Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư viện. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư viện. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2019
Chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tổng hợp
Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh trên chiến trường Đông Dương (1945–1979), bắt đầu ngày 1 tháng 11 năm 1955 khi Phái bộ Cố vấn và Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ (MAAG) được thành lập ở miền Nam Việt Nam và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
1. Chiến tranh Việt Nam (tài liệu PDF, Wikipedia)
2. Phim tài liệu của Mỹ: The Vietnam War (Vietsub)
3. Phim tài liệu: Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày
4. Phim tài liệu Việt Nam: Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không
0
1. Chiến tranh Việt Nam (tài liệu PDF, Wikipedia)
2. Phim tài liệu của Mỹ: The Vietnam War (Vietsub)
3. Phim tài liệu: Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày
4. Phim tài liệu Việt Nam: Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không
Đăng trong:
Chiến tranh Việt Nam,
Lịch sử,
Lịch sử Việt Nam,
Tài liệu,
Thư viện
Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014
Tàu khảo sát bí ẩn của Trung Quốc xuất hiện ngoài khơi Nhật Bản
Báo chí Nhật Bản cho biết máy bay trinh sát nước này đã phát hiện một loại tàu khảo sát bí ẩn xuất hiện ngoài khơi Nhật Bản.
0
Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014
Người Khmer Krom đòi Nam Bộ là 'vô lý'
Tiến sỹ Nguyễn Văn Huy gửi cho BBC từ Pháp
17/9/2014
Trong khoảng thời gian gần đây, cộng đồng người Khmer Krom tại Campuchia đã liên tục tổ chức nhiều cuộc biểu tình trước sứ quán Việt Nam phản đối chính sách đất đai của Việt Nam.
Nguyên do của những cuộc xuống đường này là phát biểu của ông Trần Văn Thông, tham tán sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh, nói rằng miền đất Nam Bộ thuộc về Việt Nam từ lâu trước khi Pháp chuyển giao lại cho Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 09/09/2014, ông Thach Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia, cho biết :
"Chúng tôi không đòi lại đất, mà chúng tôi muốn gửi thông điệp tới chính phủ Việt Nam, yêu cầu họ phải tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, không được can thiệp vào công chuyện của chúng tôi.
Việt Nam không hiểu đúng về lịch sử của người Khmer, hoặc là họ cố tình muốn quên lịch sử bằng cách tuyên bố rằng đất đai Kampuchea Krom thuộc về Việt Nam từ lâu.
Đất đai Kampuchea Krom là của chúng tôi, và bị người Pháp giao cho người Việt Nam. Chúng tôi yêu cầu Việt Nam tôn trọng lịch sử, tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, công khai xin lỗi chúng tôi và không can thiệp vào chính trị của các quốc gia khác".
Với tất cả sự trân trọng và lòng kính mến, người ta thực sự không hiểu ông Thach Setha muốn nói gì.
Yêu sách của Khmer Krom
Yêu sách của ông Thach Setha, một trong những người lãnh đạo cuộc biểu tình đồng thời là một nhà hoạt động thuộc đảng Cứu quốc của chính trị gia Sam Rainsy và cựu Thượng nghị sĩ trong Quốc hội Campuchia, gồm ba vế: đất đai và chủ quyền ; lịch sử Kampuchea Krom và yêu cầu không can thiệp vào chính trị của một quốc gia khác.
Cụ thể hơn, ông Thach Setha muốn "phía Việt Nam chính thức công khai xin lỗi người Khmer Krom và công nhận lịch sử của chúng tôi bằng văn bản" và yêu cầu : "không can thiệp vào việc nội bộ của các quốc gia khác của khối ASEAN".
Để làm áp lực, ông Thach Setha đe dọa:
"Nếu như không có phản hồi hay giải quyết gì từ phía Việt Nam thì đầu tháng 10 này chúng tôi sẽ có biểu tình lớn để yêu cầu chính phủ Campuchia tạm cắt đứt quan hệ với Việt Nam cho tới khi nào Việt Nam thừa nhận lịch sử của chúng tôi. Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay hàng hóa Việt Nam".
Thấy gì qua phát biểu này?
Những yêu sách của ông Thach Setha phần lớn dựa trên tài liệu của Cộng đồng người Khmer Krom phổ biến trên mạng (https://vi-vn.KhmerKromNews), theo đó :
Về đất đai và chủ quyền, "Kampuchea Krom, nguyên là một phần của Vương quốc Kampuchea ở phía đông, hiện nay nằm dưới sự quản lý của chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
Về lịch sử Kampuchea Krom, "Kampuchea Krom bị Thực dân Pháp cắt khỏi lãnh thổ Kampuchea và cho xác (!) nhập vào lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản lý của chính quyền Việt Nam bằng văn bản số 49-733, ký ngày 04 tháng 6 năm 1949 ở Thành phố Toulon, Tỉnh Var, nước Pháp".
Về danh xưng : "Vào thời đó, vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Kampuchea Ngập Nước hay Kampuchea Krom (Kampuchea Hạ), và còn được gọi là Đồng bằng Châu thổ sông Mekong (Mekong Delta). Dưới thời Thực dân Pháp quản lý Đông Dương (Indochina), vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Basse Cochinchine (Cô-săng-sin Hạ)", với 68 965 km2.
Về dân số : "Nếu căn cứ vào số liệu thống kê dân số theo từng địa phương của Mặt trân Giải phóng Kampuchea Krom tiến hành vào năm 1968 thực hiện trên 21 tỉnh - thành của Kampuchea Krom và thực hiện phương thức tính 20 năm thì cho đến tháng 1 năm 2005, dân số người Khmer ước khoảng 14 571 000 (Mười bốn triệu năm trăm bảy mươi mốt ngàn) người".
Sự thật là thế nào?
Người Khmer Krom thường viện dẫn những lý do lịch sử và văn hóa để chứng minh chủ quyền của họ trên lãnh thổ miền Nam. Cách tiếp cận này tuy hợp lý nhưng không đúng. Hợp lý vì những nhóm dân cư bản địa đầu tiên trên vùng đất này là con cháu những người Khmer trốn chạy các cuộc vây bắt nô lệ để xây dựng đền đài quanh khu vực Seam Reap và Battambang từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, và sau đó là những cuộc nội chiến hay tấn công của người Thái từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18.
Nhưng không đúng vì các vương triều Khmer chưa bao giờ làm chủ khu vực đồng bằng sông Cửu Long như thường tuyên bố.
Nhắc lại, đế quốc Angkor trong thời cực thịnh nhất, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, là một đế quốc lục địa. Các trung tâm chính trị và tôn giáo được thiết lập :
- về phía tây, quanh khu vực phía bắc hồ Tonlé Sap (Battambang, Siem Reap), sông Chao Phraya và lưu vực hai sông Menam và Irrawaddy, mà những đền đại nổi tiếng là Angkor Wat và Angkor Thom được xếp vào di dản nhân loại ;
- về phía đông, từ vùng trung lưu sông Mekong (Kompong Cham) tới khu vực phía nam hồ Tonlé Sap (Biển Hồ), Longvek, Udong, Kampong Cham và Banteay Prey Nokor (Gia Định). Sau khi đế quốc Angkor bị Xiêm La xóa tên, năm 1439 vua Ponhea Yat bỏ chạy về Wat Phnom Daun Penh (Phnom Penh) và thành lập kinh đô.
- Vùng phía nam (đồng bằng châu thổ sông Cửu Long), cho đến nay chưa tìm thấy dấu ấn cai trị của vuơng triều Khmer.
Những lý cớ chống Việt Nam
Lý cớ đầu tiên là đất đai. Tổ chức Khmer Krom không ngừng tố cáo Việt Nam chiếm vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long của người Khmer. Củng cố lý cớ này là sự hiện diện của khoảng 500 đền đài Khmer trên khắp châu thổ. Đây là vấn đề rất được bàn cãi của những chuyên viên và những nhà nghiên cứu lịch sử, vì sự thật không hẳn như vậy.
Về điểm này tưởng cũng nên nhắc lại một vài dữ kiện địa lý-lịch sử. Cách đây hơn 300 năm, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là một vùng sình lầy hoang dại, đầy muỗi mồng và rắn độc nên ít người dám đến sinh cư lập nghiệp, trừ khi bị bắt buộc như những người trốn chạy những cuộc ruồng bắt nô lệ thời đế quốc Angkor.
Những người này sống tập trung trên những vùng đất cao để tránh lụt lội, gọi là giồng, và sinh sống bằng nghề làm rẫy. Không có tư liệu nào trong Văn khố hoàng gia Khmer (Chroniques royales khmères) nhắc đến sự triều cống của những nhóm dân cư sinh sống trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long (Mekong).
Trong thế kỷ 17, nội chiến và tranh chấp nội bộ giữa các vương tôn buộc những phe tranh chấp tìm sự hỗ trợ của những thế lực mạnh hơn để triệt hạ đối thủ hay để được bảo vệ. Đó là trường hợp của vua Jayajettha II (1619-1627) kết nghĩa với chúa Nguyễn để được tiếp cứu khi bị Xiêm La tấn công. Bù lại, Jayajettha II nhượng cho Sãi vương quyền khai thác lãnh thổ Prei Nokor trong vòng 5 năm để làm nơi thu mua và vận chuyển thực phẩm ra miền Trung. Sau nhiều lần đánh bật quân Xiêm ra khỏi lãnh thổ Chân Lạp trong những năm 1622-1623, việc thu hồi hai nhượng địa Prei Nokor và Kompong Trabei không còn đặt ra nữa, vì vua Khmer rất cần sự hiện diện của quân Việt trên lãnh thổ của mình.
Phải chờ đến năm 1679, khi hai vị tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên) cùng với hai phó tướng Hoàng Tiến và Trần An Bình, với hơn 3.000 quân và 50 chiến thuyền, xin tị nạn và được chúa Nguyễn cho vào khai thác những vùng đất hoang miền Đông Nam Bộ. Tại đây người Minh Hương đã cùng những di dân Việt khẩn hoang, xây nhà, lập chợ, dựng đình. Với thời gian, những khu đất mới này trở nên trù phú và thu hút đông đảo di dân khác tới, kể cả người Khmer trong nội địa. Năm 1698, vùng đất Sài Gòn - Gia Định, tức miền Đông Nam Bộ, chính thức được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền.
Năm 1671, một quan nhân nhà Minh khác tên Mạc Cửu cùng với 400 người đổ bộ lên vùng đất hoang vu trong vịnh Thái Lan và xin thần phục vương triều Khmer. Năm 1681, vua Jayajettha IV cho Mạc Cửu khai thác vùng đất dọc bờ biển phía nam Campuchia ngày nay, gọi là Căn Khẩu, nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công của hải tặc. Sau nhiều lần bị hải tặc Xiêm La đánh phá và không được vua Khmer hỗ trợ, năm 1724 Mạc Cửu xin thần phục chúa Nguyễn, vùng đất Căn Khẩu đổi tên thành Long Hồ dinh, sau này là Hà Tiên. Con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ đã tận tình giúp các vua Khmer đánh trả quân thù để bảo vệ ngôi báu, sau mỗi chiến công các vua Khmer trao tặng đất đai để tưởng thưởng. Năm 1759, toàn bộ lãnh thổ đồng bằng sông Cửu Long chính thức được sát nhập vào lành thổ nhà Nguyễn.
Những giải thích dài dòng này để nói lên một sự thật các triều vương Khmer không hề quan tâm đến vùng đất sình lầy đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, khi có cơ hội là sẵn sàng trao tặng cho những người đã giúp họ giữ được ngôi báu. Dựa vào yếu tố này, có thể nói người Khmer chưa bao giờ làm chủ đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó.
Lý cớ thứ hai là pháp lý. Dưới thời bảo hộ Pháp (1863-1953), các vị vua Khmer đã nhiều lần yêu cầu hay van nài Pháp giao lại lãnh thổ Nam Kỳ cho Hoàng gia Khmer (thư vua Ang Duong gởi cho hoàng đế Napoléon III ngày 25/11/1856, cuộc gặp mặt giữa vua Norodom (cha) và Toàn quyền Đông Dương, tướng de La Grandière, năm 1864). Nhưng người Pháp từ chối bởi một lý do giản dị là chính nhà Nguyễn đã giao phần đất này cho Pháp năm 1862 và sau đó năm 1874 chứ không phải các vua Khmer, hơn nữa khi ký Hiệp ước bảo hộ vương quốc Cambốt năm 1863, hoàng gia Khmer không hề đề cập tới phần lãnh thổ phía nam, mà người Pháp gọi là Cochinchine (miền Nam Việt Nam).
Văn bản pháp lý nào?
Tài liệu chủ quyền pháp lý mà Tổ chức Khmer Krom dựa vào là "Luật số 49-733 ban hành ngày 04/06/1949 về việc thay đổi quy chế vùng đất Nam Kỳ (Cochinchine) trong Liên hiệp Pháp (Union française)", theo đó lãnh thổ Nam Kỳ được sát nhập vào lãnh thổ Liên hiệp Việt Nam và không còn là lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp.
Qua luật này, tổ chức Khmer Krom trách Pháp đã không trao trả Nam Kỳ cho vua Khmer, do đó mỗi năm cứ đến ngày 04/06 họ tổ chức xuống đường biểu tình đòi Việt Nam trả lại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long cho Campuchia. Tất cả mọi phương tiện đều được áp dụng, kể cả bạo loạn, trong mục đích tuyên truyền rằng “chính quyền Việt Nam đàn áp sư sãi và tôn giáo”.
Để gây hận thù dân tộc, tổ chức Khmer Krom còn dựng đứng những tội ác "ghê rợn" của các chính quyền Việt Nam để tố cáo trước dư luận thế giới như : thiêu sống 10.000 người Khmer năm 1945, giết rồi thả hàng ngàn xác người Khmer trôi sông từ 1976 đến 1979, tàn sát hàng ngàn người Khmer tại Trà Vinh và Vĩnh Long từ 1980 đến 1990.. với hy vọng được thế giới hỗ trợ và làm áp lực với Việt Nam trả lại miền Nam cho họ.
Lý cớ thứ ba là chính trị. Quan sát kỹ, những cuộc biểu tình chống Việt Nam chỉ mạnh lên trước những cuộc bầu cử Quốc hội. Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số chung để các tổ chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. Hiện nay, tổ chức chính trị bài Việt Nam mạnh nhất là Đảng Sam Rainsy do ông Sam Rainsy lãnh đạo. Sam Rainsy hiện nay là đối thủ chính trị chính của đương kim Thủ tướng Hun Sen.
Cho đến một ngày gần đây, dưới sự kích động của đảng Sam Rainsy, chống Việt Nam hiện nay không còn là một chiêu bài tranh cử nữa mà là một chính sách kỳ thị chủng tộc rõ ràng. Để tránh bị mang tiếng thân Việt Nam, nghĩa là chư hầu, Đảng Nhân dân Campuchia của đương kim Thủ tướng Hun Sen còn đi xa hơn khi ban hành những luật lệ siết chặt nhập cư, hạn chế sự đi lại của người Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia và trục xuất những người Việt nhập cư bất hợp pháp. Một cách tiệm tiến, chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Kher đang hình thành mà đối tượng là cộng đồng người Việt sinh sống trên lãnh thổ Campuchia, an ninh của họ đang bị đe dọa.
Thêm vào đó, lãnh tụ đảng Sam Rainsy còn khơi động sự thù hận giữa Việt Nam và Trung Quốc bằng cách đề cao những hành vi ức hiếp Việt Nam của Trung Quốc trên Biển Đông và dành cho người Trung Quốc những ưu đãi về đầu tư cũng như về kinh tế tài chính để loại thương nhân Việt Nam ra khỏi thị trường Campuchia, hay đưa xuống hàng thứ yếu, nghĩa là phải dưới người Khmer.
Tại sao đi đến tình trạng này?
Có nhiều lý giải, nhưng giải thích chính vẫn là các dân tộc Đông Dương là nạn nhân của chính sách chia để trị của người Pháp trong suốt thời gian đô hộ và bảo hộ.
Chế độ thực dân Pháp là thủ phạm kích thích sự thù ghét người Việt Nam của những dân tộc khác. Đọc lại những tài liệu và sử sách viết về người Việt Nam, không một tác giả người Pháp nào không nói Việt Nam là một dân tộc bành trướng, lịch sử Việt Nam là lịch sử thôn tính những dân tộc yếu kém hơn. Họ viện dẫn kinh nghiệm mất đất và mất văn hóa của người Chăm, người Khmer Nam Bộ, người Thượng trên Tây Nguyên...
Dưới thời Pháp thuộc, Đông Dương bị chia thành 5 vùng, trong đó Việt Nam bị cắt ra làm ba miền (Bắc Trung Nam) để hạn chế người miền này tiếp xúc với người miền kia, và họ đã phần nào thành công. Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, sự hợp tác giữa các dân tộc Đông Dương đã rất khó khăn và phải trải qua nhiều cuộc chiến đẫm máu để giải quyết sự thống nhất. Vấn đề tồn đọng còn lại là xây dựng niềm tin giữa các dân tộc và giữa người Việt Nam với nhau.
Nếu chịu khó quan sát, tâm lý bài Việt Nam thường xuất phát từ những cấp lãnh đạo hay trí thức do Pháp đào tạo : Sihanouk, Pol Pot, Sam Rainsy, Sarin Chhak...
Đầu tàu của chính sách bài Việt là quốc vương Norodom Sihanouk, đứa con tinh thần của chế độ thực dân Pháp. Từ lúc còn tấm bé ông đã được người Pháp nuôi dưỡng và đã hấp thụ tất cả những gì mà người Pháp muốn truyền bá : chống Việt Nam. Trong suốt thời gian trị vì, không hiểu vì lý do gì nhà vua Sihanouk đã liên tục chống phá trực tiếp hay gián tiếp các chính quyền miền Nam Việt Nam, và chính quyền cộng sản Việt Nam sau 1975. Nhà vua sẵn sàng liên minh hay ủng hộ với mọi phe phái, kể cả Khmer Đỏ, để chống Việt Nam.
Sihanouk còn đào tạo ra được một thế hệ bài Việt tiếp nối, đặc biệt là Sarin Chhak, tác giả "Những vùng biên giới của Cambodge" năm 1965. Dựa theo tài liệu này, đầu năm 1967, Sihanouk chính thức công bố khu vực biên giới Campuchia-Việt Nam, theo đó tỉnh Đắc Lắc, toàn khu hữu ngạn sông Bé đến Thủ Dầu Một, toàn bộ tỉnh Tây Ninh và Long An và vùng đất phía tây thị xã Hà Tiên thuộc Campuchia. Những phe nhóm Khmer chống Việt Nam khác cũng đã sử dụng bản đồ này để tố cáo chính quyền Hun Sen ký những hiệp định về vùng nước lịch sử ký với Việt Nam năm 1982 và hiệp ước biên giới đất liền tháng 10/1985 bất lợi cho nhân dân Campuchia.
Nội dung những văn bản bản này thật ra không khác gì với những văn bản đã ký với Pháp trước đó: vùng biên giới đất liền ghi lại tỉ mỉ hơn làn ranh đã có dưới thời Pháp thuộc; trên biển hai bên giữ nguyên làn ranh Brévié đã có từ năm 1939. Thật ra vấn đề không phải được hay mất đất và biển mà chỉ giản dị là tâm lý bài Việt Nam đang lên cao trong sinh hoạt của những tổ chức chính trị đối lập với chính quyền Hun Sen. Cũng nên lưu ý trong những văn bản này, Điều cuối cùng ghi: "Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Pháp được lấy làm căn cứ".
Giải thích thứ hai là sự trù phú của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Nếu đồng bằng này là một vùng đất nghèo nàn như dãy Cardamones phía tây, chắc không người Khmer nào muốn đòi lại. Ước muốn sở hữu vùng đất trù phú là lẽ thường tình của người đời, nhưng sự phát triển và giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long không phải tự nhiên mà có. Đó là công lao của người Minh Hương và di dân Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến nay. Trong suốt thời gian đó, cộng đồng người Khmer vui hưởng cuộc sống bình yên, những chùa chiền lớn, "wat" theo văn hóa Xiêm La. Trong những sinh hoạt khác, cộng đồng người Khmer đứng bên lề những tranh chấp và sinh hoạt chính trị.
Có một điều khó hiểu là dân số người Khmer sinh sống tại Việt Nam hiện nay khoảng 1,4 triệu người (2011), nhưng tài liệu của Khmer Krom cho biết là trên 14 triệu người (2005), nghĩa là gấp 10 lần và ngang bằng tổng dân số Campuchia (15,14 triệu người năm 2013). Thật ra dựa vào yếu tố lịch sử để đòi lại đất chỉ là lý cớ, sự giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mới là động cơ chính. Tổ chức Khmer Krom không phải là người trồng cây ăn trái nhưng muốn thu tóm mọi hoa lợi vào tay mình, chỉ giản dị là vậy.
Giải thích thứ ba là yếu tố văn hóa. Tại sao người Khmer dễ ghét người Việt Nam hơn người Thái, mặc dù tất cả những tai họa chính của dân tộc Khmer đều do người Thái gây ra? Chính người Thái đã tiêu diệt các triều vương Angkor. Chính sách cai trị của người Thái chắc chắn phải rất hung bạo để ký ức về triều đại Angkor bị xóa hẳn trong tâm trí người Khmer trong suốt hơn 400 năm (1431-1861).
