Tiền sinh ra tiền; người giàu ngày càng cho vay nhiều và lấy tiền thừa thãi chủ yếu dùng vào việc đầu cơ, còn các hộ tiêu dùng thì rơi vào vòng xoáy nợ nần. Một khi không còn đủ số người tham dự thì trò chơi ấy sẽ chấm dứt.
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021
Góc nhìn của học giả phương Tây về sự giãy chết của chủ nghĩa tư bản
Tiền sinh ra tiền; người giàu ngày càng cho vay nhiều và lấy tiền thừa thãi chủ yếu dùng vào việc đầu cơ, còn các hộ tiêu dùng thì rơi vào vòng xoáy nợ nần. Một khi không còn đủ số người tham dự thì trò chơi ấy sẽ chấm dứt.
Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2021
Thương mại tự do sẽ giúp Mỹ chiến thắng Trung Quốc?
(WSJ - 22/02/2021) Tuyên bố của tổng thống Biden rằng nước Mỹ đã trở lại và sẵn sàng tham gia vào các tiến trình ngoại giao là sự trở về với phong cách lãnh đạo đặc trưng của chúng ta suốt nhiều thế hệ. Đây cũng là tin vui cho những người tin rằng sự dẫn dắt của Hoa Kỳ là cần thiết đối với trật tự toàn cầu. Tuy nhiên, lĩnh vực thương mại lại không có tên trong danh sách các ưu tiên ngoại giao của tổng thống. Điều này cần suy nghĩ lại.
Đăng trong:
Châu Á - Thái Bình Dương,
Địa - Chính trị,
Kinh tế,
Mỹ - Trung,
Thế giới
Thứ Tư, 24 tháng 2, 2021
Bill Gates: 'Đừng đầu tư Bitcoin, trừ khi nhiều tiền hơn Elon Musk'
Bill Gates không lạc quan về Bitcoin và cảnh báo người đầu tư vào tiền ảo này nên suy nghĩ lại, trừ khi họ có nhiều tiền hơn Elon Musk.
"Elon có rất nhiều tiền và anh ấy cũng rất sành sỏi", Bill Gates nói trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg. "Nếu bạn có ít tiền hơn Elon, bạn nên đề phòng".
0
"Elon có rất nhiều tiền và anh ấy cũng rất sành sỏi", Bill Gates nói trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg. "Nếu bạn có ít tiền hơn Elon, bạn nên đề phòng".
Đăng trong:
Đầu tư,
Kinh doanh,
Kinh tế,
Thời sự quốc tế,
Tin tức
Thứ Hai, 17 tháng 8, 2020
1.400 nhà đầu tư Nhật Bản xem xét mở rộng sản xuất sang Việt Nam
Theo Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO), 41% công ty Nhật Bản với khoảng 1.400 doanh nghiệp đang hướng đến Việt Nam để mở rộng sản xuất. JETRO nhấn mạnh, giới đầu tư Nhật Bản chuyển trọng tâm sang Châu Á do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung.
Việt Nam và Nhật Bản cũng ưu tiên thúc đẩy liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu. Lãnh đạo Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Trần Tuấn Anh và Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Kajiyama Hiroshi đã bàn bạc nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến hợp tác kinh tế -thương mại giữa hai nước.
41% doanh nghiệp Nhật Bản xem xét mở rộng sản xuất tại Việt Nam
Theo Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO), ngày càng nhiều công ty Nhật muốn mở rộng kinh doanh ở Đông Nam Á và thu nhỏ hoạt động tại Trung Quốc do căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington leo thang.
Hãng tin Kyodo trích dẫn một cuộc khảo sát của JETRO được thực hiện vào cuối năm ngoái, cơ quan do chính phủ Nhật Bản hậu thuẫn cho biết, theo một báo cáo thương mại và đầu tư hàng năm, có đến 41% (tức khoảng 1.400 doanh nghiệp công ty Nhật Bản) đang xem xét mở rộng hoạt động tại Việt Nam trong ba năm tới, tăng 5,5% so với một năm trước đó.
Báo cáo công bố ngày 30/7 trích dẫn cuộc khảo sát cho biết 36,3% người được hỏi đưa ra câu trả lời tương tự cho Thái Lan, tăng 1,5%, trong khi 48,1% nói rằng họ sẽ thúc đẩy kinh doanh ở Trung Quốc, giảm 7,3%.
“Kể từ năm 2018, căng thẳng leo thang giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã thúc đẩy việc đầu tư của các công ty Nhật Bản vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á”, báo cáo cho biết.
“Khoảng cách giữa lượng đầu tư (Nhật Bản) vào ASEAN và Trung Quốc đã mở rộng từ 10,2 tỷ yên vào năm 2017 lên 20,4 tỷ yên (191 triệu USD) vào năm 2019”, số liệu thống kê ghi nhận.
Nói về những động thái hướng tới việc tái tổ chức chuỗi cung ứng toàn cầu, một doanh nghiệp sản xuất thép, kim loại màu và gia công các bộ phận kim loại ở Tokyo cho biết họ đã chuyển một phần chuỗi sản xuất từ Trung Quốc sang Thái Lan và chuyển các mặt hàng xuất khẩu đi Mỹ từ Trung Quốc sang Thái Lan.
Một nhà sản xuất thép và kim loại màu ở vùng Shikoku, miền tây Nhật Bản, cho biết họ đang có kế hoạch chuyển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Cuộc khảo sát, được thực hiện vào tháng 11 và tháng 12, với sự tham gia của 9.975 công ty Nhật Bản, cho biết có khoảng 3.562 doanh nghiệp (tương đương 35,7%) quan tâm nhiều đến hoạt động kinh doanh ở nước ngoài.
Trong khi đó, khoảng 80% các công ty Nhật Bản hoạt động ở nước ngoài dự báo rằng doanh số bán hàng sẽ giảm vào năm 2020 so với năm trước do nhu cầu thu hẹp sau đại dịch Covid-19, theo báo cáo hàng năm.
Ở châu Á, có đến 91,4% công ty Nhật Bản hoạt động ở Ấn Độ, 89,4% ở Malaysia, 88,4% ở Thái Lan, 85,3% ở Philippines và 84,4% ở Indonesia đưa ra dự báo tương tự. Đại dịch cũng đã làm giảm đáng kể đầu tư của Nhật Bản vào thị trường châu Á.
Trong 5 tháng đầu năm 2020, đầu tư của Nhật Bản vào Indonesia giảm 75% so với cùng kỳ năm trước, trong khi giảm 35,5% đối với toàn ASEAN.
Trước đó, hồi tháng 7, Trưởng đại diện Văn phòng JETRO Hà Nội Takeo Nakajima nhấn mạnh, Việt Nam là quốc gia kiểm soát tốt dịch bệnh nên doanh nghiệp Nhật Bản kỳ vọng sớm khôi phục sản xuất tại quốc gia Đông Nam Á này.
Theo ông Takeo Nakajima, về dài hạn, trong 10-15 năm tới, việc mở rộng cơ sở sản xuất của giới đầu tư Nhật sẽ được tăng cường và Việt Nam có thể trở thành thị trường tiềm năng vừa xuất khẩu vừa tiêu thụ nội địa.
Việt Nam – Nhật Bản thúc đẩy liên kết chuỗi cung ứng
Trước đó, vào đầu tháng 8, theo cơ chế luân phiên, Kỳ họp lần thứ 4 Ủy ban hỗn hợp Việt Nam – Nhật Bản về hợp tác Công nghiệp, Thương mại và Năng lượng được tổ chức tại Việt Nam theo hình thức họp trực tuyến.
