Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2018

Minh Vương, Lệ Thủy - 'tình nhân dễ kiếm, tri kỷ khó tìm' , Trích đoạn

Hơn nửa thế kỷ qua, đôi song ca 'sóng thần' chinh phục khán giả bằng những tác phẩm cải lương kinh điển và tình yêu dành cho sân khấu.

Gần 60 năm ca hát, NSND Lệ Thủy và NSƯT Minh Vương trở thành tên tuổi kỳ cựu thuộc "thế hệ vàng" cải lương. Sự gắn bó của họ kéo dài nhiều thập niên qua - điều hiếm cặp nghệ sĩ khác của làng sân khấu Nam bộ có được.


NSND Lệ Thủy và NSƯT Minh Vương được trao danh hiệu "Đôi nghệ sĩ cải lương đóng chung lâu năm và ưng ý nhất" năm 2008.
0

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2018

Giọt máu chung tình (Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà) - Bài viết + MP3

“Trời ơi! Bởi sa cơ giữa chiến truờng thọ tiễn nên Võ Đông Sơ đành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu… Hà.”


Bìa cuốn tiểu thuyết Giọt máu chung tình xuất bản năm 1926

Dân Nam bộ, đặc biệt là giới mộ điệu cải lương, không ai không biết thiên tình sử của đôi trai tài gái sắc Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà qua bản tân cổ nổi tiếng của cố soạn giả Viễn Châu. Nhưng có lẽ ít người biết rõ thân thế của hai nhân vật này cũng như nhiều người lầm tưởng câu chuyện này có xuất xứ từ Trung Quốc. Thực ra đây là hai nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Giọt máu chung tình của nhà văn gốc Nam bộ Tân Dân Tử (1875 – 1955), xuất bản lần đầu tiên vào năm 1926.

Trong quá trình tra cứu tìm tòi trên mạng, tôi may mắn kiếm được bản in gốc của tiểu thuyết “Giọt máu chung tình – Tòng đình thảm kịch” xuất bản năm 1926 trong bộ sưu tập Sách Đông Dương của Thư viện Quốc gia Việt Nam. Tôi mạn phép chia sẻ qua liên kết dưới đây để các bạn thưởng thức.

http://sach.nlv.gov.vn/sach/cgi-bin/sach?a=d&d=kCnyo1928

Đọc xong cuốn tiểu thuyết này, tôi thấy có nhiều điều lý thú nên tóm tắt lại để ai lười đọc thì cũng có thể tỏ tường nội dung. Vả lại truyện này viết theo lối xưa nên có dùng nhiều từ ngữ khác với bây giờ, cộng thêm chất lượng in ấn hồi đó không được tốt lắm và còn nhiều lỗi chánh tả nên hơi khó đọc. Đầu đuôi như sau.

Đầu truyện tác giả Tân Dân Tử giới thiệu Võ Đông Sơ là con của Hoài Quốc Công Võ Tánh và công chúa Ngọc Du, chị cùng cha khác mẹ của vua Gia Long. Trên thực tế, ngoài tiểu thuyết này ra không có sử liệu chính thống nào chứng nhận Võ Tánh có con tên là Võ Đông Sơ cả. Theo nhiều tài liệu, Võ Tánh và Ngọc Du có với nhau hai con gái và một người con trai tên là Võ Khánh, làm tới chức Khinh xa đô úy. Trong truyện nhân vật Võ Đông Sơ sau này cũng được nhà vua ban chức Khinh xa đô úy. Có lẽ Tân Dân Tử đã xây dựng nhân vật Võ Đông Sơ dựa trên hình mẫu ngoài đời của Võ Khánh. Ngoài ra, trong truyện còn có tình tiết hư cấu không đúng với lịch sử là Võ Đông Sơ tuân lệnh vua đi đánh giặc Mãn Thanh sang xâm lược rồi chết trên sa trường. Thực tế quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nhà Thanh bên Trung Quốc thời bấy giờ tương đối êm đẹp.

Trở lại câu chuyện, sau khi song thân mất Võ Đông Sơ được chú ruột nuôi dưỡng dạy dỗ. Trên đường lên kinh đô luyện thi chờ ngày ứng thí tranh cử Võ khoa Tiến sĩ, Võ Đông Sơ tình cờ gặp Triệu Dõng và giúp đỡ tiền bạc để Triệu Dõng làm đám tang cho mẹ. Cảm kích trước tấm lòng hào hiệp của Đông Sơ Triệu Dõng xin kết nghĩa huynh đệ với chàng. Võ Đông Sơ lớn tuổi hơn nên được tôn làm anh.

Một hôm nhân dịp dạo chơi Quan Âm các Võ Đông Sơ tình cờ gặp và cứu mạng tiểu thơ Bạch Thu Hà khỏi tay côn đồ cướp giựt. Mô típ anh hùng cứu mỹ nhân này nghe rất quen cũng giống như những truyện xuất hiện trước đó như Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga. Thấy Thu Hà sắc nước hương trời đối đáp lễ nghĩa nên Đông Sơ đem lòng yêu mến, lấy danh thiếp ra trao làm quen. Thu Hà khi từ biệt Đông Sơ cũng giả bộ đánh rơi cái khăn lụa có thêu tên mình để Đông Sơ nhặt lấy.

Thu Hà có anh trai tên Bạch Xuân Phương, tướng người dềnh dàng, tính tình kiêu ngạo. Sau kỳ thi văn Bạch Xuân Phương thấy Đông Sơ tướng mạo hơn người nên sinh lòng đố kỵ cho người ám sát. Tình cờ Thu Hà nghe lỏm được âm mưu của anh trai. Để đền ơn cứu mạng bữa trước Thu Hà cho người báo cho Đông Sơ đề phòng nên chàng thoát nạn. Bước vào kỳ thi võ Đông Sơ đối đầu trực tiếp Bạch Xuân Phương. Đông Sơ dùng chiêu “Đại bàng phi thạch động, sư tử thượng lầu đài” đánh bại Xuân Phương. Xuân Phương bực bội về nhà. Thu Hà ra hỏi chuyện thì Xuân Phương, mặc dù vẫn rất căm hận Đông Sơ nhưng phải công nhận Đông Sơ “chẳng những võ nghệ cao cường mà thôi, mà văn trường nó cũng xuất chúng”. Thu Hà nghe anh nói càng thêm lòng ái mộ Đông Sơ.

Sau khi thắng Bạch Xuân Phương trong cuộc tỉ thí ở diễn trường, Võ Đông Sơ đạt ngôi vị võ khoa tiến sĩ. Một đêm trăng thanh gió mát Võ Đông Sơ tới gặp Bạch Thu Hà ở tư gia, tại lương đình, hai người tỏ rõ lòng nhau và buông lời thệ ước, trao vật đính ước và hẹn cùng nhau trăm năm tơ tóc.

Sau đó Võ Đông Sơ được triều đình phong chức trung úy và làm việc dưới quyền tổng trấn Lê Văn Duyệt. Nghe tin hải khấu Trung Quốc quấy nhiễu ở vùng biển Hoàng Sa, Lê Văn Duyệt lệnh cho Võ Đông Sơ thống lãnh thủy quân ra đánh dẹp, đồng thời lập bản đồ địa thế các cửa biển ở Quảng Đông. Đông Sơ hẹn gặp Thu Hà ở lương đình rồi từ biệt lên đường.

Trong thời gian Đông Sơ đi tuần dương, cha Thu Hà là binh bộ thượng thư Bạch Công lâm trọng bệnh và được đưa về nhà. Trong phút lâm chung ông trăn trối nhờ Bạch Xuân Phương lo chuyện hôn nhân cho em gái nhưng cũng nhắc nhở Xuân Phương không nên cưỡng ép nếu Thu Hà không ưng thuận. Sau khi cha chết, Xuân Phương cậy quyền huynh thế phụ ép buộc Thu Hà lấy Vương Bích là một công tử nhà giàu ăn chơi trác táng. Bạch Thu Hà cãi không lại nên giả bộ ưng thuận nhưng đến ngày cưới nàng cùng tì nữ bỏ nhà trốn đi. Sợ Xuân Phương cho người đuổi theo nàng để lại bức thư nói là đã quyên sinh để đoàn tụ cùng cha mẹ.

Trải qua nhiều biến cố, nhiều lúc hiểm nguy đến tính mạng, cuối cùng Bạch Thu Hà cũng được trùng phùng cùng Võ Đông Sơ. Niềm vui đoàn tụ ngắn chẳng tày gang, Đông Sơ nhận được thánh chỉ của hoàng thượng đem quân chống giặc Tàu xâm lược. Đông Sơ làm Ngự tiền hộ giá Khinh xa đô úy tháp tùng hoàng thượng đi đánh giặc. Quân giặc đông thế mạnh, quân ta ít thế yếu. Võ Đông Sơ cùng Triệu Dõng tình nguyện xung phong đem quân giải vây. Triệu Dõng hy sinh trong đám loạn binh. Khi quân cứu viện vừa tới thì Võ Đông Sơ bị trọng thương vừa kịp cưỡi ngựa về phục mạng với hoàng thượng thì ngã lăn ra chết. Quân đem linh cữu Đông Sơ về báo tin cho Thu Hà. Thu Hà ôm xác Đông Sơ khóc rồi rút dao đâm cổ chết theo, quyết giữ một lòng trinh liệt cho trọn chữ ân tình.

