nay) hàng được đưa về Chợ Lớn trên những chiếc GMC (xe nhà binh) có còi hụ và quân cảnh dẫn đường. Chính vì thế, những chiếc chiến xa này cứ ào ào chạy bạt mạng, dân thường không dám đụng tới. Cảnh này cũng thường thấy trên đường, dân thường chỉ biết nhường đường. Với cách làm này, việc buôn lậu an toàn đến mức tuyệt đối, không ai nghĩ rằng, đoàn xe quân sự lại đi buôn hàng lậu.

Cuộc truy đuổi chặn bắt như trong phim

Theo ông Trần Hoàng, chủ bút một tờ báo trước giải phóng, đoàn xe gồm hàng chục chiếc quân xa thuộc Quân vận vùng 3, xe tới đâu là còi inh ỏi để báo cho các trạm biết rằng, đây là đoàn xe ưu tiên, không được chặn, xét. Nếu trường hợp là xe chở vũ khí, đạn dược, nhiên liệu quan trọng thì còn có cả phi cơ L19 (thời ấy hay gọi là máy bay bà già) bay rề rề trên không để thám thính và phòng ngừa phục kích. Khoảng 15h ngày 31/1/1974, có một đoàn xe GMC phủ bạt, mở đèn chạy từ TP. Mỹ Tho, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) theo đường 4 về Sài Gòn. Dẫn đầu là chiếc Jeep của Quân cảnh thuộc Biệt khu Thủ đô có treo cờ 3 que. Khi đoàn quân xa do đại úy Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Quân cảnh thuộc Biệt khu Thủ đô dẫn đầu tới trạm kiểm soát hỗn hợp gồm quân cảnh và cảnh sát ở Long An thì có chuyện xảy ra.

Mặt trời cũng đã xế bóng, tuy nhiên nhìn vẫn còn tỏ mặt người, lúc này, trong trạm kiểm soát của Quân cảnh Long An chỉ có 2 viên hạ sỹ. Ông Hoàng cho biết thêm, hai tên này không lạ gì đại úy Nhiều và thấy rõ mặt đại úy Nhiều ngồi trên xe. Theo lời 2 tên này, có vẻ như đại úy Nhiều đã xỉn. Về sau, khi đứng trước Ủy ban điều tra, hai viên sỹ quan này khai rằng, ngay lúc đó họ đã thi hành phận sự, thổi còi chặn đoàn xe lại nhưng đoàn xe không dừng. Chính vì đoàn quân xa cứ lao như điên cho nên họ không khỏi lo lắng cho phận sự và trách nhiệm của mình. Dù biết rằng, đoàn quân xa có quân cảnh mở đường hợp lệ, kể cả việc đại úy Nhiều chễm chệ trên xe nhưng đoàn tùy tùng lại hết sức nhốn nháo, có cả quân nhân và dân sự. Nhiều người ăn mặc lôi thôi, nhếch nhác, trong khi đó, tốc độ của các quân xa là quá nhanh khi qua trạm gác. Lúc này, họ cũng nhớ tới nghiêm lệnh của Phủ Tổng thống là phải kiểm soát chặt chẽ kể cả những đoàn quân xa khả nghi tiến vào đô thành. Đây là biện pháp nhằm phòng ngừa âm mưu đảo chính của Phủ đầu rồng.

Trong khi hai viên sỹ quan đang phân vân, thì đoàn quân xa đã đi mất hút tầm nhìn của họ. Lập tức, họ gọi cho chỉ huy trưởng trực tiếp là trung úy Thọ. Nghe tin giật mình, Thọ cũng tá hỏa, chưa biết đối phó thế nào cho ổn. Không có cách nào khác, Thọ gọi báo khẩn lên thượng cấp là đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An để xin chỉ thị. Không khỏi lo ngại, đặc biệt là chiếc ghế mình đang ngồi, nếu có chuyện gì xảy ra, thế nên, đại tá Năm cũng cấp tốc điện cho thuộc cấp là quận trưởng Bến Lức để chặn đoàn quân xa. Tuy nhiên, ông này cho biết, đoàn quân xa đã vượt qua trạm, lúc này mối lo sợ càng lớn hơn làm cho đại tá Năm bàng hoàng lo lắng. Đại tá Năm lập tức gọi chọ quận trưởng Gò Đen, chốt chặn cuối cùng vào Sài Gòn, bằng mọi giá phải chặn cho được đoàn quân xa này.

Lúc này, được biết, đoàn quân xa đang di chuyển đến đoạn giữa Bến Lức và Gò Đen, được lệnh khẩn của cấp trên, quận trưởng Gò Đen ngay lập tức chỉ thị cho các binh sỹ và các lực lượng nhân dân tự vệ trong vùng đem các chướng ngại vật ra đặt chặn ngang đường. Đồng thời, còn cho lính tráng đem dây thép, kẽm gai giăng kín cả lối đi. Dân chúng trong khu gia binh gần đó, biết tin cũng hùa vào đem bàn ghế ra chặn đường. Cảnh tượng diễn ra như phim hành động.

Vén màn bí mật

Ông Nguyễn Khánh Linh, một nhà nghiên cứu về Sài Gòn xưa cho biết, sau khi dựng, giăng chướng ngại vật, đoàn xe do đại úy Nhiều trờ tới và bắt buộc phải dừng lại. Tuy nhiên, tên quận trưởng Gò Đen cũng không dám xét hỏi, chỉ biết gọi cho đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng tỉnh Long An xin chỉ thị. Thế là, mặc dù trời đang phủ bóng đêm nhưng đại tá Năm cùng đoàn xe hộ tống cũng phải cấp tốc lên đường đến Gò Đen để làm rõ vụ việc. Có lẽ vụ việc sẽ êm xuôi, nếu không có sự cố bất ngờ diễn ra trước khi đại tá Năm đến.

Theo đó, trong thời gian chờ đại tá Năm đến để giải quyết thì đoàn quân xa vẫn nằm bất động và được bịt bạt kín mít. Nhưng đám binh lính gác trạm tò mò đã gỡ bạt ra xem. Khi thấy đoàn xe chở toàn rượu, thuốc lá, đồng hồ… hàng hiệu, đám binh lính này hoa cả mắt. Nổi lòng tham, toán lính mở bạt, nhảy lên hôi của lậu. Lúc đầu, chỉ một số tên lính thực hiện trót lọt việc ăn cắp hàng, sau đó tin“ngon ăn” này lọt đến tai đám gia binh, cả đám nháo nhào nhảy vào hôi đồ lậu. Cảnh tượng tranh giành nhau hôi của diễn ra như vụ cướp thực thụ.

Ông Trần Nguyễn Hoa, nay đã ngoài 70 tuổi, ngụ tại Chợ Lớn, TP.HCM cho biết thêm, sau khi kiểm đếm lại, người ta ước tính số hàng này đã mất đi khoảng một nửa. Trong tình huống hoảng loạn và màn đêm buông xuống, đám mặc thường phục cũng nhảy khỏi xe quân xa và mất dạng trong bóng đêm. Cảnh hỗn loạn chỉ chấm dứt khi đại tá Năm cùng đoàn tùy tùng đến nơi.