Chính người Thái đã góp phần làm hao kiệt di sản văn hóa của người Khmer, phần lớn những di tích của nền văn minh Angkor được giới buôn lậu đưa qua Thái bán. Cho tới một ngày gần đây, người Thái còn muốn chiếm di tích Preah Vihear của người Khmer. Trong Thế chiến II, quân Pháp đã rất phải cực nhọc mới xua đuổi quân Thái ra khỏi Battambang và Seam Reap. Cũng chính người Thái đã cho Khmer Đỏ lập căn cứ trên lãnh thổ của mình để chống lại chính quyền Phnom Penh từ 1979 đến 1989. Có điều lạ là không người Khmer nào tỏ ra thù ghét người Thái.
Với người Việt Nam thì ngược lại, làm ơn đôi khi còn mang họa. Mỗi khi bị đe dọa, người Khmer nhờ cậy người Việt Nam vào giúp đỡ. Khi kẻ thù bị đánh đuổi ra khỏi lãnh thổ, những người mang ơn thường quay ngược khí giới chống lại Việt Nam. Có cái gì không bình thường trong cách cư xử này.
Có lẽ người Khmer thuộc văn hóa Ấn Độ nên chỉ thích giao lưu với người cùng văn hóa (cũng như Việt Nam với Trung Quốc), Việt Nam thuộc văn hóa Trung Hoa nên rất khó hiểu nhau và hợp tác. Nắm được lý giải này mới hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam đã bỏ mạng để bảo vệ người Khmer, nhưng công lao này thường hay quên lãng và đôi khi còn bị hiểu lầm. Khi rút quân khỏi Campuchia, hài cốt nhưng người lính Việt Nam đều được mang về nước vì sợ bị phá hoại. Hành trình thông cảm lẫn nhau có lẽ còn khá dài.
Nhưng cho dù có thế nào đi nữa, hai dân tộc Campuchia và Việt Nam buộc phải đi với nhau suốt đoạn đường dài còn lại. Không quốc gia nào chọn láng giềng, chúng ta phải tìm cách sống chung với nhau trong khôn ngoan và hòa bình. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chính sách bài Việt Nam có thể thỏa mãn kết quả của những cuộc tranh cử nhưng chỉ mang lại tiêu cực và không giải quyết được quan hệ giữa hai dân tộc.
Người ta chỉ gặt những gì được gieo trồng, do đó phải cẩn thận. Giải pháp hay nhất để hóa giải tâm lý hận thù là tìm cách đối thoại với nhau trong tinh thần tương kính, và nhất là tránh không bị chi phối bởi những định kiến.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tiến sỹ Nguyễn Văn Huy từ Paris, Pháp.Diễn đàn BBC Tiếng Việt mong nhận được các ý kiến khác nhau về chủ đề này, gồm cả các quan điểm phản bác lại tác giả đã đăng.
0
17/9/2014
Trong khoảng thời gian gần đây, cộng đồng người Khmer Krom tại Campuchia đã liên tục tổ chức nhiều cuộc biểu tình trước sứ quán Việt Nam phản đối chính sách đất đai của Việt Nam.
Nguyên do của những cuộc xuống đường này là phát biểu của ông Trần Văn Thông, tham tán sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh, nói rằng miền đất Nam Bộ thuộc về Việt Nam từ lâu trước khi Pháp chuyển giao lại cho Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 09/09/2014, ông Thach Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia, cho biết :
"Chúng tôi không đòi lại đất, mà chúng tôi muốn gửi thông điệp tới chính phủ Việt Nam, yêu cầu họ phải tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, không được can thiệp vào công chuyện của chúng tôi.
Việt Nam không hiểu đúng về lịch sử của người Khmer, hoặc là họ cố tình muốn quên lịch sử bằng cách tuyên bố rằng đất đai Kampuchea Krom thuộc về Việt Nam từ lâu.
Đất đai Kampuchea Krom là của chúng tôi, và bị người Pháp giao cho người Việt Nam. Chúng tôi yêu cầu Việt Nam tôn trọng lịch sử, tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, công khai xin lỗi chúng tôi và không can thiệp vào chính trị của các quốc gia khác".
Với tất cả sự trân trọng và lòng kính mến, người ta thực sự không hiểu ông Thach Setha muốn nói gì.
Yêu sách của Khmer Krom
Yêu sách của ông Thach Setha, một trong những người lãnh đạo cuộc biểu tình đồng thời là một nhà hoạt động thuộc đảng Cứu quốc của chính trị gia Sam Rainsy và cựu Thượng nghị sĩ trong Quốc hội Campuchia, gồm ba vế: đất đai và chủ quyền ; lịch sử Kampuchea Krom và yêu cầu không can thiệp vào chính trị của một quốc gia khác.
Cụ thể hơn, ông Thach Setha muốn "phía Việt Nam chính thức công khai xin lỗi người Khmer Krom và công nhận lịch sử của chúng tôi bằng văn bản" và yêu cầu : "không can thiệp vào việc nội bộ của các quốc gia khác của khối ASEAN".
Để làm áp lực, ông Thach Setha đe dọa:
"Nếu như không có phản hồi hay giải quyết gì từ phía Việt Nam thì đầu tháng 10 này chúng tôi sẽ có biểu tình lớn để yêu cầu chính phủ Campuchia tạm cắt đứt quan hệ với Việt Nam cho tới khi nào Việt Nam thừa nhận lịch sử của chúng tôi. Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay hàng hóa Việt Nam".
Thấy gì qua phát biểu này?
Những yêu sách của ông Thach Setha phần lớn dựa trên tài liệu của Cộng đồng người Khmer Krom phổ biến trên mạng (https://vi-vn.KhmerKromNews), theo đó :
Về đất đai và chủ quyền, "Kampuchea Krom, nguyên là một phần của Vương quốc Kampuchea ở phía đông, hiện nay nằm dưới sự quản lý của chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
Về lịch sử Kampuchea Krom, "Kampuchea Krom bị Thực dân Pháp cắt khỏi lãnh thổ Kampuchea và cho xác (!) nhập vào lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản lý của chính quyền Việt Nam bằng văn bản số 49-733, ký ngày 04 tháng 6 năm 1949 ở Thành phố Toulon, Tỉnh Var, nước Pháp".
Về danh xưng : "Vào thời đó, vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Kampuchea Ngập Nước hay Kampuchea Krom (Kampuchea Hạ), và còn được gọi là Đồng bằng Châu thổ sông Mekong (Mekong Delta). Dưới thời Thực dân Pháp quản lý Đông Dương (Indochina), vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Basse Cochinchine (Cô-săng-sin Hạ)", với 68 965 km2.
Về dân số : "Nếu căn cứ vào số liệu thống kê dân số theo từng địa phương của Mặt trân Giải phóng Kampuchea Krom tiến hành vào năm 1968 thực hiện trên 21 tỉnh - thành của Kampuchea Krom và thực hiện phương thức tính 20 năm thì cho đến tháng 1 năm 2005, dân số người Khmer ước khoảng 14 571 000 (Mười bốn triệu năm trăm bảy mươi mốt ngàn) người".
Sự thật là thế nào?
Người Khmer Krom thường viện dẫn những lý do lịch sử và văn hóa để chứng minh chủ quyền của họ trên lãnh thổ miền Nam. Cách tiếp cận này tuy hợp lý nhưng không đúng. Hợp lý vì những nhóm dân cư bản địa đầu tiên trên vùng đất này là con cháu những người Khmer trốn chạy các cuộc vây bắt nô lệ để xây dựng đền đài quanh khu vực Seam Reap và Battambang từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, và sau đó là những cuộc nội chiến hay tấn công của người Thái từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18.
Nhưng không đúng vì các vương triều Khmer chưa bao giờ làm chủ khu vực đồng bằng sông Cửu Long như thường tuyên bố.
Nhắc lại, đế quốc Angkor trong thời cực thịnh nhất, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, là một đế quốc lục địa. Các trung tâm chính trị và tôn giáo được thiết lập :
- về phía tây, quanh khu vực phía bắc hồ Tonlé Sap (Battambang, Siem Reap), sông Chao Phraya và lưu vực hai sông Menam và Irrawaddy, mà những đền đại nổi tiếng là Angkor Wat và Angkor Thom được xếp vào di dản nhân loại ;
- về phía đông, từ vùng trung lưu sông Mekong (Kompong Cham) tới khu vực phía nam hồ Tonlé Sap (Biển Hồ), Longvek, Udong, Kampong Cham và Banteay Prey Nokor (Gia Định). Sau khi đế quốc Angkor bị Xiêm La xóa tên, năm 1439 vua Ponhea Yat bỏ chạy về Wat Phnom Daun Penh (Phnom Penh) và thành lập kinh đô.
- Vùng phía nam (đồng bằng châu thổ sông Cửu Long), cho đến nay chưa tìm thấy dấu ấn cai trị của vuơng triều Khmer.
Những lý cớ chống Việt Nam
Lý cớ đầu tiên là đất đai. Tổ chức Khmer Krom không ngừng tố cáo Việt Nam chiếm vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long của người Khmer. Củng cố lý cớ này là sự hiện diện của khoảng 500 đền đài Khmer trên khắp châu thổ. Đây là vấn đề rất được bàn cãi của những chuyên viên và những nhà nghiên cứu lịch sử, vì sự thật không hẳn như vậy.
Về điểm này tưởng cũng nên nhắc lại một vài dữ kiện địa lý-lịch sử. Cách đây hơn 300 năm, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là một vùng sình lầy hoang dại, đầy muỗi mồng và rắn độc nên ít người dám đến sinh cư lập nghiệp, trừ khi bị bắt buộc như những người trốn chạy những cuộc ruồng bắt nô lệ thời đế quốc Angkor.
Những người này sống tập trung trên những vùng đất cao để tránh lụt lội, gọi là giồng, và sinh sống bằng nghề làm rẫy. Không có tư liệu nào trong Văn khố hoàng gia Khmer (Chroniques royales khmères) nhắc đến sự triều cống của những nhóm dân cư sinh sống trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long (Mekong).
Trong thế kỷ 17, nội chiến và tranh chấp nội bộ giữa các vương tôn buộc những phe tranh chấp tìm sự hỗ trợ của những thế lực mạnh hơn để triệt hạ đối thủ hay để được bảo vệ. Đó là trường hợp của vua Jayajettha II (1619-1627) kết nghĩa với chúa Nguyễn để được tiếp cứu khi bị Xiêm La tấn công. Bù lại, Jayajettha II nhượng cho Sãi vương quyền khai thác lãnh thổ Prei Nokor trong vòng 5 năm để làm nơi thu mua và vận chuyển thực phẩm ra miền Trung. Sau nhiều lần đánh bật quân Xiêm ra khỏi lãnh thổ Chân Lạp trong những năm 1622-1623, việc thu hồi hai nhượng địa Prei Nokor và Kompong Trabei không còn đặt ra nữa, vì vua Khmer rất cần sự hiện diện của quân Việt trên lãnh thổ của mình.
Phải chờ đến năm 1679, khi hai vị tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên) cùng với hai phó tướng Hoàng Tiến và Trần An Bình, với hơn 3.000 quân và 50 chiến thuyền, xin tị nạn và được chúa Nguyễn cho vào khai thác những vùng đất hoang miền Đông Nam Bộ. Tại đây người Minh Hương đã cùng những di dân Việt khẩn hoang, xây nhà, lập chợ, dựng đình. Với thời gian, những khu đất mới này trở nên trù phú và thu hút đông đảo di dân khác tới, kể cả người Khmer trong nội địa. Năm 1698, vùng đất Sài Gòn - Gia Định, tức miền Đông Nam Bộ, chính thức được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền.
Năm 1671, một quan nhân nhà Minh khác tên Mạc Cửu cùng với 400 người đổ bộ lên vùng đất hoang vu trong vịnh Thái Lan và xin thần phục vương triều Khmer. Năm 1681, vua Jayajettha IV cho Mạc Cửu khai thác vùng đất dọc bờ biển phía nam Campuchia ngày nay, gọi là Căn Khẩu, nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công của hải tặc. Sau nhiều lần bị hải tặc Xiêm La đánh phá và không được vua Khmer hỗ trợ, năm 1724 Mạc Cửu xin thần phục chúa Nguyễn, vùng đất Căn Khẩu đổi tên thành Long Hồ dinh, sau này là Hà Tiên. Con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ đã tận tình giúp các vua Khmer đánh trả quân thù để bảo vệ ngôi báu, sau mỗi chiến công các vua Khmer trao tặng đất đai để tưởng thưởng. Năm 1759, toàn bộ lãnh thổ đồng bằng sông Cửu Long chính thức được sát nhập vào lành thổ nhà Nguyễn.
Những giải thích dài dòng này để nói lên một sự thật các triều vương Khmer không hề quan tâm đến vùng đất sình lầy đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, khi có cơ hội là sẵn sàng trao tặng cho những người đã giúp họ giữ được ngôi báu. Dựa vào yếu tố này, có thể nói người Khmer chưa bao giờ làm chủ đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó.
Lý cớ thứ hai là pháp lý. Dưới thời bảo hộ Pháp (1863-1953), các vị vua Khmer đã nhiều lần yêu cầu hay van nài Pháp giao lại lãnh thổ Nam Kỳ cho Hoàng gia Khmer (thư vua Ang Duong gởi cho hoàng đế Napoléon III ngày 25/11/1856, cuộc gặp mặt giữa vua Norodom (cha) và Toàn quyền Đông Dương, tướng de La Grandière, năm 1864). Nhưng người Pháp từ chối bởi một lý do giản dị là chính nhà Nguyễn đã giao phần đất này cho Pháp năm 1862 và sau đó năm 1874 chứ không phải các vua Khmer, hơn nữa khi ký Hiệp ước bảo hộ vương quốc Cambốt năm 1863, hoàng gia Khmer không hề đề cập tới phần lãnh thổ phía nam, mà người Pháp gọi là Cochinchine (miền Nam Việt Nam).
Văn bản pháp lý nào?
Tài liệu chủ quyền pháp lý mà Tổ chức Khmer Krom dựa vào là "Luật số 49-733 ban hành ngày 04/06/1949 về việc thay đổi quy chế vùng đất Nam Kỳ (Cochinchine) trong Liên hiệp Pháp (Union française)", theo đó lãnh thổ Nam Kỳ được sát nhập vào lãnh thổ Liên hiệp Việt Nam và không còn là lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp.
Qua luật này, tổ chức Khmer Krom trách Pháp đã không trao trả Nam Kỳ cho vua Khmer, do đó mỗi năm cứ đến ngày 04/06 họ tổ chức xuống đường biểu tình đòi Việt Nam trả lại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long cho Campuchia. Tất cả mọi phương tiện đều được áp dụng, kể cả bạo loạn, trong mục đích tuyên truyền rằng “chính quyền Việt Nam đàn áp sư sãi và tôn giáo”.
Để gây hận thù dân tộc, tổ chức Khmer Krom còn dựng đứng những tội ác "ghê rợn" của các chính quyền Việt Nam để tố cáo trước dư luận thế giới như : thiêu sống 10.000 người Khmer năm 1945, giết rồi thả hàng ngàn xác người Khmer trôi sông từ 1976 đến 1979, tàn sát hàng ngàn người Khmer tại Trà Vinh và Vĩnh Long từ 1980 đến 1990.. với hy vọng được thế giới hỗ trợ và làm áp lực với Việt Nam trả lại miền Nam cho họ.
Lý cớ thứ ba là chính trị. Quan sát kỹ, những cuộc biểu tình chống Việt Nam chỉ mạnh lên trước những cuộc bầu cử Quốc hội. Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số chung để các tổ chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. Hiện nay, tổ chức chính trị bài Việt Nam mạnh nhất là Đảng Sam Rainsy do ông Sam Rainsy lãnh đạo. Sam Rainsy hiện nay là đối thủ chính trị chính của đương kim Thủ tướng Hun Sen.
Cho đến một ngày gần đây, dưới sự kích động của đảng Sam Rainsy, chống Việt Nam hiện nay không còn là một chiêu bài tranh cử nữa mà là một chính sách kỳ thị chủng tộc rõ ràng. Để tránh bị mang tiếng thân Việt Nam, nghĩa là chư hầu, Đảng Nhân dân Campuchia của đương kim Thủ tướng Hun Sen còn đi xa hơn khi ban hành những luật lệ siết chặt nhập cư, hạn chế sự đi lại của người Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia và trục xuất những người Việt nhập cư bất hợp pháp. Một cách tiệm tiến, chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Kher đang hình thành mà đối tượng là cộng đồng người Việt sinh sống trên lãnh thổ Campuchia, an ninh của họ đang bị đe dọa.
Thêm vào đó, lãnh tụ đảng Sam Rainsy còn khơi động sự thù hận giữa Việt Nam và Trung Quốc bằng cách đề cao những hành vi ức hiếp Việt Nam của Trung Quốc trên Biển Đông và dành cho người Trung Quốc những ưu đãi về đầu tư cũng như về kinh tế tài chính để loại thương nhân Việt Nam ra khỏi thị trường Campuchia, hay đưa xuống hàng thứ yếu, nghĩa là phải dưới người Khmer.
Tại sao đi đến tình trạng này?
Có nhiều lý giải, nhưng giải thích chính vẫn là các dân tộc Đông Dương là nạn nhân của chính sách chia để trị của người Pháp trong suốt thời gian đô hộ và bảo hộ.
Chế độ thực dân Pháp là thủ phạm kích thích sự thù ghét người Việt Nam của những dân tộc khác. Đọc lại những tài liệu và sử sách viết về người Việt Nam, không một tác giả người Pháp nào không nói Việt Nam là một dân tộc bành trướng, lịch sử Việt Nam là lịch sử thôn tính những dân tộc yếu kém hơn. Họ viện dẫn kinh nghiệm mất đất và mất văn hóa của người Chăm, người Khmer Nam Bộ, người Thượng trên Tây Nguyên...
Dưới thời Pháp thuộc, Đông Dương bị chia thành 5 vùng, trong đó Việt Nam bị cắt ra làm ba miền (Bắc Trung Nam) để hạn chế người miền này tiếp xúc với người miền kia, và họ đã phần nào thành công. Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, sự hợp tác giữa các dân tộc Đông Dương đã rất khó khăn và phải trải qua nhiều cuộc chiến đẫm máu để giải quyết sự thống nhất. Vấn đề tồn đọng còn lại là xây dựng niềm tin giữa các dân tộc và giữa người Việt Nam với nhau.
Nếu chịu khó quan sát, tâm lý bài Việt Nam thường xuất phát từ những cấp lãnh đạo hay trí thức do Pháp đào tạo : Sihanouk, Pol Pot, Sam Rainsy, Sarin Chhak...
Đầu tàu của chính sách bài Việt là quốc vương Norodom Sihanouk, đứa con tinh thần của chế độ thực dân Pháp. Từ lúc còn tấm bé ông đã được người Pháp nuôi dưỡng và đã hấp thụ tất cả những gì mà người Pháp muốn truyền bá : chống Việt Nam. Trong suốt thời gian trị vì, không hiểu vì lý do gì nhà vua Sihanouk đã liên tục chống phá trực tiếp hay gián tiếp các chính quyền miền Nam Việt Nam, và chính quyền cộng sản Việt Nam sau 1975. Nhà vua sẵn sàng liên minh hay ủng hộ với mọi phe phái, kể cả Khmer Đỏ, để chống Việt Nam.
Sihanouk còn đào tạo ra được một thế hệ bài Việt tiếp nối, đặc biệt là Sarin Chhak, tác giả "Những vùng biên giới của Cambodge" năm 1965. Dựa theo tài liệu này, đầu năm 1967, Sihanouk chính thức công bố khu vực biên giới Campuchia-Việt Nam, theo đó tỉnh Đắc Lắc, toàn khu hữu ngạn sông Bé đến Thủ Dầu Một, toàn bộ tỉnh Tây Ninh và Long An và vùng đất phía tây thị xã Hà Tiên thuộc Campuchia. Những phe nhóm Khmer chống Việt Nam khác cũng đã sử dụng bản đồ này để tố cáo chính quyền Hun Sen ký những hiệp định về vùng nước lịch sử ký với Việt Nam năm 1982 và hiệp ước biên giới đất liền tháng 10/1985 bất lợi cho nhân dân Campuchia.
Nội dung những văn bản bản này thật ra không khác gì với những văn bản đã ký với Pháp trước đó: vùng biên giới đất liền ghi lại tỉ mỉ hơn làn ranh đã có dưới thời Pháp thuộc; trên biển hai bên giữ nguyên làn ranh Brévié đã có từ năm 1939. Thật ra vấn đề không phải được hay mất đất và biển mà chỉ giản dị là tâm lý bài Việt Nam đang lên cao trong sinh hoạt của những tổ chức chính trị đối lập với chính quyền Hun Sen. Cũng nên lưu ý trong những văn bản này, Điều cuối cùng ghi: "Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Pháp được lấy làm căn cứ".