Về sau, dựa trên câu chuyện tình bi thương này, soạn giả Viễn Châu đã sáng tác hai bài tân cổ là “Võ Đông Sơ” và “Bạch Thu Hà”. Trong đó bài Võ Đông Sơ được nhiều người thuộc và phổ biến rộng rãi hơn. Ở Gò Công, mỗi năm vào ngày giỗ Hoài Quốc Công Võ Tánh, bao giờ cũng có chương trình đờn ca tài tử ở miếu thờ của ông kéo dài đến tận khuya. Và dĩ nhiên hai bài tân cổ này là không thể thiếu trong chương trình.

Đọc xong cuốn tiểu thuyết tôi rất tâm đắc với ý nguyện của tác giả Tân Dân Tử được ghi trong lời tựa ở đầu cuốn sách. Ông muốn lồng ghép lịch sử vào những tác phẩm tiểu thuyết để đưa những kiến thức lịch sử đến với đông đảo người đọc qua đó khơi dậy tinh thần yêu nước cũng như giáo dục lối sống có đạo lý và nhiều điều tốt đẹp khác. Tuy nhiên theo thiển ý của tôi, Tân Dân Tử có phần hư cấu hơi quá đà, dẫn đến những ngộ nhận không đáng có. Lẽ ra ông nên thêm phần phụ lục giải thích những sự kiện lịch sử liên quan hoặc chú thích ghi rõ những nhân vật trong truyện là hư cấu để cho độc giả tỏ tường. Ngoài hạn chế này, tiểu thuyết Giọt máu chung tình của ông có thể xem là một trong những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20 và trở thành một phần trong kho tàng văn hóa dân tộc.

Sài Gòn 16/3/2016

Bài hát tân cổ "Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà":


0

Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2018

Nửa Đời Hương Phấn - Cải lương - Thanh Nga, Thành Được

Hương quen và yêu Tùng, một chàng trai mồ côi sống nhờ sự bảo trợ của người bác ruột. Khi hạnh phúc vừa chạm tay, Hương gặp phải sự cấm cản của anh trai Tùng cùng sự đeo bám của người tình cũ. Bố ruột Hương cũng xua đuổi, khinh rẻ khi biết cô từng làm kỹ nữ. Tuyệt vọng vì bị người thân xa lánh, Hương tìm đến nương nhờ cửa Phật. Tình cờ, Dịu, em gái Hương trở thành vợ của Tùng. Sau khi biết được những ẩn ức của Hương, Tùng cùng vợ và mẹ đến chùa xin Hương hoàn tục. Hương một mực từ chối mọi lời khẩn cầu của người thân, quyết tìm quên Nửa đời hương phấn trong chiếc áo nâu sòng cùng những lời tụng niệm.

0

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2018

Cải lương: Đêm lạnh chùa hoang


Minh Vương: Tần Lĩnh Sơn; Minh Cảnh: Cao Nguyên Bình; Lệ Thủy: Hồ Bảo Xuyên; Phương Liên: Vương Bích Tuyền; Thanh Sang: Bạch Long Sứ; Thanh Thanh Hoa: Lý Hồng Miên;...

"Bảo Xuyên ơi, đêm nay giữa canh trường cô liêu. Ta gối đầu trên đá, thèm giấc mơ yêu. Đắm hồn vào mộng liêu trai. Để yêu em được trọn lòng. Không ngăn cách bởi biên thùy... Sầu đêm này và ngàn đêm nữa đi. Em vẫn yêu vẫn yêu một mình anh. Dù mai này tình đôi phương cách ngăn. Ngủ đi anh một giấc mơ thần tiên...".
0

Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

Giọng ca Phương Bình, Mỹ Châu - Tân cổ giao duyên xưa


Nghệ sĩ Phương Bình tên thật là Nguyễn Văn Bình, sanh năm 1947, nguyên là một người đi học nghề sắp chữ ở nhà in của các nhật báo Dân Chúng, Đồng Nai. Nghệ sĩ Phương Bình nuôi mộng trở thành nghệ sĩ nên đi học ca cổ nhạc với nhạc sĩ Văn Lắm năm 1963, nhà trong hẻm đường Bùi Viện, nơi được gọi là xóm nghệ sĩ. Nghệ sĩ Phương Bình lập gia đình từ năm 22 tuổi, có 9 người con, tất cả đều gắn bó với sân khấu, có hai người con là Phương Lâm và Phương Loan là nối nghiệp làm bầu gánh hát như Phương Bình.

Nghệ sĩ Phương Bình có giọng ca khoẻ, nghệ thuật ca chân phương, có thể nói nghệ thuật ca diễn không phải thật xuất sắc lắm và cũng không tệ lắm. Phương Bình có nhiệt tình trong nghề, khi ca diễn bên cạnh Mỹ Châu thì nổi bật nhất, nhưng khi diễn chung với người kém hơn thì ít nổi bật hơn. Phương Bình được giải thưởng huy chương vàng không phải với vai trò chánh trong vở hát mà là vai phụ của ba tuồng trong năm cạnh bên Mỹ Châu. Mỹ Châu là người bạn diễn đã giúp đở ông nhiều mặt ở sân khấu. --> Thêm chi tiết

Mỹ Châu là một nghệ sĩ cải lương Việt Nam. Cô từng được mệnh danh là ngôi sao của thế hệ vàng cải lương Việt Nam cùng thời với Bạch Tuyết, Lệ Thủy, Ngọc Giàu, Phượng Liên, Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh... Cô nổi tiếng có giọng nữ trầm đặc biệt, và sở trường đặc biệt là ca dây kép. Nhờ vậy, mà tên cô đã được dùng đặt tên cho một dây đàn cổ gọi là "dây Mỹ Châu". --> chi tiết
0

Giọng ca Tấn Tài - Tân cổ giao duyên xưa


Nghệ sĩ Tấn Tài sinh tại xã Vĩnh Trạch, huyên Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Xuất thân là một giáo làng, trong gia đình cũng không ai theo nghề ca hát nhưng vì mê đờn ca tài tử, ông đã từ bỏ nghề gõ đầu trẻ. Năm 1959 ông đã trốn theo gánh hát mặc cho người mẹ ngăn cản.

Ông nhanh chóng bước lên hàng kép chính và đến năm 1963, ông đoạt Huy chương vàng Giải Thanh Tâm với vai Điệp Nhứt Lang trong vở Cát Dung Phương Tử. Vào những năm 60-70, ông thực hiện hơn 400 đĩa vọng cổ, tuồng cải lương cùng hàng ngàn bài tân cổ, vì vậy mà báo giới đặt cho ông cái tên Hoàng đế đĩa nhựa. Một ngày ông thu 5-6 bài, mỗi bài giá 12.000 đồng – tương đương giá một lượng vàng thời đó. >> Xem thêm

Giọng ca Tấn Tài với Phượng Liên & Ngọc Giàu:


Nguồn:
1/ YouTube: https://www.youtube.com/watch?v=GYWV3Q1uJz4
2. 4shared: https://www.4shared.com/mp3/TZtAkDURei/Giong_ca_Tn_Tai_-_Tn_c_giao_du.html
0

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

Cải lương: Người tình trên chiến trận


Minh Vương, Thanh Tuấn, Thang Sang, Thanh Kim Huệ, Diệp Lang,...

Không, yêu nhau không bao giờ có tội nhưng anh chỉ muốn nói với em một điều mà bấy lâu ôm ấp mãi trong tim…
Mà giờ đây đã muộn màng rồi, anh có còn j nữa đâu. Để nhớ thương những kỷ niệm trong đời.
Mình đã 1 thời chắt chiu, trong tuổi còn thơ ấu hồn nhiên, để tạo dựng 1 thiên đường, một thiên đường đầy hoa thơm.
Mỹ Châu: Lời anh nói ra em đâu hiểu được j, anh đã buồn đã khổ vì ai…và tự bao lâu rồi, cho mãi đến ngày hôm nhay.
Thanh Tuấn: Đã từ lâu anh muốn nói một điiều quan trọng, nhưng cứ lặng câm theo ngày tháng lạnh lùng. Anh muốn nói với một người, nỗi đau sầu vì yêu…
0

Cải lương: Đêm lạnh chùa hoang


Minh Vương: Tần Lĩnh Sơn; Minh Cảnh: Cao Nguyên Bình; Lệ Thủy: Hồ Bảo Xuyên; Phương Liên: Vương Bích Tuyền; Thanh Sang: Bạch Long Sứ; Thanh Thanh Hoa: Lý Hồng Miên;...

