THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Chủ Nhật, ngày 1/9/2013
(Tạp chí Asian Affairs, tháng 10-12/2012)
Tóm tắt: Đây là lần thứ 3 các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đã cân nhắc việc xoay trục sang châu Á. Tuy nhiên, lần này thì khác hẳn, vì rõ ràng cơ sở lực hấp dẫn của nền kinh tế toàn cầu đang chuyển từ Tây sang Đông. Với tư cách là quốc gia hùng mạnh nhất ở châu Á-Thái Bình Dương, Hoa Kỳ một lợi ích quốc gia quan trọng hơn cả trong việc duy trì sự thịnh vượng và trật tự của khu vực này.
Nhưng Washington D.C thừa nhận rằng mình không còn có thể áp đặt được nữa các giải pháp đối với các chính phủ lớn trong khu vực. Một chiến lược mới của Hoa Kỳ đối với châu Á-Thái Bình Dương sẽ phải tính đến những giới hạn hết sức nghiêm ngặt được áp đặt vào các chính sách đối ngoại và quốc phòng của Hoa Kỳ do sự suy thoái kinh tế tương đối của Hoa Kỳ. Điều này có nghĩa là Washington sẽ phải thuyết phục các bạn bè và đồng minh của mình đảm nhận trách nhiệm lớn hơn đối với an ninh khu vực. Cái gọi là hệ thống liên minh do Hoa Kỳ bảo trợ San Francisco sẽ phải được thay đổi, để làm cho nó đáp ứng hơn với những vấn đề mà Hoa Kỳ và các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực phải đối mặt, Bài viết được đề xuất của Lầu Năm Góc như một sự phàn ứng đối với việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc và là nguồn gốc của sự tái đảm bảo cho các bạn bè và đồng minh của Washington D.C trong khu vực.
Việc Chính quyền Obama nâng tầm khu vực châu Á – Thái Bình Dương lên thành “một trong những ưu tiên chiến lược hàng đầu của chúng ta” có khả năng là quyết định chiến lược quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong hai thập kỷ qua. Bài viết này sẽ xem xét những gì mà chính quyền này sẽ phải làm để biến khát vọng này thành một chiến lược có hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác khu vực và thúc đẩy những lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ đồng thời tránh một “cuộc chiến tranh bá quyền” với Trung Quốc. Tác giả bài viết này sẽ chú trọng vào các yếu tố quân sự của việc xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ, mặc dù đây chỉ là một yếu tố của bất cứ chiến dịch mới nào của Hoa Kỳ nhằm tăng cường vị thế của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á.
Trước hết là một lưu ý có tính khuyên răn, Hoa Kỳ vẫn có nhiều việc phải làm ở châu Á – Thái Bình Dương. Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự đang gia tăng đều đặn của mình, và những cơ hội do sự bận rộn của Hoa Kỳ ở Trung Đông tạo ra, để thách thức ảnh hưởng của Washington D.C ở khu vực châu Á. Hoa Kỳ cũng đã bị các chính phủ châu Á chỉ trích mạnh mẽ – trong đó có cả các bạn bè và đồng minh chủ yếu của Hoa Kỳ trong khu vực – về việc xử lý cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và về vai trò của nước này trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2008. Ở mức độ cơ bản hơn, Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng đòn bẩy đối với những tài sản kinh tế của mình ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và tài trợ cho việc ứng phó quân sự đầy tham vọng với việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc, vì việc này sẽ bị hạn chế nhiều bởi các vấn đề kinh tế trong nước. Trong những hoàn cảnh này, bất cứ chiến lược quân sự nào đối với châu Á – Thái Bình Dương sẽ phải đặt ưu tiên rất cao vào việc hỗ trợ tích cực cho các bạn bè và đồng minh của chúng ta trong khu vực. Đây sẽ là một trong những lý do giải thích tại sao các công cụ quyền lực mềm như hoạt động ngoại giao và hợp tác kinh tế sẽ có tầm quan trọng như các chính sách quân sự trong chiến lược “xoay trục” của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu coi nhẹ những phương tiện lâu dài mà Hoa Kỳ có thể dựa vào khi Hoa Kỳ “xoay trục” sang châu Á. Ngay cả nếu những dự đoán trường hợp tồi tệ nhất trở thành sự thật, và Lầu Năm Góc phải cắt giảm chi phí một nghìn tỉ USD trong thập kỷ tới, Hoa Kỳ vẫn sẽ có khả năng dựa vào các nguồn tài lực quân sự khác thường ở khu vực châu Á. Quan trọng hơn, Washington D.C có thể tìm được lòng tin và phương hướng từ thực tế rằng hầu hết các chính phủ châu Á – Thái Bình Dương vẫn coi trật tự quốc tế tự do là sự đảm bảo tốt nhất của họ cho sự thịnh vượng và an ninh và vẫn chấp nhận việc không thể thiếu được sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong trật tự này. Nếu xử lý một cách thích hợp, Hoa Kỳ sẽ có khả năng sử dụng sức hấp dẫn vốn có của tầm nhìn của mình về trật tự quốc tế tự do để tạo dựng lại vị thế và ảnh hưởng của mình với mức rủi ro thấp nhất trong một cuộc đối đầu với Trung Quốc.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Hoa Kỳ không phải là sự bá quyền của Hoa Kỳ, và như John Ikenberry đã lưu ý, “các biện pháp gây sức ép đòi thay đổi – và tổ chức lại trật tự này – đang gia tăng”. Trong những hoàn cảnh này, Hoa Kỳ sẽ cần phối hợp với các bạn bè và đồng minh của mình trong khu vực không chỉ để tạo cơ hội cho châu Á trong hệ thống quốc tế này mà còn tạo cơ hội cho Trung Quốc ở khu vực châu Á. Điều này sẽ không chỉ đòi hỏi phải có một ý thức về một tương lai chung, mà còn đòi hỏi sự hiểu biết chính xác của Washington D.C về những cách thức mà các bạn bè và đồng minh trong khu vực nhìn nhận lịch sử về sự dính líu của Hoa Kỳ trong khu vực.