Lúc đó, vào khoảng 21h. Dù vậy, sau khi hỏi chuyện, đại tá Năm cũng không biết xử trí như thế nào cho phù hợp. Buộc lòng, đại tá Năm phải gọi khẩn báo cho trung tướng Phạm Quốc Thuần, Tư lệnh Quân đoàn 3. Trong lúc nói chuyện qua điện thoại, tướng Thuần cũng không dám ban hành một chỉ thị nào cho đại tá Năm để giải quyết vụ việc. Thay vào đó, tướng Thuần cho biết sẽ báo cáo vụ việc lên Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng Tổng thống để xin ý kiến. Ngay sau đó, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và vợ chồng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã biết chuyện làm ăn đổ bể, dù đã tính đến cả phương án tối ưu.

Theo ông Trần Hoàng một chủ bút thời đó thì mỗi dịp lễ tết, Phủ đầu rồng lại đồng thời ban hành những chỉ thị đặc biệt và lưu ý những đơn vị chỉ huy quân sự địa phương từ trên xuống dưới phải canh chừng cẩn mật, nếu có gì khả nghi ở địa phương nào thì phải cấp tốc báo cáo lên cấp trên để kịp thời xử lý. Ai lơ là nhiệm vụ thì sẽ xử lý nghiêm theo quân lệnh. Vì thế để cho chắc ăn, đường dây buôn lậu này đã sử dụng thêm xe quân cảnh, có còi hụ dẫn đường. Điều đó đảm bảo chắc chắn rằng, đây là đoàn xe công vụ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không có trạm nào được xét hỏi, dừng xe. Với đường dây của Nguyễn Thị Mai Anh thì đặc biệt có đoàn xe quân cảnh trực thuộc Tiểu đoàn 6 Quân cảnh, Biệt khu Thủ Đô, dưới quyền chỉ huy của trung tá Nguyễn Văn Phần (còn gọi là Văn Phan).

Nguồn gốc hàng lậu?

Ông Trần Hoàng cho biết, vụ việc buôn lậu đổ bể giữa đường, báo chí Sài Gòn thời bấy giờ một phen được hả hê. Bởi từ trước cho tới khi vụ việc bị phát giác, cánh báo chí luôn bị bưng bít thông tin, đặc biệt những chuyện làm ăn của các phu nhân của tổng thống, thủ tướng… Ông Trần Hoàng cho biết thêm, vụ buôn lậu được phát hiện tại Long An mà thời đó, cánh báo chí chúng tôi đặt tên là “vụ còi hụ Long An” có quy mô rất lớn, có sự tham gia của nhiều đơn vị, thuộc nhiều binh chủng khác nhau.

Đầu tiên, báo chí quan tâm nhiều nhất là xem ai đứng đằng sau vụ việc, rồi đến nguồn hàng này từ đâu chuyển về Việt Nam với lượng lớn như trên. Báo chí cũng điều tra ra được, hàng vào Việt Nam bằng đường thủy và thường vào một khung giờ quy định. Theo đó, con tàu Panama vào biển Việt Nam lúc trời tối, đồng thời, ở đây đã có sẵn một số lực lượng Giang Đoàn (lính thủy) của TP. Mỹ Tho chờ sẵn và chịu trách nhiệm chuyển vào đất liền. Những kiện hàng này được vận chuyển về một kho chứa tại Chợ Gạo, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay). Công tác bốc dỡ hàng hóa phải kết thúc vào khoảng trưa hôm sau. Còn trong quá trình vận chuyển về Chợ Lớn phải “me” lúc trời tối đến Phú Lâm (cửa ngõ vào trung tâm Sài Gòn) là vừa. Như vậy sẽ tránh được sự dòm ngó, đặc biệt là cánh báo chí.

Tại khu vực kho hàng ở Chợ Gạo, người ta thường thấy nhiều chiếc GMC thuộc Quân vận vùng 3 “cắm”. Số quân xa này được đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá Trần Quốc Khang. Điều đáng nói ở đây là địa điểm chứa hàng lậu là Chợ Gạo, TP.Mỹ Tho của tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) thuộc vùng 4 chiến thuật nhưng đoàn quân xa chuyên chở hàng từ Chợ Gạo về Chợ Lớn lại là những chiếc quân xa thuộc Quân vận khu 3. Ngay cả quân cảnh mở đường cho đoàn quân xa chở hàng lậu cũng thuộc quân khu 3. Rồi đến địa điểm xuống hàng lậu và đem phân phối tại thị trường cũng thuộc lãnh thổ quân khu 3, do Biệt khu Thủ Đô đảm trách. Nhiều người cho rằng, đã có sự thỏa hiệp của những ông bà trùm để không xảy ra những tranh chấp.

Cũng theo ông Linh, lúc đó, dư luận cũng quan tâm đến chuyện những “trùm” ở Phủ đầu rồng buôn bán những mặt hàng gì? Khi được công bố, nhiều người mới té ngửa vì có quá nhiều mặt hàng xa xỉ phẩm, đắt tiền, đặc biệt là để bán dịp Giáng sinh và Tết: Các loại rượu quý: Cognac, Martel, Whisky, Champagne… Các loại thuốc lá thơm: Caraven “A”, 555, Marlboro… Các loại quần áo, hàng vải, tơ lụa; giày vớ của Pháp, Ý… Các loại đồ chơi điện tử của Nhật; Đồng hồ hiệu: Omega, Longine, Rolex, Senko, Certina… Các loại bánh kẹo nổi tiếng của Anh, Hà Lan, Đan Mạch… Tổng số hàng này trị giá khoảng hơn nửa tỷ đồng tiền Việt Nam lúc bấy giờ.

Xử cả kẻ buôn lậu, lẫn người bắt buôn lậu

Chiếu theo những quy định, luật lệ khi đó thì sẽ có một phiên tòa để làm rõ công – tội rành mạch. Tuy nhiên, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại được tham mưu và “ấn” cho mỗi người một bản án cụ thể, tùy theo mức độ tham gia vụ việc. Thậm chí những người có công ngăn chặn vụ buôn lậu cũng không hề được thưởng hay nêu công trạng, trái lại còn bị lãnh những bản án nặng. Giới báochí thời ấy gọi đó là một phiên tòa đặc biệt.

Tổng thống Thiệu không có cách nào để giấu mặt, đành phải xuất đầu lộ diện và trực tiếp giải quyết vấn đề. Theo lẽ thường, vào thời điểm ấy, nếu những sự vụ tương tự như thế diễn ra thì nó sẽ thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của viên Tổng Giám đốc Quan thuế hoặc cao lắm là tới Tổng trưởng Tài chính hay Kinh tế, chứ chưa đến mức phải tới tay Phủ Tổng thống. Bên cạnh đó, một chi tiết cũng đáng chú ý là khi vụ án xảy ra, nhiều tờ báo hả hê và nhảy vào loannhưng đã bị… tuýt còi ngay lập tức.