"Bảo Xuyên ơi, đêm nay giữa canh trường cô liêu. Ta gối đầu trên đá, thèm giấc mơ yêu. Đắm hồn vào mộng liêu trai. Để yêu em được trọn lòng. Không ngăn cách bởi biên thùy... Sầu đêm này và ngàn đêm nữa đi. Em vẫn yêu vẫn yêu một mình anh. Dù mai này tình đôi phương cách ngăn. Ngủ đi anh một giấc mơ thần tiên...".
0

Cải lương: Đêm lạnh chùa hoang



Minh Vương: Tần Lĩnh Sơn; Minh Cảnh: Cao Nguyên Bình; Lệ Thủy: Hồ Bảo Xuyên; Phương Liên: Vương Bích Tuyền; Thanh Sang: Bạch Long Sứ; Thanh Thanh Hoa: Lý Hồng Miên;...

"Bảo Xuyên ơi, đêm nay giữa canh trường cô liêu. Ta gối đầu trên đá, thèm giấc mơ yêu. Đắm hồn vào mộng liêu trai. Để yêu em được trọn lòng. Không ngăn cách bởi biên thùy... Sầu đêm này và ngàn đêm nữa đi. Em vẫn yêu vẫn yêu một mình anh. Dù mai này tình đôi phương cách ngăn. Ngủ đi anh một giấc mơ thần tiên...".
0

Giọng ca Thanh sang qua các trích đoạn nổi tiếng

Giọng ca trầm buồn của nghệ sĩ Thanh Sang đã in sâu vào lòng khán giả mộ điệu bao năm qua. Trong đó có những vai diễn trong các vở cải lương nổi tiếng như Tiếng trống Mê Linh, Bên cầu dệt lụa....

Mời bạn đọc nghe lại một số trích đoạn cải lương nổi tiếng của nghệ sĩ Thanh Sang:


Nghệ sĩ Thanh Sang và Thanh Nga trong vở Tiếng Trống Mê Linh - Nguồn Youtube

Mê linh biệt khúc. Nguồn: YouTube


Vở Bên cầu dệt lụa. Nguồn: YouTube

Các vỡ cải lương nổi tiếng với sự góp mặt của Thanh Sang:
Người tình trên chiến trận
Đêm lạnh chùa hoang
0

Cải lương: Tâm sự loài chim biển



Minh Phụng; Mỹ Châu; Minh Vương; Hữu Phước; Phượng Liên; Dũng Thanh Lâm; Thanh Thanh Hoa
0

Cải lương: Tâm sự loài chim biển



Minh Phụng; Mỹ Châu; Minh Vương; Hữu Phước; Phượng Liên; Dũng Thanh Lâm; Thanh Thanh Hoa
0

Thứ Hai, 2 tháng 1, 2017

Đường gươm Nguyên Bá - Cải lương | Minh Vương, Thanh Kim Huệ, Thanh Tuấn,...



Cùng thưởng thức vỡ cải lương mang tên "Đường Gươm Nguyên Bá" của soạn giả Hoa Phượng được thực hiện trước 1975 với thành phần nghệ sĩ : Minh Vương, Thanh Tuấn, Chí Tâm, Thanh Sang, Viễn Sơn, Thanh Kim Huệ, Hồng Nga, Văn Chung, Tư Rọm.

* Lưu trữ: https://drive.google.com/file/d/1oMGJiApPjs4n8cI8bkhYvQ0bvFkWuYFT/view