Giải thích thứ hai là sự trù phú của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Nếu đồng bằng này là một vùng đất nghèo nàn như dãy Cardamones phía tây, chắc không người Khmer nào muốn đòi lại. Ước muốn sở hữu vùng đất trù phú là lẽ thường tình của người đời, nhưng sự phát triển và giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long không phải tự nhiên mà có. Đó là công lao của người Minh Hương và di dân Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến nay. Trong suốt thời gian đó, cộng đồng người Khmer vui hưởng cuộc sống bình yên, những chùa chiền lớn, "wat" theo văn hóa Xiêm La. Trong những sinh hoạt khác, cộng đồng người Khmer đứng bên lề những tranh chấp và sinh hoạt chính trị.
Có một điều khó hiểu là dân số người Khmer sinh sống tại Việt Nam hiện nay khoảng 1,4 triệu người (2011), nhưng tài liệu của Khmer Krom cho biết là trên 14 triệu người (2005), nghĩa là gấp 10 lần và ngang bằng tổng dân số Campuchia (15,14 triệu người năm 2013). Thật ra dựa vào yếu tố lịch sử để đòi lại đất chỉ là lý cớ, sự giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mới là động cơ chính. Tổ chức Khmer Krom không phải là người trồng cây ăn trái nhưng muốn thu tóm mọi hoa lợi vào tay mình, chỉ giản dị là vậy.
Giải thích thứ ba là yếu tố văn hóa. Tại sao người Khmer dễ ghét người Việt Nam hơn người Thái, mặc dù tất cả những tai họa chính của dân tộc Khmer đều do người Thái gây ra? Chính người Thái đã tiêu diệt các triều vương Angkor. Chính sách cai trị của người Thái chắc chắn phải rất hung bạo để ký ức về triều đại Angkor bị xóa hẳn trong tâm trí người Khmer trong suốt hơn 400 năm (1431-1861).
Chính người Thái đã góp phần làm hao kiệt di sản văn hóa của người Khmer, phần lớn những di tích của nền văn minh Angkor được giới buôn lậu đưa qua Thái bán. Cho tới một ngày gần đây, người Thái còn muốn chiếm di tích Preah Vihear của người Khmer. Trong Thế chiến II, quân Pháp đã rất phải cực nhọc mới xua đuổi quân Thái ra khỏi Battambang và Seam Reap. Cũng chính người Thái đã cho Khmer Đỏ lập căn cứ trên lãnh thổ của mình để chống lại chính quyền Phnom Penh từ 1979 đến 1989. Có điều lạ là không người Khmer nào tỏ ra thù ghét người Thái.
Với người Việt Nam thì ngược lại, làm ơn đôi khi còn mang họa. Mỗi khi bị đe dọa, người Khmer nhờ cậy người Việt Nam vào giúp đỡ. Khi kẻ thù bị đánh đuổi ra khỏi lãnh thổ, những người mang ơn thường quay ngược khí giới chống lại Việt Nam. Có cái gì không bình thường trong cách cư xử này.
Có lẽ người Khmer thuộc văn hóa Ấn Độ nên chỉ thích giao lưu với người cùng văn hóa (cũng như Việt Nam với Trung Quốc), Việt Nam thuộc văn hóa Trung Hoa nên rất khó hiểu nhau và hợp tác. Nắm được lý giải này mới hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam đã bỏ mạng để bảo vệ người Khmer, nhưng công lao này thường hay quên lãng và đôi khi còn bị hiểu lầm. Khi rút quân khỏi Campuchia, hài cốt nhưng người lính Việt Nam đều được mang về nước vì sợ bị phá hoại. Hành trình thông cảm lẫn nhau có lẽ còn khá dài.
Nhưng cho dù có thế nào đi nữa, hai dân tộc Campuchia và Việt Nam buộc phải đi với nhau suốt đoạn đường dài còn lại. Không quốc gia nào chọn láng giềng, chúng ta phải tìm cách sống chung với nhau trong khôn ngoan và hòa bình. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chính sách bài Việt Nam có thể thỏa mãn kết quả của những cuộc tranh cử nhưng chỉ mang lại tiêu cực và không giải quyết được quan hệ giữa hai dân tộc.
Người ta chỉ gặt những gì được gieo trồng, do đó phải cẩn thận. Giải pháp hay nhất để hóa giải tâm lý hận thù là tìm cách đối thoại với nhau trong tinh thần tương kính, và nhất là tránh không bị chi phối bởi những định kiến.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tiến sỹ Nguyễn Văn Huy từ Paris, Pháp.Diễn đàn BBC Tiếng Việt mong nhận được các ý kiến khác nhau về chủ đề này, gồm cả các quan điểm phản bác lại tác giả đã đăng.
Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013
Về chiến lược quân sự bất đối xứng của Trung Quốc
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Thứ Sáu, ngày 22/11/2013
TTXVN (Moskva 21/11)
Trang mạng quân sự của Nga mới đây đăng bài viết bình luận, hơn 10 năm trước, Hiệp hội các nhà khoa học Mỹ đã đánh giá rất cao chương trình tên lửa của Trung Quốc trên cơ sở nhìn chung ngành công nghiệp quân sự nước này có vấn đề. Năm 2010, quân đội Trung Quốc thông báo đã bắt đầu thử nghiệm chương trình tên lửa đạn đạo đối hạm Đông Phong DF-21A nhiều tham vọng nhất của nước này.
Năm 2013 xuất hiện một số thông báo rằng tên lửa này được triển khai với số lượng không lớn ở miền Nam Trung Quốc. DF- 21A được chế tạo như loại tên lửa “diệt tàu sân bay”, nhằm chế ngự các nhóm tàu sân bay Mỹ trong trường hợp xẩy ra xung đột tại Đài Loan hay vùng lãnh thổ tranh chấp trên biển Hoa Nam (Biển Đông).
Quyết định của Trung Quốc sử đụng tên lửa đạn đạo đối hạm là bất thường nếu biết rằng sử dụng tên lửa đạn đạo nhằm vào tàu đang di chuyển phức tạp hơn nhiều và đòi hỏi phải dẫn đường tinh vi hơn so với tên lửa có cánh. Quyết định của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), đặt cược vào loại vũ khí này (ASBM) cho thấy niềm tin ngày càng lớn và sự phát triển của ngành công nghiệp quân sự Trung Quốc.
Các nhà phân tích đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về tác động của hệ thống mới đối với quân đội Mỹ. Không có gì ngạc nhiên khi một số chuyên gia cho rằng đây lá yếu tố quyết định làm thay đổi cán cân quân sự và là hiểm họa với lực lượng Mỹ trong khu vực. Các chuyên gia khác thì cho rằng có một số phương án, theo đó có thể không cần sử dụng ASBM, như tạo ra các mục tiêu giả hay nhằm vào các hệ thống hỗ trợ và thông tin, Dù cả 2 trường phái đều đưa ra những lập luận có lý, song không nên xem xét ASBM một cách biệt lập mà như một phần trong tiến trình lớn hơn hiện đại hóa quân đội và thay đổi học thuyết quân sự của PLA.
Các nhà hoạch định chiến lược Trung Quốc trong nhiều thế kỷ vẫn ưa thích cách tiếp cận phương thức tiến hành chiến tranh bất đối xứng. Trung Quốc không ảo tưởng trước sự thiếu chuẩn bị của quân đội trong cuộc chiến chống lại Mỹ và hiểu rằng hiện họ còn thua kém Mỹ về quân sự ít nhất 2 thập kỷ. Chính vì thế PL A đang phát triển một loạt chiến lược bất đối xứng để răn đe cho tới khi sức mạnh quân sự của họ đủ khả năng đối đầu với Mỹ.
Xét đến sự phụ thuộc của Mỹ vào liên lạc vệ tinh và vũ trụ để tiến hành thậm chí những hoạt động chiến tranh cơ bản nhất PLA đã đầu tư đáng kể để phát triển vũ khí chống vệ tinh. Tháng 1/2007, Trung Quốc phóng tên lửa chống vệ tinh đầu tiên của nước này, phá hủy một vệ tinh cũ của mình trong vũ trụ. Tháng 5/2013, Trung Quốc phóng một tên lửa không tải vào vũ trụ. Tên lửa này bay được 10 000km và là vụ phóng tên lửa xa nhất kể từ giữa những năm 1970. Việc tên lửa không mang theo vệ tinh có thể hiểu là tên lửa này được thiết kế cho mục đích chống vệ tinh. Cùng với tên lửa Trung Quốc còn thử nghiệm vũ khí laser xanh lá cây và xanh da trời, đều trùng với những nghi ngờ của quân đội Mỹ về vụ bắn chùm tia laser vào các vệ tinh của nước này. Năng lượng laser có thể làm gián đoạn liên lạc của vệ tinh, và tùy vào sức mạnh, có thể phá hủy vệ tinh.
Chương trình tên lửa của Trung Quốc cũng phát triển ổn định và phần nào tăng tính chính xác cũng như nhanh chóng hoàn thiện tầm bắn. Tiến bộ của dự án tên lửa cũng đi kèm với tiến triển trong dự án vũ trụ, được thể hiện rõ nét qua số vệ tinh phóng đi ngày càng tăng cũng như độ phức tạp của chương trình. Chương trình Mặt Trăng là sự thể hiện rõ nét ưu tiên vũ trụ của Trung Quốc.
Chiến lược quân sự bất đối xứng của PLA không chỉ giới hạn trong lĩnh vục vũ trụ, mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác – trên bộ, trên biển, trên không và không gian mạng. Ví dụ trên biển, hải quân Trung Quốc không tập trung vào cách thức chống tàu sân bay Mỹ bằng tàu sân bay, hay dùng tàu chiến chống tàu chiến như tư duy của một số người. Trung Quốc triển khai số lượng ngày càng lớn các tàu ngầm tấn công trang bị vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân, đồng thời số lượng thủy thủ trên tàu ngầm – chiếm 45% toàn hạm đội. Đây là tỷ lệ cao nhất trong tất cả các hạm đội lớn trên thế giới.
Ngoài tàu ngầm, hải quân Trung Quốc còn đặt hàng nghìn tên lửa, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo trên đất liền. Họ cũng phát triển hàng chục tàu cao tốc bí mật trang bị tên lửa, như tàu hai thân lớp Hầu Bắc. Ở khu vực nước nông và duyên hải, các tàu này có thể tác chiến rất hiệu quả chống lại tàu cỡ lớn hơn, đặc biệt khi áp dụng chiến thuật “bầy đàn”.
Một lĩnh vực khác tạo ưu thế cho PLA là chiến tranh không gian mạng. Từ năm 2000, quân đội Trung Quốc đã thảo luận mô hình chiến tranh tổng lực hay chiến tranh không hạn chế trong đó PLA sẽ sử dụng các chiến thuật bất đối xứng trên mọi chiến trường. Công trình nổi tiếng nhất của Trung Quốc liên quan tới chiến tranh bất đối xứng do 2 đại tá của PLA viết năm 1999, với nhan đề “chiến tranh không hạn chế”, hay chiến tranh không biên giới.
Các vụ tấn công mạng gần đây cũng như các vụ thâm nhập nhậy cảm đối với Mỹ và các nước phát triển khác có mục đích nhằm thể hiện sức mạnh ngày càng tăng của vũ khí mạng Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, các cơ sở giáo dục Trung Quốc, như Viện Khoa học quân sự, Học viện Quốc phòng và Học viện Hải quân đã dành thời gian đáng kể để nghiên cứu các chiến dịch quân sự của phương Tây. Cuộc xung đột Arập-Israel, trong đó có cuộc chiến thứ 2 tại Liban, đem lại cho Trung Quốc vô số ví dụ, theo đó việc bố trí tên lửa trên biển có thể gây thiệt hại lớn cho một hạm đội tiên tiến.
Mặc dù sự trung thành đối với chiến tranh bất đối xứng của Trung Quốc không phải là điều mới, song mô hình này đã nhanh chóng phát triển từ lý thuyết sang thực hành, và trở thành cách tiếp cận chính. Không nên cho rằng PLA sẽ chỉ trông cậy vào chiến lược bất đối xứng. Trên thực tế khi Trung Quốc thu hẹp khoảng cách về công nghệ, rất nhiều chính sách của nước này sẽ được phổ biến. Tuy nhiên tính tới sự ưa chuộng cả nghìn năm, yếu tố bất đối xứng nhiều khả năng vẫn sẽ là chiến lược chủ đạo. Ngược lại Mỹ ít quan tâm tới cuộc chiến bất đối xứng và các hình thức chiến tranh phi chuẩn mực khác. Cái gọi là hành động quân sự theo phong cách Mỹ chú trọng tới hỏa lực tấn công và xem nhẹ các yếu tố phòng thủ.
Vấn đề không phải nằm ở chỗ liệu Mỹ có thể chế ngự được một hệ thống cá biệt mà là liệu họ có thể hiểu được bản chất của các chiến lược bất đối xứng trong toàn bộ các khu vực chiến trường hay không. Hạm trưởng Scott Dzhaspar, người có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hải quân và là chuyên gia chiến tranh chống tàu ngầm cho rằng “tên lửa đạn đạo và hành trình kết hợp với tàu ngâm và tàu cao tốc mang tên lửa có thể kết liễu tàu sân bay. Một lượng lớn tên lửa. Với các biện pháp đối phó hiện đại chống nhiễu sóng vô tuyến có thể vô hiệu hóa các hệ thống tiên tiến nhất của chúng tôi như Aegis”
Trên thực tế, trong cuộc chiến năm 2006 chống Israel, Hezbollah đã phóng một loạt tên lửa do Trung Quốc chế tạo được Iran cung cấp vào tàu hộ tống lớp Eliat của Israel, khiến cho 4 thủy thủ thiệt mạng. Tàu hộ tống này được coi là tàu tiên tiến nhất trong các tàu hộ tống trên thế giới.
Mặc dù Mỹ sẽ duy trì ưu thế quân sự của mình trong tương lai gần nhưng Trung Quốc vẫn có khả năng làm suy yếu ưu thế đó. Điều này có thể có tác động tích cực cho cả hai bên, vì hai siêu cường sẽ kiềm chế lẫn nhau Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau và chia sẻ nhiều lợi ích, Các mối quan hệ có lợi đó có thể làm giảm nguy cơ xung đột. Tuy nhiên cần nhớ rằng trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới thế kỷ trước Đức đều là đối tác thương mại chính của Anh./.
Theo Ba Sàm
0
Thứ Sáu, ngày 22/11/2013
TTXVN (Moskva 21/11)
Trang mạng quân sự của Nga mới đây đăng bài viết bình luận, hơn 10 năm trước, Hiệp hội các nhà khoa học Mỹ đã đánh giá rất cao chương trình tên lửa của Trung Quốc trên cơ sở nhìn chung ngành công nghiệp quân sự nước này có vấn đề. Năm 2010, quân đội Trung Quốc thông báo đã bắt đầu thử nghiệm chương trình tên lửa đạn đạo đối hạm Đông Phong DF-21A nhiều tham vọng nhất của nước này.
Năm 2013 xuất hiện một số thông báo rằng tên lửa này được triển khai với số lượng không lớn ở miền Nam Trung Quốc. DF- 21A được chế tạo như loại tên lửa “diệt tàu sân bay”, nhằm chế ngự các nhóm tàu sân bay Mỹ trong trường hợp xẩy ra xung đột tại Đài Loan hay vùng lãnh thổ tranh chấp trên biển Hoa Nam (Biển Đông).
Quyết định của Trung Quốc sử đụng tên lửa đạn đạo đối hạm là bất thường nếu biết rằng sử dụng tên lửa đạn đạo nhằm vào tàu đang di chuyển phức tạp hơn nhiều và đòi hỏi phải dẫn đường tinh vi hơn so với tên lửa có cánh. Quyết định của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), đặt cược vào loại vũ khí này (ASBM) cho thấy niềm tin ngày càng lớn và sự phát triển của ngành công nghiệp quân sự Trung Quốc.
Các nhà phân tích đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về tác động của hệ thống mới đối với quân đội Mỹ. Không có gì ngạc nhiên khi một số chuyên gia cho rằng đây lá yếu tố quyết định làm thay đổi cán cân quân sự và là hiểm họa với lực lượng Mỹ trong khu vực. Các chuyên gia khác thì cho rằng có một số phương án, theo đó có thể không cần sử dụng ASBM, như tạo ra các mục tiêu giả hay nhằm vào các hệ thống hỗ trợ và thông tin, Dù cả 2 trường phái đều đưa ra những lập luận có lý, song không nên xem xét ASBM một cách biệt lập mà như một phần trong tiến trình lớn hơn hiện đại hóa quân đội và thay đổi học thuyết quân sự của PLA.
Các nhà hoạch định chiến lược Trung Quốc trong nhiều thế kỷ vẫn ưa thích cách tiếp cận phương thức tiến hành chiến tranh bất đối xứng. Trung Quốc không ảo tưởng trước sự thiếu chuẩn bị của quân đội trong cuộc chiến chống lại Mỹ và hiểu rằng hiện họ còn thua kém Mỹ về quân sự ít nhất 2 thập kỷ. Chính vì thế PL A đang phát triển một loạt chiến lược bất đối xứng để răn đe cho tới khi sức mạnh quân sự của họ đủ khả năng đối đầu với Mỹ.
Xét đến sự phụ thuộc của Mỹ vào liên lạc vệ tinh và vũ trụ để tiến hành thậm chí những hoạt động chiến tranh cơ bản nhất PLA đã đầu tư đáng kể để phát triển vũ khí chống vệ tinh. Tháng 1/2007, Trung Quốc phóng tên lửa chống vệ tinh đầu tiên của nước này, phá hủy một vệ tinh cũ của mình trong vũ trụ. Tháng 5/2013, Trung Quốc phóng một tên lửa không tải vào vũ trụ. Tên lửa này bay được 10 000km và là vụ phóng tên lửa xa nhất kể từ giữa những năm 1970. Việc tên lửa không mang theo vệ tinh có thể hiểu là tên lửa này được thiết kế cho mục đích chống vệ tinh. Cùng với tên lửa Trung Quốc còn thử nghiệm vũ khí laser xanh lá cây và xanh da trời, đều trùng với những nghi ngờ của quân đội Mỹ về vụ bắn chùm tia laser vào các vệ tinh của nước này. Năng lượng laser có thể làm gián đoạn liên lạc của vệ tinh, và tùy vào sức mạnh, có thể phá hủy vệ tinh.
Chương trình tên lửa của Trung Quốc cũng phát triển ổn định và phần nào tăng tính chính xác cũng như nhanh chóng hoàn thiện tầm bắn. Tiến bộ của dự án tên lửa cũng đi kèm với tiến triển trong dự án vũ trụ, được thể hiện rõ nét qua số vệ tinh phóng đi ngày càng tăng cũng như độ phức tạp của chương trình. Chương trình Mặt Trăng là sự thể hiện rõ nét ưu tiên vũ trụ của Trung Quốc.
Chiến lược quân sự bất đối xứng của PLA không chỉ giới hạn trong lĩnh vục vũ trụ, mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác – trên bộ, trên biển, trên không và không gian mạng. Ví dụ trên biển, hải quân Trung Quốc không tập trung vào cách thức chống tàu sân bay Mỹ bằng tàu sân bay, hay dùng tàu chiến chống tàu chiến như tư duy của một số người. Trung Quốc triển khai số lượng ngày càng lớn các tàu ngầm tấn công trang bị vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân, đồng thời số lượng thủy thủ trên tàu ngầm – chiếm 45% toàn hạm đội. Đây là tỷ lệ cao nhất trong tất cả các hạm đội lớn trên thế giới.
Ngoài tàu ngầm, hải quân Trung Quốc còn đặt hàng nghìn tên lửa, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo trên đất liền. Họ cũng phát triển hàng chục tàu cao tốc bí mật trang bị tên lửa, như tàu hai thân lớp Hầu Bắc. Ở khu vực nước nông và duyên hải, các tàu này có thể tác chiến rất hiệu quả chống lại tàu cỡ lớn hơn, đặc biệt khi áp dụng chiến thuật “bầy đàn”.
Một lĩnh vực khác tạo ưu thế cho PLA là chiến tranh không gian mạng. Từ năm 2000, quân đội Trung Quốc đã thảo luận mô hình chiến tranh tổng lực hay chiến tranh không hạn chế trong đó PLA sẽ sử dụng các chiến thuật bất đối xứng trên mọi chiến trường. Công trình nổi tiếng nhất của Trung Quốc liên quan tới chiến tranh bất đối xứng do 2 đại tá của PLA viết năm 1999, với nhan đề “chiến tranh không hạn chế”, hay chiến tranh không biên giới.
Các vụ tấn công mạng gần đây cũng như các vụ thâm nhập nhậy cảm đối với Mỹ và các nước phát triển khác có mục đích nhằm thể hiện sức mạnh ngày càng tăng của vũ khí mạng Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, các cơ sở giáo dục Trung Quốc, như Viện Khoa học quân sự, Học viện Quốc phòng và Học viện Hải quân đã dành thời gian đáng kể để nghiên cứu các chiến dịch quân sự của phương Tây. Cuộc xung đột Arập-Israel, trong đó có cuộc chiến thứ 2 tại Liban, đem lại cho Trung Quốc vô số ví dụ, theo đó việc bố trí tên lửa trên biển có thể gây thiệt hại lớn cho một hạm đội tiên tiến.