Ông Nguyễn Khánh Linh, một người nghiên cứu về Sài Gòn xưa cũng được nghe một số nhân chứng trong vụ việc sau này kể lại, để giải quyết vụ việc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã cho thành lập một Ủy ban điều tra và thanh mãi (giải quyết số hàng còn lại sau khi bị cướp) gồm: Tổng Giám đốc Quan thuế, Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia cùng một vài tay chân thân tín khác. Số hàng còn lại được đem ra đấu giá, số tiền thu được đem vào cứu trợ cho các gia đình cô nhi quả phụ tử sỹ.

Cũng có thông tin cho rằng, sau khi vụ việc đổ bể, do đám con trẻ làm hư chuyện, báo chí lên tiếng và dư luận trong Bộ Tổng tham mưu ồn ào về vụ buôn lậu có còi hụ dẫn đường, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đành phải đích thân ra lệnh cho thành lập một Ủy ban điều tra cấp Trung ương, gồm Bộ Quốc phòng, Tổng Thanh tra, Quân cảnh và An ninh Quân đội do Đổng lý Bộ Quốc phòng Tôn Thất Chước làm Chủ tịch Ủy ban.

Thế là hàng loạt người dính líu vào vụ án vô tiền khoáng hậu này đều bị triệu tập điều tra. Đó là đại úy Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 6 Quân cảnh của Biệt Khu Thủ Đô; đại úy Thế, Tiểu đoàn 4 Quân cảnh, Trưởng đồn Quân cảnh Mỹ Tho (đại úy Thế là con rể đại tá Luông, Giám đốc Cảnh sát Quân khu 3); đại úy Quới, trưởng đoàn quân xa thuộc Quân vận vùng 3… Rồi trưởng ty cảnh sát Chợ Gạo; thiếu tá chỉ huy trưởng Giang Đoàn ở Mỹ Tho… Đặc biệt, đáng chú ý nhất là những người có công ngăn chặn và bắt chuyến hàng lậu được dẫn bằng xe quân cảnh có còi hụ như trung úy Thọ, trưởng đồn quân cảnh Long An rồi hai viên sỹ quan quân cảnh gác trạm kiểm soát Long An cũng bị bắt. Đây là những người có công trong việc báo cáo vụ việc lên thượng cấp để tỉnh trưởng Lê Văn Năm cho chặn đoàn xe bằng bất cứ giá nào.

Theo ông Linh, nếu chiếu theo Luật Thuế quan thời đó thì hai viên sỹ quan quân cảnh gác trạm kiểm soát Long An, trung úy Thọ, thiếu tá quận trưởng Gò Đen và đại tá Lê Văn Năm xứng đáng được thưởng vì là những người có công khám phá và chặn được đoàn quân xa chở hàng lậu. Nhưng ngược lại, tất cả đều bị bắt nhốt và chờ hình phạt vì đã vô tình để thất thoát một số lượng lớn tài sản quốc gia. Theo đó, một mặt Tổng thống Thiệu sai thuộc cấp hứa ngầm sẽ giảm án cho những người bị tống giam sau một thời gian ngồi bóc lịch tượng trưng. Đồng thời, Tổng thống Thiệu cũng ban hành một sắc lệnh quy định trách nhiệm trực tiếp cho các tướng lãnh chỉ huy cao cấp. Giới phân tích chính trị lúc ấy cho rằng, cũng từ đây, cơn ác mộng bị đảo chính cứ lởn vởn trong đầu của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho tới ngày ông qua đời.

Vụ mất tích và cái chết bí hiểm

Và kết quả của vụ xét xử này cũng làm nhiều người bất ngờ. Điển hình đại uý Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 6 Quân cảnh thuộc Biệt Khu Thủ Đô; đại uý Thế, trưởng đồn Quân Cảnh Mỹ Tho; đại uý Quới, chỉ huy đoàn quân xa; thiếu tá chỉ huy Giang Đoàn Mỹ Tho… mỗi người lãnh 6 năm cấm cố, bị tước đoạt binh quyền và lưu đày ra ngoài Côn Đảo. Có tin cho rằng, đại úy Nhiều bị án khủng 20 năm tù và đày ra khổ sai ở Côn Đảo.

Còn đại tá Lê Văn Năm, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long An bị giáng cấp xuống đại uý và bị thuyên chuyển ra Sư Đoàn 21, đóng ở Chương Thiện, Gia Rai và phải đi hành quân như một lao công chiến trường. trung uý Thọ, Trưởng đồn Quân cảnh Long An, mặc dù đã có công và rõ ràng không dính líu gì vào vụ buôn lậu, đã bị phạt mấy chục ngày trọng cấm, có ghi vào quân bạ và bị thuyên chuyển đi làm Trưởng đồn Quân cảnh Phước Long. Tương tự, hai viên hạ sĩ quan Quân cảnh, thuộc trạm kiểm soát Long An, đã có công đầu tiên báo cáo về hành tung của đoàn quân xa, đều bị phạt mỗi người mấy chục ngày trọng cấm, có ghi vào hồ sơ và thuyên chuyển lên Pleiku, thuộc Tiểu Đoàn 2 Quân cảnh.

Điều đáng nói là nhiều người sau khi đi thi hành án được một thời gian ngắn thì mất tích hoặc chết không rõ nguyên nhân. Trường hợp được ghi nhận là trong một thời gian, sau khi đi làm Trưởng đồn Quân cảnh Phước Long, trung úy Thọ đã được báo là mất tích không rõ lý do gì. Tương tự như trung úy Thọ, hai viên sỹ quan một thời gian sau khi đi thực hiện nhiệm vụ mới ở Pleiku cũng bị bắn chết không rõ nguyên nhân.

Dư luận cũng lên tiếng về việc không thấy ai đứng đầu tổ chức buôn lậu này đứng ra chịu trách nhiệm. Có điều các mũi búa rìu dư luận đều chĩa vào Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh với sự cộng tác mật thiết của vợ chồng tẩu tướng Trần Thiện Khiêm cũng như vợ chồng người chị gái của đệ nhất phu nhân cư ngụ tại Mỹ Tho. Gia đình bên vợ Tổng thống Thiệu đã lấy danh nghĩa Phủ đầu rồng (Phủ Tổng thống) để tổ chức buôn bán. Họ mượn cớ ngày tết sắp đến, ngân sách Quốc gia không đủ để đài thọ quà cáp cho gia đình cô nhi quả phụ tử sỹ trên toàn quốc, nên phải tổ chức kinh tế mạo hiểm với nhóm thương gia người Tàu trong Chợ Lớn và ăn chia theo tỷ lệ 50 – 50. Số tiến ăn chia này sẽ được bổ sung vào quỹ cứu trợ “Cây Mùa Xuân” cho cô nhi quả phụ tử sỹ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa do các đấng mệnh phụ phu nhân lãnh đạo.