Sự “xoay trục” và vòng cung: Chiến lược của Obama trong bối cảnh lịch sử
Đây là lân thứ ba giới hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đã tranh luận về những điều thuận lợi và bất lợi của một chiến lược đặt trọng tâm chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ vào châu Á-Thái Bình Dương. Kết hợp với nhau, cả ba cuộc tranh luận về chính sách này có thể được coi là một tiến trình điều chỉnh dần dần của Hoa Kỳ về bản sắc của mình với tư cách là một quốc gia Thái Bình Dương. Trong giai đoạn đầu, một cuộc tranh luận sôi nổi mang tính quốc gia đã diễn ra cả về sự khôn ngoan và đạo đức của việc triển khai sức mạnh của Hoa Kỳ vào châu Á. Sau gần 50 năm lập luận, Hoa Kỳ đã lao vào Thái Bình Dương vào cuối thế kỷ 19 – thôn tính Hawaii năm 1898, khởi đầu một cuộc chiến tranh tàn bạo ở Philippines năm 1899, và triển khai 4.000 quân đến Trung Quốc năm 1900 để giúp đỡ dập tắt cuộc nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn. Các chiến dịch xuyên Thái Bình Dương này bị Liên đoàn chống Đế quốc và các tổ chức khác của Hoa Kỳ công kích như là sự phản bội những giá trị Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có tốt hơn so với các nước châu Âu phi đạo đức nếu nước này tìm cách trở thành đế chế, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, ở châu Á?
Cuộc Chiến tranh Philippines là một “sáng kiến” liều lĩnh nhất và tốn kém nhất trong thời kỳ này. Chiến dịch quân sự, diễn ra từ 1899 đến 1902, đã gây thương vong trên 4.000 quân Hoa Kỳ – một thiệt hại nhiều hơn đáng kể so với chiến dịch kéo dài cả thập kỷ của Hoa Kỳ ở Ápganixtan, vào thời điểm khi dân số Hoa Kỳ vào khoảng 1/4 dân số hiện nay. Tuy nhiên người Hoa Kỳ không nhớ đến cuộc chiến tranh này cho đến khi nó trở thành một nguồn nghiên cứu đối với các nhà vạch kế hoạch quan tâm đến chống nổi dậy. Tuy nhiên, Michael Hunt và Steven Levine nhẳc nhở chúng ta rằng cuộc chiến tranh này có những tác động lâu dài đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ:
“Bất kể khó áp đặt đến đâu và gây tranh cãi đến mức nào ở trong nước, vị thế đế quốc mà Hoa Kỳ đã tạo ra ở Philippines có những kết quả mạnh mẽ đóng góp quan trọng cho các cuộc chiến tranh sau này ở Thái Bình Dương. Hãy xem Philippines cùng với Hawaii và Guam đã chứng tỏ những tuyên bố của Hoa Kỳ là một cường quốc Thái Bình Dương và nuôi dưỡng sự thèm khát phát triển hơn nữa vị thế của Hoa Kỳ trong khu vực”.
Hunt và Levine cũng cho rằng “những hành động glành thêm lãnh thổ này là … một thách thức trực tiếp đối với tương lai của Nhật Bản với tư cách là một cường quốc khu vực loại một có những lợi ích trong việc mở rộng những giải pháp thương mại và đối ngoại của mình”. Chiến dịch mở rộng đế chế của Nhật Bản vào những năm 1930, lên đến đỉnh điểm trong cú sốc Trân Châu Cảng, mở ra giai đoạn “xoay trục” thứ hai “của Hoa Kỳ sang châu Á. Vào các giai đoạn sau đó của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai, giới hoạch định chính sách của Hoa Kỳ phát triển các kế hoạch về các căn cứ được triển khai phía trước khắp Thái Bình Dương để đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ một lần nữa trở thành “gã khờ bị ăn đấm” bởi một cường quốc châu Á đang nổi lên. Chiến lược này đã được điều chỉnh sau chiến tranh cho phù hợp với những đòi hỏi về sự răn đe hạt nhân và thực tế chiếm đóng quân sự của Hoa Kỳ ở Nhật Bản. Vấn đề đối với các nhà vạch kế hoạch quốc phòng sau chiến tranh là liệu những sáng kiến khác hẳn nhau này có nên được đưa vào một chiến lược lớn hơn và đầy tham vọng hơn nào đó về an ninh châu Á-Thái Bình Dương hay không. Nhưng những lập luận ủng hộ hệ thống liên minh đa phương ở châu Á dựa trên hai thực tế. Thứ nhất, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ vẫn được chỉ đạo bởi một nhóm người mà nguồn gốc sắc tộc và văn hóa của họ là khắp Đại Tây Dương, và những người vẫn coi châu Âu là trung tâm của hệ thống quốc tế. Thứ hai, ngay cả các nhà hoạch định chính sách phần nào đồng tình với lập luận cho rằng châu Á nên được coi là ưu tiên hàng đầu đã gặp nhiều khó khăn trong việc lý giải về cách thức mà một hệ thống an ninh gắn kết về địa chiến lược có thể được thành lập và quản lý trong một khu vực rất rộng lớn, rất phức tạp, và rất xa lạ đối với Hoa Kỳ. Trong những hoàn cảnh này, Washington D.C lựa chọn cái gọi là hệ thống các hiệp ước phòng thủ hai bên và ba bên San Francisco tạo điều kiện thuận lợi cho sự hiện diện quân sự và chính trị của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình Dương mà không khóa chặt Hoa Kỳ vào một liên minh đa phương như NATO.
Trong Chiến tranh Lạnh, việc bảo vệ do hệ thống San Francisco đem lại có thể làm cho Nhật Bản, đồng minh quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong khu vực, tập trung chú ý vào các vấn đề kinh tế không có lợi cho các vấn đề quốc phòng, phù hợp với Học thuyết Yoshida, Do những hoàn cảnh đặc biệt của mình, Nhật Bản trở thành “nhà nước hậu hiện đại” thành công nhất ngoài cộng đồng châu Âu. Năm 2004, Robert Cooper giải thích rằng Nhật Bản hậu hiện đại “có những giới hạn tự áp đặt về chi phí và những khả năng quốc phòng. Nước này không còn quan tâm đến việc glành lãnh thổ hay sử dụng vũ lực”. Tuy nhiên, Cooper tiếp tục lưu ý: “Không may đối với Nhật Bản, đây là một quốc gia hậu hiện đại được bao quanh bởi các nước được khóa chặt vào một kỷ nguyên trước đó”. Ông dự đoán rằng “nếu Trung Quốc phát triển theo một cách không hứa hẹn… Nhật Bản có thể buộc phải trở lại chủ nghĩa hiện đại phòng thủ”. Việc thích nghi với một tư thế của chủ nghĩa hiện đại phòng thủ này đang diễn ra ở Nhật Bản hiện nay, và chính xác vì những lý do mà Cooper dự đoán.