Mặc dù sự trung thành đối với chiến tranh bất đối xứng của Trung Quốc không phải là điều mới, song mô hình này đã nhanh chóng phát triển từ lý thuyết sang thực hành, và trở thành cách tiếp cận chính. Không nên cho rằng PLA sẽ chỉ trông cậy vào chiến lược bất đối xứng. Trên thực tế khi Trung Quốc thu hẹp khoảng cách về công nghệ, rất nhiều chính sách của nước này sẽ được phổ biến. Tuy nhiên tính tới sự ưa chuộng cả nghìn năm, yếu tố bất đối xứng nhiều khả năng vẫn sẽ là chiến lược chủ đạo. Ngược lại Mỹ ít quan tâm tới cuộc chiến bất đối xứng và các hình thức chiến tranh phi chuẩn mực khác. Cái gọi là hành động quân sự theo phong cách Mỹ chú trọng tới hỏa lực tấn công và xem nhẹ các yếu tố phòng thủ.
Vấn đề không phải nằm ở chỗ liệu Mỹ có thể chế ngự được một hệ thống cá biệt mà là liệu họ có thể hiểu được bản chất của các chiến lược bất đối xứng trong toàn bộ các khu vực chiến trường hay không. Hạm trưởng Scott Dzhaspar, người có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hải quân và là chuyên gia chiến tranh chống tàu ngầm cho rằng “tên lửa đạn đạo và hành trình kết hợp với tàu ngâm và tàu cao tốc mang tên lửa có thể kết liễu tàu sân bay. Một lượng lớn tên lửa. Với các biện pháp đối phó hiện đại chống nhiễu sóng vô tuyến có thể vô hiệu hóa các hệ thống tiên tiến nhất của chúng tôi như Aegis”
Trên thực tế, trong cuộc chiến năm 2006 chống Israel, Hezbollah đã phóng một loạt tên lửa do Trung Quốc chế tạo được Iran cung cấp vào tàu hộ tống lớp Eliat của Israel, khiến cho 4 thủy thủ thiệt mạng. Tàu hộ tống này được coi là tàu tiên tiến nhất trong các tàu hộ tống trên thế giới.
Mặc dù Mỹ sẽ duy trì ưu thế quân sự của mình trong tương lai gần nhưng Trung Quốc vẫn có khả năng làm suy yếu ưu thế đó. Điều này có thể có tác động tích cực cho cả hai bên, vì hai siêu cường sẽ kiềm chế lẫn nhau Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau và chia sẻ nhiều lợi ích, Các mối quan hệ có lợi đó có thể làm giảm nguy cơ xung đột. Tuy nhiên cần nhớ rằng trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới thế kỷ trước Đức đều là đối tác thương mại chính của Anh./.
Theo Ba Sàm
Ấn Độ giúp Việt Nam hiện đại hóa quốc phòng
New Delhi: Ấn Độ đã bắt đầu thực hiện công tác đào tạo các kíp thủy thủ vận hành tàu ngầm Lớp Kilo cho hải quân Việt Nam, bao gồm từ những thao tác cơ bản cho đến những kỹ năng chiến thuật tác chiến phức tạp của tàu ngầm, khi mà cả hai quốc gia quyết định tiếp tục mở rộng mối quan hệ quân sự song phương.
Mô phỏng tàu ngầm Lớp Kilo 636 Việt Nam chiến đấu trên biển Đông - Trịnh Thái Bằng
Cả hai quốc gia đều có sự cảnh giác với các hành vi quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mối quan hệ hợp tác quân sự giữa Ấn Độ và Việt Nam diễn ra chậm nhưng đều đặn và đều nằm trong khuôn khổ hợp tác huấn luyện và "xây dựng năng lực quốc phòng" cũng như trong khai thác dầu khí trên Biển Đông và đã gây nên sự bất mãn cho Bắc Kinh đến nay vẫn chưa nguôi.
Trong cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng hôm thứ tư, hai bên đã đồng ý rằng Ấn Độ sẽ chuyển giao bốn tàu tuần tra cho lực lượng hải quân Việt Nam theo một hạn mức tín dụng 100 triệu USD.
Ấn Độ sẽ đào tạo các kíp thủy thủ vận hành tàu ngầm Lớp Kilo 636 cho Việt Nam tại trường tàu ngầm của hải quân Ấn Độ, INS Satavahana, ở thành phố Vishakapatnam. Tại đây các học viên sẽ được đào tạo toàn diện về các kỹ năng chiến thuật chiến đấu phức tạp trên cả tàu ngầm hiện đại và thiết bị mô phỏng. Đây là một sáng kiến hợp tác song phương lớn trong mối quan hệ đối tác chiến lược đang lên giữa Việt Nam và Ấn Độ.
Tàu chiến săn ngầm Lớp Petya được sự giúp đỡ của Ấn Độ nâng cấp đã cải thiện đáng kể khả năng săn ngầm cho lực lượng hải quân Việt Nam trên Biển Đông - Ảnh TTVNOL
Trong khi đó "Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ấn Độ AK Antony đã hứa rằng sẽ giúp đỡ Việt Nam với tất cả các nỗ lực của mình trong việc củng cố và nâng cao năng lực quốc phòng. Hiện tại đã có vài trăm cán bộ và chiến sỹ Việt Nam, cùng với các phiên dịch, tại Vizag. Hơn 500 thủy thủ vận hành tàu ngầm Việt Nam sẽ được hải quân Ấn Độ đào tạo theo từng đợt," một quan chức cao cấp Bộ Quốc phòng Ấn Độ tiết lộ.
Hành vi hung hãn của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như những yêu sách về chủ quyền của các nước như Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia, đã khơi dậy mối quan tâm trong khu vực. Việt Nam đã thực hiện các bước để tăng cường khả năng quân sự của mình, bao gồm cả việc chuẩn bị về mọi mặt cho việc tiếp nhận, vận hành và sẵn sàng chiến đấu với sáu tàu ngầm Lớp Kilo của Nga.
Clip mô phỏng tàu ngầm Kilo Hải quân Việt Nam chiến đấu - Trịnh Thái Bằng
Hải quân Ấn Độ đã được trang bị tàu ngầm Lớp Kilo của Nga trong một thời gian dài, từ những năm 1980, Ấn Độ sẽ giúp Việt Nam vận hành và xử lý các tình huống trên những chiếc tàu ngầm mới của họ. Trong những năm trước, Ấn Độ đã cung cấp các phụ tùng thay thế và sửa chữa cho loại tàu chiến săn ngầm Petya và tàu tên lửa Ong Bắp Cày OSA- II của Hải quân Việt Nam, ngoài việc tiếp tục giúp đào tạo các cán bộ quân sự trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì Ấn Độ còn giúp đào tạo về kỹ năng Anh ngữ.
"Ấn Độ sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo các cán bộ lực lượng quốc phòng và an ninh cũng như trong việc hiện đại hóa quân đội Việt Nam, như việc cung cấp khoản tín dụng 100 triệu USD cho công việc mua sắm quốc phòng," Thủ tướng Manmohan Singh cho biết hôm thứ Tư.
Tàu chiến Ấn Độ cũng đã "đối mặt" với lực lượng Hải quân Trung Quốc trên biển Đông, Ấn Độ đã phải yêu cầu Trung Quốc phải tôn trọng quyền "tự do lưu thông hàng hải trong vùng biển quốc tế" và các quyền khác theo các nguyên tắc đã được quy định của luật pháp quốc tế.
0
Mô phỏng tàu ngầm Lớp Kilo 636 Việt Nam chiến đấu trên biển Đông - Trịnh Thái Bằng
Cả hai quốc gia đều có sự cảnh giác với các hành vi quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mối quan hệ hợp tác quân sự giữa Ấn Độ và Việt Nam diễn ra chậm nhưng đều đặn và đều nằm trong khuôn khổ hợp tác huấn luyện và "xây dựng năng lực quốc phòng" cũng như trong khai thác dầu khí trên Biển Đông và đã gây nên sự bất mãn cho Bắc Kinh đến nay vẫn chưa nguôi.
Trong cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng hôm thứ tư, hai bên đã đồng ý rằng Ấn Độ sẽ chuyển giao bốn tàu tuần tra cho lực lượng hải quân Việt Nam theo một hạn mức tín dụng 100 triệu USD.
Ấn Độ sẽ đào tạo các kíp thủy thủ vận hành tàu ngầm Lớp Kilo 636 cho Việt Nam tại trường tàu ngầm của hải quân Ấn Độ, INS Satavahana, ở thành phố Vishakapatnam. Tại đây các học viên sẽ được đào tạo toàn diện về các kỹ năng chiến thuật chiến đấu phức tạp trên cả tàu ngầm hiện đại và thiết bị mô phỏng. Đây là một sáng kiến hợp tác song phương lớn trong mối quan hệ đối tác chiến lược đang lên giữa Việt Nam và Ấn Độ.
Tàu chiến săn ngầm Lớp Petya được sự giúp đỡ của Ấn Độ nâng cấp đã cải thiện đáng kể khả năng săn ngầm cho lực lượng hải quân Việt Nam trên Biển Đông - Ảnh TTVNOL
Trong khi đó "Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ấn Độ AK Antony đã hứa rằng sẽ giúp đỡ Việt Nam với tất cả các nỗ lực của mình trong việc củng cố và nâng cao năng lực quốc phòng. Hiện tại đã có vài trăm cán bộ và chiến sỹ Việt Nam, cùng với các phiên dịch, tại Vizag. Hơn 500 thủy thủ vận hành tàu ngầm Việt Nam sẽ được hải quân Ấn Độ đào tạo theo từng đợt," một quan chức cao cấp Bộ Quốc phòng Ấn Độ tiết lộ.
Hành vi hung hãn của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như những yêu sách về chủ quyền của các nước như Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia, đã khơi dậy mối quan tâm trong khu vực. Việt Nam đã thực hiện các bước để tăng cường khả năng quân sự của mình, bao gồm cả việc chuẩn bị về mọi mặt cho việc tiếp nhận, vận hành và sẵn sàng chiến đấu với sáu tàu ngầm Lớp Kilo của Nga.
Clip mô phỏng tàu ngầm Kilo Hải quân Việt Nam chiến đấu - Trịnh Thái Bằng
Hải quân Ấn Độ đã được trang bị tàu ngầm Lớp Kilo của Nga trong một thời gian dài, từ những năm 1980, Ấn Độ sẽ giúp Việt Nam vận hành và xử lý các tình huống trên những chiếc tàu ngầm mới của họ. Trong những năm trước, Ấn Độ đã cung cấp các phụ tùng thay thế và sửa chữa cho loại tàu chiến săn ngầm Petya và tàu tên lửa Ong Bắp Cày OSA- II của Hải quân Việt Nam, ngoài việc tiếp tục giúp đào tạo các cán bộ quân sự trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì Ấn Độ còn giúp đào tạo về kỹ năng Anh ngữ.
"Ấn Độ sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo các cán bộ lực lượng quốc phòng và an ninh cũng như trong việc hiện đại hóa quân đội Việt Nam, như việc cung cấp khoản tín dụng 100 triệu USD cho công việc mua sắm quốc phòng," Thủ tướng Manmohan Singh cho biết hôm thứ Tư.
Tàu chiến Ấn Độ cũng đã "đối mặt" với lực lượng Hải quân Trung Quốc trên biển Đông, Ấn Độ đã phải yêu cầu Trung Quốc phải tôn trọng quyền "tự do lưu thông hàng hải trong vùng biển quốc tế" và các quyền khác theo các nguyên tắc đã được quy định của luật pháp quốc tế.
TheoTimesofindia
Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013
Quân sự Mỹ-Việt và chính sách "ba không"
Bài viết của GS Carlyle A. Thayer, Học viện Quốc phòng Australia, đăng trên BBC.
Phản ứng cứu trợ nhanh chóng của Hoa Kỳ trước sự tàn phá của cơn bão Haiyan ở Philippines là kết quả của sự tập luyện nhuần nhuyễn về cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai của quân đội Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ bắt đầu chú trọng tới cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai sau Chiến tranh Lạnh khi hai hoạt động này nằm trong số các vấn đề an ninh phi truyền thống mà các quốc gia nhấn mạnh tới.
Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nhìn lại phản ứng cả quyết của Hoa Kỳ sau khi sóng thần ập vào Indonesia hồi năm 2004.
Một năm sau đó Hoa Kỳ lại có lực lượng cứu trợ cho Myanmar sau bão Nargis nhưng không được tham gia trực tiếp do thái độ của chính quyền Myanmar.
Hoa Kỳ có thể phản ứng rất nhanh tại Philippines vì quân đội hai bên đã bao gồm cả cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai vào hàng loạt các chương trình tập trận chung thường niên.
Nói cách khác, Hoa Kỳ và Philippines đã bàn bạc từ trước về thể thức trợ giúp của nước ngoài, các thủ tục hoạt động và các hoạt động tương hỗ.
Quân đội Hoa Kỳ sẵn sàng thực hiện cứu trợ nhân đạo cho bất cứ nước nào ở Châu Á Thái Bình Dương bất chấp liên hệ quân sự của họ với nước đó ra sao, dù là đồng minh, đối tác chiến lược hay một dạng quan hệ nào khác.
Dĩ nhiên Philippines là trường hợp đặc biệt vì quan hệ lâu dài giữa hai nước từ thời thuộc địa.
Cử tri người Philippines ở Hoa Kỳ cũng có vai trò quan trọng. Và Philippines là đồng minh đã ký hiệp ước với Hoa Kỳ.
"Ba không"
Khả năng quân đội Hoa Kỳ trở lại Cảng Cam Ranh trong tương lai gần là khó xảy ra.
Việt Nam có chính sách "ba không" - không liên minh quân sự, không căn cứ quân sự và không sử dụng quan hệ song phương nhắm vào nước thứ ba.
Việt Nam cũng có khả năng tương đối tốt để ứng phó với các thảm họa tự nhiên quy mô lớn.
Dĩ nhiên bất cứ nước nào cũng có thể bị choáng ngợp bởi thảm họa tự nhiên lớn và cần sự trợ giúp của nước ngoài.
Hoa Kỳ và Việt Nam đã bao gồm cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai trong Biên bản Ghi nhớ quốc phòng.
Điều này cho phép Việt Nam nhận sự trợ giúp từ Hoa Kỳ và các nước khác trong trường hợp có tình trạng khẩn cấp quốc gia.
Khả năng ứng phó trước thảm họa tự nhiên của Hoa Kỳ sẽ được cải thiện cùng với sự hiện diện luân phiên của binh lính Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, nhất là ở Philippines.
Hoa Kỳ cũng thúc đẩy hợp tác và hoạt động tương hỗ trong lĩnh vực tìm kiếm và cứu hộ ở cả Việt Nam và Philippines.
Hiện tại Vịnh Cam Ranh được chia ra làm ba khu vực: vùng quân sự của Việt Nam, khu vực dân sự và một khu mới phát triển dành cho sửa chữa và bảo trì tàu quân sự.
Có tin nói Nga, nước đang trợ giúp Việt Nam trong việc bảo trì tàu ngầm hạng Kilo, đang muốn có đặc quyền vào khu mới này.
Cho tới nay Việt Nam mới chỉ cho các tàu phi tác chiến của Hoa Kỳ cập cảng Cam Ranh để sửa chữa. Các tàu này thuộc Tư lệnh Hải vận của Hoa Kỳ.
Kịch bản có khả năng diễn ra nhất trong lĩnh vực cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai là Việt Nam cho phép máy bay và/hoặc các tàu hải quân Hoa Kỳ vào phi trường hay hải cảng của họ tron phòng chống thiên tai lớn ở Việt Nam hay ở quốc gia lân bang.
Và kịch bản này chỉ xảy ra trong tình huống đặc biệt.
Khi Hoa Kỳ và Philippines đồng ý được với nhau về mặt pháp lý để thực thi Tuyên bố Tầm nhìn Chung của họ, người ta sẽ thấy số quân luân phiên của Hoa Kỳ ở Philippines tăng đáng kể.
Nó cũng bao gồm dự trữ đồ tiếp tế phòng khi có thiên tai.
Như vậy Cảng Cam Ranh sẽ thành thừa.
5
Phản ứng cứu trợ nhanh chóng của Hoa Kỳ trước sự tàn phá của cơn bão Haiyan ở Philippines là kết quả của sự tập luyện nhuần nhuyễn về cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai của quân đội Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ bắt đầu chú trọng tới cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai sau Chiến tranh Lạnh khi hai hoạt động này nằm trong số các vấn đề an ninh phi truyền thống mà các quốc gia nhấn mạnh tới.
Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nhìn lại phản ứng cả quyết của Hoa Kỳ sau khi sóng thần ập vào Indonesia hồi năm 2004.
Một năm sau đó Hoa Kỳ lại có lực lượng cứu trợ cho Myanmar sau bão Nargis nhưng không được tham gia trực tiếp do thái độ của chính quyền Myanmar.
Hoa Kỳ có thể phản ứng rất nhanh tại Philippines vì quân đội hai bên đã bao gồm cả cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai vào hàng loạt các chương trình tập trận chung thường niên.
Nói cách khác, Hoa Kỳ và Philippines đã bàn bạc từ trước về thể thức trợ giúp của nước ngoài, các thủ tục hoạt động và các hoạt động tương hỗ.
Quân đội Hoa Kỳ sẵn sàng thực hiện cứu trợ nhân đạo cho bất cứ nước nào ở Châu Á Thái Bình Dương bất chấp liên hệ quân sự của họ với nước đó ra sao, dù là đồng minh, đối tác chiến lược hay một dạng quan hệ nào khác.
Dĩ nhiên Philippines là trường hợp đặc biệt vì quan hệ lâu dài giữa hai nước từ thời thuộc địa.
Cử tri người Philippines ở Hoa Kỳ cũng có vai trò quan trọng. Và Philippines là đồng minh đã ký hiệp ước với Hoa Kỳ.
"Ba không"
Khả năng quân đội Hoa Kỳ trở lại Cảng Cam Ranh trong tương lai gần là khó xảy ra.
Việt Nam có chính sách "ba không" - không liên minh quân sự, không căn cứ quân sự và không sử dụng quan hệ song phương nhắm vào nước thứ ba.
Việt Nam cũng có khả năng tương đối tốt để ứng phó với các thảm họa tự nhiên quy mô lớn.
Dĩ nhiên bất cứ nước nào cũng có thể bị choáng ngợp bởi thảm họa tự nhiên lớn và cần sự trợ giúp của nước ngoài.
Hoa Kỳ và Việt Nam đã bao gồm cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai trong Biên bản Ghi nhớ quốc phòng.
Điều này cho phép Việt Nam nhận sự trợ giúp từ Hoa Kỳ và các nước khác trong trường hợp có tình trạng khẩn cấp quốc gia.
Hoa Kỳ cũng thúc đẩy hợp tác và hoạt động tương hỗ trong lĩnh vực tìm kiếm và cứu hộ ở cả Việt Nam và Philippines.
Hiện tại Vịnh Cam Ranh được chia ra làm ba khu vực: vùng quân sự của Việt Nam, khu vực dân sự và một khu mới phát triển dành cho sửa chữa và bảo trì tàu quân sự.
Có tin nói Nga, nước đang trợ giúp Việt Nam trong việc bảo trì tàu ngầm hạng Kilo, đang muốn có đặc quyền vào khu mới này.
Cho tới nay Việt Nam mới chỉ cho các tàu phi tác chiến của Hoa Kỳ cập cảng Cam Ranh để sửa chữa. Các tàu này thuộc Tư lệnh Hải vận của Hoa Kỳ.
Kịch bản có khả năng diễn ra nhất trong lĩnh vực cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai là Việt Nam cho phép máy bay và/hoặc các tàu hải quân Hoa Kỳ vào phi trường hay hải cảng của họ tron phòng chống thiên tai lớn ở Việt Nam hay ở quốc gia lân bang.
Và kịch bản này chỉ xảy ra trong tình huống đặc biệt.
Khi Hoa Kỳ và Philippines đồng ý được với nhau về mặt pháp lý để thực thi Tuyên bố Tầm nhìn Chung của họ, người ta sẽ thấy số quân luân phiên của Hoa Kỳ ở Philippines tăng đáng kể.
Nó cũng bao gồm dự trữ đồ tiếp tế phòng khi có thiên tai.
Như vậy Cảng Cam Ranh sẽ thành thừa.
‘Siêu phẩm’ xe tăng của quân đội Israel
Để đối phó với vấn đề hạt nhân Iran, Israel có thể phải huy động tới kho vũ khí hiện đại của mình, trong đó có cỗ xe tăng bất khả chiến bại Merkava Mk-4.
Xe tăng chiến đấu chủ lực Merkava Mk-4 được xem là niềm tự hào của công nghiệp quốc phòng Israel, xe tăng được chế tạo bởi Tập đoàn Công nghiệp quốc phòng Israel IMI cho quân đội nước này IDF.