Lưới trời lồng lộng

Ông Trần Hoàng, Chủ bút một tờ báo trước giải phóng nói thêm, dù đã được ngụy trang hết sức cẩn thận nhưng vụ việc cũng chỉ bị phát hiện một cách hết sức bất ngờ, ngoài ý muốn của Phủ đầu rồng. Bởi, kể từ sau khi chính quyền cách mạng Việt Nam thực hiện Chiến dịch Tổng tiến công Mậu Thân (1968) thì hàng năm, cứ tới dịp lễ tết là chính quyền Thiệu lại nơm nớp lo sợ. Chính vì vậy, Thiệu luôn phải nhắc nhở quân đội chính quy, kể cả địa phương và các đơn vị nhân dân tự vệ… phải đề cao cảnh giác. Đến năm 1972, sau khi chúng ta ký Hiệp định Paris, Mỹ rút quân về nước thì ghế ngồi của Thiệu tại Phủ đầu rồng đã không yên ổn. Lúc đó, theo lời các thầy bói (Thiệu rất tin vào bói toán) thì Thiệu lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị đảo chính. Và Thiệu thừa biết chắc rằng, nếu có biến cố xảy ra thì hắn cũng phải đi chầu Diệm – Nhu sớm. Do vậy, chính quyền của Thiệu cùng với Thủ tướng Khiêm đã thủ thế rất kỹ. Thế nên việc buôn lậu cũng phải có tay chân tín cẩn thực hiện, đặc biệt là các vị trí then chốt trong quân đội. Song chẳng ai học hết chữ ngờ.

Phân chia nhiều lĩnh vực buôn lậu

Theo nhiều chuyên gia nghiên cứu lịch sử, sau khi vụ “Còi hụ Long An” bị phát hiện, dưới thời trị vì của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên và các tay chân thân tín đã xuất hiện nhiều đường dây buôn lậu độc quyền. Ngoài đường dây của đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh còn có đường dây buôn lậu Sài Gòn – Vũng Tàu thuộc thẩm quyền của vợ nhỏ Thiệu là bà Cryrnos, làm chủ khách sạn ở Vũng Tàu và vợ chồng Đặng Văn Quang. Còn việc buôn bán các loại giấy phép xuất nhập cảng và hối đoái, chuyển ngân là của vợ chồng Trần Thiện Khiêm với người anh trai của bà Khiêm là Hai RI. Đây cũng là tập đoàn chuyên khai thác lâm sản, đặc biệt là các loại gỗ quý trái phép.
.
Theo NGƯỜI ĐƯA TIN
0

Thứ Tư, 10 tháng 7, 2019

Giai thoại về cuộc đấu phép giữa Cao Biền và thần Long Đỗ

Thế kỷ 9, Cao Biền được triều Đường cử sang làm Tiết độ sứ ở An Nam. Đây là một viên quan được cho là rất giỏi phong thủy, đã trấn yểm nhiều long mạch của nước ta. Tuy nhiên Cao Biền đã phải chịu thất bại khi gặp linh khí đất Thăng Long.



Thần Long Đỗ là một trong bốn vị thần linh thiêng ở Thăng Long – Hà Nội. Ngày nay, đền thờ thần còn gọi là đền Bạch Mã nằm ở số 76 phố Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền Bạch Mã cũng chính là một trong Thăng Long Tứ Trấn nổi tiếng ở đất kinh kỳ. Sự tích về thần Long Đỗ gắn chặt với các sự kiện lớn của đất Thăng Long. Bởi thế, ngài còn được coi là Thành hoàng của kinh đô. Một trong những sự tích ly kỳ nhất về thần Long Đỗ được dân gian truyền tụng là việc phá sự trấn yểm của Cao Biền.

Cuối thời Đường, sự phản kháng của nhân dân ta ngày càng tăng lên. Những cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng, Mai Thúc Loan tuy cuối cùng đều bị đàn áp song đã làm lung lay thêm cái nền đô hộ mấy trăm năm của giặc phương Bắc. Trong bối cảnh ấy, Cao Biền được triều Đường cử sang làm tiết độ sứ cai trị dân ta (năm Bính Tuất – 866 theo Đại việt sử ký toàn thư, kỷ thuộc Tùy Đường).

Sử sách và cả truyện dân gian truyền miệng nói khá nhiều về viên Tiết độ sứ này. Xung quanh nhân vật này hiện lên những ánh hào quang lung linh thần thoại. Người ta truyền rằng, sau khi đã yên vị chức Tiết độ sứ ở An Nam, Cao Biền bèn cưỡi chim thần đi khắp nước Việt để xem hết các phúc địa. Hễ thấy chỗ đất nào có “long mạch” (chỗ đất tốt khi táng mồ mả ông bà vào đó thì con cháu sau này phát đế vương) thì dùng tà phép trấn yểm hết để người Việt mãi mãi không vùng lên được. Nào là chuyện vãi hạt đậu thành binh lính, nào là việc trồng cây, đào hào để phá long mạch. Các câu chuyện cổ tích, thần thoại thì luôn luôn hấp dẫn về sự tài phép và luôn được người kể thêu dệt thêm cho nên lại càng lung linh huyền ảo.

Cao Biền tài phép là thế nhưng rồi y cũng phải bó tay chịu thất bại ở ngay trong chính đất Đại La – thủ phủ mà y chọn để cai trị nước ta. Trong sách Việt Điện U Linh có một giai thoại kể rằng: Khi Cao Biền đang cho đắp thành Đại La thì thấy trời đất tối đen lại, một vị thần ngồi trên lưng rồng vàng lượn quanh thành mới đắp một vòng. Y rất là run sợ, vội đem vàng và đồng đúc thành một tượng theo hình dáng vị thần trong mơ rồi dùng bùa để trấn yểm. Đêm đó, Cao Biền nằm mơ thấy vị thần ấy nói rằng: Ta là thần Long Đỗ, tinh anh của khí thiêng sông núi nơi đây việc gì mà phải trấn yểm. Sáng hôm sau, Cao Biền sai người đi xem lại những chỗ đã trấn yểm thì thấy đồng sắt đều tan nát cả. Sau đó, Cao Biền sợ hãi lập đền Long Đỗ thờ thần ở trong thành. Đánh giá về giai thoại này, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần cho rằng, đó là một biểu hiện phản kháng trong lĩnh vực văn hóa. Nếu như nhà Đường cố tạo cho Cao Biền nhiều tài phép để hù dọa dân ta, thì “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, dân ta cũng có một vị thần không sợ tài phép của Cao Biền.

Gần 200 năm sau, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (1010) cũng lại có một giai thoại nữa liên quan đến thần Long Đỗ. Khi nhà vua đi thuyền từ Hoa Lư ra đến thành Đại La, thuyền vừa cập bến thì thấy rồng vàng bay lên bèn đổi tên Đại La thành Thăng Long. Việc đầu tiên Thái Tổ quan tâm là xây dựng Thăng Long thành một trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. Triều đình đã xuất nhiều tiền của, huy động nhiều sức dân để đắp thành Thăng Long. Nhưng quái lạ là thành cứ đắp xong thì lại bị sụt lún. Nghe tiếng thần Long Đỗ linh thiêng, nhà vua đến cầu khấn. Sau đấy, vào một buổi sáng từ đền thờ thần Long Đỗ hiện ra một con ngựa trắng đi từ đền ra quanh khu vực thành đang đắp. Ngựa đi một vòng để lại dấu chân rồi trở về đền và biến mất. Nhà vua y dấu chân ấy xây thành thì thành không bị sụt nữa. Từ đấy đền có tên nữa là đền Bạch Mã.