0

Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

Minh Vương : 50 năm trạng nguyên vọng cổ

Cách đây tròn 50 năm, Ban cổ nhạc Trường Giang của thầy đờn Út Trong đã đứng ra tổ chức cuộc thi ca vọng cổ mang tên “Khôi nguyên vọng cổ”. Trong vòng chung kết diễn ra tại rạp hát Quốc Thanh (Sài Gòn), thí sinh Nguyễn Văn Vưng đoạt giải nhất, Diệu Nga đạt giải nhì và Xuân Lan giải ba. Nghe: Nói nôm na thì giải nhất tức là “Trạng nguyên” của Khôi nguyên vọng cổ năm 1964. Vị trạng nguyên năm đó chẳng ai xa lạ mà chính là giọng ca trứ danh Minh Vương của làng tài tử-cải lương Nam Bộ. Nghệ sỹ Minh Vương tên thật là Nguyễn Văn Vưng, sinh năm 1950 tại Cần Giuộc-Long An. Năm lên 10 tuổi, Vưng theo cha mẹ lên Sài Gòn sinh sống ở khu vực cầu Chữ Y. Hồi những năm 1950-1960, cải lương ở thời cực thịnh. Làng giải trí hầu như bị cải lương thống trị với rất nhiều đoàn hát từ lớn tới nhỏ, hoạt động từ trong Nam ra ngoài Bắc. Những đại ban như Kim Chưởng, Kim Chung, Thanh Minh-Thanh Nga, Dạ Lý Hương…đã đưa lên bầu trời nghệ thuật cải lương không biết bao nhiêu ngôi sao sáng. Một bước chiếm bảng vàng Trong bối cảnh đó, nhiều “lò” dạy ca cổ nhạc cũng nổi lên. Những lò này do các tay đờn cổ nhạc có tiếng tự dựng, qua quen biết hoặc nhờ tiếng tăm mà nhiều người đến học. Các lò của những danh cầm như Văn Vĩ, Út Trong hay Bảy Trạch đều thuộc hàng trứ danh. Lò của danh cầm Bảy Trạch nằm gần cầu Chữ Y, nơi gia đình cậu bé Nguyễn Văn Vưng trú ngụ. Mỗi ngày khi đi hớt lăng quăng về nuôi cá lia thia, Vưng bị “mê hoặc” bởi tiếng của lò Bảy Trạch. Vào năm 1963, tức năm Vưng được 13 tuổi, Vưng đã chính thức được nhận vào lò Bảy Trạch học ca miễn phí. Vào thời điểm đó, như tổ nghiệp đã cố tình sắp đặt để ban tặng cho sân khấu cải lương một giọng ca mới lạ, nên mới khiến xui cho nhóm của danh cầm trứ danh gốc Bến Tre Út Trong thành lập một nhóm đờn ca cổ nhạc tên Trường Giang trên đài phát thanh Sài Gòn. Rồi vào cuối năm 1964, nhóm Trường Giang đứng ra “chủ xị” tổ chức một cuộc thi vọng cổ mang tên “Khôi nguyên vọng cổ”. Có lẽ khi ấy, danh hiệu “Vua vọng cổ” đang nằm trong tay Út Trà Ôn, nên cuộc thi chỉ dám gọi là “Khôi nguyên”, tức người đỗ đạt cao nhất thì cũng chỉ là “Trạng nguyên” mà thôi. Khôi nguyên vọng cổ năm 1964 thu hút hàng ngàn thí sinh tham dự đến từ đủ các lò cổ nhạc ở khắp mọi nơi. Vòng chung kết diễn ra tại rạp hát Quốc Thanh, Sài Gòn. Ba người đỗ giải đầu xếp vị trí như sau: Nguyễn Văn Vưng giải nhất, Diệu Nga giải nhì, và Xuân Lan giải ba. Nói nôm na, thì Vưng đoạt danh hiệu “Trạng nguyên”, Diệu Nga đoạt danh hiệu “Bảng nhãn”, và Xuân Lan đoạt danh hiệu “Thám hoa”. Ba vị khôi nguyên này lập tức được các đoàn hát “bắt đi”: Diệu Nga được mời về đoàn Thanh Minh-Thanh Nga, Xuân Lan về đoàn Kiên Giang, còn Nguyễn Văn Vưng thì được đại ban Kim Chung mời ký hợp đồng giá trị cả trăm ngàn. Ông bầu Long của đại bang Kim Chung đã đặt nghệ danh Minh Vương cho Vưng, và con đường gạo chợ nước sông của Minh Vương bắt đầu từ giải “Khôi nguyên vọng cổ” năm ấy. Những vai diễn để đời Khôi nguyên vọng cổ là một một cuộc thi tuyển chọn giọng ca chứ không phải là tuyển chọn nghệ sỹ chuyên nghiệp ca hay diễn giỏi như Giải Thanh Tâm của nhóm ký giả Trần Tấn Quốc. Bởi vậy, những người đoạt Khôi nguyên vọng cổ không thể nào ca không hay, nhưng để trở thành một nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp thành thạo cả ca lẫn diễn thì đòi hỏi còn phải trau dồi thực tiễn sân khấu rất nhiều. Cũng như hầu hết các nghệ sỹ cải lương thế hệ vàng, Minh Vương bước dần trên con đường tiến tới đỉnh cao nghệ thuật. Sau khi đoạt giải Khôi nguyên vọng cổ, Minh Vương được đưa về một đoàn trong đại ban Kim Chung đóng kép nhì cho cặp đào kép Minh Phụng-Lệ thủy. Hồi ấy, khi Minh Vương mới chập chững vào nghề, thì Minh Phụng-Lệ Thủy đã là cặp đào kép chánh nổi tiếng vang dội được báo chí gọi là “Cặp bão biển đang lên”. Nói riêng về kép thì khi ấy, Minh Phụng nổi tiếng là kép đẹp ca hay. Rồi bây giờ Minh Vương xuất hiện, Kim Chung có thêm một kép đẹp ca hay nữa. Bởi dù muốn dù không, thì thế mạnh của Kim Chung hồi đó vẫn là ca.Thời đó, khi quảng cáo, thì Kim Chung thường câu khách bằng liên danh kép đẹp Minh Phụng-Minh Vương. Ở đoàn Kim Chung, Minh Vương vất vả trau dồi một thời gian dài, và mãi đến đầu những năm 1970, Minh Vương mới thật sự trở thành anh kép chánh, tạo được chỗ đứng riêng trên sân khấu cải lương. Các hãng dĩa thi nhau mời Minh Vương thu âm. Hãng dĩa Việt Nam của bà Sáu Liễu mời Minh Vương thu âm nhiều vai tuồng mà các bậc nghệ sỹ tiền bối của Minh Vương đã thành công trên sân khấu trước đó. Từ đó, giọng ca Minh Vương thật sự trở thành một làn gió mới ru hồn khán giả, để đến hiện tại người mộ điệu vẫn còn có thể thưởng thức giọng ca Minh Vương trong một loạt các tuồng nổi tiếng: Máu nhuộm sân chùa, Mùa xuân ngủ trong đêm, Đêm lạnh chùa hoang, Kiếp nào có yêu nhau, Tâm sự loài chim biển, Người tình trên chiến trận, Tô Ánh Nguyệt, Đời Cô Lựu, Rạng ngọc Côn Sơn và Đường gươm Nguyên Bá… Nói về hai vở Tô Ánh Nguyệt và Đời Cô Lựu, thì đây là hai vở xã hội hiện thực kinh điển của soạn giả Trần Hữu Trang, được viết và trình diễn mấy chục năm trước khi Minh Vương ra đời. Các thế hệ bậc thầy của Minh Vương như Tư Sạn, Tám Thưa, Năm Nghĩa, Phùng Há, Năm Châu, Út Trà Ôn … đã để lại cái bóng quá lớn trong các vở này. Bởi vậy, muốn làm mới và để cho khán giả chấp nhận quả thật không phải là chuyện dễ. Tuy nhiên, các nghệ sỹ thế hệ sau đã không làm thất vọng người đi trước khi đã tạo được ấn tượng mới trong hai vở tuồng này với nhiều gương mặt trở thành bất tử như: Diệp Lang, Thành Được, Ngọc Giàu, Hồng Nga, Thanh Tòng, Minh Vương, Lệ Thủy, Bạch Tuyết … Riêng đối với hai cô đào Lệ Thủy và Bạch Tuyết, thì mỗi người tên tuổi gắn liền với một tuồng: Bạch Tuyết với Đời Cô Lựu, Lệ Thủy với Tô Ánh Nguyệt. Ngọc Giàu thành công rực rỡ trong Đời Cô Lựu với vai Bà Hai Hương và Cô Bảy Cán Vá, nhưng lại không tham gia Tô Ánh Nguyệt. Diệp Lang thì để đời trong cả hai tuồng với vai Ông Hương Cả (Ba của Nguyệt) và Hội Đồng Thăng (Chồng sau của Cô Lựu). Minh Vương, trong vai trò là kép chánh trẻ, cũng đã để đời trong cả hai tuồng với vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt, và Võ Minh Luân trong Đời Cô Lựu. Minh Vương biết khai thác tối đa thế mạnh về giọng ca, và hỗ trợ hết sức đắc lực cho các vai diễn. Chẳng hạn như trong vở cải lương Đường gươm Nguyên Bá, Minh Vương đã ru hồn khán giả bằng một lối vô vọng cổ điêu luyện mà chỉ có những giọng ca khỏe, cao, có lực, và trữ tình cộng với một kỹ thuật điều hơi thượng thừa thì mới dám « đùa » . Đó là khi dứt bản Lý Con Sáo : "Càng buông lời lòng thêm xót xa, một mũi gươm nát tan đời hoa...", Minh Vương lập tức chồng hơi vô vọng cổ: "Nhưng Nguyên Bá tôi đã cho mình đáng chết khi dùng đường gươm oanh liệt để tạo nên tì vết cho một đóa… hoa… hồng..." . Thật ngọt, thật đẹp, thật sang trọng, tạo được một phong thái ung dung đĩnh đạc nhưng có chút đa tình của viên tướng trẻ Nguyên Bá lừng danh. Chúng ta cũng có thể tìm thấy lối chồng hơi độc đáo của Minh Vương trong vở Đời cô Lựu với vai Võ Minh Luân. Ở màn gặp lại cha là Võ Minh Thành sau 19 năm gia đình ly tán, mẹ lấy ông hội đồng, còn cha thì bị lưu đày ngoài Côn Đảo. Tâm trạng một chàng thanh niên nhà quê ngày ngày đi câu cá nuôi mẹ già (Bà Hai Hương) vừa biết về quá khứ giông bão của gia đình đã được Minh Vương thể hiện trọn vẹn. Đến mức mà, thế hệ sau, dù có nhiều nghệ sỹ được mệnh danh là ngôi sao đóng, nhưng hễ nhắc đến Võ Minh Luân, là khán giả nghĩ trước tiên đến Minh Vương. Và cũng bởi thế mà, dù ở tuổi trên lục tuần, Minh Vương vẫn luôn được yêu cầu diễn đi diễn lại vai chàng thanh niên 19 mà người xem không thấy chán. Trong vai diễn này, ở màn gặp lại cha, Võ Minh Luân-Minh Vương đã bất ngờ chồng hơi vô bản Văn Thiên Tường lớp dựng dây xề kép rất độc đáo: "Ba... hỡi ba..