Trong gia đình xe tăng Merkava mà IMI đã chế tạo thì Merkava Mk-4 được đánh giá là một “siêu phẩm”. Xe tăng này được thiết kế ở mức gần như hoàn hảo trong cả tấn công lẫn phòng thủ và được đánh giá là chiếc xe tăng được bảo vệ tốt nhất thế giới.
Merkava Mk4 được trang bị hệ thống giáp modun hỗn hợp bao gồm nhiều lớp gốm-thép-hợp kim niken cùng với thiết kế tháp pháo tương đối dốc để làm giảm góc chạm của vũ khí chống tăng. Hai bên hông được trang bị váy bảo vệ làm bằng vật liệu composite.
Xe tăng sử dụng pháo chính nòng trơn 120 mm, súng máy đồng trục 7.62 mm, 1 súng cối 60 mm, đại liên phòng không 12,7 mm. Mk4 được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực rất tiên tiến bao gồm: Máy tính đường đạn ổn định trục có khả năng bắn trong khi xe đang di chuyển, hệ thống tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu quang-hồng ngoại hoạt động bất kể ngày đêm, thiết bị đo xa kiêm chỉ thị mục tiêu laser.
Hệ thống cảnh báo chiếu laser LSW-2, hệ thống thông tin liên lạc VRC-2, hệ thống điều khiển hỏa lực này có thể tóm gọn những mục tiêu di chuyển với tốc độ cao kể cả trực thăng và khóa chúng trong tầm bắn của vũ khí để tiêu diệt.
Cỗ xe tăng bất khả chiến bại
Ngoài hệ thống giáp bảo vệ mạnh mẽ, điều làm nên danh tiếng cỗ xe tăng bất khả chiến bại chính là nhờ hệ thống phòng vệ chủ động Rafale Trophy ASPRO-A. Hệ thống được thiết kế để vô hiệu hóa các mối đe dọa từ tên lửa chống tăng, súng chống tăng cá nhân và đạn pháo.
Rafale Trophy ASPRO-A là một hệ thống phòng vệ chủ động được trang bị cho xe tăng chiến đấu chủ lực, xe bọc thép các loại để đối phó với mối nguy hiểm đến từ tên lửa chống tăng có điều khiển và súng chống tăng cá nhân.
Hệ thống bao gồm một radar EL/M 2133 băng tần F/G, phát hiện, kiểm soát, phân loại các mối đe dọa từ tên lửa chống tăng, radar có 4 ăng ten được gắn trên xe, cung cấp trường quan sát 360 độ, radar được hỗ trợ bởi các cảm biến cảnh báo laser.
Khi một tên lửa chống tăng hay đạn pháo chống tăng được bắn vào xe, máy tính trên xe dựa vào tín hiệu thu được về tên lửa thông qua radar và hệ thống cảm biến để thiết lập và tính toán quỹ đạo bay, góc độ mà tên lửa sẽ tiếp cận xe tăng, một khi mối đe dọa được xác định, máy tính sẽ tính toán thời gian và kích nổ hệ thống phóng các viên kim loại nhỏ về phía tên lửa chống tăng và vô hiệu hóa nó ở khoảng cách an toàn.
Hệ thống kích nổ này được bố trí hai bên hông của chiếc xe, nó sử dụng một cánh tay nạp từ bên trong xe tăng, nó đã được lập trình sẳn để hướng vụ nổ về phía mục tiêu. Trong trường hợp tên lửa chống tăng không bị phá hủy hoàn toàn, năng lượng từ vụ nổ cũng làm giảm đáng kể động năng của tên lửa chống tăng, khiến việc xuyên thủng võ giáp của xe tăng trở nên khó khăn hơn.
Vụ nổ được diễn ra trong một phạm vị hẹp vừa đủ để tiêu diệt tên lửa mà không gây tổn hại đến bộ binh đi kèm. Hệ thống có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, có khả năng đối phó hiệu quả với nhiều mối đe dọa từ tên lửa chống tăng cùng lúc từ mọi hướng. Hệ thống tỏ ra cực kỳ hiệu quả trong điều kiện tác chiến đô thị, nơi mà tầm nhìn của các xe tăng rất hạn chế.
Ngoài chức năng bảo vệ chủ động cho xe tăng, hệ thống còn giúp phát hiện ra chổ trú ẩn của đối phương ngay sau khi tên lửa được phóng ra, đơn vị tham chiến lập tức có thể công kích tiêu diệt đối phương, thông qua đó làm giảm hiệu quả của các loại tên lửa chống tăng có điều khiển bằng dây dẫn.
Theo các thông tin từ IDF, trong chiến tranh Lebanon năm 2006, hơn 40 xe tăng của Israel đã bị tiêu diệt bởi tên lửa chống tăng, hàng năm có rất nhiều xe tăng bị tiêu diệt khi đang làm nhiệm vụ bởi các súng chống tăng cá nhân RPG của Nga được các tay súng của phiến quân Hezbollah sử dụng. Lực lượng tăng thiết giáp của Israel cũng rất khó phát hiện ra chổ trú ẩn của đối phương dẫn đến hiệu quả phản công kém.
Điều này đã dẫn đến nỗ lực phát triển một hệ thống bảo vệ chủ động APS(Active Protection Systems) cho các xe tăng và xe thiết giáp của quân đội Israel. Rafale Trophy ASPRO-A ra đời là kết quả của nỗ lực tuyệt vời của giới khoa học quân sự nước này. Xe tăng Merkava Mk-4 vốn đã nổi tiếng bởi hệ thống giáp bảo vệ tuyệt vời, nay được trang bị thêm hệ thống bảo vệ chủ động APS biến Merkava Mk-4 thành xe tăng bất khả chiến bại
Mỹ cũng đang xúc tiến để phát triển một hệ thống tương tự để trang bị cho các xe tăng và xe thiết giáp của mình.
0
Xe tăng chiến đấu chủ lực Merkava Mk-4 được xem là niềm tự hào của công nghiệp quốc phòng Israel, xe tăng được chế tạo bởi Tập đoàn Công nghiệp quốc phòng Israel IMI cho quân đội nước này IDF.
Trong gia đình xe tăng Merkava mà IMI đã chế tạo thì Merkava Mk-4 được đánh giá là một “siêu phẩm”. Xe tăng này được thiết kế ở mức gần như hoàn hảo trong cả tấn công lẫn phòng thủ và được đánh giá là chiếc xe tăng được bảo vệ tốt nhất thế giới.
Merkava Mk4 được trang bị hệ thống giáp modun hỗn hợp bao gồm nhiều lớp gốm-thép-hợp kim niken cùng với thiết kế tháp pháo tương đối dốc để làm giảm góc chạm của vũ khí chống tăng. Hai bên hông được trang bị váy bảo vệ làm bằng vật liệu composite.
Xe tăng sử dụng pháo chính nòng trơn 120 mm, súng máy đồng trục 7.62 mm, 1 súng cối 60 mm, đại liên phòng không 12,7 mm. Mk4 được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực rất tiên tiến bao gồm: Máy tính đường đạn ổn định trục có khả năng bắn trong khi xe đang di chuyển, hệ thống tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu quang-hồng ngoại hoạt động bất kể ngày đêm, thiết bị đo xa kiêm chỉ thị mục tiêu laser.
Hệ thống cảnh báo chiếu laser LSW-2, hệ thống thông tin liên lạc VRC-2, hệ thống điều khiển hỏa lực này có thể tóm gọn những mục tiêu di chuyển với tốc độ cao kể cả trực thăng và khóa chúng trong tầm bắn của vũ khí để tiêu diệt.
Cỗ xe tăng bất khả chiến bại
Ngoài hệ thống giáp bảo vệ mạnh mẽ, điều làm nên danh tiếng cỗ xe tăng bất khả chiến bại chính là nhờ hệ thống phòng vệ chủ động Rafale Trophy ASPRO-A. Hệ thống được thiết kế để vô hiệu hóa các mối đe dọa từ tên lửa chống tăng, súng chống tăng cá nhân và đạn pháo.
Rafale Trophy ASPRO-A là một hệ thống phòng vệ chủ động được trang bị cho xe tăng chiến đấu chủ lực, xe bọc thép các loại để đối phó với mối nguy hiểm đến từ tên lửa chống tăng có điều khiển và súng chống tăng cá nhân.
Hệ thống bao gồm một radar EL/M 2133 băng tần F/G, phát hiện, kiểm soát, phân loại các mối đe dọa từ tên lửa chống tăng, radar có 4 ăng ten được gắn trên xe, cung cấp trường quan sát 360 độ, radar được hỗ trợ bởi các cảm biến cảnh báo laser.
Khi một tên lửa chống tăng hay đạn pháo chống tăng được bắn vào xe, máy tính trên xe dựa vào tín hiệu thu được về tên lửa thông qua radar và hệ thống cảm biến để thiết lập và tính toán quỹ đạo bay, góc độ mà tên lửa sẽ tiếp cận xe tăng, một khi mối đe dọa được xác định, máy tính sẽ tính toán thời gian và kích nổ hệ thống phóng các viên kim loại nhỏ về phía tên lửa chống tăng và vô hiệu hóa nó ở khoảng cách an toàn.
Hệ thống kích nổ này được bố trí hai bên hông của chiếc xe, nó sử dụng một cánh tay nạp từ bên trong xe tăng, nó đã được lập trình sẳn để hướng vụ nổ về phía mục tiêu. Trong trường hợp tên lửa chống tăng không bị phá hủy hoàn toàn, năng lượng từ vụ nổ cũng làm giảm đáng kể động năng của tên lửa chống tăng, khiến việc xuyên thủng võ giáp của xe tăng trở nên khó khăn hơn.
Vụ nổ được diễn ra trong một phạm vị hẹp vừa đủ để tiêu diệt tên lửa mà không gây tổn hại đến bộ binh đi kèm. Hệ thống có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, có khả năng đối phó hiệu quả với nhiều mối đe dọa từ tên lửa chống tăng cùng lúc từ mọi hướng. Hệ thống tỏ ra cực kỳ hiệu quả trong điều kiện tác chiến đô thị, nơi mà tầm nhìn của các xe tăng rất hạn chế.
Ngoài chức năng bảo vệ chủ động cho xe tăng, hệ thống còn giúp phát hiện ra chổ trú ẩn của đối phương ngay sau khi tên lửa được phóng ra, đơn vị tham chiến lập tức có thể công kích tiêu diệt đối phương, thông qua đó làm giảm hiệu quả của các loại tên lửa chống tăng có điều khiển bằng dây dẫn.
Theo các thông tin từ IDF, trong chiến tranh Lebanon năm 2006, hơn 40 xe tăng của Israel đã bị tiêu diệt bởi tên lửa chống tăng, hàng năm có rất nhiều xe tăng bị tiêu diệt khi đang làm nhiệm vụ bởi các súng chống tăng cá nhân RPG của Nga được các tay súng của phiến quân Hezbollah sử dụng. Lực lượng tăng thiết giáp của Israel cũng rất khó phát hiện ra chổ trú ẩn của đối phương dẫn đến hiệu quả phản công kém.
Điều này đã dẫn đến nỗ lực phát triển một hệ thống bảo vệ chủ động APS(Active Protection Systems) cho các xe tăng và xe thiết giáp của quân đội Israel. Rafale Trophy ASPRO-A ra đời là kết quả của nỗ lực tuyệt vời của giới khoa học quân sự nước này. Xe tăng Merkava Mk-4 vốn đã nổi tiếng bởi hệ thống giáp bảo vệ tuyệt vời, nay được trang bị thêm hệ thống bảo vệ chủ động APS biến Merkava Mk-4 thành xe tăng bất khả chiến bại
Mỹ cũng đang xúc tiến để phát triển một hệ thống tương tự để trang bị cho các xe tăng và xe thiết giáp của mình.
Đăng trong:
Thu vien quoc phong,
Thư viện,
Thư viện quốc phòng
Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013
Các biện pháp quân sự của Mỹ ở châu Á và sách lược đối phó của Trung Quốc
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Chủ Nhật, ngày 17/11/2013
(Tạp chí “ Vòng quanh Đông Nam Á ”, tháng 5/2013)
1. Nguyên nhân của việc Mỹ chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông
Trên thực tế, từ sau khi Chiến tranh Lạnh những năm 90 của thế kỷ 20 kết thúc, Mỹ bắt đầu tiến hành bố trí chiến lược ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong thời kỳ Chính quyền Bill Clinton, xu hướng Mỹ chuyển dịch chiến lược sang phía Đông đã bắt đầu xuất hiện.
Tháng 7/1993, Tổng thống Mỹ Bill Clinton cho rằng: “Thời điểm Mỹ cùng với Nhật Bản và các nước khác trong khu vực này xây dựng ‘Cộng đồng Thái Bình Dương mới’ đã đến. Tháng 11/1993, Tổng thống Bill Clinton lại cho rằng sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, châu Á có lợi ích kinh tế quan trọng đối với Mỹ, vì vậy, sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ sẽ chuyển hướng từ châu Âu sang châu Á, từ ưu tiên an ninh sang ưu tiên kinh tế.
Sau sự kiện “11/9” năm 2001, Chính quyền Bush (con) phát động Chiến tranh Afghanistan và Iraq, coi hai quốc gia này là cứ điểm quân sự, tăng cường lực lượng quân sự của Mỹ tại châu Á. Ngay cả khi chính Bush (con) đang tập trung chống khủng bố, nhưng Mỹ vẫn không quên tăng cường bố trí quân sự ở đảo Guam. Mỹ coi trọng các nước đồng minh, tích cực xử lý quan hệ với các nước phi đồng minh ở khu vưc châu Á-Thái Bình Dương, cố gắng chủ đạo toàn diện trật tự chính trị kinh tế và an ninh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Vì vậy, nếu như nói Mỹ quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương, không bằng nói Mỹ chưa từng rời khỏi khu vực châu Á Thái Bình Dương. Và từ khi Chính quyền Obama lên cầm quyền đến nay, Chính phủ Mỹ càng chú trọng việc chuyển dịch trọng tâm chiến lược toàn cầu của Mỹ sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương Tháng 10/2010, tại Hawaii Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã có bài diễn thuyết về chính sách châu Á của Mỹ, nêu rõ phải chuyển dịch toàn diện trọng điểm về ngoại giao, kinh tế, an ninh quân sự và truyền bá giá trị quan của Mỹ sang châu Á. Ngay từ ngày đầu tiên khi Chính quyền Obama lên cầm quyền đã coi việc chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông là nhiệm vụ hàng đầu của Mỹ. Chính sách quay trở lại châu Á đại diện cho xu thế bành trướng của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Trong nhiệm kỳ thứ hai, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã lựa chọn khu vực Đông Nam Á làm khu vực đến thăm đầu tiên của mình. Ngày 18/11/2012, tại Bangkok, Thái Lan, Obama bầy tỏ sau khi đắc cử nhiệm kỳ thứ hai việc Obama đến thăm 3 nước châu Á không có gì là bất ngờ, vì Mỹ chính là và mãi mãi là quốc gia Thái Bình Dương khu vực châu Á-Thái Bình Dương là khu vực tăng trưởng nhanh nhất của kinh tế thế giới, khu vực này rất quan trọng đối với an ninh và phồn vinh của Mỹ trong thế kỷ 21, đóng vai trò then chốt đối với việc tăng thêm việc làm của người dân Mỹ. Việc Mỹ chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, có đặc điểm nổi bật là lấy “sức mạnh thông minh” làm phương châm chỉ đạo, các biện pháp vận dụng tổng hợp quân sự, chính trị kinh tế, ngoại giao… đều được tiến hành. Như việc Hillary Clinton đưa ra 6 phương châm hành động quan trọng: tăng cường liên minh an ninh song phương, đi sâu quan hệ với các nước mới nổi bao gồm cả Trung Quốc; tham gia các tổ chức đa phương khu vực; mở rộng thương mại và đầu tư; xây dựng nền tảng hiện diện quân sự vững chắc; nâng cao dân chủ và nhân quyền Trong 6 phương châm hành động nêu trên, có 3 phương châm hành động liên quan tới các bước an ninh quân sự. Đúng như Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta khi đó từng bầy tỏ: “Việc tại khu vực tiền duyên của chúng ta ở châu Á- Thái Bình Dương được bố trí lực lượng quân sự đầy đủ là trọng tâm trong cam kết của chúng ta đối với khu vực này”. Hơn nữa, “Từ lâu nay, Mỹ luôn đi sâu tham gia các công việc của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Cho dù là trong thời kỳ chiến tranh hay là thời kỳ hòa bình, cho dù là đảng Dân chủ hay đảng Cộng hòa cầm quyền, cho dù Washington chỉ trích hay nhường nhịn nhau, cho dù thặng dư hay thâm hụt tài chính, đều không bao giờ thay đổi. Trước kia chúng ta ở đây, hiện nay ở đây, trong tương lai vẫn sẽ ở đây”. Việc bố trí lực lượng quân sự ở nước ngoài là để ủng hộ chính sách và chiến lược quốc gia của Mỹ, cũng là để bảo đảm việc Mỹ triển khai hợp tác tích cực với các đồng minh và đối tác của Mỹ, và giành lấy sự ủng hộ của các nước này.
2. Các biện pháp quân sự chủ yếu của Mỹ khi chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông
“Chiến lược tái cân bằng khu vực châu Á-Thái Bình Dương” trên lĩnh vực quân sự của Mỹ chủ yếu bao gồm hai mặt liên hệ với nhau, đó là: tái cân bằng về địa lý và tái cân bằng về khả năng quân sự. về địa lý, tái cân bằng chiến lược hao gồm việc điều chỉnh chiến lược khu vực, tư thế quân sự và kết cấu sức mạnh đã tồn tại ở khu vực này của Mỹ, để đối phó với các thách thức và cơ hội xuất hiện ở khu vực này. Về khả năng quân sự, tái cân bằng chiến lược bao gồm sự đầu tư cần thiết đối với các mặt như phần cứng, hệ thống và khoa học kỹ thuật..,từ đó khiến cho quân đội Mỹ có thể bảo vệ an ninh và lợi ích quốc gia Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ, khi phải đối diện với thách thức của sức mạnh quân sự khu vực đang tăng lên nhanh chóng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, củng cố và phát triển quan hệ đồng minh quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Mỹ cho rằng mối quan hệ giữa Mỹ với các nước đồng minh và đối tác hợp tác chủ yếu ở châu Á là mấu chốt tăng trưởng và ổn định của khu vực này trong tương lai. Cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton nhấn mạnh lịch sử đã cho thấy một khuôn khổ khu vực lớn mạnh có thể kích thích hợp tác, kiềm chế các hành vi khiêu khích. Khuôn khổ này đòi hỏi cần phải tiếp tục nỗ lực, cần có quan hệ đối tác tiếp tục nỗ lực, vững mạnh, điều quan trọng là vẫn cần có sự lãnh đạo của Mỹ, đây là trọng tâm trong chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Tất cả các hành động ngoại giao, kinh tế và quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương đều nhằm thực hiện mục tiêu này. Hệ thống đồng minh song phương là khởi điểm và cơ sở để Mỹ can dự vào an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tháng 11/2009, trong thời gian đến thăm Nhật Bản, Tổng thống Obama đã có bài phát biểu quan trọng, tỏ rõ chính sách châu Á của Mỹ và thái độ của Mỹ đối với liên minh Mỹ-Nhật, Obama cho rằng: “Từ khi nhậm chức đến nay, tôi luôn nỗ lực khôi phục địa vị chủ đạo của Mỹ ở khu vực châu Á… nhưng thành quả mà Mỹ đạt được ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương trên mức độ nhất định thường phải dựa vào quan hệ đồng minh Mỹ-Nhật lâu dài và bền vững”.
Các học giả Mỹ cũng kiến nghị Mỹ phải xây dựng một liên minh quân sự ở châu Á có sức hội tụ lớn hơn, như vậy mới có thể thực hiện được lợi ích chính trị và kinh tế của Mỹ, các nước đồng minh là bàn đạp của Mỹ. Và khi phải đối phó với các thách thức an ninh khó khăn đang phải đối diện ở khu vực này, kết cấu đồng minh là không thể thay thế, Nhưng với tư cách là công cụ của chính sách quốc gia, đồng minh là nhân tố biến động trong quá trình đang thay đổi không ngừng, cần phải điều chỉnh vai trò, sứ mệnh và khả năng để phù hợp với một môi trường quốc tế thay đổi. Chính quyền Obama cũng tiến hành điều chỉnh tương đối đối với hệ thống đồng minh châu Á, lợi dụng mối quan hệ căng thẳng giữa Triều Tiên và Hàn Quốc, tranh chấp đảo Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản để ngăn chặn xu hướng ly tâm của Hàn Quốc và Nhật Bản, tăng cường liên minh quân sự Mỹ-Hàn và Mỹ-Nhật. Tại bán đảo Triều Tiên, Mỹ đã tăng cường hợp tác bảo đảm an ninh với Hàn Quốc, đặc biệt là sau vụ pháo kích đảo Yeonpyeong tháng 11/2010, Triều Tiên phóng vệ tinh tháng 4/2012, Triều Tiên tiến hành thử nghiệm hạt nhân lần thứ 3 tháng 2/2013, Mỹ và Hàn Quốc, Mỹ và Nhật Bản tổ chức tập trận quy mô lớn, đồng thời bắt đầu đồn trú quân đội tại Australia.