Trong khi đó, ở Đông Nam Á, sự bảo vệ quân sự của Hoa Kỳ đã cho phép, và những trải nghiệm lịch sử với chủ nghĩa thực dân đã khuyến khích, các chính phủ tập trung vào những mối quan tâm trong nước của riêng mình và củng cố các thể chế mới và các cách ứng xử để xử lý các vấn đề địa phương. Sự phát triển của ASEAN như một “Khu vực Hòa bình, Tự do, và Trung lập” là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình này. Các nước thành viên ASEAN can dự vào nhiều trong số hành vi ứng xử đặc trưng của các nhà nước hậu hiện đại, nhưng họ đã phát triển những đặc tính này ngoài những đặc tính an ninh truyền thống (có nghĩa là hiện đại) hơn đặc trưng bởi quyền lực cứng và sự tự lực quân sự. Trong những hoàn cảnh này, các nước ASEAN thấy mình thích ứng dễ dàng hơn với những đòi hỏi của chủ nghĩa hiện đại phòng thủ so với Nhật Bản trong một môi trường an ninh đang thay đổi. Nhưng Washington D.C không thể đương nhiên cho rằng những nồ lực của mình nhằm tăng cường sức mạnh và ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ được các chính phủ Đông Nam Á hoan nghênh, đặc biệt nếu các chính sách của Hoa Kỳ buộc họ phải lựa chọn giữa Washington D.C và Bắc Kinh.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc – Những lựa chọn của Hoa Kỳ
Lịch sử cũng đã tạo ra những rào cản đáng kể đối với sự hợp tác Mỹ – Trung. Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã chuyển mối quan hệ của mình với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ một tình trạng thù địch rõ ràng sang mối quan hệ đối địch lẫn lộn. Không may, vào thời điểm George H.W. Bush lên cầm quyền năm 1989, các mối quan hệ Mỹ-Trung không phát triển thành mối quan hệ song phương tích cực và có hiệu quả hơn. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Bush đã báo hiệu điều quan trọng rằng ông đã chấp thuận một mối quan hệ được cải thiện và mở rộng của Hoa Kỳ với Trung Quốc bằng cách thực hiện một chuyến thăm chính thức tới Bắc Kinh. Ông đã có một số lý do để lạc quan về những quan điểm của mình. Bush không được đầu tư về mặt tình cảm về vấn đề Đài Loan như người tiền nhiệm của ông. Quả thực, chính Bush, với tư cách là người được đề cử là phó tổng thống năm 1980, đã đến thăm Trung Quốc để “làm yên lòng Đặng Tiểu Bình rằng bất chấp sau khi đề cập đến điều này trong một bài phát biểu trong chiến dịch vận động tranh cử, ông ấy (Ronald Reagan) không tin vào hai Trung Hoa (Trung Hoa Đại lục và Trung Hoa Dân quốc) và rằng ông ấy sẽ tôn trọng thông cáo Thượng Hải”. Người ta cũng có thể lập luận rằng vào thời điểm Bush lên cầm quyền, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày càng nhận rõ các xu hướng ở Đài Loan (dân chủ hóa, và ảnh hưởng chính trị đang gia tăng của người gốc Đài Loan) sẽ làm cho các quan hệ hai bờ Eo Biển trở thành có vấn đề và ít khả năng đoán trước hơn nếu không thể đạt được một số thay đổi đáng kể. Bush cũng là một người thực dụng hơn nhiều so với hoặc Jimmy Carter hoặc Ronald Reagan, và có xu hướng chấp thuận ưu tiên cao hơn cho những cân nhắc chiến lược so với hồ sơ nhân quyền của Trung Quốc và cam kết lâu dài của Bắc Kinh với chủ nghĩa cộng sản. Về cơ bản hơn, Bush chấp nhận rằng Trung Quốc đã có đòi hòi nào đó là ở bên thắng cuộc trong cuộc Chiến tranh Lạnh – như điều mà James Mann gọi là một “đồng minh ngầm”- và rằng Trung Quốc có thể đóng một vai trò quan trọng trong thời kỳ quá độ hòa bình đi tới một trật tự quốc tế hậu Xôviết.
Thật không may, Tổng thống Bush chưa bao giờ có cơ hội để thử thách những giới hạn của sự hợp tác chiến lược với các bên đồng chức Trung Quốc. Vào thời điểm Bush lên cầm quyền, ban lãnh đạo Bắc Kinh đang can dự vào các cuộc đấu tranh quyền lực quyết liệt trong nước về nhịp độ và phương hướng cải cách. Mấy tháng sau, khi xe tăng của PLA lăn bánh trên quảng trường Thiên An Môn, Bush trở nên không thể can dự một cuộc đối thoại thực sự với Trung Quốc. Các mối quan hệ Mỹ-Trung đã bị kẹt trong tình trạng gò ép từ đó. Những thay đổi lớn duy nhất về phía Trung Quốc từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh là sự tiến bộ mạnh mẽ về kinh tế của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và những cải thiện đi kèm về những khả năng quân sự của Trung Quốc.
Học thuyết về quan hệ quốc tế cũng không tạo điều kiện dễ dàng lắm khi chúng ta ứng dụng nó vào tình hình Mỹ-Trung. Hầu hết các cuộc chuyển giao quyền lực cuối cùng đều đi đến một cuộc đấu đá, và trong rất nhiều trường hợp đó là một cuộc chiến tranh mà không bên nào mong muốn. Trong trường hợp mối quan hệ Mỹ-Trung, cả hai bên tiếp tục bày tỏ cam kết mạnh mẽ về những thỏa hiệp chung, nhưng theo những điều kiện riêng của họ. Một lập luận điển hình của Hoa Kỳ khẳng định rằng “Hoa Kỳ cần tập trung mở rộng một chương trình nghị sự chung với Trung Quốc, bằng cách chấp nhận một tình thế buộc Trung Quốc phải tuân thủ các quy tắc”. Mặt khác, Trung Quốc không tạo điều kiện dễ dàng cho Hoa Kỳ phát triển một tình thế dễ thỏa hiệp hơn. Bắc Kinh đã hỗ trợ giọng điệu “phát triển hòa bình” bằng chiến dịch đầy ấn tượng là hiện đại hóa quân sự, được tiếp sức bởi tỉ lệ gia tăng chi phí quốc phòng trung bình là 12% mỗi năm. Nếu các xu hướng hiện nay ở Trung Quốc và Hoa Kỳ tiếp diễn, Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm dự đoán rằng Bắc Kinh sẽ vượt Hoa Kỳ về chi phí quốc phòng vào năm 2035.