ơi.", cao vút, vừa ngọt, như là tiếng kêu xé lòng, đã khiến cho khán giả nhớ hoài cách ca diễn thượng thừa đó của Minh Vương. Tuy nhiên, hai vai để đời mà ở đó hội tụ tất cả tinh hoa nghệ thuật ca diễn của Minh Vương là vai Nguyễn Trãi trong Rạng ngọc Côn Sơn, và vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt. Rạng Ngọc Côn Sơn là một vở lịch sử Việt Nam ca ngợi tài đức của Nguyễn Trãi, người đã góp công quan trọng trong chiến thắng chống quân Minh để dựng nên nhà Hậu Lê, và cũng là người đã phải chết oan vì nhà Hậu Lê. Bối cảnh vở tuồng đề cập đến giai đoạn Nguyễn Trãi đã từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, tức lúc không còn trẻ nữa. Bởi vậy, kép đóng vai này đòi hỏi phải có giọng lão, và có một trình độ ca diễn thượng thừa mới có thể lột tả được thần thái của một nhân vật lịch sử văn hóa lớn như Nguyễn Trãi. Hồi đầu những năm 1980, khi dựng Rạng ngọc Côn Sơn, đạo diễn khi ấy định nhờ đến « sư phụ » Út Trà Ôn vào vai Nguyễn Trãi. Có thể nói, đây là một dự định rất phù hợp, vì Út Trà Ôn thừa khả năng để đảm đương vai này. Minh Vương khi ấy mới độ 30 tuổi, còn là một kép trẻ đẹp. Giọng ca Minh Vương lại là « giọng kép trẻ » chứ không phải giọng lão. Thế nhưng, Minh Vương đã bạo gan thử sức, và được sự tán đồng của đạo diễn và của bậc tiền bối Út Trà Ôn. Thực tế đã chứng minh, Minh Vương không phụ sự kỳ vọng của các bậc tiền bối khi đã làm bất tử vai Nguyễn Trãi trong cách diễn lẫn cách ca « rất Minh Vương ». Trong cách diễn, chàng kép trẻ tuổi 30 diễn vai một vị quan văn tuổi độ 60 rất thành công : không quá lụ khụ, nhưng động tác đủ chậm để thể hiện tuổi tác, đủ thanh thoát để thể hiện thần thái của một bậc ẩn sĩ. Minh Vương đã sử dụng hiệu quả giọng ca cao, trữ tình để thể hiện tâm trạng bi hùng của một vị công thần khai quốc trước vận mệnh của non sông, trước những đổi thay của thời cuộc. Minh Vương lại có tài cá nhấn nhá độc đáo, khiến các câu ca lời thoại mặc sức dễ dàng đi vào lòng người. Đến với vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt, Minh Vương đã tạo ra một ranh giới cho vai diễn này mà thế hệ sau chưa thấy có ai bước tới. Trong Tô Ánh Nguyệt, ở những màn đầu Minh Vương thể hiện một vai Minh trẻ trung, hồn nhiên trong tình yêu đôi lứa. Nhưng, đến những màn 18 năm sau khi đã cưới vợ theo lệnh mẹ cha và phải lìa xa Nguyệt, Minh Vương đã xuất thần khi thể hiện xuất sắc hình ảnh một người đàn ông trung niên bị giày vò trong nỗi hối hận triền miên nên trở nên già trước tuổi, đến nỗi phải mắc bệnh trầm kha. Cái tâm trạng khổ đau, cái tình yêu trước sau như một dành cho Nguyệt, nỗi niềm bất mãn với những đổi thay bất chợt của cuộc đời, đã được giọng ca và cách diễn của Minh Vương thể hiện một cách « không thể nào hay hơn được nữa ». Và từ đó, hễ nhắc đến Tô Ánh Nguyệt là người mộ điệu nghĩ ngay đến Minh Vương-Lệ Thủy, và hễ gặp Lệ Thủy hát Tô Ánh Nguyệt mà không với Minh Vương là người xem cảm thấy thiếu một cái gì đó không thể giải thích được. Hai vai diễn này đã góp phần quan trọng cho Lệ Thủy và Minh Vương liên tục được xem là cặp đào kép cải lương đẹp nhất và ăn ý nhất. Ca như dòng suối chảy Bàn riêng về giọng ca, Minh Vương là một trong những giọng ca bậc thầy của làng tài tử-cải lương. Ở đây nhắc đến chữ « tài tử » là bởi vì dù là nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp, nhưng giọng ca Minh Vương vẫn giữ được một lượng chân phương vừa đủ của tài tử, một lề lối ca đúng tinh thần của các bài bản cổ nhạc. Tức là ca điệu oán thì ra oán, mà điệu nam thì ra nam, chứ không chỉ có sự đúng nhịp mà thôi. Trong làng sân khấu cải lương, không có nhiều nghệ sỹ, dù là nổi tiếng, làm được chuyện đó. Chẳng những vậy mà có nghệ sỹ còn cách tân quá đà để khi ca thì ngày càng mất dần nét chân phương quý báu của tài tử-cải lương. Minh Vương xuất thân từ lò ca tài tử của danh cầm Bảy Trạch. Mấy tay đờn cổ nhạc thì phải biết, họ rất nghiêm khắc về cách ca sao cho đúng tinh thần của mỗi bài bản : như ca Nam Xuân thì phải hùng hồn, mà ca Nam Ai thì phải làm não lòng người khác… Minh Vương học ca được một năm và sau đó đi thi đoạt luôn giải nhất Khôi nguyên vọng cổ. Đây không phải là một điều dễ dàng, bởi khi ấy có biết bao nhiêu lò luyện, biết bao nhiêu giọng ca. Nếu Minh Vương không thực sự là một giọng ca có bản lĩnh riêng, thì không thể nào đứng đầu « bảng vàng » chỉ sau một năm học ca như vậy. Khôi nguyên vọng cổ đã tạo đà cho Minh Vương leo lên đỉnh cao của nghệ thuật ca diễn. Nên nhớ rằng, đại bang Kim Chung hồi trước có thế mạnh là có đào kép đẹp và những giọng ca mới lạ. Bởi vậy, về với Kim Chung là Minh Vương đã về đúng nơi cần đến để có điều kiện trau dồi, học hỏi nâng cao chất lượng giọng ca. Khi Minh Vương còn đang mài mò tìm lối riêng cho giọng ca của mình, thì phía trước Minh Vương đã có hai đàn anh nổi tiếng vang dội thời đó là Minh Cảnh và Minh Phụng. Nhờ đó, mà cái tên Minh Vương thường được gọi kèm chung với hai đàn anh là « Tam Minh », tức « Minh Cảnh-Minh Phụng-Minh Vương ». Thế nhưng, đây cũng là một trở ngại lớn đối với Minh Vương vì hai ngôi sao Minh Cảnh và Minh Phụng quá sáng chói và Minh Vương khó có cơ hội sáng lên cho được. Thời gian trôi qua, Minh Vương đã dần chứng minh được bản lĩnh khi giọng ca Minh Vương đã « đủ cân đủ lượng » đứng độc lập ở một góc trời riêng. Có một số người xếp Minh Vương và Minh Phụng vào trường phái ca của Minh Cảnh. Thế nhưng, nghe kỹ lại, đây là ba chất giọng và ba kiểu ca rất riêng biệt. Trong thập niên 1960, Minh Cảnh được xem là một giọng ca « lạ », cách tân với lối ca lạng bẻ, kiểu cọ, khác biệt với các bậc tiền bối ca lối thiên về chân phương như Út Trà Ôn hay Hữu Phước. Giọng ca Minh Vương có giống với Minh Cảnh là nghe rất nhẹ, rất mướt. Còn lại, thì Minh Vương ca thiên về lối chân phương của Út Trà Ôn. Tức là ca không cầu kỳ lạng bẻ mà thánh thoát nhẹ nhàng, bình dị, giữ được nét mộc mạc của đờn ca tài tử. Minh Vương có làn hơi khỏe khoắn, trong, âm vực rộng lên thật cao, xuống thật thấp vẫn tròn vành rõ chữ, có thể ca nhiều tông khác nhau mà không bị lạc giọng, không bị tù hơi. Giọng Minh Vương thanh thoát, chân phương, bình dị, có chút mùi mẫn, trữ tình, đầy nam tính và không bi lụy. Nói về nhịp nhàng, Minh Vương là một trong những nghệ sỹ bậc thầy về nhịp. Càng về sau, khi tài năng càng phát triển, Minh Vương ca không theo khuôn nữa, mà ca theo lối rải nhịp đều ở các câu như Út Trà Ôn. Minh Vương lại thường để nhiều chữ ở cuối câu rồi « ca lùa » rất hay. Cách ca này rất khó, bởi phải chắc nhịp lắm mới dám ca, nếu không sẽ tạo cảm giác vụng về ngay. Nghe Minh Vương ca, người nghe thật khó nhận biết đang ở nhịp nào, nhưng khi Minh Vương xuống nhịp cuối câu thì « y như để ». Tuy nhiên, nét « đắt giá » nhất ở giọng ca Minh Vương, đó là ca rất trọng sự nhấn nhá theo phím đàn. Nghe Minh Vương ca, người nghe có cảm giác giọng ca và tiếng đàn hòa quyện vào nhau, để có khi nghe tiếng đờn nâng nhẹ lời ca, và để có khi nghe lời ca nhảy nhót tung tăng trên phím đàn. Cách nhấn chữ của Minh Vương theo phím đàn nghe rất rõ chữ đàn, và nghe rất « đã tai », giống như đang đứng xa xa vừa ngắm dòng suối vừa nghe tiếng nước suối chảy vậy. Phải có một tài năng ca thượng thừa mới có thể ca được như vậy. Giọng ca Minh Vương đã ghi dấu ấn qua vô số bài vọng cổ thuộc đủ thể loại. Minh Vương ca vọng cổ theo lối tự sự xưa rất hay, và người mộ điệu hiện tại vẫn còn « mê mẫn » với rất nhiều bài kinh điển như: Lòng Dạ Đàn Bà, Lá Bàng Rơi, Gánh Nước Đêm Trăng, Đội gạo đường xa, Người đánh đàn trên Bắc Mỹ Thuận … Những bài này thường dài đến 6 câu, viết theo lối kể chuyện tâm tình, nên rất kén giọng ca. Ca làm sao để không cho thấy buồn quá, không cho thấy dài dòng quá, để tránh tạo cảm giác nhàm chán cho người nghe. Với giọng ca Minh Vương, người mộ điệu nghe những bài trên, càng nghe thì càng thấy « đã ». Còn đối với tân cổ giao duyên, Minh Vương đã thể hiện thành công vô số bài với nhiều nữ nghệ sỹ đủ các thế hệ. Giọng ca Minh Vương có nét tươi trẻ, nên ca tân cổ giao duyên là một lợi thế. Có thể kể một số bài nổi nhất như : Trương Chi Mỵ Nương, Người em Vĩ Dạ, Đám cưới trên đường quê, Chuyến tàu hoàng hôn, Màu tím hoa sim, Thân phận, Mimosa, Áo em chưa mặc một lần, Cô bán sầu riêng … Thế nhưng, đặc biệt nhất là bài tân cổ giao duyên Bánh Bông Lan của soạn giả Loan Thảo. Đây là một bài ca theo kiểu đối đáp giữa một chàng trai đang theo đuổi một cô gái làm nghề bán bánh bông lan với lời văn rất dễ thương, nhưng rất khó ca vì hai người phải vừa ca vừa nói liên tục trong lòng bản. Bài hát này đã trở nên gắn liền với Minh Vương-Lê Thủy, tức nghe người khác ca người mộ điệu sẽ lập tức cảm thấy không được « đã ». Xứng danh « Trạng nguyên vọng cổ » Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày đoạt Khôi nguyên vọng cổ, giọng ca Minh Vương vẫn trẻ trung, mượt mà, điêu luyện, và vẫn còn ru lòng người mộ điệu cải lương, kể cả thế hệ trẻ. Lối ca giữ được cái hồn mộc mạc và tinh thần bài bản của đờn ca tài tử là rất đáng quý ở Minh Vương. Giọng ca Minh Vương tựa như một dòng suối nhỏ : trong trẻo, không ồn ào mà âm thanh phát ra rất rõ, đủ để tưới mát những tấm lòng, đủ để ru hồn bằng những thanh âm nhấn nhá du dương, đủ để khiến người nghe được thả hồn theo lời ca tiếng đờn cổ nhạc. Nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hiện tại, có thể nói rằng, Minh Vương luôn xứng danh là « trạng nguyên vọng cổ ». Tạp chí RFI
Cải Lương