Thứ hai, mở rộng hợp tác quân sự với Ấn Độ, các nước Đông Nam Á như Singaoore, Thái Lan… Mối quan hệ giữa Mỹ và Ấn Độ ngày càng chặt chẽ. Trong 10 năm qua, quân đội Mỹ cũng tập trận với quân đội Ẩn Độ, số lần tập trận hàng năm đều tăng lên, mối liên hệ giữa quân đội hai nước cũng không ngừng mở rộng, trong 10 năm qua, Ấn Độ đã mua hơn 8 tỷ USD trang thiết bị quân sự cửa Mỹ. Mỹ đưa quân đến Australia, bố trí hải quân ở Singapore, triển khai hợp tác quân sự trên các lĩnh vực mới với Philippines, mời Myanmar tham gia tập trận “Hổ mang vàng” giữa Mỹ và Thái Lan trong năm 2013…, ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tầu chiến hải quân, lực lượng lính thủy và lính thủy đánh bộ của Mỹ đã tham gia hơn 170 cuộc tập trận song phương và đa phương, tiến hành hơn 250 chuyến viếng thăm các bến cảng của khu vực này. Lấy các căn cứ quân sự châu Á làm căn cứ hoạt động, lực lượng vũ trang của Mỹ có thể sẽ mở rộng khả năng hoạt động của các lực lượng này đến Ẩn Độ Dương và vịnh Persian.
Thứ ba, lợi dụng tranh chấp lãnh thổ lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước xung quanh, xây dựng vòng cung bao vây Trung Quốc, về vấn đề Biển Đông, Mỹ giữ lập trường thiên vị rõ ràng đối với các nước có tranh chấp với Trung Quốc, tiếp đến can dự vào vấn đề Biển Đông. Mỹ tuyên bố Mỹ là quốc gia Thái Bình Dương, cũng là nước lớn có sự hiện diện lâu dài ở khu vực này việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông, bảo đảm luật pháp quốc tế được tôn trọng, bảo vệ tự do hàng hải và thương mại hợp pháp không bị cản trở đều liên quan đến lợi ích quốc gia của Mỹ. Mỹ không ngừng chỉ trích hành vi bảo vệ chủ quyền quốc gia hợp pháp của Trung Quốc, về vấn đề đảo Điếu Ngư tuy Mỹ nhiều lần tuyên bố giữ lập trường trung lập, nhưng việc chủ trương đưa đảo Điếu Ngư vào phạm vi của Hiệp ước bảo đảm an ninh Mỹ-Nhật đã cho thấy Mỹ thiên vị Nhật Bản.
Thứ tư, tăng cường thực lực quân sự của hải quân và không quân, đổi mới quan niệm tác chiến. Từ bề ngoài cho thấy ngân sách quân sự của Mỹ đang cắt giảm, trên thực tế là đang tiến hành tái bố trí khu vực. Về địa lý, tăng thêm số nước có liên hệ quân sự với Mỹ, mở rộng sự hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nâng cao khả năng hành động quân sự. Tháng 3/2013, khi diễn thuyết tại Hiệp hội châu Á-Mỹ, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Tom Donilon cho rằng: “Trong vài năm tới, trong lực lượng quân sự của Mỹ sẽ có, một phần tương đối lớn được bố trí ở khu vực Thái Bình Dương. Đến năm 2020, 60% hạm đội hải quân Mỹ sẽ lấy khu vực Thái Bình Dương làm căn cứ.
Trong 5 năm tới, không quân của Mỹ cũng sẽ dần dần chuyển trọng tâm đến khu vực Thái Bình Dương. Mỹ đang tăng cường sức mạnh của lực lượng lục quân và lính thủy đánh bộ. Lầu Năm Góc đang hoạch định kế hoạch, ưu tiên bố trí khả năng quân sự hiện đại hóa nhất cho Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, bao gồm tầu ngầm, máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 như F-22 và F-35 và các loại máy bay trinh sát tiên tiến nhất. Hơn nữa, chúng ta đang hợp tác với các nước đồng minh để giành lấy tiến triển nhanh chóng trong việc mở rộng hệ thống rađa và hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo, đưa tới sự bảo hộ cho các nước đồng minh của Mỹ và toàn khu vực châu Á-Thái Bình Dương”.
Đồng thời, Mỹ cũng coi trọng việc đổi mới quan niệm tác chiến, tháng 1/2012, Bộ Quốc phòng Mỹ đã công bố “Khái niệm can dự tác chiến liên hợp”, đồng thời đưa ra khái niệm “Tác chiến liên hợp không quân – hải quân”, tìm cách phối hợp và nâng cấp lực lượng không quân và hải quân. Ngoài ra, Mỹ còn đầu tư máy bay tiếp dầu trên không, máy bay ném bom kiểu mới cũng như tầu tuần tra trên biển và máy bay chống tầu ngầm tiên tiến.
3. Phân tích nguyên nhân của việc Mỹ chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông dưới góc độ an ninh quân sự
Từ những thông tin do Bộ Quốc phòng và các kênh chính phủ khác của Mỹ công bố cho thấy nguyên nhân của việc Mỹ chuyển dich trọng tâm chiến lược sang phía Đông chủ yếu có:
Thứ nhất, nâng cao khả năng lãnh đạo của Mỹ, duy trì địa vị lãnh đạo của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và toàn cầu. Ngày 5/1/2012 Mỹ đã công bố Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia mới nhất “Duy trì địa vị lãnh đạo toàn cầu của Mỹ – Nhiệm vụ ưu tiên của quốc phòng trong thế kỷ 21”. Mục tiêu của Mỹ là trong môi trường an ninh toàn cầu mang tính thách thức phải “duy trì địa vị lãnh đạo toàn cầu của Mỹ”, bảo đảm an ninh tuyệt đối, bảo vệ ưu thế tuyệt đối và lợi ích quốc gia của Mỹ. Thể hiện rõ địa vị lãnh đạo của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tăng cường sự hiện diện tại khu vực tiền duyên của Mỹ ở khu vực này, không cho phép ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương xuất hiện cục diện sức mạnh chính trị, kinh tế, an ninh và quân sự bài xích Mỹ. Thứ hai, bảo vệ lợi ích rộng rãi của Mỹ ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế thuộc Đại học Quốc phòng Mỹ Jame J. Przystup từng cho rằng lợi ích của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương bao gồm: bảo vệ lãnh thổ của Mỹ, bảo vệ công dân Mỹ; tiến vào thị trường châu Á-Thái Bình Dương.
Tại Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Mỹ ủng hộ những nỗ lực nhằm mở rộng và bảo đảm việc thâm nhập thị trường, tăng cường nỗ lực mở rộng thương mại thông qua việc thành lập Khu thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương và ký hiệp định tự do với Australia, Singapore và Hàn Quốc; bảo đảm tự do trên các vùng biển quốc tế; duy trì thế cân bằng, đề phòng bất kỳ một cường quốc và tập đoàn quốc gia nào trỗi dậy gây trở ngại cho sự tham gia về chính trị và kinh tế của Mỹ đối với khu vực này; ngăn chặn sự phổ biến của vũ khí hủy diệt hàng loạt và hệ thống phóng tên lửa đạn đạo; nâng cao dân chủ và nhân quyền. Báo cáo “Duy trì địa vị lãnh đạo toàn cầu của Mỹ – Nhiệm vụ ưu tiên của quốc phòng trong thế kỷ 21” cũng, đã trình bầy về vấn đề này: “Lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ có mối liên hệ mật thiết với sự phát triển được mở rộng từ Tây Thái Bình Dương và Đông Á đến khu vực Ấn Độ Dương và Nam Á, sự phát triển này tạo ra sự thay đổi không ngừng giữa thách thức và cơ hội. Vì vậy, cho dù quân đội Mỹ tiếp tục thúc đẩy an ninh toàn cầu, nhưng Mỹ vẫn phải tái điều chỉnh đối với chiến lược khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Mối quan hệ giữa Mỹ với các đồng minh và đối tác hợp tác chủ yếu ở châu Á là điều then chốt quyết định sự tăng trưởng và ổn định của khu vực này trong tương lai.
Các đồng minh hiện nay của Mỹ đã đặt nền tảng quan trọng cho an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Mỹ cũng sẽ mở rộng mạng lưới quan hệ hợp tác với các đối tác mới nổi của toàn bộ khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Mỹ xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Ấn Độ, để ủng hộ Ấn Độ với tư cách là nước dẫn đầu kinh tế trong khu vực, và tạo ra môi trường an ninh rộng rãi hơn ở khu vực Ấn Độ Dương”. Từ Ấn Độ Đương đến khu vực ven biển phía Tây nước Mỹ, cư trú một nửa dân số thế giới, có các đồng minh quan trọng của Mỹ, có các nước lớn kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, còn có nhiều tuyến đường vận tải năng lượng và thương mại sôi động nhất trên thế giới.
Lượng hàng hóa chuyên chở thông qua Biển Đông chiếm tới một nửa lượng hàng hóa thế giới. Thứ ba, tuyên truyền “Thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc”, tìm kiếm lý do và tạo cớ cho việc Mỹ quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương bằng quân sự. Thứ tư, chuyển đổi phương hướng và phương châm chiến lược quân sự của Mỹ. Chính quyền Obama đã thay đổi chính sách chống khủng bố từ chủ yếu sử dụng vũ lực trong thời kỳ Chính quyền Bush (con), chuyển sang rút quân khỏi Iraq, tăng thêm quân đội cho Afghanistan, tăng cường sự hiện diện quân sự ở châu Á, thực hiện coi trọng cả Trung Đông và Đông Á trong địa vị chiến lược quân sự của Mỹ. Từ phương châm chiến lược cho thấy Mỹ đã rút được bài học chống khủng bố ở Iraq, thay đổi chiến thuật biển người, chuyển sang nhấn mạnh tầm quan trọng về vai trò của biển đối với Mỹ, nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của hải quân đối với Mỹ, hoạch định kế hoạch tác chiến liên hợp không quân và hải quân. Và khu vực châu Á-Thái Bình Dương chính là khu vực mà Mỹ quan tâm nhất đến việc kết hợp tác chiến giữa không quân và hải quân. Từ góc độ khu vực châu Á-Thái Bình Dương cho thấy khu vực này có các đối tác đồng minh quân sự quan trọng nhất của Mỹ, lại có Trung Quốc và Nga là hai đối thủ cạnh tranh tiềm tàng chủ yếu nhất của Mỹ, vừa có vấn đề do Chiến tranh Lạnh để lại, vừa có rất nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống.
4. Kiến nghịsách lược đối phó của Trung Quốc đối với biện pháp quân sự của Mỹkhi chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông
Mỹ vẫn duy trì tư duy Chiến tranh Lạnh, không ngừng tăng cường hệ thống đồng minh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương của mình, việc Mỹ duy trì mức độ căng thẳng vừa phải ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là ở tình hình khu vực xung quanh Trung Quốc có thể tạo ra cái cớ cho Mỹ chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông. Từ ý nghĩa này cho thấy việc Mỹ dịch chuyển trọng tâm chiến lược sang phía Đông chắc chắn sẽ là nhân tố tiêu cực trong phát triển an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Và việc Mỹ không ngừng bố trí lực lượng ở khu vực xung quanh Trung Quốc trở thành biến số lớn nhất gây ảnh hưởng đến an ninh xung quanh Trung Quốc. Để bảo vệ hòa bình, ổn định và phát triển xung quanh Trung Quốc và khu vực châu Á-Thái Bình Dương, kiến nghị Trung Quốc phải áp dụng các biện pháp tích cực để đối phó.
(1). Kiến nghị dựa theo chiến lược phát triển biển quốc gia được đề xuất trong báo cáo Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc, ra sức thúc đẩy công cuộc xây dựng cường quốc biển
Báo cáo Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc lần đầu tiên đưa ra chiến lược phát triển biển quốc gia “nâng cao khả năng khai thác tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển, bảo vệ môi trường sinh thái biển, kiên quyết bảo vệ quyền lợi biển quốc gia, xây dựng cường quốc biển”, vạch rõ phương hướng tiên tiến cho công cuộc phát triển và xây dựng biển của Trung Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc muốn trở thành cường quốc thế giới chắc chắn phải hướng ra biển. Từ lịch sử cho thấy sự trỗi dậy của các nước lớn đều gắn liền với biển. Việc Mỹ thực hiện chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang phía Đông cũng dựa trên tầm quan trọng của biển đối với Mỹ.
Biển có ý nghĩa chiến lược đặc biệt đối với Trung Quốc đang trỗi dậy. Với tư cách là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc không tránh khỏi phải phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên. Và gần một nửa lượng dầu mỏ hàng năm của Trung Quốc, trên 80% thương mại quốc tế phụ thuộc vào tuyến đường vận tải trên biển đi qua eo biển Malacca. Trung Quốc tồn tại bất đồng về chủ quyền một số đảo và phân định vùng biển với một vài nước, cũng khiến cho sự quan tâm của các giới ở Trung Quốc đối với biển không ngừng tăng lên, cũng đưa tới cơ hội cho công chúng Trung Quốc nâng cao ý thức biển, kết hợp chặt chẽ giữa việc phát triển kinh tế biển; bảo vệ môi trường sinh thái biển, kiên quyết bảo vệ quyền lợi biển quốc gia với các biện pháp bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia, phối hợp hành động bảo vệ quyền lợi biển giữa chính phủ với nhân dân; kết hợp việc phát triển thực lực hải quân với bảo vệ lợi ích an ninh chủ quyền và lợi ích tại nước ngoài của Trung Quốc.
(2). Kiến nghị hoạch định mô hình ngoại giao xung quanh “Thái độ chủ động, can thiệp trước, có thể kiểm soát toàn bộ quá trình, có lợi cho Trung Quốc, cùng có lợi cùng thắng lợi”
Giảm thiểu việc nẩy sinh những vấn đề làm cho tình hình phức tạp thêm, đưa tới ảnh hưởng bất lợi, do không can thiệp trước hoặc mức độ can thiệp không đủ gây nên. Coi trọng việc áp dụng biện pháp chính trị, kinh tế, ngoại giao và chiến lược để bảo vệ ổn định an ninh xung quanh. Đối với vấn đề đảo Điếu Ngư, phải không ngừng củng cố những thành quả đã giành được, liên kết hai bờ eo biển Đài Loan, cùng bảo vệ chủ quyền quốc gia. Kết hợp chặt chẽ giữa việc thực thi chiến lược phát triển biển với việc giải quyết vấn đề Biển Đông.
(3). Tiếp tục thực hiện phương châm “coi láng giềng là bạn, thân thiện với láng giềng”
Đông Á là một khu vực chủ yếu khi Trung Quốc trỗi dậy, môi trường xung quanh ổn định hài hòa rất quan trọng đối với sự phát triển hòa bình của Trung Quốc. Giải quyết ổn thỏa tranh chấp lãnh thổ lãnh hải với các nước xung quanh, củng cố láng giềng hữu nghị, đi sâu hợp tác cùng có lợi, nỗ lực khiến cho sự phát triển của Trung Quốc đem đến nhiêu điều tốt lành hơn cho các nước xung quanh, thực hiện mục tiêu “láng giềng giầu có, láng giềng an ninh, láng giềng thân thiện”.
(4). Kiến nghị tích cực thúc đẩy việc phát triển lành mạnh và thuận lợi quan hệ Trung-Mỹ
Việc Mỹ dịch chuyển trọng tâm chiến lược sang phía Đông quả thực đã tạo nên sức ép và mối đe dọa nhất định cho Trung Quốc, nhưng suy cho cùng quan hệ Trung-Mỹ lại không giống với quan hệ Mỹ-Nga trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, sự phụ thuộc lẫn nhau trên lĩnh vực kinh tế, an ninh và chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ khiến cho quan hệ Trung-Mỹ xuất hiện cục diện cạnh tranh và hợp tác cùng tồn tại; trong một thời kỳ nhất định, sự cạnh tranh, thậm chí đối kháng giữa Trung Quốc và Mỹ trên một số lĩnh vực không thể làm mất đi hợp tác giữa hai nước.
Sự mở rộng của Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng tăng thêm cơ hội trao đổi hiểu biết giữa Trung Quốc và Mỹ, điều hòa lập trường giải quyết tranh chấp giữa hai bên, đưa tới cơ hội cho việc thúc đẩy trật tự khu vực và thế giới phát triển theo hướng công bằng hợp lý. Vì vậy, Trung Quốc phải coi trọng vai trò của các cơ chế đối thoại Trung-Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tăng cường đối thoại an ninh chiến lược mới, thực hiện trao đổi lành mạnh giữa Trung Quốc và Mỹ ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương, xây dựng quan hệ với các nước lớn mới nổi./.
Theo Ba Sàm
Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013
Gót chân Asin của Trung Quốc ở Đông Nam Á
Tác giả: Benjamin Schreer, ASPI
Người dịch: Huỳnh Phan
01-11-2013
Bình luận gần đây về việc Tổng thống Barack Obama hủy bỏ vào phút cuối chuyến đi của ông đến cuộc họp APEC tại Bali và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Brunei phản ánh áp đảo lối suy nghĩ cổ điển ‘tổng bằng không’. Dư luận chung là tính đáng tin của việc Mỹ ‘xoay trục’ đã bị xói mòn nhiều thêm nữa, và rằng Trung Quốc đã sử dụng sự vắng mặt của Obama để củng cố vị trí của mình với các quốc gia ASEAN.
Tuy nhiên, chính trị quốc tế hầu như không theo động lực nhị phân như vậy. Trên thực tế, vì nhiều lý do, mục tiêu của Bắc Kinh nhằm tăng cường vị thế của mình trong khu vực Đông Nam Á với cái giá mà Washington phải chịu rất có nhiều khả năng thất bại. Thứ nhất, các nhà lãnh đạo khu vực đều hiểu rất rõ rằng chuyến đi Đông Nam Á của Tổng thống bị hủy không đồng nghĩa với một sự thay đổi trong chiến lược châu Á của Hoa Kỳ. Các cường quốc khu vực chính như Malaysia và Indonesia thừa nhận việc Obama ở nhà là chuyện bắt buộc. Thay vào đó, Ngoại trưởng John Kerry đã tham dự cả hai cuộc họp và đã đưa ra thông điệp chính mà các nước Đông Nam Á muốn nghe: Mỹ hy vọng Trung Quốc và các nước láng giềng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong Biển Đông một cách hòa bình.
Thứ hai, thông điệp này làm lộ gót chân Asin của Trung Quốc ở Đông Nam Á: trong khi các nước ASEAN có tranh chấp đang mong muốn đàm phán, Bắc Kinh lại không sẵn sàng thỏa hiệp về chủ quyền lãnh thổ quá đáng của nước này ở Biển Đông. Tại Brunei, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường không những lặp lại rằng Bắc Kinh có ‘các quyền không thể tranh cãi’ bên trong đường ‘chín đoạn’ mà ông còn cảnh báo các nước không trực tiếp có dính dáng, kể cả Úc và Nhật Bản, phải đứng ngoài các tranh chấp này. Như vậy, Trung Quốc không đạt được nhiều tiến bộ trong việc thuyết phục các nước Đông Nam Á về thiện ý của mình. Nói một cách đơn giản, hành vi quyết đoán của họ trong Biển Đông đã gây ra hao hụt hầu như khó khôi phục về lòng tin giữa Bắc Kinh và các nước ASEAN. Nó cũng mở ra một con đường cho các đấu thủ bên ngoài như Ấn Độ và Nhật Bản tăng cường vai trò an ninh ở Đông Nam Á.
Thứ ba, kết quả là một số quốc gia Đông Nam Á tỏ dấu hiệu về hành vi ‘cân bằng bên trong’ và ‘bên ngoài’ chống lại Trung Quốc. Với hậu thuẫn chủ yếu của Nga, Việt Nam đang phát triển các thành phần khả năng ‘chống tiếp cận/ từ chối khu vực’ (anti-access/area-denial – A2/AD) để bù vào việc tăng cường lực lượng biển trong khu vực của Trung Quốc. Sau nhiều thập kỷ lo lắng về vấn đề an ninh nội bộ, Philippines đang cố gắng xây dựng một vị thế ‘phòng thủ đáng tin tối thiểu’ chống Trung Quốc. Những nước khác rõ ràng đang tìm cách che chắn khả năng có căng thẳng nhiều hơn ở Biển Đông. Chẳng hạn, Singapore mời Mỹ triển khai bốn tàu chiến ven biển. Họ cũng có khả năng chọn máy bay Joint Strike Fighter làm máy bay chiến đấu kế tiếp của mình, điều này sẽ tăng cường việc hợp tác quân sự với Mỹ.