Một số nhà bình luận đã tìm cách làm yên lòng từ sự hội nhập ngày càng tăng của Trung Quốc vào nền kinh tế toàn cầu. Không tính đến mối đe dọa do Trung Quốc tăng cường khả năng triển khai sức mạnh quân sự vượt ra ngoài biên giới nước này gây ra, các nhà bình luận này lập luận rằng Bắc Kinh có lợi ích đang gia tăng trong hệ thống quốc tế có trật tự và có thể đoán trước được. Những người lạc quan như Edward Steinfeld cũng đã khẳng định rằng Trung Quốc đang trên đường đi tới “chủ nghĩa độc đoán đang tự lỗi thời” và rằng “thời điểm nước này là một đối thủ hiện tại đã đi đến chỗ kết thúc”. Tuy nhiên, các chuyên gia khác của Hoa Kỳ nhìn nhận sự tiến bộ kinh tế của Trung Quốc hoàn toàn khác hẳn: như là đâu máy hiện đại hóa quốc phòng của Trung Quốc, là nguồn gốc của chính sách đối ngoại ngày càng rộng mở và quyết đoán của Trung Quốc. Và là mối đe dọa trực tiếp đối với các nguyên tắc khác nhau của thương mại tự do và hợp tác kinh tế quốc tế. Các nhà bình luận cũng lưu ý rằng tình huống đảm bảo hủy hoại kinh tế lẫn nhau hiện tồn tại giữa Washington D.C và Bắc Kinh không phải là một nhân tố đảm bảo sự ổn định đáng tin cậy, vì nó khuyến khích mỗi nước cho rằng – phù hợp với lôgích của chính sách bên miệng hố chiến tranh – họ có thể đẩy bên kia đi rất xa mà không mất sự kiểm soát.
Tình hình tương tự diễn ra đối với sự cân bằng quân sự giữa Washington D.C và Bắc Kinh. Một mặt, sự cân bằng chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là rất ổn định, vì không có nước nào muốn xảy ra chiến tranh hạt nhân. Tuy nhiên, mặt khác sự cân bằng chiến lược ngày càng chịu sức ép do những phát triển không tương xứng về các khả năng và học thuyết phòng thủ của hai nước. Vì Hoa Kỳ là một nước lớn nguyên trạng đã có một loạt công cụ quân sự đầy ấn tượng để đe dọa Trung Quốc, hầu hết sự thay đổi gây mất ổn định xuất phát từ PLA. Washington D.C đã đặc biệt lưu ý về việc Trung Quốc phát triển các khả năng chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (A2/AD), bao gồm các hệ thống chống vệ tinh động năng và phi động năng, tên lửa hành trình thông thường và tên lửa đạn đạo, tàu ngầm, và các khả năng chiến tranh trên mạng ngày càng hiện đại. Các nhà vạch kế hoạch quốc phòng của Hoa Kỳ đặc biệt lo ngại về những bối cảnh mang tính học thuyết đối với các hệ thống mới này, vì họ có xu hướng đặt ưu tiên cao vào việc tấn công trước và dựa vào yếu tố bất ngờ để glành được lợi thế chiến lược. Những đề nghị về chính sách của Hoa Kỳ nhằm chống lại khả năng A2/AD đang gia tăng của Trung Quốc sẽ được thảo luận sau đây trong bài viết này.
Do nhịp độ hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc chưa có khả năng giảm bớt, và vì điều này sẽ thúc đẩy sự gia tăng tựơng ứng về sự mất an ninh của Hoa Kỳ, phận sự của cả hai bên là dựa vào hoạt động ngoại giao để giữ cho cuộc cạnh tranh của họ trong tầm kiểm soát. Zbigniew Brzezinski đã lập luận về một hiến chương toàn diện để vẫn “làm bạn” với Trung Quốc. Nhưng như Robert Ross đã nhận xét: “Những lợi thế địa lý và sự năng động kinh tế của nước này, và tầm quan trọng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc và Đông Á, đặt Trung Quốc vào cuộc cạnh tranh trực tiếp với Hoa Kỳ. Thực tế chiến lược này đảm bảo rằng Washington D.C và Bắc Kinh sẽ không thể phát triển một mối quan hệ hữu nghị, hay thậm chí chủ yếu mang tính hợp tác trong vòng 15 đến 20 năm tới”.
Không có lý do giải thích tại sao Hoa KỲ không nên tìm kiếm hình thức hiểu biết toàn diện với Trung Quốc mà Brzezinski khuyến cáo. Nhưng nỗ lực của Tổng thống Obama nhằm “điều chinh lại” các mối quan hệ Mỹ-Nga khiến cho chúng ta không có lý do gì để lạc quan, và mối quan hệ Trung – Mỹ tạo ra những rào cản cao hơn đáng kể. Hai thập kỷ sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, các vấn đề đã gây cản trở các mối quan hệ Mỹ-Trung trong suốt Chiến tranh Lạnh – vị thế của Đài Loan, cuộc đối đầu Bắc-Nam trên bán đảo Triều Tiên, và những bất đồng cơ bản về các nguyên tắc chính trị, kình tế, và nhân quyền – vẫn chưa giải quyết được.
Vì dường như không có khả năng Washington D.C sẽ có thể đề ra một giải pháp toàn diện với Bắc Kinh mà có thể là cơ sở cho một tạm ước Hoa Kỳ nên theo đuổi một chiến lược tốt thứ hai là điều chỉnh cho thích nghi với sức mạnh của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương đồng thời phát triển các phương thức mới về hợp tác an ninh với các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực.