Tại cuộc họp này, với lãnh đạo Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Trần Tuấn Anh và Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Kajiyama Hiroshi đã bàn bạc nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến hợp tác kinh tế -thương mại giữa hai nước, đặc biệt là thúc đẩy liên kết chuỗi cung ứng.
Điểm đáng chú ý trong kỳ họp lần thứ 4 này, hai Bộ trưởng bày tỏ hài lòng về những kết quả hợp tác giữa hai bên kể từ Kỳ họp lần thứ 3 của Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam Nhật Bản, đặc biệt là kết quả hợp tác trong các khuôn khổ ASEAN, Hiệp định Đối tác Kinh tế khu vực (RCEP), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hợp tác năng lượng, hợp tác trong ngành công nghiệp ô tô, hóa chất, đào tạo nguồn nhân lực công nghiệp.
Trên thực tế, cơ chế Ủy ban hỗn hợp Việt Nam-Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đảm bảo duy trì, không gián đoạn và thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước, đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh do coronavirus đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế thế giới, khu vực nói chung và hoạt động giao thương giữa hai nước nói riêng.
Hai Bộ trưởng nhất trí việc hợp tác thương mại, công nghiệp và năng lượng giữa hai Bên trong thời gian tới cần bám sát theo các mục tiêu của Tuyên bố chung của các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN-Nhật Bản về sáng kiến phục hồi kinh tế ứng phó với dịch Covid-19 và Kế hoạch hành động phục hồi kinh tế ASEAN-Nhật Bản.
Tại cuộc họp, đồng chí Trần Tuấn Anh và ông Kajiyama Hiroshi cùng xác định phương hướng tăng cường hợp tác song phương thời gian tới, trong lĩnh vực công nghiệp, đồng thời, khẳng định cần tính tới nhiều yếu tố khác nhau bao gồm tính đa dạng, minh bạch và bền vững trong việc xây dựng chuỗi cung ứng vững chắc, có khả năng chống chịu tác động.
Đối với vấn đề này, hai Bộ trưởng nhất trí tầm quan trọng của việc thúc đẩy liên kết chuỗi cung ứng giữa hai nước ngày càng chặt chẽ, bền vững hơn thông qua việc khuyến khích và hỗ trợ đa dạng hóa cơ sở sản xuất hàng hóa, nguyên liệu ở nước ngoài. Đồng thời bày tỏ kỳ vọng vào sự hợp tác giữa các công ty Nhật Bản và Việt Nam để thực hiện mục tiêu này.
“Chính phủ Việt Nam cam kết tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư, doanh nghiệp Nhật Bản nói riêng”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết.
Nhật Bản hỗ trợ phát triển nhân lực cho Việt Nam?
Về việc hợp tác nâng cao năng lực và sức cạnh tranh công nghiệp, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh đánh giá cao đóng góp của các hỗ trợ kỹ thuật từ Nhật Bản trong phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực trong những năm qua.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh chia sẻ, rất vui mừng trước việc dự án tại Việt Nam nằm trong sáng kiến của Nhật Bản về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực phần mềm điều khiển ô tô trong các nước ASEAN sẽ được triển khai đầu tiên trong năm 2020 này.
Hợp tác giữa hai Bên trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực sẽ có ý nghĩ hơn thông qua việc nhân rộng mô hình đào tạo “kỹ thuật gắn liền với kỹ năng thực hành và sáng tạo” (mô hình KOSEN) tại các cơ sở đào tạo của Bộ Công Thương.
“Hợp tác này nhằm nâng cao năng lực và tạo thêm giá trị gia tăng cho một số ngành công nghiệp chủ chốt tại Việt Nam như hóa chất, dệt may, công nghiệp ô tô và công nghiệp phụ trợ”, ông Trần Tuấn Anh cho biết.
Đặc biệt bằng cách tận dụng sự hợp tác của khu vực công và tư nhân về chuyển đổi kỹ thuật số, chẳng hạn như chương trình hợp tác trực tuyến mới do Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) và các cơ quan hữu quan của Việt Nam khởi xướng.
Cùng với đó, hai Bộ trưởng khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác hơn nữa trong ứng dụng và chuyển giao công nghệ số cũng như sản xuất thông minh giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản.
Nhận thức được tính tất yếu của việc thúc đẩy phát triển công nghiệp 4.0 nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp, hai bên khẳng định tầm quan trọng của việc chia sẻ kinh nghiệm và phát triển khung chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp 4.0.
Liên quan đến mục tiêu thúc đẩy hội nhập kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ ngày càng phát triển hơn do những thách thức mà Covid-19 đặt ra, các Bộ trưởng của Việt Nam và Nhật Bản tái khẳng định sẽ tiếp tục phấn đấu vì một môi trường thương mại và đầu tư tự do, công bằng, không phân biệt đối xử, minh bạch, có thể dự đoán và ổn định, để giữ cho thị trường mở và để duy trì hệ thống đa phương dựa trên luật lệ trong khuôn khổ các hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Các Bộ trưởng khẳng định lại cam kết thúc đẩy hội nhập kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời nhất trí ủng hộ và phối hợp chặt chẽ với nhau tại các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại đa phương mà hai bên cùng tham gia, đặc điểm địa lý tại các cuộc họp đa phương bao gồm ASEAN + 3, EAS và APEC.
Đối với lĩnh vực năng lượng, hai Bộ trưởng tái khẳng định tầm quan trọng của hệ thống năng lượng có khả năng phục hồi với nguồn cung cấp năng lượng sạch và giá cả phải chăng, ổn định trong việc hỗ trợ các hoạt động kinh tế và cách thức tận dụng tất cả các nguồn năng lượng và công nghệ, trong bối cảnh bùng phát dịch Covid-19.
Phía Việt Nam và Nhật Bản đều chia sẻ quan điểm Dự án Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn là rất quan trọng đối với cả hai nước. Hai vị lãnh đạo nhất trí rằng Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản sẽ tiếp tục quan tâm đến dự án trên cơ sở các điều kiện hai bên đã thỏa thuận.
Theo: https://vn.sputniknews.com/business/202008179372666-cuoc-thao-chay-khoi-trung-quoc-1400-nha-dau-tu-nhat-ban-chon-viet-nam/
Thứ Tư, 3 tháng 6, 2020
Mỹ coi Việt Nam là ưu tiên hợp tác trong chuỗi cung ứng
Mỹ cho biết xác định Việt Nam là một đối tác ưu tiên trong các dự án tại khu vực sắp tới, gồm sản xuất các sản phẩm chiến lược trong chuỗi cung ứng của Mỹ.
Thông tin được Adam Boehler, Giám đốc điều hành Cơ quan Phát triển tài chính quốc tế Mỹ (DFC) cho biết trong cuộc gặp với Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Hà Kim Ngọc ở thủ đô Washington ngày 2/6, theo thông cáo của Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ.
Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Hà Kim Ngọc, trái, trao 500 khẩu trang cho ông Boehler để tặng DFC tại thủ đô Washington ngày 2/6. Ảnh: ĐSQVNTM.
Ông Boehler cho hay DFC cũng quan tâm hỗ trợ các dự án phát triển tại khu vực tiểu vùng Mekong. Cơ quan này đang triển khai một loạt kế hoạch nhằm hỗ trợ các dự án đầu tư tại các nước đang phát triển, đặc biệt là các dự án thuộc lĩnh vực năng lượng, hạ tầng và kinh tế số.
Đại sứ Ngọc đề nghị DFC tiếp tục tham gia vào các hoạt động liên quan trong năm nay, khi Việt Nam và Mỹ kỷ niệm 25 năm quan hệ ngoại giao. Các hoạt động gồm các hội nghị ASEAN - Mỹ, Việt Nam - Mỹ về hợp tác đầu tư tại khu vực.