"Người Tình Trên Chiến Trận" - Minh Vương ft. Mỹ Châu ft. Diệp Lang ft. Thanh Sang

0

Minh Vương : 50 năm trạng nguyên vọng cổ

Cách đây tròn 50 năm, Ban cổ nhạc Trường Giang của thầy đờn Út Trong đã đứng ra tổ chức cuộc thi ca vọng cổ mang tên “Khôi nguyên vọng cổ”. Trong vòng chung kết diễn ra tại rạp hát Quốc Thanh (Sài Gòn), thí sinh Nguyễn Văn Vưng đoạt giải nhất, Diệu Nga đạt giải nhì và Xuân Lan giải ba.

Nghe:

Nói nôm na thì giải nhất tức là “Trạng nguyên” của Khôi nguyên vọng cổ năm 1964. Vị trạng nguyên năm đó chẳng ai xa lạ mà chính là giọng ca trứ danh Minh Vương của làng tài tử-cải lương Nam Bộ. Nghệ sỹ Minh Vương tên thật là Nguyễn Văn Vưng, sinh năm 1950 tại Cần Giuộc-Long An. Năm lên 10 tuổi, Vưng theo cha mẹ lên Sài Gòn sinh sống ở khu vực cầu Chữ Y.

Hồi những năm 1950-1960, cải lương ở thời cực thịnh. Làng giải trí hầu như bị cải lương thống trị với rất nhiều đoàn hát từ lớn tới nhỏ, hoạt động từ trong Nam ra ngoài Bắc. Những đại ban như Kim Chưởng, Kim Chung, Thanh Minh-Thanh Nga, Dạ Lý Hương…đã đưa lên bầu trời nghệ thuật cải lương không biết bao nhiêu ngôi sao sáng.

Một bước chiếm bảng vàng

Trong bối cảnh đó, nhiều “lò” dạy ca cổ nhạc cũng nổi lên. Những lò này do các tay đờn cổ nhạc có tiếng tự dựng, qua quen biết hoặc nhờ tiếng tăm mà nhiều người đến học. Các lò của những danh cầm như Văn Vĩ, Út Trong hay Bảy Trạch đều thuộc hàng trứ danh.

Lò của danh cầm Bảy Trạch nằm gần cầu Chữ Y, nơi gia đình cậu bé Nguyễn Văn Vưng trú ngụ. Mỗi ngày khi đi hớt lăng quăng về nuôi cá lia thia, Vưng bị “mê hoặc” bởi tiếng của lò Bảy Trạch. Vào năm 1963, tức năm Vưng được 13 tuổi, Vưng đã chính thức được nhận vào lò Bảy Trạch học ca miễn phí.

Vào thời điểm đó, như tổ nghiệp đã cố tình sắp đặt để ban tặng cho sân khấu cải lương một giọng ca mới lạ, nên mới khiến xui cho nhóm của danh cầm trứ danh gốc Bến Tre Út Trong thành lập một nhóm đờn ca cổ nhạc tên Trường Giang trên đài phát thanh Sài Gòn. Rồi vào cuối năm 1964, nhóm Trường Giang đứng ra “chủ xị” tổ chức một cuộc thi vọng cổ mang tên “Khôi nguyên vọng cổ”. Có lẽ khi ấy, danh hiệu “Vua vọng cổ” đang nằm trong tay Út Trà Ôn, nên cuộc thi chỉ dám gọi là “Khôi nguyên”, tức người đỗ đạt cao nhất thì cũng chỉ là “Trạng nguyên” mà thôi.

Khôi nguyên vọng cổ năm 1964 thu hút hàng ngàn thí sinh tham dự đến từ đủ các lò cổ nhạc ở khắp mọi nơi. Vòng chung kết diễn ra tại rạp hát Quốc Thanh, Sài Gòn. Ba người đỗ giải đầu xếp vị trí như sau: Nguyễn Văn Vưng giải nhất, Diệu Nga giải nhì, và Xuân Lan giải ba. Nói nôm na, thì Vưng đoạt danh hiệu “Trạng nguyên”, Diệu Nga đoạt danh hiệu “Bảng nhãn”, và Xuân Lan đoạt danh hiệu “Thám hoa”.

Ba vị khôi nguyên này lập tức được các đoàn hát “bắt đi”: Diệu Nga được mời về đoàn Thanh Minh-Thanh Nga, Xuân Lan về đoàn Kiên Giang, còn Nguyễn Văn Vưng thì được đại ban Kim Chung mời ký hợp đồng giá trị cả trăm ngàn. Ông bầu Long của đại bang Kim Chung đã đặt nghệ danh Minh Vương cho Vưng, và con đường gạo chợ nước sông của Minh Vương bắt đầu từ giải “Khôi nguyên vọng cổ” năm ấy.

Những vai diễn để đời

Khôi nguyên vọng cổ là một một cuộc thi tuyển chọn giọng ca chứ không phải là tuyển chọn nghệ sỹ chuyên nghiệp ca hay diễn giỏi như Giải Thanh Tâm của nhóm ký giả Trần Tấn Quốc. Bởi vậy, những người đoạt Khôi nguyên vọng cổ không thể nào ca không hay, nhưng để trở thành một nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp thành thạo cả ca lẫn diễn thì đòi hỏi còn phải trau dồi thực tiễn sân khấu rất nhiều.

Cũng như hầu hết các nghệ sỹ cải lương thế hệ vàng, Minh Vương bước dần trên con đường tiến tới đỉnh cao nghệ thuật. Sau khi đoạt giải Khôi nguyên vọng cổ, Minh Vương được đưa về một đoàn trong đại ban Kim Chung đóng kép nhì cho cặp đào kép Minh Phụng-Lệ thủy. Hồi ấy, khi Minh Vương mới chập chững vào nghề, thì Minh Phụng-Lệ Thủy đã là cặp đào kép chánh nổi tiếng vang dội được báo chí gọi là “Cặp bão biển đang lên”. Nói riêng về kép thì khi ấy, Minh Phụng nổi tiếng là kép đẹp ca hay. Rồi bây giờ Minh Vương xuất hiện, Kim Chung có thêm một kép đẹp ca hay nữa. Bởi dù muốn dù không, thì thế mạnh của Kim Chung hồi đó vẫn là ca.Thời đó, khi quảng cáo, thì Kim Chung thường câu khách bằng liên danh kép đẹp Minh Phụng-Minh Vương.

Ở đoàn Kim Chung, Minh Vương vất vả trau dồi một thời gian dài, và mãi đến đầu những năm 1970, Minh Vương mới thật sự trở thành anh kép chánh, tạo được chỗ đứng riêng trên sân khấu cải lương. Các hãng dĩa thi nhau mời Minh Vương thu âm. Hãng dĩa Việt Nam của bà Sáu Liễu mời Minh Vương thu âm nhiều vai tuồng mà các bậc nghệ sỹ tiền bối của Minh Vương đã thành công trên sân khấu trước đó.