Tiến tới một chiến lược “xoay trục” cua Hoa Kỳ: các nguồn lý tưởng và vật chất
Washington D.C sẽ tiếp tục dựa vào hệ thống đồng minh hai bên và ba bên San Francisco đã được thành lập trong Chiến tranh Lạnh với những nỗ lực nhằm tái đảm bảo. Và lôi kéo sự ủng hộ từ các bạn bè và đồng minh châu Á – Thái Bình Dương. Trong 6 thập kỷ qua hệ thống San Francisco này thường được mô tả là mối quan hệ nghèo nàn của NATO. Hệ thống này chắc chắn đã trải qua những thăng trầm trong quãng thời gian đó, nhưng bất chấp lịch sử xáo động của nó, hệ thống San Francisco đã Tồn tại và thích nghi. Hiện nay, hệ thống San Francisco còn lại này vẫn là nền tảng cho sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình Dương, nhưng nó cần sự sửa đổi và tăng cường đáng kể. Phần này sẽ đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống San Francisco, sử dụng một thể thức đã được sử dụng 4 thập kỷ trước bởi Joseph Nye, người đã lập luận rằng tất cả các tổ chức trong khu vực có thể được đánh giá theo phương diện các nguồn lý tưởng và vật chất. Các nguồn lý tưởng nói về sự đánh giá mà các nước thành viên của một tổ chức khu vực đưa ra về tổ chức đó. Các nguồn vật chất nói về khả năng của tổ chức đó trong việc hoàn thành những nhiệm vụ mà nó cam kết. Nếu chúng ta áp dụng các chuẩn mực của Nye vào mạng lưới an ninh do Hoa Kỳ bảo trợ ở châu Á – Thái Bình Dương, chúng ta phát hiện ra vấn đề sau:
Các nguồn lý tưởng: những điều thuận lợi
* Sự đánh giá cao ngày càng tăng giữa các chính phủ then chốt trong khu vực về sự hiện diện của Hoa Kỳ ở châu Á -Thái Bình Dương. Bất chấp những gánh nặng lịch sư đã được đề cập ở trên, nhiều bên tham gia trong khu vực coi việc “xoay trục” của Hoa Kỳ sang châu Á là sự lựa chọn ít tồi tệ nhất vào thời điểm khi Bắc Kinh bắt đầu sử dụng “sức mạnh đe dọa kết hợp” nhằm gây ảnh hưởng đến những quyết định như quy chế về Biển Nam Trung Hoa.
* Như đã được đề cập ở trên, bất chấp những đòn nặng nề đánh vào trật tự quốc tế tự do (đáng chú ý nhất là các cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 và năn 2008) các chính phủ then chốt châu Á vẫn coi phiên bản nào đó của trật tự này là sự đảm bảo tốt nhất cho an ninh và thịnh vượng của họ. Điều này sẽ tiếp tục tạo cho Washington D.C những lợi thế đáng kể so với Trung Quốc khi các chính phủ châu Á đang tính toán những chiến lược lâu dài của họ.
* Ngay cả trong tình hình hạn chế kinh tế nghiêm trọng, Washington D.C có thể sẽ tiếp tục tạo dựng danh tiếng của mình là một nhà cung cấp những lợi ích chung trong khu vực và trên thế giới.
Các nguồn lý tưởng: những điều bất lợi
* Washington D.C phải làm việc với, và xoay quanh, những thói quen và những sở thích hậu hiện đại còn lại trong các chính phủ châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt ở Nhật Bản và Đông Nam Á. Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đôi khi phản ứng trước những hành vi ứng xử như vậy với thái độ thất vọng, phàn nàn về sự ưu tiên quy trình so với sản phẩm và lời nói trên hành động. Nhưng việc gây sức ép buộc các chính phủ này phải tiến hành những điều chỉnh hơn nữa và nhanh hơn theo những tư thế của chủ nghĩa hiện đại phòng thủ có thể mang đến kết quả ngược lại.
* Trung Quốc đã hoàn toàn thành công trong thập kỷ qua trong những nỗ lực của riêng mình nhằm tạo ra sự nổi bật hơn với tư cách là một bên tham gia có ảnh hưởng trong khu vực. Để hoàn thành được việc này, Bắc Kinh đã dựa vào hoạt động ngoại giao “bạn bè với mọi ngưòi” được tăng cường bởi sự hợp tác kinh tế. Trong nhiều trường hợp nước này có thể gạt Washington D.C ra ngoài lề bởi những sự lôi kéo những bản sắc chung của châu Á và thời kỳ hậu thực dân.
Có một vài sự thật hiển nhiên mà không ai muốn bàn đến có thể làm phức tạp thêm các mối quan hệ của Hoa Kỳ với các chính phủ then chốt châu Á – Thái Bình Dương trong tương lai. “Sự thật bị phớt lờ lớn nhất” là những lo ngại của châu Á về nguy cơ xảy ra cuộc xung đột qua Eo biển Đài Loan. Washington D.C cam kết bảo vệ Đài Loan trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công từ đại lục. Nhưng chưa rõ các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ lý giải thế nào về những nghĩa vụ của họ trong những hoàn cảnh này. Và bất cứ tuyên bố hay chính sách nào của Hoa Kỳ buộc các chính phủ trong khu vực phải công khai đối đầu với những vấn đề như vậy có thể có những hậu quả tiêu cực đối với mọi quốc gia trừ Trung Quốc.
Các nguồn vật chất: điều thuận lợi
*Mặc dù nói về việc kéo quá căng lực lượng và cắt giảm ngân sách, Hoa Kỳ có thể vẫn sử dụng các nguồn tài lực quân sự làm giảm những khả năng của Trung Quốc. Một kiểm toán sơ bộ của Bộ chỉ huy Thái Bình Dương làm nổi bật lên 6 nhóm tàu sân bay chiến đấu, 180 tàu chiến và 1.500 máy bay được sự yểm trợ của 100.000 quân. Trên thực tế, các phương tiện của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ gia tăng trong tương lai gần, phù hợp với một kế hoạch được công bố gần đây nhằm định hình lại sự hiện diện trên biển toàn cầu của Hoa Kỳ từ sự phân chia theo tỉ lệ 50/50 đến 40/60 giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Điều này sẽ tạo cho Hoa Kỳ một bước đệm ít nhất 10 năm để đề ra một tạm ước với Trung Qưốc hoặc phối hợp với các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực để phát triển một cơ cấu an ninh khu vực mới để điều chỉnh cho thích hợp, và đương đầu với PLA.