Khi Covid-19 bùng phát tại Trung Quốc và lan ra khắp thế giới từ đầu năm nay, chuỗi cung ứng toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng do các nước áp dụng biện pháp hạn chế để chặn dịch. Doanh nghiệp nhiều nước đã tính đến phương án chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc để đa dạng hóa nguồn cung, giảm thiểu rủi ro.
Trong phiên họp Quốc hội giữa tháng 5, đại diện Chính phủ Việt Nam khẳng định bên cạnh những khó khăn do đại dịch, Việt Nam vẫn có những thời cơ mới mở ra khi làn sóng dịch chuyển đầu tư khỏi Trung Quốc đã bắt đầu. Bộ trưởng Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng trước đó cho rằng việc Việt Nam kiểm soát tốt Covid-19 đã "ghi điểm" về môi trường đầu tư.
Từ tháng ba, hãng Apple của Mỹ bắt đầu chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc sang Việt Nam và tăng số lượng. Khoảng 4 triệu chiếc AirPods sẽ được được sản xuất tại Việt Nam trong quý II. Apple gần đây liên tục tuyển dụng nhân sự tại Việt Nam, làm dấy lên khả năng hãng này mở nhà máy tại Việt Nam. Google và Microsoft cũng đang chuyển một số dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Một số doanh nghiệp lớn như Amazon và Home Depot bắt đầu tuyển dụng, tìm kiếm chuỗi cung ứng, coi Việt Nam là một trong những điểm đến bên cạnh các quốc gia khác trong khu vực như Indonesia, Thái Lan hay Malaysia.
Nguồn: VnExpress
Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020
Sự sụp đổ của thị trường dầu mỏ thế giới
Đại dịch COVID-19 và một cuộc chiến về giá đã đẩy các thị trường năng lượng thế giới rơi vào khủng hoảng. Trong lịch sử, thị trường dầu mỏ toàn cầu chưa bao giờ sụp đổ đột ngột như hiện nay.
Nền công nghiệp dầu khí, cung cấp hơn 60% năng lượng cho toàn thế giới, đã chìm trong một cuộc khủng hoảng kép mà có lẽ chưa ai từng nghĩ có thể xảy ra vào đầu năm nay. Một cuộc chiến giá cả, trong đó các quốc gia sản xuất dầu mỏ tranh giành thị phần, đã dẫn đến việc thị trường này bị tổn hại nặng nề khi vấp phải một cuộc khủng hoảng lớn hơn do dịch COVID-19 gây ra và sắp tới nhiều khả năng sẽ là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Điều đó sẽ dẫn tới nhu cầu của thị trường giảm mạnh chưa từng thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào kể từ khi dầu mỏ trở thành mặt hàng toàn cầu. Giá dầu đã giảm 2/3 kể từ đầu năm 2020 và sẽ còn tiếp tục lao dốc. Chỉ trong tháng 4, mức giảm tiêu thụ của toàn cầu gấp 7 lần so với mức giảm sâu nhất tính theo quý sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Ở những khu vực không còn khả năng chứa dầu và mất thị trường, giá của một thùng dầu có thể giảm xuống mức bằng 0.
Sự sụp đổ này sẽ gây ra tình trạng bất ổn ở những nước xuất khẩu dầu và góp phần dẫn đến sự hỗn loạn của các thị trường tài chính. Điều đó cũng sẽ khiến môi trường địa chính trị vốn đã căng thẳng phức tạp thêm, kể cả bằng cách lôi kéo nước Mỹ vào một cuộc tranh cãi quốc tế về các giải pháp cần thực hiện để phục hồi đống đổ nát này. Tháng 2/2020, sản lượng dầu của Mỹ đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, với 13,2 triệu thùng/ngày - cao hơn đáng kể so với sản lượng của các nước sản xuất dầu mỏ hàng đầu khác trên thế giới là Saudi Arabia và Nga. Nhờ cuộc cách mạng dầu khí đá phiến với sự hỗ trợ của các kỹ thuật khai thác mới, nước Mỹ đã đạt được kỷ lục đó sau một thập kỷ đi lên từ một nước nhập khẩu dầu lớn nhất trở thành một nước xuất khẩu dầu lớn thế giới.
Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng đã bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt đó. Mặc dù từ lâu ông Trump ủng hộ giá dầu ở mức thấp - và từng nhanh chóng đăng dòng tweet phản đối Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và những nỗ lực quản lý nguồn cung toàn cầu trong những năm gần đây - nhưng cú sụp đổ lần này lại châm ngòi cho một thực tế trái ngược. Tổng thống Mỹ gần đây đã có cuộc điện đàm với người đồng cấp Nga Vladimir Putin để thảo luận về các giải pháp có thể có nhằm ngăn chặn cái mà sau đó ông gọi là sự sụt giảm gây tổn hại. Sau đó, ông Trump đã điện đàm với Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman, tuyên bố rằng các nước sản xuất dầu mỏ lớn đang xem xét phối hợp cùng nhau cắt giảm đáng kể sản lượng. Saudi Arabia đã triển khai những vấn đề được thống nhất trong cuộc điện đàm trên bằng việc tái triệu tập một cuộc họp của OPEC cùng với các nước chủ chốt trong lĩnh vực dầu mỏ, gồm Canada và Mexico. Tất cả những điều này đã làm cho giá dầu tăng trở lại mặc dù những yếu tố “khi nào”, “như thế nào” và “do ai” của thoả thuận tiềm năng trên vẫn còn chưa rõ ràng. Và càng nhiều đối tượng tham gia thì việc triển khai một thoả thuận sẽ càng trở nên khó khăn hơn.
Bản chất và phạm vi rộng lớn của sự sụp đổ và cuộc tranh giành địa chính trị hiện nay do nó tạo ra là những thách thức hiếm thấy đối với nước Mỹ và ngành năng lượng của nước này. Những thách thức này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế và chính sách đối ngoại của Mỹ trong một thời khắc vốn đã tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ.
Hồi kết của một trật tự mới trong ngành dầu mỏ
Cũng giống như rất nhiều ngành công nghiệp khác, tình trạng khó khăn trong các thị trường dầu mỏ là do đại dịch COVID-19 gây ra. Nhưng riêng trường hợp dầu mỏ, tình trạng khó khăn đó xuất hiện cùng với bước ngoặt về địa chính trị.
Đợt sụt giảm giá dầu gần đây nhất, bắt đầu từ năm 2014 do hậu quả của một đợt dư thừa nguồn cung, cuối cùng cũng đã kết thúc vào năm 2016 với sự xuất hiện của một trật tự dầu lửa quốc tế mới – Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ mở rộng (OPEC+). Đây là một thoả thuận giữa 11 thành viên OPEC và 10 nước không thuộc OPEC nhằm thống nhất về việc cắt giảm sản lượng để ổn định một thị trường đang trên đà sụt giảm. Đôi khi người ta gọi đó là Liên minh Vienna bởi đây là địa danh ký kết thoả thuận này, OPEC+ được thiết lập dựa vào liên minh không chính thức giữa Saudi Arabia và Nga sau khi 2 nước sản xuất dầu lớn nhất vào thời điểm đó đạt được thoả thuận hợp tác. Việc liên minh trên được thành lập cũng đã mở đường cho một mối quan hệ chiến lược, đem lại cho Nga cơ hội xây dựng quan hệ với một trong những đồng minh quan trọng nhất của Mỹ ở Trung Đông và cũng để Nga thu hút đầu tư từ Saudi Arabia. Đối với Saudi Arabia, đó là một con đường để mặc cả trong mối quan hệ với Mỹ và đạt được lợi thế đòn bẩy nào đó trong cuộc giằng co với Iran.