Thứ tư, các diễn giải cho rằng sự vắng mặt của Obama là bằng chứng cho sự thiếu chuyên tâm về tái cân bằng là có vấn đề. Có hai lập luận chính thường được đưa ra. Một là Washington đang quá bận rộn với Trung Đông và hai là Hoa Kỳ không còn tiền để tài trợ cho việc chuyển trục về châu Á – Thái Bình Dương của Lầu Năm Góc. Lập luận đầu không nhận thấy được rằng Mỹ vẫn còn là một cường quốc toàn cầu với trách nhiệm toàn cầu – đơn giản là vì phát biểu gần đây của ông Obama trước Đại hội đồng LHQ đề cập quá ít về châu Á – Thái Bình Dương so với Trung Đông không có nghĩa là Mỹ đột nhiên thiếu quan tâm đối với châu Á.
Lập luận thứ hai cũng không thuyết phục. Mặc dù có sức ép lên ngân sách quốc phòng của Mỹ, Lầu Năm Góc vẫn tiếp tục chuyển các hệ thống quân sự quan trọng tới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hồi đầu tháng 10, các quan chức Mỹ đã thông báo rằng Hoa Kỳ sẽ triển khai máy bay dọ thám không người lái Global Hawk đến Nhật Bản vào đầu năm 2014. Và vào năm 2017 thủy quân lục chiến sẽ bắt đầu triển khai F – 35B tới Nhật Bản, đánh dấu sự triển khai máy bay chiến đấu Joint Strike lần đầu bên ngoài nước Mỹ. Ngoài ra, Thủy quân Lục chiến Mỹ đang xây dựng một căn cứ chỉ huy cao cấp mới trên đảo Palawan ở Philippines để giám sát Biển Đông. Đường băng trên đảo sẽ được nâng cấp để có thể phục vụ việc không vận chiến lược của Mỹ (và có khả năng cho máy bay chiến đấu). Nói cách khác, Philippines là bước mới nhất trong chiến lược của Mỹ để tăng cường sự hiện diện luân phiên của thủy quân lục chiến trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, làm phức tạp đáng kể kế hoạch hoạt động quân sự của Trung Quốc.
Cuối cùng, các đồng minh của Mỹ có vẻ sẵn sàng gánh vác nhiều hơn để hậu thuẫn việc xoay trục của Mỹ. Úc là một ví dụ. Thủ tướng Abbott vừa công bố quyết định của Chính phủ Úc chia sẻ chi phí tài chính cho sự hiện diện tăng cường của Thuỷ quân Lục chiến Mỹ ở Bắc Úc. Đồng thời, cách tiếp cận nồng nhiệt của ông với Thủ tướng Shinzo Abe của Nhật Bản – đồng minh châu Á quan trọng khác của Mỹ – tại hội nghị thượng đỉnh, bao gồm việc thừa nhận rằng Tokyo cần phải đóng vai trò an ninh khu vực tích cực hơn, đã làm ông nhận lãnh nhiều nhận xét gay gắt tại Bắc Kinh.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là Úc, các đồng minh và đối tác Đông Nam Á của Mỹ hiện nay đang trong tiến trình chống Trung Quốc. Nhưng họ có một lợi ích cốt lõi trong việc duy trì sự hiện diện của Mỹ trong khu vực và có nhận thức sâu sắc về thời điểm bước vào vị trí. Trung Quốc còn quá xa mới tới chỗ làm suy sụp vị thế của Mỹ ở Đông Nam Á.
Benjamin Schreer là một nhà phân tích cấp cao tại Viện Chính sách Chiến lược Úc (ASPI).
Nguồn: East Asia Forum
Tiếng Việt: Ba Sàm
0
Người dịch: Huỳnh Phan
01-11-2013
Bình luận gần đây về việc Tổng thống Barack Obama hủy bỏ vào phút cuối chuyến đi của ông đến cuộc họp APEC tại Bali và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Brunei phản ánh áp đảo lối suy nghĩ cổ điển ‘tổng bằng không’. Dư luận chung là tính đáng tin của việc Mỹ ‘xoay trục’ đã bị xói mòn nhiều thêm nữa, và rằng Trung Quốc đã sử dụng sự vắng mặt của Obama để củng cố vị trí của mình với các quốc gia ASEAN.
Tuy nhiên, chính trị quốc tế hầu như không theo động lực nhị phân như vậy. Trên thực tế, vì nhiều lý do, mục tiêu của Bắc Kinh nhằm tăng cường vị thế của mình trong khu vực Đông Nam Á với cái giá mà Washington phải chịu rất có nhiều khả năng thất bại. Thứ nhất, các nhà lãnh đạo khu vực đều hiểu rất rõ rằng chuyến đi Đông Nam Á của Tổng thống bị hủy không đồng nghĩa với một sự thay đổi trong chiến lược châu Á của Hoa Kỳ. Các cường quốc khu vực chính như Malaysia và Indonesia thừa nhận việc Obama ở nhà là chuyện bắt buộc. Thay vào đó, Ngoại trưởng John Kerry đã tham dự cả hai cuộc họp và đã đưa ra thông điệp chính mà các nước Đông Nam Á muốn nghe: Mỹ hy vọng Trung Quốc và các nước láng giềng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong Biển Đông một cách hòa bình.
Thứ hai, thông điệp này làm lộ gót chân Asin của Trung Quốc ở Đông Nam Á: trong khi các nước ASEAN có tranh chấp đang mong muốn đàm phán, Bắc Kinh lại không sẵn sàng thỏa hiệp về chủ quyền lãnh thổ quá đáng của nước này ở Biển Đông. Tại Brunei, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường không những lặp lại rằng Bắc Kinh có ‘các quyền không thể tranh cãi’ bên trong đường ‘chín đoạn’ mà ông còn cảnh báo các nước không trực tiếp có dính dáng, kể cả Úc và Nhật Bản, phải đứng ngoài các tranh chấp này. Như vậy, Trung Quốc không đạt được nhiều tiến bộ trong việc thuyết phục các nước Đông Nam Á về thiện ý của mình. Nói một cách đơn giản, hành vi quyết đoán của họ trong Biển Đông đã gây ra hao hụt hầu như khó khôi phục về lòng tin giữa Bắc Kinh và các nước ASEAN. Nó cũng mở ra một con đường cho các đấu thủ bên ngoài như Ấn Độ và Nhật Bản tăng cường vai trò an ninh ở Đông Nam Á.
Thứ ba, kết quả là một số quốc gia Đông Nam Á tỏ dấu hiệu về hành vi ‘cân bằng bên trong’ và ‘bên ngoài’ chống lại Trung Quốc. Với hậu thuẫn chủ yếu của Nga, Việt Nam đang phát triển các thành phần khả năng ‘chống tiếp cận/ từ chối khu vực’ (anti-access/area-denial – A2/AD) để bù vào việc tăng cường lực lượng biển trong khu vực của Trung Quốc. Sau nhiều thập kỷ lo lắng về vấn đề an ninh nội bộ, Philippines đang cố gắng xây dựng một vị thế ‘phòng thủ đáng tin tối thiểu’ chống Trung Quốc. Những nước khác rõ ràng đang tìm cách che chắn khả năng có căng thẳng nhiều hơn ở Biển Đông. Chẳng hạn, Singapore mời Mỹ triển khai bốn tàu chiến ven biển. Họ cũng có khả năng chọn máy bay Joint Strike Fighter làm máy bay chiến đấu kế tiếp của mình, điều này sẽ tăng cường việc hợp tác quân sự với Mỹ.
Thứ tư, các diễn giải cho rằng sự vắng mặt của Obama là bằng chứng cho sự thiếu chuyên tâm về tái cân bằng là có vấn đề. Có hai lập luận chính thường được đưa ra. Một là Washington đang quá bận rộn với Trung Đông và hai là Hoa Kỳ không còn tiền để tài trợ cho việc chuyển trục về châu Á – Thái Bình Dương của Lầu Năm Góc. Lập luận đầu không nhận thấy được rằng Mỹ vẫn còn là một cường quốc toàn cầu với trách nhiệm toàn cầu – đơn giản là vì phát biểu gần đây của ông Obama trước Đại hội đồng LHQ đề cập quá ít về châu Á – Thái Bình Dương so với Trung Đông không có nghĩa là Mỹ đột nhiên thiếu quan tâm đối với châu Á.
Lập luận thứ hai cũng không thuyết phục. Mặc dù có sức ép lên ngân sách quốc phòng của Mỹ, Lầu Năm Góc vẫn tiếp tục chuyển các hệ thống quân sự quan trọng tới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hồi đầu tháng 10, các quan chức Mỹ đã thông báo rằng Hoa Kỳ sẽ triển khai máy bay dọ thám không người lái Global Hawk đến Nhật Bản vào đầu năm 2014. Và vào năm 2017 thủy quân lục chiến sẽ bắt đầu triển khai F – 35B tới Nhật Bản, đánh dấu sự triển khai máy bay chiến đấu Joint Strike lần đầu bên ngoài nước Mỹ. Ngoài ra, Thủy quân Lục chiến Mỹ đang xây dựng một căn cứ chỉ huy cao cấp mới trên đảo Palawan ở Philippines để giám sát Biển Đông. Đường băng trên đảo sẽ được nâng cấp để có thể phục vụ việc không vận chiến lược của Mỹ (và có khả năng cho máy bay chiến đấu). Nói cách khác, Philippines là bước mới nhất trong chiến lược của Mỹ để tăng cường sự hiện diện luân phiên của thủy quân lục chiến trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, làm phức tạp đáng kể kế hoạch hoạt động quân sự của Trung Quốc.
Cuối cùng, các đồng minh của Mỹ có vẻ sẵn sàng gánh vác nhiều hơn để hậu thuẫn việc xoay trục của Mỹ. Úc là một ví dụ. Thủ tướng Abbott vừa công bố quyết định của Chính phủ Úc chia sẻ chi phí tài chính cho sự hiện diện tăng cường của Thuỷ quân Lục chiến Mỹ ở Bắc Úc. Đồng thời, cách tiếp cận nồng nhiệt của ông với Thủ tướng Shinzo Abe của Nhật Bản – đồng minh châu Á quan trọng khác của Mỹ – tại hội nghị thượng đỉnh, bao gồm việc thừa nhận rằng Tokyo cần phải đóng vai trò an ninh khu vực tích cực hơn, đã làm ông nhận lãnh nhiều nhận xét gay gắt tại Bắc Kinh.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là Úc, các đồng minh và đối tác Đông Nam Á của Mỹ hiện nay đang trong tiến trình chống Trung Quốc. Nhưng họ có một lợi ích cốt lõi trong việc duy trì sự hiện diện của Mỹ trong khu vực và có nhận thức sâu sắc về thời điểm bước vào vị trí. Trung Quốc còn quá xa mới tới chỗ làm suy sụp vị thế của Mỹ ở Đông Nam Á.
Benjamin Schreer là một nhà phân tích cấp cao tại Viện Chính sách Chiến lược Úc (ASPI).
Nguồn: East Asia Forum
Tiếng Việt: Ba Sàm
Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013
Câu chuyện sĩ quan bất tuân thượng lệnh để cứu thế giới
Cách đây 30 năm, máy tính của quân đội Xô viết cảnh báo Mỹ đã bắn vài tên lửa hạt nhân sang Liên Xô. Nếu viên sĩ quan trực ban báo cáo ngay sự việc lên giới lãnh đạo chính trị và quân sự, có lẽ chiến tranh giữa hai siêu cường hàng đầu đã nổ ra.
Vào lúc sáng sớm ngày 26/9/1983, hệ thống cảnh báo sớm của Liên Xô phát hiện nhiều vật thể bay từ Mỹ. Dữ liệu máy tính cho thấy chúng là những quả tên lửa hạt nhân. Trong trường hợp như thế, quân đội Liên Xô có quyền bắn trả tên lửa về phía Mỹ.
Nhưng Stanislav Petrov, người sĩ quan có nhiệm vụ theo dõi những vụ phóng tên lửa của các nước thù địch hôm đó, đã quyết định không báo cáo vụ việc lên sĩ quan cấp trên. Đó là một hành động vi phạm kỷ luật quân đội, nghĩa là không làm đúng trách nhiệm của quân nhân. Nhưng có lẽ hành động của Petrov đã cứu cả thế giới.
Nếu ông báo cáo sự việc, Liên Xô sẽ đáp trả Mỹ bằng tên lửa hạt nhân và chiến tranh sẽ bùng nổ. Do Liên Xô và Mỹ là hai siêu cường với rất nhiều đồng minh, rất có thể cuộc chiến giữa họ sẽ châm ngòi cho đại chiến thế giới lần thứ ba.
“Tôi có đủ cơ sở để chứng minh đó là một vụ tấn công bằng tên lửa. Nếu tôi gửi báo cáo lên cấp trên, chắc chắn không ai phản bác lệnh bắn tên lửa về phía Mỹ để trả đũa”, Petrov nói với BBC. Petrov – người đã về hưu với quân hàm trung tá và đang sống trong một thành phố nhỏ gần thủ đô Moscow – là một thành viên trong một đội chuyên gia công nghệ thông tin được đào tạo kỹ lưỡng để phục vụ trong một trung tâm cảnh báo sớm tên lửa của Liên Xô. Căn cứ này nằm khá gần thủ đô Moscow.
Quá trình đào tạo của ông rất khắc nghiệt, còn những mệnh lệnh dành cho ông rất rõ ràng. Nhiệm vụ của Petrov là báo cáo mọi cuộc tấn công bằng tên lửa lên giới lãnh đạo chính trị và quân đội Xô viết.
Trong bầu không khí chính trị năm 1983, việc Liên Xô đáp trả vụ bắn tên lửa từ Mỹ là hành động chắc chắn xảy ra. Vì thế, khi cảnh báo những quả tên lửa từ Mỹ bay về phía Liên Xô xuất hiện, Petrov gần như hóa đá trong phút chốc. “Còi báo động vang lên, nhưng tôi vẫn ngồi trên ghế trong vài giây.
Tôi nhìn vào màn hình lớn màu đỏ với từ ‘phóng’ trên đó”, ông kể. Hệ thống báo với Petrov rằng mức độ tin cậy của cảnh báo đang đạt mức cao nhất, nghĩa là máy tính khẳng định chắc chắn Mỹ vừa phóng tên lửa. “Một phút sau còi lại vang lên. Quả tên lửa thứ hai đã rời khỏi bệ phóng của Mỹ. Sau đó họ tiếp tục phóng quả tên lửa thứ ba, thứ tư và thứ năm”, Petrov hồi tưởng.
Máy tính đổi nội dung báo động từ "phóng tên lửa" sang “tấn công bằng tên lửa". Petrov đốt vài điếu thuốc trong lúc suy tính. “Quân đội không quy định chúng tôi phải suy nghĩ bao lâu trước khi báo cáo một vụ tấn công. Song chúng tôi biết mỗi giây trì hoãn đều là khoảng thời gian quý giá. Chúng tôi phải báo cáo sự việc lên giới lãnh đạo chính trị và quân sự ngay lập tức.
Tất cả những việc tôi phải làm là tới vị trí của điện thoại, quay số trực tiếp tới những chỉ huy hàng đầu. Song tôi không thể cử động. Tôi cảm thấy như tôi đang ngồi trên một chảo rán nóng”, ông thừa nhận.
Chính phủ Liên Xô quy định rằng nếu kẻ thù tấn công Liên Xô bằng tên lửa hạt nhân, quân đội Xô viết sẽ đáp trả bằng tên lửa hạt nhân. Ảnh: AP.
Mặc dù bản chất của vụ tấn công dường như đã rõ ràng, Petrov vẫn cảm thấy hoài nghi về một số điểm. Ngoài một số chuyên gia công nghệ thông tin như ông, Liên Xô còn có chuyên gia khác để theo dõi lực lượng tên lửa của Mỹ. Một số nhân viên vận hành radar vệ tinh nói với ông rằng họ không thấy bất kỳ quả tên lửa nào trên bầu trời Liên Xô.
Nhưng họ chỉ là những người thuộc bộ phận hỗ trợ. Quân đội quy định rất rõ ràng quyết định phải dựa trên số liệu của máy tính, nghĩa là ông phải là người ra quyết định.
Điều khiến Petrov nghi ngờ là mức độ mạnh và rõ ràng của cảnh báo. “Chúng tôi có 28 hoặc 29 cấp độ an ninh. Sau khi xác định mục tiêu, chúng tôi phải xem mục tiêu thuộc cấp độ an ninh nào.
Trong trường hợp này, tôi không tin vào cảnh báo của máy tính”, ông giải thích. Petrov gọi sĩ quan trực tại trụ sở của quân đội Liên Xô và báo cáo rằng sự cố máy tính đã xảy ra, nhưng không hề nói tới cảnh báo tên lửa.
Nếu ông phán đoán sai, rất có thể một vụ nổ hạt nhân đã xảy ra trên lãnh thổ Liên Xô vài phút sau đó. Nhưng nếu ông phán đoán đúng thì ông đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh giữa Liên Xô và Mỹ. “23 phút sau tôi nhận ra rằng chẳng quả tên lửa nào rơi xuống đất.
Nếu Mỹ thực sự tấn công Liên Xô, chắc chắn tên lửa đã nổ. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm”, ông vừa nói vừa mỉm cười. Giờ đây, sau 30 năm, Petrov vẫn nghĩ rằng khả năng ông phán đoán đúng hôm ấy chỉ là 50%.
Ông thừa nhận rằng ông chưa bao giờ chắc chắn rằng máy tính đã cảnh báo sai. “Tôi là sĩ quan duy nhất trong nhóm theo dõi tên lửa học từ trường dân sự. Tất cả đồng nghiệp của tôi đều là quân nhân chuyên nghiệp nên họ tuân thủ mệnh lệnh một cách nghiêm ngặt. Vì thế, tôi tin rằng, nếu hôm đó một sĩ quan khác trực, chắc chắn anh ta sẽ ban bố lệnh báo động”, ông lập luận.
Vài ngày sau cấp trên khiển khách Petrov, nhưng không phải về việc ông bỏ qua cảnh báo tên lửa của máy tính, mà do những sai phạm trong sổ trực ban. “Tôi đã giữ bí mật trong 10 năm. Thật xấu hổ khi hệ thống máy tính của quân đội Liên Xô cảnh báo sai trong trường hợp ấy”, ông nói.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, câu chuyện của Petrov đã xuất hiện trên nhiều tờ báo và ông nhận nhiều giải thưởng quốc tế. Nhưng cựu sĩ quan không nghĩ ông là một anh hùng. “Đó là công việc của tôi. Nhưng thế giới đã may mắn vì hôm đó tôi là người trực”, ông nhận xét.
Quỳnh Trang Theo Tri Thức
0
Vào lúc sáng sớm ngày 26/9/1983, hệ thống cảnh báo sớm của Liên Xô phát hiện nhiều vật thể bay từ Mỹ. Dữ liệu máy tính cho thấy chúng là những quả tên lửa hạt nhân. Trong trường hợp như thế, quân đội Liên Xô có quyền bắn trả tên lửa về phía Mỹ.
Nhưng Stanislav Petrov, người sĩ quan có nhiệm vụ theo dõi những vụ phóng tên lửa của các nước thù địch hôm đó, đã quyết định không báo cáo vụ việc lên sĩ quan cấp trên. Đó là một hành động vi phạm kỷ luật quân đội, nghĩa là không làm đúng trách nhiệm của quân nhân. Nhưng có lẽ hành động của Petrov đã cứu cả thế giới.
Nếu ông báo cáo sự việc, Liên Xô sẽ đáp trả Mỹ bằng tên lửa hạt nhân và chiến tranh sẽ bùng nổ. Do Liên Xô và Mỹ là hai siêu cường với rất nhiều đồng minh, rất có thể cuộc chiến giữa họ sẽ châm ngòi cho đại chiến thế giới lần thứ ba.
“Tôi có đủ cơ sở để chứng minh đó là một vụ tấn công bằng tên lửa. Nếu tôi gửi báo cáo lên cấp trên, chắc chắn không ai phản bác lệnh bắn tên lửa về phía Mỹ để trả đũa”, Petrov nói với BBC. Petrov – người đã về hưu với quân hàm trung tá và đang sống trong một thành phố nhỏ gần thủ đô Moscow – là một thành viên trong một đội chuyên gia công nghệ thông tin được đào tạo kỹ lưỡng để phục vụ trong một trung tâm cảnh báo sớm tên lửa của Liên Xô. Căn cứ này nằm khá gần thủ đô Moscow.
Quá trình đào tạo của ông rất khắc nghiệt, còn những mệnh lệnh dành cho ông rất rõ ràng. Nhiệm vụ của Petrov là báo cáo mọi cuộc tấn công bằng tên lửa lên giới lãnh đạo chính trị và quân đội Xô viết.
Trong bầu không khí chính trị năm 1983, việc Liên Xô đáp trả vụ bắn tên lửa từ Mỹ là hành động chắc chắn xảy ra. Vì thế, khi cảnh báo những quả tên lửa từ Mỹ bay về phía Liên Xô xuất hiện, Petrov gần như hóa đá trong phút chốc. “Còi báo động vang lên, nhưng tôi vẫn ngồi trên ghế trong vài giây.