* Như đã được đề cập ở trên, hầu hết bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực đều lặng lẽ điều chỉnh cho phù hợp với những tác động của sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách gia tăng chi phí quốc phòng của họ và phát triển các tình hình hợp tác an ninh mới với các nước láng giềng của họ và với Hoa Kỳ. Những nỗ lực gần đây của Nhật Bản để phát triển những khả năng này đòi hỏi một chiến lược “phòng thủ năng động” là trường hợp nổi bật. Tokyo cũng bắt đầu phát triển những dàn xếp an ninh “tiểu đa phương” mới vừa là phương tiện để thúc đẩy hệ thống San Francisco vừa là cách để tăng cường vị thế của họ như một cường quốc trung lập trong khu vực. Những ví dụ gây ấn tượng nhất về sự hợp tác tiểu đa phương của Tokyo là hợp tác với Canberra. Hai chính phủ đã ký Tuyên bố chung về hợp tác an ninh (năm 2009) và một Hiệp định mua sắm và trao đổi dịch vụ (năm 2010) để tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác an ninh. Những sáng kiến này có thể được hiểu là những phản ứng đối với một ý thức đang gia tăng về khả năng dễ bị tổn thương và dễ bị tác động chiến lược của cả hai nước. Trọng khi đó, các nước thành viên ASEAN đã gia tăng ngân sách quốc phòng của họ khoảng 13,5% năm 2011, trong khi đồng thời phát triển các hình thức hợp tác quốc phòng mới giữa họ và với Washington D.C.
Các nguồn vật chất: điều bất lợi
* Đúng vào thời điểm Washington D.C đang tìm kiếm những cơ hội mới cho sự hợp tác an ninh khắp châu Á – Thái Bình Dương, Washington cũng đang điều chỉnh cho thích nghi với những sức ép buộc phải thương lượng lại những dàn xếp quốc phòng lâu dài với các đồng minh quan trọng nhất của mình. Ở Hàn Quốc, việc tái triển khai các lực lượng của Hoa Kỳ đến các khu vực ít dân cư hơn, việc giảm toàn bộ quy mô lực lượng của Hoa Kỳ, và những kế hoạch trao quyền chỉ huy cho Seoul vào năm 2015 là sự minh họa đầy đủ. Một tiền trình điều chỉnh khó khăn và có dụng ý hơn đã diễn ra ở Nhật Bản trong hơn một thập kỷ. như đã được thể hiện bằng tuvên bổ gần đây về những kế hoạch rút khoảng 9.000 lính Hoa Kỳ khỏi Nhật Bản trong mấy năm tới.
* Việc Trung Quốc có khả năng lấy tác dụng đòn bẩy từ các hoạt động kinh tế của mình ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương là sự kiềm chế nữa đối với chiến lược xoay trục đầy tham vọng của Hoa Kỳ. Thương mại song phương của Trung Quốc với các chính phủ châu Á đã tăng khoảng 47% trong 6 tháng đầu sau khi Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc – ASEAN đi vào hoạt động vào 1/1/2010, và đầu tư của Trung Quốc ở khu vực đã tăng gấp đôi trong 3 năm qua. Các mối liên kết kinh tế này mang lại cho Bắc Kinh đòn bẩy quyền lực mềm mà Washington D.C không thể hy vọng sánh được ở Đông Nam Á.
* Những diễn biến đã gây chú ý nhất từ các chuyên gia quốc phòng Hoa Kỳ có liên quan đến việc cải thiện đều đặn khả năng tiến hành chiến tranh và triển khai sức mạnh của Trung Quốc, đặc biệt việc PLA tăng cường khả năng can dự vào các hoạt động A2/AD. Phần tiếp theo của bài viết này sẽ khảo sát cuộc tranh luận đang gia tăng trong giới hoạch định chính sách của Hoa Kỳ về những lựa chọn của Hoa Kỳ để ứng phó với khả năng A2/AD đang gia tăng của Trung Quốc.
Những lựa chọn giữ cân bằng bên ngoài
Những kinh nghiệm có tính khuyên răn về các cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam kết hợp với sự áp chế của khoảng cách và những sự nhạy cảm của các đồng minh then chốt trong khu vực thuyết phục Washington D.C phát triển và duy trì một chiến lược cân bằng bên ngoài ở khu vực Thái Bình Dương. Trung Quốc hiện nay đang phát triển các khả năng quân sự và ủng hộ những học thuyết nhằm thách thức một yếu tố then chốt của chiến lược đó – khả năng của Hoa Kỳ hoạt động không bị trừng phạt ở mức tương đối trong khắp vùng biển này. Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ lo ngại rằng khi Trung Quốc phát triển các khả năng A2/AD của mình, các bạn bè và đồng minh then chốt của Hoa Kỳ sẽ bắt đầu phân vân có phải Osinhtơn vẫn sẵn sàng và có khả năng hỗ trợ những cam kết an ninh của mình hay không. Điều này đã khiến cho Lầu Năm Góc đưa ra một khái niệm hoạt động mới là Không-Hải Tác chiến (ASB) nhằm hướng dẫn việc phát triển và triển khai các hệ thống có khả năng “tấn công chiều sâu theo mạng lưới, được kết hợp nhằm gây rối, phá hủy và đánh bại … các mối đe dọa A2/AD”. Trong khi đó Văn phòng phụ trách Không-Hải Tác chiến của Lầu Năm Góc đã nhấn mạnh rằng ASB “không phải là một khái niệm nhằm vào bất cứ kẻ thù tiềm tàng đặc biệt nào”, không nghi ngờ rằng trọng tâm chủ yếu của việc vạch kể hoạch ASB là Trung Quốc. Quả thực, các nhà hoạch định chính sách không thể giải thích lý do căn bản về ASB mà không có một số đề cập cụ thể về việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc. Một ví dụ có căn cứ là trong một bài báo được công bố gần đây của Tướng Norton Schwartz, Tham mưu trưởng Lực lượng Không quân, và Đô đốc Jonathan Greenert, phụ trách các Hoạt động tác chiến Hải quân: “Đặc biệt lo ngại là nỗ lực bên bỉ của một số nước nào đó nhằm phát triển, dự trữ, và phổ biến vũ khí chính xác tầm xa tiên tiến. Những vũ khí tiên tiến này có thể được kết thành mạng lưới và kết hợp với các hệ thống giám sát tinh vi ngoài đường chân trời. Tên lửa đạn đạo tầm xa chống tàu chiến như DF-2ID của Trung Quốc, tên lửa hành trình tầm xa như DH-10 của Trung Quốc, và tên lửa đạn đạo cơ động và phòng không cải tiến, bao gồm những biến thể S-300/400/500 của Nga và HQ-9 của Trung Quốc, cho phép những kẻ thù tiềm tàng đe dọa quyền tự do hoạt động của không quân và của hải quân trong vòng hàng tràm dặm từ bờ biển của họ”.