Thực ra đây là một mô típ đã có từ thời cổ. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ngoại kỷ còn chép chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Khi ấy, thành cứ xây xong lại đổ xuống. Sau thành chỉ đứng vững được khi xây theo dấu chân thần Kim Quy. Nhà chép sử nổi tiếng Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn rằng: chuyện rùa vàng có đáng tin không? …. An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè dặt sức dân, cho nên thần minh nhập vào rùa vàng để răn bảo, thế chẳng phải là làm cho dân oán trách quá mà đến thế ư?

Thần Long Đỗ hay thần linh nào nữa cũng đều ở tâm linh con người mà ra. Đó chẳng qua là sự phản ánh những tâm tư nguyện vọng và cả sự phản kháng của người dân trước những thực tế xã hội. Chính người dân Thăng Long đã gắn bó với thủ đô ngàn năm tuổi này. Và cũng từ thế giới tâm linh của họ mới xuất hiện những vị thần linh luôn có mặt mỗi khi Thăng Long nói riêng và dân tộc nói chung đứng trước những bước ngoặt quyết định.

Theo BẢO TÀNG LỊCH SỬ
0

Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2019

Vùng đất Lưỡng Quảng và mối quan hệ với người Việt cổ

Trong thời kỳ Chiến quốc, vương quốc Việt cũng chao đảo dưới những biến động chính trị, nhưng lộ trình văn hóa của nó vẫn khác xa văn hóa Trung Hoa “chính thống” [Hán] của lưu vực sông Hoàng Hà.

Bài viết đăng tải trên Tạp chí Xưa & Nay số 295, 11/2007 tr. 30-33. Lê Đỗ Huy lược thuật.

Mấy năm qua, tại Diễn đàn Lịch sử Trung Hoa (China History Forum) đã diễn ra một cuộc thảo luận trực tuyến về nguồn gốc của cư dân hiện nay đang sống tại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây [Lưỡng Quảng] của CHND Trung Hoa. Dựa vào những tranh luận trên diễn đàn này, một hoạt động sôi nổi, lôi cuốn nhiều người ở Trung Hoa lục địa và hải ngoại tham gia, chúng tôi xin lược thuật để bạn đọc tham khảo.

Cuộc thảo luận trực tuyến được thực hiện bằng tiếng Anh, có đôi chỗ chú thích bằng tiếng Hoa, gồm hàng trăm ý kiến dàn trải trên 7 chương, mỗi chương có thể in ra chừng hơn 30 trang giấy khổ A4. Chủ đề của cuộc thảo luận là quan điểm Liên-Bách Việt (Pan-baiyueism), bàn về nguồn gốc chung của người Việt Nam và người nói tiếng Quảng Đông (Cantonese). Các thành viên tham dự diễn đàn này gồm chủ yếu là người Trung Hoa ở phía Nam (nhóm thứ nhất), thường phủ định quan điểm “Liên-Bách Việt”, một số người Việt Nam và Việt gốc Hoa (nhóm thứ hai, ít hơn về số người), được xem là cổ súy cho quan điểm trên, và một số ý kiến trung dung.

Các tranh luận thường khá gay gắt, nhưng các nhóm có vẻ đồng thuận với một số sử liệu, thường trích từ các công trình nghiên cứu phương Tây sau đây [1] :

Vào khoảng đời nhà Chu (1134-770 tCn) và Xuân Thu, tại khu vực phía Nam Trung Hoa giáp với biên giới Trung-Việt ngày nay đã tồn tại những bộ tộc không thuộc Hoa tộc như Bách Việt, Bộc (Pu) [2] …

Tới thời Xuân Thu, người Việt ở khu vực núi Cối Kê (nay là Thiệu Hưng) thuộc Chiết Giang lập ra vương quốc Việt. Nước Việt vào năm 473 tCn đã chinh phục nước Ngô [3] láng giềng, đóng đô ở Tô Châu thuộc Giang Tô. Nhưng rồi Việt bị nước Sở thôn tính năm 306 tCn. Vào thời Xuân Thu, người Đông Việt được xem là cư trú ở vùng nay thuộc phía Đông nước Trung hoa hiện đại, người Dương Việt cư trú ở phía bắc của tỉnh Giang Tô hiện nay. Các bộ tộc Bách Việt khác như Âu Mân sống ở vùng Chiết Giang, Phúc Kiến; Nam Việt sống ở vùng Quảng Đông, Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt ở Phúc Kiến… Trong thời kỳ Chiến quốc (480-221 tCn), vương quốc Việt cũng chao đảo dưới những biến động chính trị, giống như các lãnh thổ thuộc Thục và Ba nay thuộc Tứ Xuyên, nhưng lộ trình văn hóa của nó vẫn khác xa văn hóa Trung Hoa “chính thống” [Hán] của lưu vực sông Hoàng Hà.


Bản đồ hành chính các quận phía Đông Bắc nước Nam Việt khoảng thế kỉ 2-3 TCN.

Bắt đầu thời kỳ miền bắc của Dương Tử bị Trung Hoa hóa [Hán hóa] mạnh mẽ. Bức trường thành ngăn các bộ tộc du mục từ phương bắc xuống đã được nước Tần (221-206 tCn) và Yên xây dựng. Khu vực hiện nay thuộc Phúc Kiến lần lượt bị nhà Tần và nhà Hán chinh phạt, nhưng phong kiến Trung Hoa đã không thực sự kiểm soát được vùng đất này. Vào đầu đời Hán (206 tCn – 220), Triệu Đà lập ra vương quốc Nam Việt ở khu vực Quảng Đông, độc lập với triều đình Hán. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa năm 221 tCn, quân nhà Tần bắt đầu tiến xuống phía nam dọc theo sông Tây Giang tới vùng Quảng Đông hiện nay, và xác lập các quận dọc theo các trục đường chính. Tới năm 112 tCn. Hán Vũ Đế đã chinh phục những vùng phương Nam (Trung Hoa), cùng với vùng nay là miền bắc Việt Nam và cử người Hán cai quản các quận.

Dưới đời Hán, ngoài Nam Việt ở viễn Nam chủ yếu là ở Lưỡng Quảng và Việt Nam, sử sách còn kể về tiểu quốc Mân Việt ở đông bắc tập trung ở vùng sông Mân Giang, nay thuộc Phúc Kiến (Mân là tên cũ của tỉnh Phúc Kiến).

Thời Tam Quốc, Sách Địa lý chuyển luận trong Hán thư chép: “Ở khoảng bảy hay tám ngàn dặm tính từ Giao Chỉ đến Cối Kê (nam Giang Tô hay bắc Chiết Giang), những người Bách Việt có mặt ở mọi nơi, chia thành nhiều thị tộc”.