Tôi nhìn vào màn hình lớn màu đỏ với từ ‘phóng’ trên đó”, ông kể. Hệ thống báo với Petrov rằng mức độ tin cậy của cảnh báo đang đạt mức cao nhất, nghĩa là máy tính khẳng định chắc chắn Mỹ vừa phóng tên lửa. “Một phút sau còi lại vang lên. Quả tên lửa thứ hai đã rời khỏi bệ phóng của Mỹ. Sau đó họ tiếp tục phóng quả tên lửa thứ ba, thứ tư và thứ năm”, Petrov hồi tưởng.
Máy tính đổi nội dung báo động từ "phóng tên lửa" sang “tấn công bằng tên lửa". Petrov đốt vài điếu thuốc trong lúc suy tính. “Quân đội không quy định chúng tôi phải suy nghĩ bao lâu trước khi báo cáo một vụ tấn công. Song chúng tôi biết mỗi giây trì hoãn đều là khoảng thời gian quý giá. Chúng tôi phải báo cáo sự việc lên giới lãnh đạo chính trị và quân sự ngay lập tức.
Tất cả những việc tôi phải làm là tới vị trí của điện thoại, quay số trực tiếp tới những chỉ huy hàng đầu. Song tôi không thể cử động. Tôi cảm thấy như tôi đang ngồi trên một chảo rán nóng”, ông thừa nhận.
Chính phủ Liên Xô quy định rằng nếu kẻ thù tấn công Liên Xô bằng tên lửa hạt nhân, quân đội Xô viết sẽ đáp trả bằng tên lửa hạt nhân. Ảnh: AP.
Mặc dù bản chất của vụ tấn công dường như đã rõ ràng, Petrov vẫn cảm thấy hoài nghi về một số điểm. Ngoài một số chuyên gia công nghệ thông tin như ông, Liên Xô còn có chuyên gia khác để theo dõi lực lượng tên lửa của Mỹ. Một số nhân viên vận hành radar vệ tinh nói với ông rằng họ không thấy bất kỳ quả tên lửa nào trên bầu trời Liên Xô.
Nhưng họ chỉ là những người thuộc bộ phận hỗ trợ. Quân đội quy định rất rõ ràng quyết định phải dựa trên số liệu của máy tính, nghĩa là ông phải là người ra quyết định.
Điều khiến Petrov nghi ngờ là mức độ mạnh và rõ ràng của cảnh báo. “Chúng tôi có 28 hoặc 29 cấp độ an ninh. Sau khi xác định mục tiêu, chúng tôi phải xem mục tiêu thuộc cấp độ an ninh nào.
Trong trường hợp này, tôi không tin vào cảnh báo của máy tính”, ông giải thích. Petrov gọi sĩ quan trực tại trụ sở của quân đội Liên Xô và báo cáo rằng sự cố máy tính đã xảy ra, nhưng không hề nói tới cảnh báo tên lửa.
Nếu ông phán đoán sai, rất có thể một vụ nổ hạt nhân đã xảy ra trên lãnh thổ Liên Xô vài phút sau đó. Nhưng nếu ông phán đoán đúng thì ông đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh giữa Liên Xô và Mỹ. “23 phút sau tôi nhận ra rằng chẳng quả tên lửa nào rơi xuống đất.
Nếu Mỹ thực sự tấn công Liên Xô, chắc chắn tên lửa đã nổ. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm”, ông vừa nói vừa mỉm cười. Giờ đây, sau 30 năm, Petrov vẫn nghĩ rằng khả năng ông phán đoán đúng hôm ấy chỉ là 50%.
Ông thừa nhận rằng ông chưa bao giờ chắc chắn rằng máy tính đã cảnh báo sai. “Tôi là sĩ quan duy nhất trong nhóm theo dõi tên lửa học từ trường dân sự. Tất cả đồng nghiệp của tôi đều là quân nhân chuyên nghiệp nên họ tuân thủ mệnh lệnh một cách nghiêm ngặt. Vì thế, tôi tin rằng, nếu hôm đó một sĩ quan khác trực, chắc chắn anh ta sẽ ban bố lệnh báo động”, ông lập luận.
Vài ngày sau cấp trên khiển khách Petrov, nhưng không phải về việc ông bỏ qua cảnh báo tên lửa của máy tính, mà do những sai phạm trong sổ trực ban. “Tôi đã giữ bí mật trong 10 năm. Thật xấu hổ khi hệ thống máy tính của quân đội Liên Xô cảnh báo sai trong trường hợp ấy”, ông nói.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, câu chuyện của Petrov đã xuất hiện trên nhiều tờ báo và ông nhận nhiều giải thưởng quốc tế. Nhưng cựu sĩ quan không nghĩ ông là một anh hùng. “Đó là công việc của tôi. Nhưng thế giới đã may mắn vì hôm đó tôi là người trực”, ông nhận xét.
Quỳnh Trang Theo Tri Thức
Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013
Chiến lược quân sự 'không đối xứng' của Trung Quốc
Các chiến lược gia quân sự Trung Quốc từ rất lâu rồi đã bị cuốn hút bởi cách tiếp cận của phương thức chiến tranh không đối xứng.
Trong khi đó, Trung Quốc không ảo tưởng về việc chuẩn bị quân sự cho cuộc chiến chống lại Mỹ vì Bắc Kinh biết rằng, mình vẫn chưa phải là đối thủ của Washington trong thời gian ít nhất là 20-30 năm nữa.
Do đó, quân đội Trung Quốc đang phát triển một loạt các chiến lược không đối xứng để ngăn chặn Mỹ cho đến lúc sức mạnh quân sự của họ có khả năng “chín” hoàn toàn khi đối đầu với Lầu Năm Góc.
Hơn mười năm trước đây, các nhà khoa học, quân sự Mỹ đã đánh giá rất cao chương trình tên lửa của Trung Quốc. Trong năm 2010, quân đội Trung Quốc thông báo rằng họ bắt đầu thử nghiệm chương trình tên lửa đạn đạo đầy tham vọng DF- 21A chống tàu sân bay. Trong năm 2013 đã có một vài báo cáo rằng các tên lửa DF- 21A đã được triển khai với số lượng nhỏ ở miền nam Trung Quốc. DF- 21A được cho là " sát thủ tàu sân bay ", nhằm hạn chế các nhóm tàu sân bay Mỹ trong trường hợp một cuộc xung đột với Đài Loan hoặc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Trung Quốc quyết định sử dụng tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM) là bất thường, bởi vì theo các chuyên gia, phát triển và sản xuất một loại tên lửa đạn đạo phức tạp hơn nhiều so với tên lửa hành trình. Quyết định của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đặt cược vào loại vũ khí này đã phản ánh sự phát triển đầy tự tin của ngành công nghiệp quân sự trong nước. Dự án tên lửa ASBM đúng là một mối đe dọa tiềm tàng cho các lực lượng Mỹ trong khu vực và trên thế giới.
Mặt khác, Bắc Kinh biết rằng quân đội Mỹ phụ thuộc rất nhiều vào vệ tinh thông tin liên lạc để tiến hành các hoạt động quân sự nên quân đội Trung Quốc đã đầu tư một khoản tiền đáng kể cho sự phát triển vũ khí chống vệ tinh.
Đầu năm 2007, Trung Quốc phóng thành công tên lửa chống vệ tinh đầu tiên, nó đã phá hủy một vệ tinh cũ của Bắc Kinh trong không gian. Trong tháng 5 năm 2013, Trung Quốc phóng tên lửa bay tới 10 000 km vào vũ trụ, điều này cho thấy các tên lửa được thiết kế như vũ khí chống vệ tinh. Trong cả hai đợt, Mỹ đã bày tỏ quan ngại sâu sắc.
Ngoài lĩnh vực tên lửa, Trung Quốc cũng đã thử nghiệm các loại vũ khí laser. Xung laser có thể phá vỡ các vệ tinh thông tin liên lạc, tùy thuộc vào cường độ laser, thậm chí có thể tiêu diệt chúng hoàn toàn.
Chương trình tên lửa của Trung Quốc cũng đang phát triển vững chắc và những yêu cầu mới là tăng độ chính xác và phạm vi phải xa hơn nữa. Tiến bộ trong dự án tên lửa, được mong đợi để phát triển các chương trình không gian chiến lược như tham vọng thám hiểm mặt trăng và sao Hỏa của Bắc Kinh
Chiến lược quân sự không đối xứng của quân đội Trung Quốc là không giới hạn trong một lĩnh vực hẹp, mà mở rộng đến các khu vực khác – trên đất liền, trên biển, trên không, thậm chí cả trên vũ trụ.
Lấy ví dụ ở trên biển, không giống như nhiều người nghĩ, ở đây hải quân Trung Quốc không tập trung vào việc làm thế nào để dùng một tàu sân bay nhằm tiêu diệt một tàu sân bay của kẻ thù. Mà Trung Quốc triển khai một số lượng lớn các tàu ngầm tấn công với vũ khí thông thường và hạt nhân, và số lượng máy bay chiến đấu mang tên lửa và bom có thể tiêu diệt tàu sân bay cũng như tàu nổi của đối phương.
Ngoài tàu ngầm , hải quân Trung Quốc sở hữu hàng ngàn tên lửa đối không, đối đất, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo. Hải quân cũng đã phát triển hàng loạt các tàu khu trục, tàu chiến mang tên lửa và tàu hộ tống có khả năng hoạt động ở cả vùng nước hẹp và các khu vực ven biển, chúng có thể rất hiệu quả với các đối thủ lớn hơn, đặc biệt là nếu sử dụng chiến thuật “bầy đàn”.
Một lĩnh vực khác được PLA đang ngày càng quan tâm là - là chiến tranh mạng . Từ năm 2000, quân đội Trung Quốc đã thảo luận về khái niệm tổng chiến tranh hoặc chiến tranh không giới hạn , trong đó quân đội Trung Quốc sẽ sử dụng chiến thuật không đối xứng trong mọi lĩnh vực.
Phổ biến nhất trong công việc của Trung Quốc liên quan đến chiến tranh không đối xứng được viết bởi hai đại tá quân đội Trung Quốc vào năm 1999 , được đặt tên là " chiến tranh không giới hạn ".
Các cuộc tấn công và xâm nhập vào các mạng máy tính nhạy cảm đối với Mỹ và các nước tiên tiến khác, điều này thể hiện sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc về loại “ vũ khí ảo” này .
Trong những năm gần đây , các cơ sở giáo dục của Trung Quốc , chẳng hạn như Học viện Khoa học Quân sự , Viện Quốc phòng và Viện Quân Sự của Hải quân dành nhiều thời gian để nghiên cứu về các chiến dịch quân sự ở phương Tây.
Mặc dù sự trung thành với chiến tranh không đối xứng của Trung Quốc không phải là mới, khái niệm này được nhanh chóng di chuyển từ lý thuyết đến thực hành, nhanh chóng trở thành phương pháp tiếp cận thống trị. Bạn không nên cho rằng quân đội Trung Quốc sẽ phải chỉ dựa trên chiến lược không đối xứng. Thực tế là Trung Quốc sẽ thu hẹp khoảng cách công nghệ, nhiều chính sách của mình để được như phổ biến.
Do trong tâm thức từ ngàn năm có thể chiến lược này sẽ vẫn chi phối. Ngược lại, Mỹ không nhìn vào chiến tranh không đối xứng và các hình thức phi tiêu chuẩn khác. Cái gọi là hành động quân sự kiểu Mỹ tập trung vào hỏa lực tấn công và bỏ qua các yếu tố phòng thủ.
Câu hỏi đặt ra là liệu Mỹ sẽ có thể đối phó với một hệ thống riêng biệt, và liệu họ sẽ có thể hiểu được bản chất của chiến lược không đối xứng trong mọi lĩnh vực của Trung Quốc. Theo ghi nhận của chuyên gia Scott Dzhaspar có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hải quân cho rằng: " sự kết hợp của tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình kết hợp với tàu ngầm và tàu khu trục mang tên lửa có thể gây tử vong cho một tàu sân bay. Một số lượng lớn các tên lửa với các biện pháp chống nhiễu sóng vô tuyến có thể vô hiệu hóa các hệ thống tiên tiến nhất của chúng tôi như Aegis ". Đó chính là điều Scott Dzhaspar muốn nói đến “ chiến lược không đối xứng” của Bắc Kinh.
Trong thực tế, vào năm 2006 chống lại Israel, Hezbollah phóng một loạt tên lửa do Trung Quốc sản xuất, kết quả là một tàu hộ tống lớp Eliat Israel bị phá hủy, giết chết bốn thủy thủ. Tàu hộ tống này được coi là tàu tiên tiến nhất trong các loại tàu hộ tống hiện có trên thế giới.
Trong khi Mỹ sẽ duy trì ưu thế quân sự của mình trong tương lai gần, Trung Quốc có cơ hội để làm suy yếu lợi thế này. Điều này có thể có một tác động tích cực cho cả hai bên, cho rằng hai siêu cường sẽ hạn chế lẫn nhau. Trung Quốc và Mỹ đã trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và chia sẻ nhiều lợi ích. Các mối quan hệ có lợi có thể làm giảm nguy cơ xung đột. Tuy nhiên , điều đáng ghi nhớ trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới thế kỷ trước, Đức là đối tác thương mại chính của nước Anh.
TP (Theo News Land)
0
Trong khi đó, Trung Quốc không ảo tưởng về việc chuẩn bị quân sự cho cuộc chiến chống lại Mỹ vì Bắc Kinh biết rằng, mình vẫn chưa phải là đối thủ của Washington trong thời gian ít nhất là 20-30 năm nữa.
Do đó, quân đội Trung Quốc đang phát triển một loạt các chiến lược không đối xứng để ngăn chặn Mỹ cho đến lúc sức mạnh quân sự của họ có khả năng “chín” hoàn toàn khi đối đầu với Lầu Năm Góc.
Hơn mười năm trước đây, các nhà khoa học, quân sự Mỹ đã đánh giá rất cao chương trình tên lửa của Trung Quốc. Trong năm 2010, quân đội Trung Quốc thông báo rằng họ bắt đầu thử nghiệm chương trình tên lửa đạn đạo đầy tham vọng DF- 21A chống tàu sân bay. Trong năm 2013 đã có một vài báo cáo rằng các tên lửa DF- 21A đã được triển khai với số lượng nhỏ ở miền nam Trung Quốc. DF- 21A được cho là " sát thủ tàu sân bay ", nhằm hạn chế các nhóm tàu sân bay Mỹ trong trường hợp một cuộc xung đột với Đài Loan hoặc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Trung Quốc quyết định sử dụng tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM) là bất thường, bởi vì theo các chuyên gia, phát triển và sản xuất một loại tên lửa đạn đạo phức tạp hơn nhiều so với tên lửa hành trình. Quyết định của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đặt cược vào loại vũ khí này đã phản ánh sự phát triển đầy tự tin của ngành công nghiệp quân sự trong nước. Dự án tên lửa ASBM đúng là một mối đe dọa tiềm tàng cho các lực lượng Mỹ trong khu vực và trên thế giới.
Mặt khác, Bắc Kinh biết rằng quân đội Mỹ phụ thuộc rất nhiều vào vệ tinh thông tin liên lạc để tiến hành các hoạt động quân sự nên quân đội Trung Quốc đã đầu tư một khoản tiền đáng kể cho sự phát triển vũ khí chống vệ tinh.
Đầu năm 2007, Trung Quốc phóng thành công tên lửa chống vệ tinh đầu tiên, nó đã phá hủy một vệ tinh cũ của Bắc Kinh trong không gian. Trong tháng 5 năm 2013, Trung Quốc phóng tên lửa bay tới 10 000 km vào vũ trụ, điều này cho thấy các tên lửa được thiết kế như vũ khí chống vệ tinh. Trong cả hai đợt, Mỹ đã bày tỏ quan ngại sâu sắc.
Ngoài lĩnh vực tên lửa, Trung Quốc cũng đã thử nghiệm các loại vũ khí laser. Xung laser có thể phá vỡ các vệ tinh thông tin liên lạc, tùy thuộc vào cường độ laser, thậm chí có thể tiêu diệt chúng hoàn toàn.
Chương trình tên lửa của Trung Quốc cũng đang phát triển vững chắc và những yêu cầu mới là tăng độ chính xác và phạm vi phải xa hơn nữa. Tiến bộ trong dự án tên lửa, được mong đợi để phát triển các chương trình không gian chiến lược như tham vọng thám hiểm mặt trăng và sao Hỏa của Bắc Kinh
Chiến lược quân sự không đối xứng của quân đội Trung Quốc là không giới hạn trong một lĩnh vực hẹp, mà mở rộng đến các khu vực khác – trên đất liền, trên biển, trên không, thậm chí cả trên vũ trụ.
Lấy ví dụ ở trên biển, không giống như nhiều người nghĩ, ở đây hải quân Trung Quốc không tập trung vào việc làm thế nào để dùng một tàu sân bay nhằm tiêu diệt một tàu sân bay của kẻ thù. Mà Trung Quốc triển khai một số lượng lớn các tàu ngầm tấn công với vũ khí thông thường và hạt nhân, và số lượng máy bay chiến đấu mang tên lửa và bom có thể tiêu diệt tàu sân bay cũng như tàu nổi của đối phương.
Ngoài tàu ngầm , hải quân Trung Quốc sở hữu hàng ngàn tên lửa đối không, đối đất, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo. Hải quân cũng đã phát triển hàng loạt các tàu khu trục, tàu chiến mang tên lửa và tàu hộ tống có khả năng hoạt động ở cả vùng nước hẹp và các khu vực ven biển, chúng có thể rất hiệu quả với các đối thủ lớn hơn, đặc biệt là nếu sử dụng chiến thuật “bầy đàn”.
Một lĩnh vực khác được PLA đang ngày càng quan tâm là - là chiến tranh mạng . Từ năm 2000, quân đội Trung Quốc đã thảo luận về khái niệm tổng chiến tranh hoặc chiến tranh không giới hạn , trong đó quân đội Trung Quốc sẽ sử dụng chiến thuật không đối xứng trong mọi lĩnh vực.
Phổ biến nhất trong công việc của Trung Quốc liên quan đến chiến tranh không đối xứng được viết bởi hai đại tá quân đội Trung Quốc vào năm 1999 , được đặt tên là " chiến tranh không giới hạn ".
Các cuộc tấn công và xâm nhập vào các mạng máy tính nhạy cảm đối với Mỹ và các nước tiên tiến khác, điều này thể hiện sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc về loại “ vũ khí ảo” này .
Trong những năm gần đây , các cơ sở giáo dục của Trung Quốc , chẳng hạn như Học viện Khoa học Quân sự , Viện Quốc phòng và Viện Quân Sự của Hải quân dành nhiều thời gian để nghiên cứu về các chiến dịch quân sự ở phương Tây.
Mặc dù sự trung thành với chiến tranh không đối xứng của Trung Quốc không phải là mới, khái niệm này được nhanh chóng di chuyển từ lý thuyết đến thực hành, nhanh chóng trở thành phương pháp tiếp cận thống trị. Bạn không nên cho rằng quân đội Trung Quốc sẽ phải chỉ dựa trên chiến lược không đối xứng. Thực tế là Trung Quốc sẽ thu hẹp khoảng cách công nghệ, nhiều chính sách của mình để được như phổ biến.
Do trong tâm thức từ ngàn năm có thể chiến lược này sẽ vẫn chi phối. Ngược lại, Mỹ không nhìn vào chiến tranh không đối xứng và các hình thức phi tiêu chuẩn khác. Cái gọi là hành động quân sự kiểu Mỹ tập trung vào hỏa lực tấn công và bỏ qua các yếu tố phòng thủ.
Câu hỏi đặt ra là liệu Mỹ sẽ có thể đối phó với một hệ thống riêng biệt, và liệu họ sẽ có thể hiểu được bản chất của chiến lược không đối xứng trong mọi lĩnh vực của Trung Quốc. Theo ghi nhận của chuyên gia Scott Dzhaspar có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hải quân cho rằng: " sự kết hợp của tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình kết hợp với tàu ngầm và tàu khu trục mang tên lửa có thể gây tử vong cho một tàu sân bay. Một số lượng lớn các tên lửa với các biện pháp chống nhiễu sóng vô tuyến có thể vô hiệu hóa các hệ thống tiên tiến nhất của chúng tôi như Aegis ". Đó chính là điều Scott Dzhaspar muốn nói đến “ chiến lược không đối xứng” của Bắc Kinh.
Trong thực tế, vào năm 2006 chống lại Israel, Hezbollah phóng một loạt tên lửa do Trung Quốc sản xuất, kết quả là một tàu hộ tống lớp Eliat Israel bị phá hủy, giết chết bốn thủy thủ. Tàu hộ tống này được coi là tàu tiên tiến nhất trong các loại tàu hộ tống hiện có trên thế giới.
Trong khi Mỹ sẽ duy trì ưu thế quân sự của mình trong tương lai gần, Trung Quốc có cơ hội để làm suy yếu lợi thế này. Điều này có thể có một tác động tích cực cho cả hai bên, cho rằng hai siêu cường sẽ hạn chế lẫn nhau. Trung Quốc và Mỹ đã trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và chia sẻ nhiều lợi ích. Các mối quan hệ có lợi có thể làm giảm nguy cơ xung đột. Tuy nhiên , điều đáng ghi nhớ trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới thế kỷ trước, Đức là đối tác thương mại chính của nước Anh.
TP (Theo News Land)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)