Điểm thứ nhất cần được đưa ra về ASB là sẽ phải mất vài năm trước khi Bắc Kinh phát triển các loại khả năng A2/AD trên thực tế có thể làm xói mòn những cam kết răn đe mở rộng của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình Dương. Và như đã được đề cập ở trên, hầu hết các nước láng giềng của Trung Quốc đã lặng lẽ, nhưng đầy tham vọng, phát triển các lực lượng và các học thuyết quân sự của mình. Nếu được xử lý một cách thích hợp, Hoa Kỳ và các bạn bè và đồng minh khu vực của Hoa Kỳ có thể tiếp tục sử dụng tiến trình cân bằng khôn khéo và dần dần này để tăng cường an ninh châu Á -Thái Bình Dương.
Điểm thứ hai phải được xem xét là trong một kỷ nguyên khó khăn về kinh tế, bất cứ học thuyết quân sự mới nào của Hoa Kỳ mà đòi hỏi các hệ thống vũ khí mới kỹ thuật cao sẽ là điều “khó thuyết phục” ở trong nước. Một nghiên cứu gần đây đã kết luận rằng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (DOD) sẽ chi 267,9 tỉ USD cho các chương trình ASB từ năm 2010 đến năm 2016. Máy bay sẽ chiếm 61,7% khoản chi phí này, với máy bay F-35 chiếm phần lớn nhất trong ngân sách (82 tỉ USD). Hơn nữa, trong khi khẳng định với độc giả rằng người ta đã “thông báo về tài chính” của ASB mà Tướng Schwartz và Đô đốc Greenert thừa nhận rằng “sự dư thừa và vượt trội nào đó là cần thiết trong các lĩnh vực cụ thể”. Những “lĩnh vực” này đặc biệt hẳn sẽ là các mục tiêu dễ dàng để cắt giảm ngân sách.
Các cuộc tranh cãi về chi phí của ASB cũng sẽ trở nên phức tạp hơn bởi các hoạt độna chính trị quan liêu, khi Lục quân đội và các bạn bè của nó trong Quốc hội thách thức mục tiêu ưu tiên dành cho sáng kiến Không lực – Hải quân chung này trong một môi trường ngân sách được mất ngang nhau. Douglas MacGregor và Young Kim đưa ra lập luận tiêu biểu trên tờ Tập san các lực lượng vũ trang:… “không có quân viễn chinh kết hợp của Hoa Kỳ và các lực lượng lục quân liên minh. ASB có nguy cơ trở thành cái tương đương với cuộc chiến tranh bao vây thời trung cổ trong thế kỷ 21. Do quy mô và tầm sâu của Trung Quốc, nên văn hóa độc đoán của nước này và các thể chế hỗ trợ an ninh trong nước, các lực lượng tấn công không quân và hải quân của Hoa Kỳ có thể hết đạn được điều khiển chính xác rất lâu trước khi họ hết các mục tiêu để tấn công hoặc đạt được những điều kiện thuận lợi để đi đến hồi kết có thể chấp nhận được. Nếu không có một kế hoạch thực tế phối hợp các lực lượng lục quân của Hoa Kỳ và liên minh từ các nước trong khu vực như Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản và thậm chí Nga, và các lực lượng lục quân hùng mạnh cỏ khả năng đe dọa sự tồn tại của chế độ Trung Quốc và sự gắn kết quốc gia trong nước từ nhiều hướng, thì khả năng đạt được sự kết thúc xung đột với điều kiện có lợi cho những lợi ích của Hoa Kỳ và đồng minh là rất thấp đến mức không có”.
Những lập luận của MacGregor và Kim đưa chúng ta tới lý do thứ ba, và quan trọng nhất, để lo ngại về Không-Hải Tác chiến. Chúng tập trung chú ý của chúng ta vào những gì có thể thực sự diễn ra nếu chiến sự nổ ra giữa Trung Quốc và một lực lượng của Hoa Kỳ được huấn luyện và trang bị để tiến hành Không-Hải Tác chiến. Hầu hết các kịch bản gắn với ASB đặt ưu tiên cao vào các cuộc tấn công chính xác tầm xa chống lại tên lửa và các hệ thống chỉ huy và kiểm soát của PLA được bố trí ở đại lục Trung Quốc. Quá thường xuyên những kịch bản này không lưu ý đầy đủ về chính nguy cơ thực sự của một phản ứng quá mức của Trung Quốc. Như T.X. Hummes đã lập luận: “Không-Hải Tác chiến đòi hỏi các cuộc tấn công sớm và lặp đi lặp lại vào đại lục Trung Quốc cũng như trên mạng Internet và trên không gian. Trung Quốc có thể hiểu nhầm các cuộc tấn công vào các hệ thống thông thường A2/AD là những nỗ lực nhằm che mắt Trung Quốc và phá hoại khả năng chỉ huy và kiểm soát các lực lượng hạt nhân của nước này. Đây là một hình thức leo thang rất nguy hiểm”.
Không-Hải Tác chiến thường được giải thích là sự kế tiếp khái niệm Không-Lục Tác chiến đã được phát triển trong Chiến tranh Lạnh để ứng phó với lợi thế quân sự thông thường đáng kể của Liên Xô trên mặt trận trung tâm của NATO. Điều tương tự là rõ ràng: Việc dựa vào các hệ thống vũ khí mới và một học thuyết tấn công thọc sâu mới nhằm bù đắp cho sự bất lợi quân sự nào đó. Nhưng những khác biệt giữa Không-Hải Tác chiến và Không-Lục Tác chiến thực sự là điều bổ ích hơn. Không-Lục Tác chiến được thiết kế cho tình hình trong đó NATO và Hiệp ước Yacsava là hai con bọ cạp trong một cái chai – sẵn sàng cho cuộc chiến tranh tổng lực ngay lập tức, áp sát chống lại nhau dọc theo Fulda Gap và North German Plain. Không gì có thể so sánh được trong trường hợp quan hệ Mỹ-Trung, và cả hai phía vẫn dường như cam kết tránh một tình huống như vậy.