Tuy nhiên, giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng COVID-19, đợt bùng phát ở Trung Quốc trong tháng 1 và tháng 2 vừa qua, đã làm lung lay mối liên minh không chính thức trên. Trung Quốc, thị trường dầu mỏ tăng trưởng nhanh nhất thế giới đột nhiên bị đóng cửa. Thay vì tăng trưởng như kỳ vọng, nhu cầu dầu mỏ của thế giới đã lao dốc chưa từng thấy với mức giảm 6 triệu thùng/ngày trong quý I/2020.
Đầu tháng 3 vừa qua, trong và xung quanh các hội nghị của OPEC và OPEC+ ở Vienna, Saudi Arabia và Nga đã bắt đầu các cuộc thảo luận về cách ứng phó. Nhưng các nước nhanh chóng nhận ra rằng họ có quan điểm rất khác biệt. Ngân sách của Nga được tính toán dựa trên mức giá dầu tương đối thấp, khoảng 42 USD/thùng. Trong khi đó, theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Saudi Arabia cần một mức giá cao hơn, khoảng 80 USD/thùng để cân đối ngân sách của mình. Theo đó, Saudi Arabia cần những đợt cắt giảm sản lượng sâu hơn nhằm cố gắng thiết lập mức giá sàn; trong khi đó Nga tuy tỏ ra không chắc chắn nhưng giả định rằng tác động của COVID-19 nhiều khả năng sẽ lớn hơn rất nhiều và sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu trên toàn thế giới, nên yêu cầu duy trì thoả thuận đã có cho đến tháng 6 và sau đó sẽ đàm phán tiếp.
Saudi Arabia khăng khăng muốn cắt giảm sản lượng, Nga thì một mực nói không. Và thế là liên minh OPEC+ rạn nứt.
Mở van
Phản ứng tức thì của Saudi Arabia đối với tình trạng rạn nứt trong liên minh là tuyên bố rằng do không đạt được thoả thuận cắt giảm sản lượng với tất cả các nước khai thác dầu mỏ khác, nên nước này sẽ hoạt động hết công suất. Quốc gia này đã bắt đầu bơm dầu với công suất tối đa, hướng tới mục tiêu tăng thêm 2,5 triệu thùng vào sản lượng 9,7 triệu thùng mà nước này đang khai thác mỗi ngày. Sản lượng tăng thêm là để bù đắp khoản thâm hụt doanh thu do giá dầu giảm. Nga phản ứng lại bằng việc tuyên bố rằng nước này cũng sẽ khai thác hết công suất, nhưng năng lực để tăng sản lượng của nước này thấp hơn nhiều, với gần 300.000 thùng/ngày. Cuộc chiến giành thị phần đã bắt đầu như vậy.
Tuy nhiên, trong khi giá cả đang lao dốc không phanh, sự bùng phát dịch COVID-19 đang chuyển sang giai đoạn hai, với sức tàn phá lớn hơn - giai đoạn đại dịch toàn cầu. Việc đóng cửa gần như toàn bộ nền kinh tế thế giới đã gây ra sự sụp đổ về nhu cầu ở phạm vi toàn cầu chưa từng thấy trong lịch sử. Vào tháng 4, mức sụt giảm có thể lên đến 20 triệu thùng/ngày hoặc nhiều hơn, tương đương với khoảng 20% tổng cầu của thế giới.
Ngay cả khi nhu cầu giảm mạnh, dầu vẫn được hút ra khỏi giếng; nếu không được chuyển đến khách hàng thì phải được đưa đi nơi khác, điều đó có nghĩa là lượng dầu dư thừa sẽ được đưa vào kho dự trữ, chủ yếu là bể chứa ở khắp thế giới. Dựa trên thông số theo từng quốc gia, IHS Markit tính toán rằng kho chứa dầu thế giới sẽ được đổ đầy vào cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Khi điều này xảy ra, sẽ có hai hậu quả: giá dầu sẽ tụt dốc và nhà sản xuất sẽ đóng cửa các giếng dầu bởi họ không thể vứt bỏ số dầu đã khai thác.
Do tính chất của các mỏ dầu ở mỗi nước nên Nga và Saudi Arabia có khả năng sản xuất dầu với chi phí rẻ hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Ở những nước có chi phí khai thác dầu đắt hơn, khi giá mỗi thùng dầu bán được thấp hơn chi phí vận hành các giếng dầu, thì một công ty không thể tiếp tục khai thác mà không chịu lỗ trên mỗi thùng dầu. Vào thời điểm đó, công ty sẽ tạm thời đóng cửa giếng dầu. Trong số đó, dầu đá phiến của Mỹ sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất.
Kết quả là nhiều khả năng Mỹ sẽ phải từ bỏ thị phần trên thị trường toàn cầu vào tay nước khác. Theo Igor Sechin, CEO của Rosneft (tập đoàn sản xuất 40% sản lượng dầu ở Nga) và là người phản đối thoả thuận OPEC+ năm 2016: “Nếu bạn từ bỏ thị phần, thì bạn sẽ không bao giờ lấy lại được”. (Đối với một số người ở Moskva, đây là điều đáng mừng, vì họ coi sự phát triển của ngành khai thác dầu đá phiến của Mỹ đồng nghĩa với việc trao cho nước này quyền tự do áp đặt các lệnh trừng phạt đối với lĩnh vực năng lượng của Nga, như những lệnh trừng phạt được đưa ra vào tháng 12/2019 đã khiến việc xây dựng đường ống dẫn dầu Dòng chảy phương Bắc 2 từ Nga sang Đức tạm ngừng ngay trước khi nó được hoàn thành).
Các doanh nghiệp sản xuất dầu đá phiến của Mỹ đang phải chịu áp lực. Những công ty này đã cắt giảm ngân sách, đồng thời giảm hoặc dừng cả việc khoan dầu. (Với dầu đá phiến, các nhà sản xuất phải khoan những giếng dầu mới để duy trì sản lượng). Theo ước tính của IHS Markit, sản lượng của Mỹ có thể giảm gần 3 triệu thùng/ngày vào cuối năm nay. Nếu điều đó xảy ra, Mỹ sẽ vẫn là một nước khai thác dầu lớn, nhưng vẫn còn kém xa Nga và Saudi Arabia và lượng nhập khẩu sẽ tăng. Theo phân tích của IHS Markit, xét đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng dầu đá phiến đối với nền kinh tế Mỹ, thiệt hại về kinh tế đối với nước này sẽ ở mức cao, tổng thiệt hại có thể lên đến 2,5 triệu việc làm.
Một thị trường bị quá tải
Liệu có cách nào để ổn định thị trường toàn cầu hay không? Việc kết thúc cuộc chiến thị phần sẽ làm giảm thặng dư nguồn cung chảy vào thị trường, giảm bớt một phần áp lực nào đó và có tác động tích cực đối với tâm lý thị trường. Đó là một trong những yếu tố để định giá. Điều này sẽ chỉ giải quyết một phần của vấn đề dư thừa nguồn cung, nhưng là một phần có vai trò quan trọng.
Điều quan trọng là cách thức đạt được sự cân bằng đó. Saudi Arabia có một nền tảng đặc biệt để thúc đẩy một giải pháp giải như thế, bởi nước này là chủ tịch của G20 trong năm nay, một diễn đàn của các nền kinh tế lớn trên thế giới nhằm giải quyết và tìm ra phương sách giải quyết các vấn đề kinh tế quốc tế. Trong cuộc khủng hoảng 2008-2009, G20 có chức năng như một ban giám đốc điều hành nền kinh tế thế giới. Nhưng đó là một kỷ nguyên mang tính hợp tác nhiều hơn.