Từ đó, giọng ca Minh Vương thật sự trở thành một làn gió mới ru hồn khán giả, để đến hiện tại người mộ điệu vẫn còn có thể thưởng thức giọng ca Minh Vương trong một loạt các tuồng nổi tiếng: Máu nhuộm sân chùa, Mùa xuân ngủ trong đêm, Đêm lạnh chùa hoang, Kiếp nào có yêu nhau, Tâm sự loài chim biển, Người tình trên chiến trận, Tô Ánh Nguyệt, Đời Cô Lựu, Rạng ngọc Côn Sơn và Đường gươm Nguyên Bá…

Nói về hai vở Tô Ánh Nguyệt và Đời Cô Lựu, thì đây là hai vở xã hội hiện thực kinh điển của soạn giả Trần Hữu Trang, được viết và trình diễn mấy chục năm trước khi Minh Vương ra đời. Các thế hệ bậc thầy của Minh Vương như Tư Sạn, Tám Thưa, Năm Nghĩa, Phùng Há, Năm Châu, Út Trà Ôn … đã để lại cái bóng quá lớn trong các vở này. Bởi vậy, muốn làm mới và để cho khán giả chấp nhận quả thật không phải là chuyện dễ.

Tuy nhiên, các nghệ sỹ thế hệ sau đã không làm thất vọng người đi trước khi đã tạo được ấn tượng mới trong hai vở tuồng này với nhiều gương mặt trở thành bất tử như: Diệp Lang, Thành Được, Ngọc Giàu, Hồng Nga, Thanh Tòng, Minh Vương, Lệ Thủy, Bạch Tuyết …

Riêng đối với hai cô đào Lệ Thủy và Bạch Tuyết, thì mỗi người tên tuổi gắn liền với một tuồng: Bạch Tuyết với Đời Cô Lựu, Lệ Thủy với Tô Ánh Nguyệt. Ngọc Giàu thành công rực rỡ trong Đời Cô Lựu với vai Bà Hai Hương và Cô Bảy Cán Vá, nhưng lại không tham gia Tô Ánh Nguyệt. Diệp Lang thì để đời trong cả hai tuồng với vai Ông Hương Cả (Ba của Nguyệt) và Hội Đồng Thăng (Chồng sau của Cô Lựu). Minh Vương, trong vai trò là kép chánh trẻ, cũng đã để đời trong cả hai tuồng với vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt, và Võ Minh Luân trong Đời Cô Lựu.

Minh Vương biết khai thác tối đa thế mạnh về giọng ca, và hỗ trợ hết sức đắc lực cho các vai diễn. Chẳng hạn như trong vở cải lương Đường gươm Nguyên Bá, Minh Vương đã ru hồn khán giả bằng một lối vô vọng cổ điêu luyện mà chỉ có những giọng ca khỏe, cao, có lực, và trữ tình cộng với một kỹ thuật điều hơi thượng thừa thì mới dám « đùa » . Đó là khi dứt bản Lý Con Sáo : "Càng buông lời lòng thêm xót xa, một mũi gươm nát tan đời hoa...", Minh Vương lập tức chồng hơi vô vọng cổ: "Nhưng Nguyên Bá tôi đã cho mình đáng chết khi dùng đường gươm oanh liệt để tạo nên tì vết cho một đóa… hoa… hồng..." . Thật ngọt, thật đẹp, thật sang trọng, tạo được một phong thái ung dung đĩnh đạc nhưng có chút đa tình của viên tướng trẻ Nguyên Bá lừng danh.

Chúng ta cũng có thể tìm thấy lối chồng hơi độc đáo của Minh Vương trong vở Đời cô Lựu với vai Võ Minh Luân. Ở màn gặp lại cha là Võ Minh Thành sau 19 năm gia đình ly tán, mẹ lấy ông hội đồng, còn cha thì bị lưu đày ngoài Côn Đảo. Tâm trạng một chàng thanh niên nhà quê ngày ngày đi câu cá nuôi mẹ già (Bà Hai Hương) vừa biết về quá khứ giông bão của gia đình đã được Minh Vương thể hiện trọn vẹn. Đến mức mà, thế hệ sau, dù có nhiều nghệ sỹ được mệnh danh là ngôi sao đóng, nhưng hễ nhắc đến Võ Minh Luân, là khán giả nghĩ trước tiên đến Minh Vương.

Và cũng bởi thế mà, dù ở tuổi trên lục tuần, Minh Vương vẫn luôn được yêu cầu diễn đi diễn lại vai chàng thanh niên 19 mà người xem không thấy chán. Trong vai diễn này, ở màn gặp lại cha, Võ Minh Luân-Minh Vương đã bất ngờ chồng hơi vô bản Văn Thiên Tường lớp dựng dây xề kép rất độc đáo: "Ba... hỡi ba..ơi.", cao vút, vừa ngọt, như là tiếng kêu xé lòng, đã khiến cho khán giả nhớ hoài cách ca diễn thượng thừa đó của Minh Vương.

Tuy nhiên, hai vai để đời mà ở đó hội tụ tất cả tinh hoa nghệ thuật ca diễn của Minh Vương là vai Nguyễn Trãi trong Rạng ngọc Côn Sơn, và vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt. Rạng Ngọc Côn Sơn là một vở lịch sử Việt Nam ca ngợi tài đức của Nguyễn Trãi, người đã góp công quan trọng trong chiến thắng chống quân Minh để dựng nên nhà Hậu Lê, và cũng là người đã phải chết oan vì nhà Hậu Lê. Bối cảnh vở tuồng đề cập đến giai đoạn Nguyễn Trãi đã từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, tức lúc không còn trẻ nữa. Bởi vậy, kép đóng vai này đòi hỏi phải có giọng lão, và có một trình độ ca diễn thượng thừa mới có thể lột tả được thần thái của một nhân vật lịch sử văn hóa lớn như Nguyễn Trãi.

Hồi đầu những năm 1980, khi dựng Rạng ngọc Côn Sơn, đạo diễn khi ấy định nhờ đến « sư phụ » Út Trà Ôn vào vai Nguyễn Trãi. Có thể nói, đây là một dự định rất phù hợp, vì Út Trà Ôn thừa khả năng để đảm đương vai này. Minh Vương khi ấy mới độ 30 tuổi, còn là một kép trẻ đẹp. Giọng ca Minh Vương lại là « giọng kép trẻ » chứ không phải giọng lão. Thế nhưng, Minh Vương đã bạo gan thử sức, và được sự tán đồng của đạo diễn và của bậc tiền bối Út Trà Ôn. Thực tế đã chứng minh, Minh Vương không phụ sự kỳ vọng của các bậc tiền bối khi đã làm bất tử vai Nguyễn Trãi trong cách diễn lẫn cách ca « rất Minh Vương ».

Trong cách diễn, chàng kép trẻ tuổi 30 diễn vai một vị quan văn tuổi độ 60 rất thành công : không quá lụ khụ, nhưng động tác đủ chậm để thể hiện tuổi tác, đủ thanh thoát để thể hiện thần thái của một bậc ẩn sĩ. Minh Vương đã sử dụng hiệu quả giọng ca cao, trữ tình để thể hiện tâm trạng bi hùng của một vị công thần khai quốc trước vận mệnh của non sông, trước những đổi thay của thời cuộc. Minh Vương lại có tài cá nhấn nhá độc đáo, khiến các câu ca lời thoại mặc sức dễ dàng đi vào lòng người.

Đến với vai Minh trong Tô Ánh Nguyệt, Minh Vương đã tạo ra một ranh giới cho vai diễn này mà thế hệ sau chưa thấy có ai bước tới. Trong Tô Ánh Nguyệt, ở những màn đầu Minh Vương thể hiện một vai Minh trẻ trung, hồn nhiên trong tình yêu đôi lứa. Nhưng, đến những màn 18 năm sau khi đã cưới vợ theo lệnh mẹ cha và phải lìa xa Nguyệt, Minh Vương đã xuất thần khi thể hiện xuất sắc hình ảnh một người đàn ông trung niên bị giày vò trong nỗi hối hận triền miên nên trở nên già trước tuổi, đến nỗi phải mắc bệnh trầm kha.

Cái tâm trạng khổ đau, cái tình yêu trước sau như một dành cho Nguyệt, nỗi niềm bất mãn với những đổi thay bất chợt của cuộc đời, đã được giọng ca và cách diễn của Minh Vương thể hiện một cách « không thể nào hay hơn được nữa ». Và từ đó, hễ nhắc đến Tô Ánh Nguyệt là người mộ điệu nghĩ ngay đến Minh Vương-Lệ Thủy, và hễ gặp Lệ Thủy hát Tô Ánh Nguyệt mà không với Minh Vương là người xem cảm thấy thiếu một cái gì đó không thể giải thích được. Hai vai diễn này đã góp phần quan trọng cho Lệ Thủy và Minh Vương liên tục được xem là cặp đào kép cải lương đẹp nhất và ăn ý nhất.

Ca như dòng suối chảy

Bàn riêng về giọng ca, Minh Vương là một trong những giọng ca bậc thầy của làng tài tử-cải lương. Ở đây nhắc đến chữ « tài tử » là bởi vì dù là nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp, nhưng giọng ca Minh Vương vẫn giữ được một lượng chân phương vừa đủ của tài tử, một lề lối ca đúng tinh thần của các bài bản cổ nhạc. Tức là ca điệu oán thì ra oán, mà điệu nam thì ra nam, chứ không chỉ có sự đúng nhịp mà thôi. Trong làng sân khấu cải lương, không có nhiều nghệ sỹ, dù là nổi tiếng, làm được chuyện đó. Chẳng những vậy mà có nghệ sỹ còn cách tân quá đà để khi ca thì ngày càng mất dần nét chân phương quý báu của tài tử-cải lương.