Hoạt động di cư của người Trung Hoa (Hán) càng tăng trưởng, người Việt càng bị đẩy vào các vùng đất cằn hơn, và vào rừng núi. Không giống như những người du mục Trung Á như tộc Hung Nô hoặc tộc Tiên ti, người Việt chưa từng thực sự đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự bành trướng hay kiềm tỏa của Trung Hoa (người Hán). Thỉnh thoảng họ dấy lên những cuộc đột kích vào khu định cư của người Hoa, mà các sử gia cổ gọi là “những cuộc nổi loạn”. Người Trung Hoa (Hán) cho rằng người Việt không văn minh, và hay đánh lẫn nhau.

Sự sụp đổ của nhà Hán và giai đoạn chia tách tiếp theo đã đẩy mạnh quá trình Trung Quốc hóa. Các thời kỳ bất ổn và chiến tranh ở miền Bắc Trung Hoa giữa Bắc Triều và Nam Triều, cũng như trong đời Tống đã dẫn tới hoạt động di cư ồ ạt của người Trung Hoa (xuống phương Nam). Hôn nhân dị chủng và giao lưu giữa các nền văn hóa đã dẫn đến sự pha trộn giữa người Trung Hoa (Hán) và không Trung Hoa (không phải Hán) ở miền Nam. Cho đến đời Đường, từ “Việt” đã trở nên một định ngữ chỉ vùng hơn là chỉ một nền văn hóa. Một nhà nước từng nằm ở tỉnh Chiết Giang hiện nay trong thời kỳ Ngũ đại thập quốc chẳng hạn, đã tự xưng là Ngô Việt.

Về thời Bắc thuộc, Diễn đàn dẫn luận án phó [?] tiến sĩ của Jennifer Holmgren “Sự đô hộ của Trung Hoa đối với [Bắc] Việt Nam” (Chinese Colonisation of Northern Vietnam, 1980) có đoạn viết:

Những ghi chép về hoạt động của Trung Hoa ở Bắc Bộ Việt Nam trong 6 thế kỷ đầu thời kỳ thực dân này (Việt Nam gọi là thời Bắc thuộc) cho thấy quá trình Việt Nam hóa đối với các dòng họ Trung hoa. hơn là quá trình Hán hóa đối với người Việt… Sự trêu ngươi như thế cho thấy một số thị tộc Trung Hoa xác lập quyền lợi của dòng họ mình ở Bắc Bộ: định cư dần dần, giúp đỡ mở mang và cuối cùng hoà nhập vào môi trường xã hội kinh tế và chính trị ở Bắc Việt Nam. Kết quả cuối cùng của quá trình này là sự xuất hiện của một tầng lớp thượng lưu Hoa-Việt, quá trình phi thực dân hóa ở vùng viễn nam, và những mưu toan bất thành ở thế kỷ VI để khôi phục nền độc lập, thoát ách đô hộ của phương Bắc. Ví dụ cho quá trình này là sự thăng tiến của Sĩ Nhiếp thời Hậu Hán và những nỗ lực giữ nền độc lập của người nhà ông này sau khi ông qua đời.

Từ cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng thế kỷ I đến cuộc nổi dậy của Lý Bôn thế kỷ VI, sử sách của Trung Hoa cho thấy biểu hiện của một sự phụ thuộc về chính trị trên nền nửa độc lập với Bắc triều. Theo dòng thời gian, những thời kỳ có đặc tính bán tự trị ngày càng tăng lên. Xu thế này làm nền cho cuộc nổi dậy của nhà [Tiền] Lý ở giữa thế kỷ VI và cuối cùng là sự phân liệt hoàn toàn khỏi Trung Hoa vào thế kỷ X.

Tác động của văn hóa Việt đối với văn hóa Trung Hoa đã không được xác định một cách chính thức, nhưng nó khá rõ rệt. Ngôn ngữ của các tiểu quốc cổ Ngô và Việt tạo nên ngôn ngữ Ngô, và phần nào tới ngôn ngữ Mân ở Phúc Kiến. Những nhà nghiên cứu ngôn ngữ cho rằng một số từ tiếng Trung Hoa có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ chẳng hạn như từ jiang (giang), có nghĩa là sông. Những tàn tích về người Việt có thể quan sát được trong một số nhóm thiểu số ở Trung Hoa.

Ở Chiết Giang, nhà hát được gọi là rạp diễn Việt kịch. Tiếng Việt là một bộ phận của tiếng Trung Hoa và thường được gọi là tiếng Quảng Đông. Mẫu tự chính thức và các phương ngữ hình thành từ nó được sử dụng ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Hồng Kông, Ma Cao và tại một số cộng đồng Hoa Kiều trên thế giới.

Một số tên gọi khác của người Việt còn truyền được tới nay là Yi-Yue (hoặc Yu-Yue/ Ngải-việt), Mân-việt, Sơn-Việt, Dương-Việt (người Việt ở biển), U- Việt và Câu-Ngô. Những nhà nghiên cứu tiếng dân tộc cho rằng tên gọi người Việt có liên quan đến nghề chế biến cây gai dầu ở miền nay là Chiết Giang.

Chữ Việt cũng được xem là từ chỉ lưỡi phủ việt, một dụng cụ hay khí giới giống cái búa hay cái rìu, hình chữ nhật, biểu trưng cho quyền lực hoàng gia hay đế chế. Nhiều dụng cụ dạng rìu bằng đá đã được tìm thấy ở Hàng Châu, do vậy, nhiều học giả cho rằng lưỡi việt (búa dùng trong nghi lễ) là một sáng chế của miền Nam. Chữ Việt cũng từng được dùng để chỉ Quảng Đông và Quảng Tây [4] .

Cho dù nhiều bộ tộc Việt vẫn thấp thoáng đó đây trên lãnh thổ CHND Trung Hoa và để lại những dấu ấn trong sử sách đến cuối đời Hán, nay chỉ có thể kể tên vài nhóm dân Việt như Palyu “Lai”, Bugan “Hualuo hay Huazu”, Bit, Bulang, Hu, Kemu, Khuen, Wa… Di sản lớn nhất của người Việt cổ chính là miền Bắc Việt Nam, miền đất mà họ chạy về đó định cư do sự truy bức của Trung Hoa.

Về các tộc thiểu số khác ở khu vực nay là biên giới Trung Việt, theo sách của S. Robert Ramsey. Những ngôn ngữ của Trung Hoa (The Languages of china) tr. 233, không chỉ có Hakka (Khách gia, miền nam gọi là Hẹ), Mân và người Quảng Đông, là những người ở miền Nam Trung Hoa từ đầu, mà từ lâu đời người Thái đã thấp thoáng đóng một vai trò có qui mô ngay trước khi một thiên hạ Trung Hoa lộ rõ. Từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, những khu vực trồng lúa đã lốm đốm xuất hiện ở lưu vực sông Dương Tử. Vẫn theo S. Robert Ramsey, trong số các tiểu quốc được điểm tên trong lịch sử Trung Hoa có Ngô, ở gần Thượng Hải hiện nay, và Việt nằm dọc theo bờ biển Nam Trung Hoa, là những quốc gia của người Thái. Các quốc gia này dần dần bị Trung Quốc nuốt dần và đa số người Thái đã trở thành người Trung Hoa, qua đồng hóa về văn hóa và ngôn ngữ. Một nhà dân tộc học đã ước tính rằng ít nhất 60% người Quảng Đông có tổ tiên là thổ dân nói tiếng Thái.


Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do nhà Tần chiếm được của các nhóm tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử sau năm 210 TCN.

Về các vùng khác thuộc miền Nam Trung Hoa nói chung: miền Nam Trung Hoa trước thời Hán bao gồm nhiều nền văn hóa gần với Đông Nam Á như văn hóa Đông Sơn. hoặc những nền văn hóa nổi tiếng hơn như Ngải, Di hoặc Ba Thục. Trong đó, văn hóa Điền ở Vân Nam thể hiện những cư dân khác sau thời đồ đồng. Xứ Vân từng cho thấy mối liên hệ về các nhóm người phương Nam với những bức tranh trong hang vẽ pháp sư (saman) khua gươm cong, chuôi có núm tròn kiểu Hán, thể hiện quyền lực trên đầu một đám đông. Người Hán từng có tục xăm mình để trấn áp những chứng bệnh nhiệt đới cũng như những cừu thù trong thời gian chiếm đóng những vùng đất thù địch.

Ở Vân Nam, văn hóa hiện đại của địa phương này không có nhiều liên hệ với nền văn hóa thuần Hán của vùng đồng bằng trung tâm cả về tín ngưỡng, trang phục, ẩm thực. Ở Vân Nam, còn tồn tại tục ăn côn trùng.

Những nguồn và ý kiến trên thường thuộc về các nhà nghiên cứu phương Tây, ít gây tranh cãi hơn so với những ý kiến dưới đây.

Nhóm thứ nhất (người Trung Hoa, đa số là ở lục địa) cho biết một số phát hiện và khẳng định sau:

Người Quảng Đông cách đây 2.000 năm là sự pha trộn giữa người Việt tại chỗ và người Hán. Người Việt lúc đó gần với người thiểu số dân tộc Nùng hiện nay ở Việt Nam.

Vương quốc Nam Việt gồm những cư dân người Kinh (?) sống ở đó nhưng họ là người Trung Hoa. Quảng Đông và Quảng Tây cũng như quốc gia cổ Nam Việt, không có quan hệ với dân tộc hiện nay mang quốc hiệu Việt Nam. Hoặc họ (người Trung Hoa ở phương Nam) không có quan hệ gì với người Nam Việt, cho dù Triệu Đà, vua Nam Việt lúc đó là người Hán.

Trong khoảng 100 năm gần đây người Hoa di cư xuống Việt Nam là từ Lưỡng Quảng và Phúc Kiến. Người Hán phương Bắc, theo nhóm thứ nhất, hầu như không di cư xuống Việt Nam, họ chỉ chạy sang Nam Triều Tiên vào năm 1949 và định cư chủ yếu ở Pusan và Seoul.

Người Hoa di cư xuống phía Nam thường không phải là người Hán. Họ tự gọi mình là người Minh Hương, hiện ở Việt Nam còn thế hệ thứ tư của những người Minh Hương, phần nhiều không nói, viết được tiếng Hoa.

Người miền Nam Trung Hoa có ngoại hình khác với người Trung Hoa phương Bắc. Nhà Nguyên Mông chia người Trung Hoa thành các nhóm: Mông, du mục người Hán phương Bắc, người Hoa phương Nam. Một vài ý kiến cho rằng người Trung Hoa phương nam có ngoại hình phần nào giống với người Việt Nam.

Nhiều người Quảng Đông hiện đại còn giữ được gia phả theo đó tổ tiên của họ di cư từ phía bắc xuống Quảng Đông vào đời Đường (618-907) và đời Tống (960-1279). Cuộc di cư lớn nhất xảy ra vào cuối đời Tống, họ cư trú ở nơi mà người Nam Việt đã bị đẩy xuống Quảng Tây hoặc Việt Nam hiện nay, nơi mà khi đó những người Choang là thiểu số so với người Kinh chiếm đa số.

Người Trung Hoa ở phương Nam hiện nay nói chung đã bị Hán hóa.

Còn có trên 50 triệu người thuần huyết thống Nam Việt hiện ở Quảng Tây và Quế Lâm.

Những người thổ dân thuộc các bộ tộc thiểu số Lê, Tày, Đai…, được chính phủ Trung Hoa xếp vào cùng nhóm với người Choang, nhóm này có tổng dân số trên 20 triệu người.

Không có nhiều người Quảng Đông sinh ra ở Việt Nam. Cộng đồng Trung Hoa ở Việt Nam chủ yếu là những người nói tiếng Triều Châu (Tiều) hoặc Phúc Kiến [5] .

An Dương Vương (Thục Phán), Triệu Đà, cũng như anh hùng dân tộc của Việt Nam Lý Bí, đều là người phương Bắc Trung Quốc.

Nhiều ý kiến của nhóm thứ nhất thường nhấn mạnh rằng họ là những người Quảng Đông thuộc về hệ Hán, hiện chiếm đa số ở khu vực Lưỡng Quảng, và “rất tự hào về nguồn gốc Hoa Hạ và Đông Di của mình”, hiện chung sống với “các dân tộc thiểu số” đáng yêu có nền văn hóa rực rỡ, danh giá thuộc về giòng dõi Nam Việt. Rằng đa số người Trung Hoa hiện đại không cho rằng nước Nam Việt lúc đó gần với Âu Lạc (được xem là nằm trong vương quốc Nam Việt) hơn là gần với Trung Hoa. Rằng những người Việt Nam hiện đại kém hiểu biết cần được dạy dỗ, rằng họ chỉ có quan hệ với Âu Lạc, nhưng không có quan hệ gì với vương quốc Nam Việt. Cổ sử Trung Hoa, theo họ chép rằng những người Hán đã tàn sát và đánh đuổi những bộ lạc Việt về phía Nam và xuống đồng bằng sông Hồng trong “các cuộc chinh phạt cướp đất”. Có ý kiến khuyên người Việt không nên tự hào về dòng dõi Nam Việt vì đây chính là giống Nam Man [6] . Một số ý kiến cho rằng người Việt nhìn chung là “bội bạc”, “quanh co”, đàn ông Việt Nam không chăm chỉ và không chú trọng xây dựng gia đình theo khuôn mẫu Á đông. Có ý kiến lại cho người Việt là đần độn và khờ dại. Cũng có ý kiến cho rằng người Việt hiện đại xấu hổ (?) vì dòng dõi Bách Việt và tìm cách “leo thang” để gắn mình với người Quảng Đông và người Trung Hoa. Và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ không được người Mỹ ưa chuộng(?)

Xin nêu thêm một số phát hiện đến từ cả hai nhóm và các nhà nghiên cứu phương Tây:

Nhà Tần (221-206 tCn) cũng có truyền thuyết về con chim thần (tựa như Âu Cơ).