Mỹ có những hạn chế nhất định trong khả năng hành động. Hiện nay, các thành viên quốc hội nước này, những người thường ủng hộ các thoả thuận vũ khí với Riyadh, muốn gắn toàn bộ mối quan hệ Mỹ-Saudi Arabia với chính sách dầu lửa quốc tế: 13 Thượng nghị sỹ đảng Cộng hoà của các bang sản xuất dầu đã viết thư cho Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman bày tỏ sự bất bình đối với cái mà họ gọi là chính sách của Saudi Arabia nhằm “giảm giá dầu thô và tăng năng suất khai thác”; 6 nghị sỹ trong số đó, bao gồm chủ tịch Ủy ban quân lực Thượng viện, sau đó đã đưa ra một lá thư thẳng thắn hơn, cho rằng quan hệ quốc phòng Mỹ-Saudi Arabia sẽ khó có thể duy trì nếu trình trạng hỗn loạn và khó khăn trên chủ ý nhắm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trực tiếp nhắc đến cơ hội duy nhất để Saudi Arabia “xoa dịu các thị trường năng lượng và tài chính toàn cầu”.
Trong nội bộ nước Mỹ, chính phủ chỉ có một bộ công cụ hạn chế. Không giống với Riyadh và Moskva, Washington không thể áp đặt hạn mức sản xuất đối với các công ty khai thác dầu. Nước này cũng không thể lựa chọn đưa gần 700.000 thùng dầu mỗi ngày vào kho dự trữ xăng dầu chiến lược, đồng thời Mỹ sẽ cần quốc hội phê chuẩn để cấp ngân sách cho việc đó. Gói kích thích kinh tế trị giá 2.000 tỷ USD được đưa ra mới đây không bao gồm khoản ngân sách 3 tỷ USD cần chi cho việc này. (Nhiều khả năng, 3 tỷ USD đó sẽ là một khoản đầu tư rất tốt cho chính phủ, có khả năng nhân đôi giá trị khi giá dầu phục hồi trong vài năm tới).
Thẩm quyền điều tiết sản lượng dầu thuộc về các bang, đáng chú ý nhất là Ủy ban Đường sắt Texas, mặc dù có tên như vậy nhưng cơ quan này lại kiểm soát sản lượng dầu của bang - chiếm 40% tổng sản lượng của nước Mỹ. Ủy ban này có thẩm quyền cắt giảm sản lượng khai thác từ các giếng dầu căn cứ vào lý do phòng chống lãng phí, nhưng lần gần đây nhất cơ quan này sử dụng thẩm quyền đó là cách đây nửa thế kỷ. Hiện nay, bất kỳ một nỗ lực nào cho cái gọi là “phân bổ sản lượng theo tỷ lệ” có thể sẽ được một số doanh nghiệp ủng hộ trong khi những doanh nghiệp khác lại phản đối. Bên ngoài nước Mỹ, điều đó sẽ được hiểu là một tín hiệu rằng các nước khác cũng nên thực hiện việc cắt giảm sản lượng.
Trong bối cảnh phần lớn nền kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn, cuộc khủng hoảng dầu mỏ sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những tuần tới, đồng thời, người ta sẽ cảm nhận được thiệt hại không chỉ trong ngành công nghiệp này. Khi giá giảm và các kho dự trữ đầy lên, hoạt động sản xuất trên thế giới sẽ sụt giảm nghiêm trọng. Một phần có lẽ là hậu quả của dịch COVID-19 và tình trạng gián đoạn hoạt động sản xuất ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Một phần là do quyết định của các nước, bất chấp việc chúng ta đang sống trong một nền chính trị thế giới đầy hỗn loạn. Tuy nhiên, phần lớn sự sụt giảm là do một thị trường chịu tổn thất nặng nề do dịch COVID-19 và tình trạng đóng cửa của nền kinh tế thế giới.
Daniel Yergin là phó chủ tịch của IHS Markit. Bài viết được đăng trên tạp chí Foreign Affairs
0
Nền công nghiệp dầu khí, cung cấp hơn 60% năng lượng cho toàn thế giới, đã chìm trong một cuộc khủng hoảng kép mà có lẽ chưa ai từng nghĩ có thể xảy ra vào đầu năm nay. Một cuộc chiến giá cả, trong đó các quốc gia sản xuất dầu mỏ tranh giành thị phần, đã dẫn đến việc thị trường này bị tổn hại nặng nề khi vấp phải một cuộc khủng hoảng lớn hơn do dịch COVID-19 gây ra và sắp tới nhiều khả năng sẽ là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Điều đó sẽ dẫn tới nhu cầu của thị trường giảm mạnh chưa từng thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào kể từ khi dầu mỏ trở thành mặt hàng toàn cầu. Giá dầu đã giảm 2/3 kể từ đầu năm 2020 và sẽ còn tiếp tục lao dốc. Chỉ trong tháng 4, mức giảm tiêu thụ của toàn cầu gấp 7 lần so với mức giảm sâu nhất tính theo quý sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Ở những khu vực không còn khả năng chứa dầu và mất thị trường, giá của một thùng dầu có thể giảm xuống mức bằng 0.
Sự sụp đổ này sẽ gây ra tình trạng bất ổn ở những nước xuất khẩu dầu và góp phần dẫn đến sự hỗn loạn của các thị trường tài chính. Điều đó cũng sẽ khiến môi trường địa chính trị vốn đã căng thẳng phức tạp thêm, kể cả bằng cách lôi kéo nước Mỹ vào một cuộc tranh cãi quốc tế về các giải pháp cần thực hiện để phục hồi đống đổ nát này. Tháng 2/2020, sản lượng dầu của Mỹ đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, với 13,2 triệu thùng/ngày - cao hơn đáng kể so với sản lượng của các nước sản xuất dầu mỏ hàng đầu khác trên thế giới là Saudi Arabia và Nga. Nhờ cuộc cách mạng dầu khí đá phiến với sự hỗ trợ của các kỹ thuật khai thác mới, nước Mỹ đã đạt được kỷ lục đó sau một thập kỷ đi lên từ một nước nhập khẩu dầu lớn nhất trở thành một nước xuất khẩu dầu lớn thế giới.
Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng đã bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt đó. Mặc dù từ lâu ông Trump ủng hộ giá dầu ở mức thấp - và từng nhanh chóng đăng dòng tweet phản đối Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và những nỗ lực quản lý nguồn cung toàn cầu trong những năm gần đây - nhưng cú sụp đổ lần này lại châm ngòi cho một thực tế trái ngược. Tổng thống Mỹ gần đây đã có cuộc điện đàm với người đồng cấp Nga Vladimir Putin để thảo luận về các giải pháp có thể có nhằm ngăn chặn cái mà sau đó ông gọi là sự sụt giảm gây tổn hại. Sau đó, ông Trump đã điện đàm với Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman, tuyên bố rằng các nước sản xuất dầu mỏ lớn đang xem xét phối hợp cùng nhau cắt giảm đáng kể sản lượng. Saudi Arabia đã triển khai những vấn đề được thống nhất trong cuộc điện đàm trên bằng việc tái triệu tập một cuộc họp của OPEC cùng với các nước chủ chốt trong lĩnh vực dầu mỏ, gồm Canada và Mexico. Tất cả những điều này đã làm cho giá dầu tăng trở lại mặc dù những yếu tố “khi nào”, “như thế nào” và “do ai” của thoả thuận tiềm năng trên vẫn còn chưa rõ ràng. Và càng nhiều đối tượng tham gia thì việc triển khai một thoả thuận sẽ càng trở nên khó khăn hơn.
Bản chất và phạm vi rộng lớn của sự sụp đổ và cuộc tranh giành địa chính trị hiện nay do nó tạo ra là những thách thức hiếm thấy đối với nước Mỹ và ngành năng lượng của nước này. Những thách thức này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế và chính sách đối ngoại của Mỹ trong một thời khắc vốn đã tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ.