Minh Vương xuất thân từ lò ca tài tử của danh cầm Bảy Trạch. Mấy tay đờn cổ nhạc thì phải biết, họ rất nghiêm khắc về cách ca sao cho đúng tinh thần của mỗi bài bản : như ca Nam Xuân thì phải hùng hồn, mà ca Nam Ai thì phải làm não lòng người khác… Minh Vương học ca được một năm và sau đó đi thi đoạt luôn giải nhất Khôi nguyên vọng cổ. Đây không phải là một điều dễ dàng, bởi khi ấy có biết bao nhiêu lò luyện, biết bao nhiêu giọng ca. Nếu Minh Vương không thực sự là một giọng ca có bản lĩnh riêng, thì không thể nào đứng đầu « bảng vàng » chỉ sau một năm học ca như vậy.

Khôi nguyên vọng cổ đã tạo đà cho Minh Vương leo lên đỉnh cao của nghệ thuật ca diễn. Nên nhớ rằng, đại bang Kim Chung hồi trước có thế mạnh là có đào kép đẹp và những giọng ca mới lạ. Bởi vậy, về với Kim Chung là Minh Vương đã về đúng nơi cần đến để có điều kiện trau dồi, học hỏi nâng cao chất lượng giọng ca.

Khi Minh Vương còn đang mài mò tìm lối riêng cho giọng ca của mình, thì phía trước Minh Vương đã có hai đàn anh nổi tiếng vang dội thời đó là Minh Cảnh và Minh Phụng. Nhờ đó, mà cái tên Minh Vương thường được gọi kèm chung với hai đàn anh là « Tam Minh », tức « Minh Cảnh-Minh Phụng-Minh Vương ». Thế nhưng, đây cũng là một trở ngại lớn đối với Minh Vương vì hai ngôi sao Minh Cảnh và Minh Phụng quá sáng chói và Minh Vương khó có cơ hội sáng lên cho được.

Thời gian trôi qua, Minh Vương đã dần chứng minh được bản lĩnh khi giọng ca Minh Vương đã « đủ cân đủ lượng » đứng độc lập ở một góc trời riêng. Có một số người xếp Minh Vương và Minh Phụng vào trường phái ca của Minh Cảnh. Thế nhưng, nghe kỹ lại, đây là ba chất giọng và ba kiểu ca rất riêng biệt.

Trong thập niên 1960, Minh Cảnh được xem là một giọng ca « lạ », cách tân với lối ca lạng bẻ, kiểu cọ, khác biệt với các bậc tiền bối ca lối thiên về chân phương như Út Trà Ôn hay Hữu Phước. Giọng ca Minh Vương có giống với Minh Cảnh là nghe rất nhẹ, rất mướt. Còn lại, thì Minh Vương ca thiên về lối chân phương của Út Trà Ôn. Tức là ca không cầu kỳ lạng bẻ mà thánh thoát nhẹ nhàng, bình dị, giữ được nét mộc mạc của đờn ca tài tử. Minh Vương có làn hơi khỏe khoắn, trong, âm vực rộng lên thật cao, xuống thật thấp vẫn tròn vành rõ chữ, có thể ca nhiều tông khác nhau mà không bị lạc giọng, không bị tù hơi. Giọng Minh Vương thanh thoát, chân phương, bình dị, có chút mùi mẫn, trữ tình, đầy nam tính và không bi lụy.

Nói về nhịp nhàng, Minh Vương là một trong những nghệ sỹ bậc thầy về nhịp. Càng về sau, khi tài năng càng phát triển, Minh Vương ca không theo khuôn nữa, mà ca theo lối rải nhịp đều ở các câu như Út Trà Ôn. Minh Vương lại thường để nhiều chữ ở cuối câu rồi « ca lùa » rất hay. Cách ca này rất khó, bởi phải chắc nhịp lắm mới dám ca, nếu không sẽ tạo cảm giác vụng về ngay. Nghe Minh Vương ca, người nghe thật khó nhận biết đang ở nhịp nào, nhưng khi Minh Vương xuống nhịp cuối câu thì « y như để ».

Tuy nhiên, nét « đắt giá » nhất ở giọng ca Minh Vương, đó là ca rất trọng sự nhấn nhá theo phím đàn. Nghe Minh Vương ca, người nghe có cảm giác giọng ca và tiếng đàn hòa quyện vào nhau, để có khi nghe tiếng đờn nâng nhẹ lời ca, và để có khi nghe lời ca nhảy nhót tung tăng trên phím đàn. Cách nhấn chữ của Minh Vương theo phím đàn nghe rất rõ chữ đàn, và nghe rất « đã tai », giống như đang đứng xa xa vừa ngắm dòng suối vừa nghe tiếng nước suối chảy vậy. Phải có một tài năng ca thượng thừa mới có thể ca được như vậy.

Giọng ca Minh Vương đã ghi dấu ấn qua vô số bài vọng cổ thuộc đủ thể loại. Minh Vương ca vọng cổ theo lối tự sự xưa rất hay, và người mộ điệu hiện tại vẫn còn « mê mẫn » với rất nhiều bài kinh điển như: Lòng Dạ Đàn Bà, Lá Bàng Rơi, Gánh Nước Đêm Trăng, Đội gạo đường xa, Người đánh đàn trên Bắc Mỹ Thuận …

Những bài này thường dài đến 6 câu, viết theo lối kể chuyện tâm tình, nên rất kén giọng ca. Ca làm sao để không cho thấy buồn quá, không cho thấy dài dòng quá, để tránh tạo cảm giác nhàm chán cho người nghe. Với giọng ca Minh Vương, người mộ điệu nghe những bài trên, càng nghe thì càng thấy « đã ».

Còn đối với tân cổ giao duyên, Minh Vương đã thể hiện thành công vô số bài với nhiều nữ nghệ sỹ đủ các thế hệ. Giọng ca Minh Vương có nét tươi trẻ, nên ca tân cổ giao duyên là một lợi thế. Có thể kể một số bài nổi nhất như : Trương Chi Mỵ Nương, Người em Vĩ Dạ, Đám cưới trên đường quê, Chuyến tàu hoàng hôn, Màu tím hoa sim, Thân phận, Mimosa, Áo em chưa mặc một lần, Cô bán sầu riêng …

Thế nhưng, đặc biệt nhất là bài tân cổ giao duyên Bánh Bông Lan của soạn giả Loan Thảo. Đây là một bài ca theo kiểu đối đáp giữa một chàng trai đang theo đuổi một cô gái làm nghề bán bánh bông lan với lời văn rất dễ thương, nhưng rất khó ca vì hai người phải vừa ca vừa nói liên tục trong lòng bản. Bài hát này đã trở nên gắn liền với Minh Vương-Lê Thủy, tức nghe người khác ca người mộ điệu sẽ lập tức cảm thấy không được « đã ».

Xứng danh « Trạng nguyên vọng cổ »

Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày đoạt Khôi nguyên vọng cổ, giọng ca Minh Vương vẫn trẻ trung, mượt mà, điêu luyện, và vẫn còn ru lòng người mộ điệu cải lương, kể cả thế hệ trẻ. Lối ca giữ được cái hồn mộc mạc và tinh thần bài bản của đờn ca tài tử là rất đáng quý ở Minh Vương. Giọng ca Minh Vương tựa như một dòng suối nhỏ : trong trẻo, không ồn ào mà âm thanh phát ra rất rõ, đủ để tưới mát những tấm lòng, đủ để ru hồn bằng những thanh âm nhấn nhá du dương, đủ để khiến người nghe được thả hồn theo lời ca tiếng đờn cổ nhạc. Nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hiện tại, có thể nói rằng, Minh Vương luôn xứng danh là « trạng nguyên vọng cổ ».

Tạp chí RFI


Cải Lương

"Người Tình Trên Chiến Trận" - Minh Vương ft. Mỹ Châu ft. Diệp Lang ft. Thanh Sang


0

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2009

100 bài thơ hay nhất VN thế kỷ 20

Được phát động từ đầu năm 2005, cuộc thi Chọn những bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 đã lựa ra được 100 thi phẩm xuất sắc và công bố trong Đêm Nguyên tiêu của Ngày thơ Việt Nam (3/3). Nhưng sự vắng mặt của nhiều bài thơ nổi tiếng trong danh sách này không khỏi khiến người yêu thơ phải nuối tiếc.


Độc giả yêu thơ đang ngày càng già đi. Ảnh: VOV.
0