Có nhiều người Việt cổ bị đồng hóa thành Trung Hoa nhiều năm trước đây. Chẳng hạn họ Âu-dương đến từ đất Lư Lăng của vương quốc Việt cổ. Có một hoàng tử Việt mang họ này bị nhà Chu bắt. Hậu duệ của ông, một sử gia nổi tiếng nhà Tống mang họ này. Hiện nay, ở một số tỉnh miền Nam Trung Hoa còn nhiều người mang họ này. Một số người Quảng Đông cũng mang họ này. Sử gia đời Tống Âu-dương Tu cho rằng người Việt có cùng một tổ tiên với với người [Hoa?] Hạ, một quan điểm bị nhóm thứ nhất của Diễn đàn này phê phán.

Các khu vực Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam từng có nền văn hóa riêng và dân cư khác biệt, không in dấu lên triều đình Hán hay các nghi thức đặc trưng cho đế chế Trung Hoa.

Quảng Châu được Ngô vương Tôn Hạo, vua thứ tư nhà Đông Ngô, chắt của Tôn Quyền, chia tách từ Triều [?] Châu [7] vào năm 264.

Có lượng đáng kể của dòng máu Trung Hoa trong huyết quản người Lạc Việt và U Việt. tức là người Việt hiện đại.

Những người U Việt thuộc nhóm Bách Việt, bị nhà Thanh (1644-1911) dồn đuổi xuống lãnh thổ Việt Nam. Chuyện chín chúa tranh vua” (Cẩu chúa cheng vùa) của các dân tộc Tày, Nùng… có thể là minh họa cho sử liệu này.

Khái niệm “Hán hóa” từng thuộc về những đường biên giới cổ đại thật xa lạ với hiện nay. Không thể xem là những tộc người thiểu số đang không được đãi ngộ ở CHND Trung Hoa, cho dù một số trong họ đã biến mất trong những triều đại phong kiến sau cùng. Miền Nam Trung Hoa từng thuộc những tộc người thiểu số hiện cung cấp một ít di sản phục vụ cho du lịch. Không nên nghĩ rằng tất cả công dân Trung Hoa thực thụ hiện đang cố trở nên càng giống Hán càng tốt. Những dị biệt về tính cách sắc tộc và văn hóa vẫn còn tiềm tàng ở CHND Trung Hoa, thể hiện cả ở nét mặt của những người không phải dân tộc Hán. Những khu vực như Tân Cương hay Tây Tạng về cốt lõi văn hóa vẫn cho thấy sợi chỉ mỏng manh của bản sắc văn hóa và cho thấy rõ ràng nên xem xét cư dân hoặc sở hữu đất đai (!) có thể xem là hoàn toàn Trung Hoa hay không. Sự hiện diện trước đây của những thổ dân không phải người Trung Hoa có thể thấy rõ trong những tài liệu khai quật được. Nhưng công nhận hay không công nhận điều này cũng không thể xem như lý do để chuyển sang đề tài chính trị. Càng không phải duyên cớ để các khu vực khác khoanh vùng để đòi lại… (đây là ý kiến từ phương Tây).

Nghiên cứu DNA do các trung tâm ở Thượng Hải, Côn Minh và Hoa Kỳ (Center for Genome Information, Department of Environmental Health, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio 45267, USA) chỉ ra rằng người Bắc Trung Hoa (Tây An và Bắc Kinh) và người Nam Trung Hoa (Quảng Châu, Thượng Hải) có cùng mẫu ADN.

Một ý kiến đáng chú ý từ nhóm thứ hai – chủ yếu gồm người Việt hải ngoại, kể cả những người di tản sau năm 1975, trong đó có cả người Việt gốc Hoa – không gặp phải phản kháng của nhóm thứ nhất: Việt là từ mà người Hoa Hạ gắn với thổ dân khu vực đông nam của Trung Hoa mà họ gặp phải. Định nghĩa khái lược này hợp với một địa bàn rất rộng ở Đông Nam Á… bao gồm ngoài đông nam Trung Hoa còn bao gồm Tây Nam nước này. Đông Nam Á xét về vị thế, Đông bắc Ấn Độ, các đảo trên Thái Bình Dương, và Madagascar. Dân này nói tiếng Austronesian, Tai-Kadai, Austroasiatic và Hmong-Mien (Mon-Khmer).

—————————-

Chú thích:

[1]Người dịch tổng hợp và chú thêm niên đại để người đọc tiện theo dõi. Chú thích trong bài là của ban biên tập Xưa & Nay.

[2]Theo một nguồn nữa, các bộ lạc không phải người Hán gồm: Hoa Di (thuộc bộ tộc Lô Lô) hay Xu và Việt ở phía đông, Khuyển Nhung ở phía tây, Di ở phía bắc, Pu, Khương và Man ở phía tây nam và phía nam.

[3]Theo một Website phương Tây được công nhận rộng rãi [?], nước Ngô cũng là một quốc gia của người Việt nằm ở nam Giang Tô và bắc Chiết Giang. Giới quý tộc của hai quốc gia này học tiếng Trung, thuận theo pháp luật Trung Hoa và học theo công nghệ quân sự Trung Hoa, phát triển giao thông thủy là chính, và nghề nuôi trồng thuỷ sản, chứ không chỉ làm thuần nông nghiệp. Hai nước này cũng nổi tiếng về nghề đóng tàu và tác chiến trên sông nước, cũng như nghề làm gươm. Vào thời Chiến Quốc, hai nhà nước Ngô và Việt, bắt đầu can thiệp mạnh hơn vào chính trường Trung Hoa. Năm 506 trCn, chiến tranh bùng nổ giữa Ngô và Việt, lúc ác liệt lúc lắng dịu trong suốt 30 năm sau. Tới năm 473 trCn, Việt Vương Câu Tiễn chiếm được Ngô, được các lân bang là Tề và Tấn công nhận. Năm 333 trCn, đến lượt Việt bị Sở thôn tính.

[4]Như khái niệm biên khu Việt-Quế được dùng khoảng giữa thế kỷ XX, bên kia biên giới là hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam.

[5]Được phương Tây xem là những nhánh của ở phương Nam có liên hệ với Hán tộc. Tuy nhiên, một trang Web thông dụng của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ phương Tây [?] cho rằng tiếng Phúc Kiến và Triều Châu là phương ngữ phụ trong tiếng Mân.

[6]Là một trong số các dân tộc mà người Hán coi là mọi rợ (Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch). Xin lưu ý ở trên có ý kiến của người Quảng Đông hiện đại thể hiện sự tự hào là người Đông Di.

[7][có thể ông LĐH nhầm. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm 226, Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Giao Châu gồm các quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu là Đái Lương và thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại cùng hợp binh tiến đánh và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ, phong Lữ Đại làm thứ sử Giao Châu, và đến năm 264 mới chia lại thành Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên). Giao Châu mới gồm có 6 quận: Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam, bao gồm miền Bắc Việt Nam cộng thêm khu vực Khâm Châu (thuộc Quảng Tây) ngày nay và bán đảo Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) ngày nay.

Theo TẠP CHÍ XƯA & NAY
0