Hồi kết của một trật tự mới trong ngành dầu mỏ
Cũng giống như rất nhiều ngành công nghiệp khác, tình trạng khó khăn trong các thị trường dầu mỏ là do đại dịch COVID-19 gây ra. Nhưng riêng trường hợp dầu mỏ, tình trạng khó khăn đó xuất hiện cùng với bước ngoặt về địa chính trị.
Đợt sụt giảm giá dầu gần đây nhất, bắt đầu từ năm 2014 do hậu quả của một đợt dư thừa nguồn cung, cuối cùng cũng đã kết thúc vào năm 2016 với sự xuất hiện của một trật tự dầu lửa quốc tế mới – Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ mở rộng (OPEC+). Đây là một thoả thuận giữa 11 thành viên OPEC và 10 nước không thuộc OPEC nhằm thống nhất về việc cắt giảm sản lượng để ổn định một thị trường đang trên đà sụt giảm. Đôi khi người ta gọi đó là Liên minh Vienna bởi đây là địa danh ký kết thoả thuận này, OPEC+ được thiết lập dựa vào liên minh không chính thức giữa Saudi Arabia và Nga sau khi 2 nước sản xuất dầu lớn nhất vào thời điểm đó đạt được thoả thuận hợp tác. Việc liên minh trên được thành lập cũng đã mở đường cho một mối quan hệ chiến lược, đem lại cho Nga cơ hội xây dựng quan hệ với một trong những đồng minh quan trọng nhất của Mỹ ở Trung Đông và cũng để Nga thu hút đầu tư từ Saudi Arabia. Đối với Saudi Arabia, đó là một con đường để mặc cả trong mối quan hệ với Mỹ và đạt được lợi thế đòn bẩy nào đó trong cuộc giằng co với Iran.
Tuy nhiên, giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng COVID-19, đợt bùng phát ở Trung Quốc trong tháng 1 và tháng 2 vừa qua, đã làm lung lay mối liên minh không chính thức trên. Trung Quốc, thị trường dầu mỏ tăng trưởng nhanh nhất thế giới đột nhiên bị đóng cửa. Thay vì tăng trưởng như kỳ vọng, nhu cầu dầu mỏ của thế giới đã lao dốc chưa từng thấy với mức giảm 6 triệu thùng/ngày trong quý I/2020.
Đầu tháng 3 vừa qua, trong và xung quanh các hội nghị của OPEC và OPEC+ ở Vienna, Saudi Arabia và Nga đã bắt đầu các cuộc thảo luận về cách ứng phó. Nhưng các nước nhanh chóng nhận ra rằng họ có quan điểm rất khác biệt. Ngân sách của Nga được tính toán dựa trên mức giá dầu tương đối thấp, khoảng 42 USD/thùng. Trong khi đó, theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Saudi Arabia cần một mức giá cao hơn, khoảng 80 USD/thùng để cân đối ngân sách của mình. Theo đó, Saudi Arabia cần những đợt cắt giảm sản lượng sâu hơn nhằm cố gắng thiết lập mức giá sàn; trong khi đó Nga tuy tỏ ra không chắc chắn nhưng giả định rằng tác động của COVID-19 nhiều khả năng sẽ lớn hơn rất nhiều và sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu trên toàn thế giới, nên yêu cầu duy trì thoả thuận đã có cho đến tháng 6 và sau đó sẽ đàm phán tiếp.
Saudi Arabia khăng khăng muốn cắt giảm sản lượng, Nga thì một mực nói không. Và thế là liên minh OPEC+ rạn nứt.
Mở van
Phản ứng tức thì của Saudi Arabia đối với tình trạng rạn nứt trong liên minh là tuyên bố rằng do không đạt được thoả thuận cắt giảm sản lượng với tất cả các nước khai thác dầu mỏ khác, nên nước này sẽ hoạt động hết công suất. Quốc gia này đã bắt đầu bơm dầu với công suất tối đa, hướng tới mục tiêu tăng thêm 2,5 triệu thùng vào sản lượng 9,7 triệu thùng mà nước này đang khai thác mỗi ngày. Sản lượng tăng thêm là để bù đắp khoản thâm hụt doanh thu do giá dầu giảm. Nga phản ứng lại bằng việc tuyên bố rằng nước này cũng sẽ khai thác hết công suất, nhưng năng lực để tăng sản lượng của nước này thấp hơn nhiều, với gần 300.000 thùng/ngày. Cuộc chiến giành thị phần đã bắt đầu như vậy.
Tuy nhiên, trong khi giá cả đang lao dốc không phanh, sự bùng phát dịch COVID-19 đang chuyển sang giai đoạn hai, với sức tàn phá lớn hơn - giai đoạn đại dịch toàn cầu. Việc đóng cửa gần như toàn bộ nền kinh tế thế giới đã gây ra sự sụp đổ về nhu cầu ở phạm vi toàn cầu chưa từng thấy trong lịch sử. Vào tháng 4, mức sụt giảm có thể lên đến 20 triệu thùng/ngày hoặc nhiều hơn, tương đương với khoảng 20% tổng cầu của thế giới.
Ngay cả khi nhu cầu giảm mạnh, dầu vẫn được hút ra khỏi giếng; nếu không được chuyển đến khách hàng thì phải được đưa đi nơi khác, điều đó có nghĩa là lượng dầu dư thừa sẽ được đưa vào kho dự trữ, chủ yếu là bể chứa ở khắp thế giới. Dựa trên thông số theo từng quốc gia, IHS Markit tính toán rằng kho chứa dầu thế giới sẽ được đổ đầy vào cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Khi điều này xảy ra, sẽ có hai hậu quả: giá dầu sẽ tụt dốc và nhà sản xuất sẽ đóng cửa các giếng dầu bởi họ không thể vứt bỏ số dầu đã khai thác.
Do tính chất của các mỏ dầu ở mỗi nước nên Nga và Saudi Arabia có khả năng sản xuất dầu với chi phí rẻ hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Ở những nước có chi phí khai thác dầu đắt hơn, khi giá mỗi thùng dầu bán được thấp hơn chi phí vận hành các giếng dầu, thì một công ty không thể tiếp tục khai thác mà không chịu lỗ trên mỗi thùng dầu. Vào thời điểm đó, công ty sẽ tạm thời đóng cửa giếng dầu. Trong số đó, dầu đá phiến của Mỹ sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất.
Kết quả là nhiều khả năng Mỹ sẽ phải từ bỏ thị phần trên thị trường toàn cầu vào tay nước khác. Theo Igor Sechin, CEO của Rosneft (tập đoàn sản xuất 40% sản lượng dầu ở Nga) và là người phản đối thoả thuận OPEC+ năm 2016: “Nếu bạn từ bỏ thị phần, thì bạn sẽ không bao giờ lấy lại được”. (Đối với một số người ở Moskva, đây là điều đáng mừng, vì họ coi sự phát triển của ngành khai thác dầu đá phiến của Mỹ đồng nghĩa với việc trao cho nước này quyền tự do áp đặt các lệnh trừng phạt đối với lĩnh vực năng lượng của Nga, như những lệnh trừng phạt được đưa ra vào tháng 12/2019 đã khiến việc xây dựng đường ống dẫn dầu Dòng chảy phương Bắc 2 từ Nga sang Đức tạm ngừng ngay trước khi nó được hoàn thành).