Một số khía cạnh của Không-Hải Tác chiến là tương đối không gây tranh cãi và nhạy cảm. Những khía cạnh này bao gồm những nỗ lực đa dạng hóa và tăng cường sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực. Việc triển khai theo kế hoạch tới 9.000 lính thủy đánh bộ đến Guam, việc mở một căn cứ mới gần đây cho 2,500 lính thủy đánh bộ ở miền Bắc Australia, các cuộc thương lượng đang diễn ra giữa Washington D.C và Canberra về sự tiếp cận quân sự của Hoa Kỳ tới quần đảo Cocos ở Ấn Độ Dương, và các cuộc đàm phán giữa Washington D.C và Manila về những khả năng sử dụng các cơ sở của Philippines dành cho máy bay giám sát hoặc các tàu hải quân của Hoa Kỳ là những ví dụ hay về những điều chỉnh khiêm tốn phù hợp với lôgích của Không-Hải Tác chiến. Nhưng còn quá sớm để làm gia tăng những căng thẳng Mỹ-Trung bằng sự phát triển và công bố những khả năng mới về các cuộc tấn công thọc sâu có độ chính xác cao chống lại các thiết bị của PLA trên đất liền của Trung Quốc.
Washington D.C cũng nên thận trọng về bất cứ sáng kiến Không-Hải Tác chiến nào buộc các bạn bè và đồng minh trong khu vực công khai đối mặt với các kịch bản quân sự gây tranh cãi. Khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh qua Eo biển Đài Loan là ví dụ rõ ràng nhất vì đây vừa là một nguồn gốc cụ thể gây đau đầu cho các đồng minh then chốt của Hoa Kỳ vừa là một kịch bản cho cuộc xung đột Mỹ-Trung luôn được những người đề xướng Không-Hải Tác chiến viện dẫn nhiều nhất. Đơn giản là còn quá sớm, và quá nguy hiểm, để Hoa Kỳ hối thúc các đồng minh then chốt công khai ủng hộ học thuyết hoạt động tác chiến gây tranh cãi này. Điều này đặc biệt đúng đối với Nhật Bản, quốc gia luôn được nhắc đến như một yếu tố không thể thiếu trong bất cứ học thuyết ASB nào.
Trong bản báo cáo đầy ảnh hưởng của họ ủng hộ Không-Hải Tác chiến, Jan Van Tol, Mark Gunzinger, Andrew Krepinevich và Jim Thomas đưa ra một phần lập luận của họ với tiêu đề “Cần có ý thức về tình trạng khẩn cấp”. Trái lại, bài viết này đã lập luận rằng ASB cần được tiếp cận một cách thận trọng, và trước đó cần tham vấn rộng rãi các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực.
ASB cũng không phải là lựa chọn duy nhất đối với Hoa Kỳ. T.X. Hammes đã lập luận một cách thuyết phục rằng chiến lược Kiểm soát Ngoài khơi là theo hướng leo thang ít hơn, ít tốn kém hơn, ít khả năng gây rối hơn đối với các mối quan hệ liên minh của Hoa Kỳ ở châu Á -Thái Bình Dương, “về mặt tác chiến, nó sử dụng các phương tiện sẵn có hiện nay và các biện pháp hạn chế để ngăn không cho Trung Quốc sử dụng vùng biển bên trong Chuỗi đảo thứ nhất, bảo vệ hải phận và không phận của chuỗi đảo thứ nhất, và chi phối không phận và hải phận bên ngoài chuỗi đảo này. Sẽ không tiến hành các hoạt động thâm nhập không phận của Trung Quốc… Thay vào đó, chiến lược này sử dụng biện pháp bóp nghẹt kinh tế để làm cho Trung Quốc kiệt sức đến mức nước này phải tìm cách kết thúc chiến tranh”.
Vào thời điểm khi Trung Quốc ngày càng lo ngại về sự phụ thuộc đang gia tăng của nước này vào các nguồn cung cấp năng lượng của nước ngoài và thương mại trên biển, một chiến lược Kiểm soát Ngoài khơi đã gửi đi một thông điệp răn đe mạnh mẽ cho Bắc Kinh. Nhưng nó gần như không gây mất ổn định tiềm tàng như mối đe dọa của các cuộc tấn công trực tiếp chống Trung Quốc đại lục. Nó cũng không đòi hỏi Hoa Kỳ làm nhiều hơn những gì nước này đang làm hiện nay, vì hầu hết các phương tiện trên đất liền, trên biển và trên không mà Hoa Kỳ cần để đe dọa Trung Quốc bằng biện pháp bóp nghẹt từ từ đã có sẵn. Cuối cùng Hoa Kỳ không cần công khai đe dọa Trung Quốc bằng một chiến lược Kiểm soát Ngoài khơi, vì các nhà vạch kế hoạch quốc phòng của Trung Quốc đã bận rộn với “vấn đề Malacca” này. Quả thực,
Hoa Kỳ có lẽ sẽ không thể thuyết phục được Trung Quốc rằng nước này không phải lo ngại về khả năng này trong tương lai có thể nhìn thấy trước.
Việc đe dọa Trung Quốc bằng biện pháp kiểm soát trên biển chắc chắn là rủi ro. Nhưng như T.X Hammes thừa nhận: “Không có một chiến lược ‘hay’ nào cho một cuộc xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc”. Tuy nhiên chiến lược Kiểm soát Ngoài khơi là linh hoạt hơn nhiều, có thể kiểm soát được, và khả thi hơn so với Không-Hải Tác chiến. Washington D.C cũng dễ dàng thích nghi hơn nhiều với chiến lược “xoay trục” lâu dài đặt ưu tiên cao vào việc làm yên lòng, và tìm kiếm sự ủng hộ từ các bạn bè và đồng minh trong khu vực.
Kết luận
Năm 1995 William Tow và tác giả bài viết này dự đoán rằng “đôi khi trong tương lai không quá xa Hoa Kỳ sẽ không còn ở vào vị trí đảm bảo sự ổn định của châu Á – Thái Bình Dương bằng những hành động đơn phương và sự hiện diện quân sự ở phía trước nữa”. Tương lai không quá xa đó đã đến. Nhưng Washington D.C có thể có được sự tái đảm bảo đáng kể từ các xu hướng đang diễn ra trong khu vực chứng tỏ rằng hầu hết các chính phủ ở châu Á – Thái Bình Dương thừa nhận cần phải phối hợp với Hoa Kỳ để “tạo cơ hội cho Trung Quốc” mà không gây phương hại cho độc lập hoặc an ninh của họ. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đã đề cập đến thách thức mà Hoa Kỳ phải đối mặt khi “giúp đỡ các nước khác tự bảo vệ họ” và ông kết luận một cách đúng đắn rằng một chiến lược như vậy “phải chứa đầy những liều lượng mạnh về sự khiêm tốn và chủ nghĩa thực dụng”, bài viết này đưa ra lý lẽ cho thêm hai đòi hỏi nữa – lòng kiên trì và niềm tin ./.