Các doanh nghiệp sản xuất dầu đá phiến của Mỹ đang phải chịu áp lực. Những công ty này đã cắt giảm ngân sách, đồng thời giảm hoặc dừng cả việc khoan dầu. (Với dầu đá phiến, các nhà sản xuất phải khoan những giếng dầu mới để duy trì sản lượng). Theo ước tính của IHS Markit, sản lượng của Mỹ có thể giảm gần 3 triệu thùng/ngày vào cuối năm nay. Nếu điều đó xảy ra, Mỹ sẽ vẫn là một nước khai thác dầu lớn, nhưng vẫn còn kém xa Nga và Saudi Arabia và lượng nhập khẩu sẽ tăng. Theo phân tích của IHS Markit, xét đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng dầu đá phiến đối với nền kinh tế Mỹ, thiệt hại về kinh tế đối với nước này sẽ ở mức cao, tổng thiệt hại có thể lên đến 2,5 triệu việc làm.
Một thị trường bị quá tải
Liệu có cách nào để ổn định thị trường toàn cầu hay không? Việc kết thúc cuộc chiến thị phần sẽ làm giảm thặng dư nguồn cung chảy vào thị trường, giảm bớt một phần áp lực nào đó và có tác động tích cực đối với tâm lý thị trường. Đó là một trong những yếu tố để định giá. Điều này sẽ chỉ giải quyết một phần của vấn đề dư thừa nguồn cung, nhưng là một phần có vai trò quan trọng.
Điều quan trọng là cách thức đạt được sự cân bằng đó. Saudi Arabia có một nền tảng đặc biệt để thúc đẩy một giải pháp giải như thế, bởi nước này là chủ tịch của G20 trong năm nay, một diễn đàn của các nền kinh tế lớn trên thế giới nhằm giải quyết và tìm ra phương sách giải quyết các vấn đề kinh tế quốc tế. Trong cuộc khủng hoảng 2008-2009, G20 có chức năng như một ban giám đốc điều hành nền kinh tế thế giới. Nhưng đó là một kỷ nguyên mang tính hợp tác nhiều hơn.
Mỹ có những hạn chế nhất định trong khả năng hành động. Hiện nay, các thành viên quốc hội nước này, những người thường ủng hộ các thoả thuận vũ khí với Riyadh, muốn gắn toàn bộ mối quan hệ Mỹ-Saudi Arabia với chính sách dầu lửa quốc tế: 13 Thượng nghị sỹ đảng Cộng hoà của các bang sản xuất dầu đã viết thư cho Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman bày tỏ sự bất bình đối với cái mà họ gọi là chính sách của Saudi Arabia nhằm “giảm giá dầu thô và tăng năng suất khai thác”; 6 nghị sỹ trong số đó, bao gồm chủ tịch Ủy ban quân lực Thượng viện, sau đó đã đưa ra một lá thư thẳng thắn hơn, cho rằng quan hệ quốc phòng Mỹ-Saudi Arabia sẽ khó có thể duy trì nếu trình trạng hỗn loạn và khó khăn trên chủ ý nhắm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trực tiếp nhắc đến cơ hội duy nhất để Saudi Arabia “xoa dịu các thị trường năng lượng và tài chính toàn cầu”.
Trong nội bộ nước Mỹ, chính phủ chỉ có một bộ công cụ hạn chế. Không giống với Riyadh và Moskva, Washington không thể áp đặt hạn mức sản xuất đối với các công ty khai thác dầu. Nước này cũng không thể lựa chọn đưa gần 700.000 thùng dầu mỗi ngày vào kho dự trữ xăng dầu chiến lược, đồng thời Mỹ sẽ cần quốc hội phê chuẩn để cấp ngân sách cho việc đó. Gói kích thích kinh tế trị giá 2.000 tỷ USD được đưa ra mới đây không bao gồm khoản ngân sách 3 tỷ USD cần chi cho việc này. (Nhiều khả năng, 3 tỷ USD đó sẽ là một khoản đầu tư rất tốt cho chính phủ, có khả năng nhân đôi giá trị khi giá dầu phục hồi trong vài năm tới).
Thẩm quyền điều tiết sản lượng dầu thuộc về các bang, đáng chú ý nhất là Ủy ban Đường sắt Texas, mặc dù có tên như vậy nhưng cơ quan này lại kiểm soát sản lượng dầu của bang - chiếm 40% tổng sản lượng của nước Mỹ. Ủy ban này có thẩm quyền cắt giảm sản lượng khai thác từ các giếng dầu căn cứ vào lý do phòng chống lãng phí, nhưng lần gần đây nhất cơ quan này sử dụng thẩm quyền đó là cách đây nửa thế kỷ. Hiện nay, bất kỳ một nỗ lực nào cho cái gọi là “phân bổ sản lượng theo tỷ lệ” có thể sẽ được một số doanh nghiệp ủng hộ trong khi những doanh nghiệp khác lại phản đối. Bên ngoài nước Mỹ, điều đó sẽ được hiểu là một tín hiệu rằng các nước khác cũng nên thực hiện việc cắt giảm sản lượng.
Trong bối cảnh phần lớn nền kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn, cuộc khủng hoảng dầu mỏ sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những tuần tới, đồng thời, người ta sẽ cảm nhận được thiệt hại không chỉ trong ngành công nghiệp này. Khi giá giảm và các kho dự trữ đầy lên, hoạt động sản xuất trên thế giới sẽ sụt giảm nghiêm trọng. Một phần có lẽ là hậu quả của dịch COVID-19 và tình trạng gián đoạn hoạt động sản xuất ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Một phần là do quyết định của các nước, bất chấp việc chúng ta đang sống trong một nền chính trị thế giới đầy hỗn loạn. Tuy nhiên, phần lớn sự sụt giảm là do một thị trường chịu tổn thất nặng nề do dịch COVID-19 và tình trạng đóng cửa của nền kinh tế thế giới.
Daniel Yergin là phó chủ tịch của IHS Markit. Bài viết được đăng trên tạp chí Foreign Affairs
Đăng trong:
Dầu mỏ,
Kinh tế,
Năng lượng,
Thời sự quốc tế,
Tin kinh tế
Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2020
Dự trữ ngoại hối đã lên hơn 84 tỷ USD
Đây là thông tin vừa được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đưa ra tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương diễn ra sáng nay (10/4).
Thống đốc cho biết, trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để duy trì ổn định vĩ mô, trong đó tập trung vào kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và đảm bảo thanh khoản của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như các bộ, ngành liên quan, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ cũng như các Bộ ngành, giá một số mặt hàng thiết yếu, lạm phát đã có xu hướng giảm. Theo đánh giá, năm nay, có khả năng kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu của Chính phủ đã đề ra.
Về tỷ giá, người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian qua, đã chuẩn bị các kịch bản khác nhau để ứng phó với các tác động quốc tế cũng như diễn biến trong nước.
Trong 3 tháng đầu năm, tỷ giá và thị trường ngoại tệ diễn biến ổn định, tỷ giá đồng Việt Nam biến động trong biên độ khoảng 1,3 – 1,5%; có thể nói là ổn định so với sự biến động rất mạnh của tỷ giá các đồng tiền một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thị trường ngoại hối của Việt Nam hoạt động thanh khoản được đảm bảo, tất cả các nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế đều được đáp ứng.
“Ngành ngân hàng cũng như Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có đủ năng lực và công cụ để kiểm soát và giữ ổn định thị trường ngoại tệ, giữ ổn định được tỷ giá để đảm bảo củng cố được niềm tin của thị trường và các nhà đầu tư. Chúng tôi cũng sẵn sàng các phương án can thiệp vào thị trường ngoại tệ khi cần thiết liên quan đến các diễn biến bất lợi.
Từ đầu năm đến nay, chúng ta chưa phải can thiệp ngoại tệ vào thị trường. Với nguồn lực dữ trữ ngoại hối của Việt Nam hiện nay là trên 84 tỷ USD, chúng ta hoàn toàn có đủ nguồn lực để đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô”, Thống đốc khẳng định.
Như vậy, so với cuối năm 2019, Việt Nam đã mua vào thêm hơn 5 tỷ USD.
Cũng theo Thống đốc, có thể nói, các mục tiêu đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá trong những năm qua là yếu tố hết sức then chốt để tăng sức chống chịu của nền kinh tế.
Các chuyên gia nước ngoài cũng như đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, nếu không có sự ổn định vĩ mô duy trì được trong những năm vừa qua thì tác động của dịch bệnh lên nền kinh tế Việt Nam sẽ còn nghiêm trọng hơn.
Việc chúng ta tập trung kiểm soát tốt lạm phát thời gian vừa qua cũng đã góp phần rất quan trọng để giảm thiểu tác động tiêu cực đến đời sống của người dân. Đây cũng là nền tảng quan trọng và then chốt, là cơ sở để tạo điều kiện cho nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ hơn sau dịch.
Trong thời gian tới, Thống đốc cho biết, ngành ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước sẽ tập trung các nỗ lực để điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt hơn nữa để đạt được mục tiêu đã đề ra, trong đó củng cố các nền tảng vĩ mô, tạo điều kiện tiếp tục các giải pháp phục hồi sau dịch bệnh.
0
Thống đốc cho biết, trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để duy trì ổn định vĩ mô, trong đó tập trung vào kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và đảm bảo thanh khoản của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như các bộ, ngành liên quan, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ cũng như các Bộ ngành, giá một số mặt hàng thiết yếu, lạm phát đã có xu hướng giảm. Theo đánh giá, năm nay, có khả năng kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu của Chính phủ đã đề ra.
Về tỷ giá, người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian qua, đã chuẩn bị các kịch bản khác nhau để ứng phó với các tác động quốc tế cũng như diễn biến trong nước.
Trong 3 tháng đầu năm, tỷ giá và thị trường ngoại tệ diễn biến ổn định, tỷ giá đồng Việt Nam biến động trong biên độ khoảng 1,3 – 1,5%; có thể nói là ổn định so với sự biến động rất mạnh của tỷ giá các đồng tiền một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thị trường ngoại hối của Việt Nam hoạt động thanh khoản được đảm bảo, tất cả các nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế đều được đáp ứng.
“Ngành ngân hàng cũng như Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có đủ năng lực và công cụ để kiểm soát và giữ ổn định thị trường ngoại tệ, giữ ổn định được tỷ giá để đảm bảo củng cố được niềm tin của thị trường và các nhà đầu tư. Chúng tôi cũng sẵn sàng các phương án can thiệp vào thị trường ngoại tệ khi cần thiết liên quan đến các diễn biến bất lợi.
Từ đầu năm đến nay, chúng ta chưa phải can thiệp ngoại tệ vào thị trường. Với nguồn lực dữ trữ ngoại hối của Việt Nam hiện nay là trên 84 tỷ USD, chúng ta hoàn toàn có đủ nguồn lực để đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô”, Thống đốc khẳng định.
Như vậy, so với cuối năm 2019, Việt Nam đã mua vào thêm hơn 5 tỷ USD.
Cũng theo Thống đốc, có thể nói, các mục tiêu đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá trong những năm qua là yếu tố hết sức then chốt để tăng sức chống chịu của nền kinh tế.
Các chuyên gia nước ngoài cũng như đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, nếu không có sự ổn định vĩ mô duy trì được trong những năm vừa qua thì tác động của dịch bệnh lên nền kinh tế Việt Nam sẽ còn nghiêm trọng hơn.
Việc chúng ta tập trung kiểm soát tốt lạm phát thời gian vừa qua cũng đã góp phần rất quan trọng để giảm thiểu tác động tiêu cực đến đời sống của người dân. Đây cũng là nền tảng quan trọng và then chốt, là cơ sở để tạo điều kiện cho nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ hơn sau dịch.
Trong thời gian tới, Thống đốc cho biết, ngành ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước sẽ tập trung các nỗ lực để điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt hơn nữa để đạt được mục tiêu đã đề ra, trong đó củng cố các nền tảng vĩ mô, tạo điều kiện tiếp tục các giải pháp phục hồi sau dịch bệnh.
Thứ Ba, 6 tháng 8, 2019
Ông Trần Ngọc Hà bị bắt, nhà máy ôtô VEAM hoành tráng ngập trong thua lỗ
Từ một nhà máy hiện đại, được kỳ vọng sẽ tạo ra những sản phẩm chất lượng, không chỉ đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu, nhưng vì đâu mà đến nay VEAM đang ngập trong thua lỗ và khó khăn?
Vào năm 2000, Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM) dự định đầu tư 1 nhà máy sản xuất, lắp ráp ô tô tại Thanh Hoá, với số vốn khoảng 350 tỷ đồng. Tuy nhiên, dự án này sau đó điều chỉnh lại bằng việc mua nguyên một nhà máy cũ của Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc).
0
Vào năm 2000, Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM) dự định đầu tư 1 nhà máy sản xuất, lắp ráp ô tô tại Thanh Hoá, với số vốn khoảng 350 tỷ đồng. Tuy nhiên, dự án này sau đó điều chỉnh lại bằng việc mua nguyên một nhà máy cũ của Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc).
Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2019
Mêkông : Mối nguy từ các đập thủy điện ở thượng nguồn
Trải dài hơn 4.800 km, sông Mêkông có hệ đa dạng sinh thái nước ngọt lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau hệ sinh thái Amazone, với 1.300 loài cá.
Tại Đông Nam Á, có 70 triệu người, thuộc hơn 100 nhóm sắc tộc sống ở lưu vực sông Mêkông, trong đó có 85% kiếm sống trực tiếp từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên của sông Mêkông. Nói cách khác, sông Mêkông giữ vai trò sống còn đối với 60 triệu người trong khu vực.
Tuy nhiên, hiện giờ, tương lai của hạ nguồn sông Mêkông, đoạn chảy qua các nước Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Cam Bốt và Việt Nam, đang nằm trong tay các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Hãng tin Anh Reuters ngày 24/07/2019 trích dẫn chuyên gia Premrudee Deoruong của tổ chức bảo vệ môi trường Laos Dam Investment Monitor tại Lào, theo đó « hiện giờ, Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn dòng sông » và « từ nay, có một mối lo ngại là dòng sông sẽ bị các nhà khai thác đập thủy điện kiểm soát ».
Mực nước sông Mêkông thấp kỷ lục tại Thái Lan
Hiện giờ đang là giữa mùa mưa tại Thái Lan, nhưng mực nước sông Mêkông đoạn chảy qua Thái Lan lại ở mức thấp chưa từng có tính từ một thế kỷ qua. Tại tỉnh Nakhon Phanom, Thái Lan, mực nước sông Mêkông xuống chỉ còn 1.5m, mức thấp nhất trong suốt 100 năm qua, so với mực nước 12m cùng kỳ năm ngoái và mức trung bình 8m hàng năm. Còn ở Nong Khai, mực nước này là 80cm, so với mức 1,5 m của năm 2018.
Một ngư dân làng chài gần 60 năm qua trên sông Mêkông cho Reuters biết là những gì ông chứng kiến năm nay chưa bao giờ xảy ra trong quá khứ. Các ngư dân giờ đây chỉ đánh được cá nhỏ, bởi vì mực nước xuống thấp như vậy thì không thể có cá to.
Theo Cơ quan quốc gia về nguồn tài nguyên nước, mực nước ở 18 hồ chứa nước cung cấp cho các cánh đồng lúa nước ở miền trung và miền đông Thái Lan chỉ đạt 30%, không đảm bảo đủ lượng nước cho hoạt động trồng lúa nước. Trongn khi cách nay một năm, vào tháng 08/2018, 11 trong số những hồ nước trên đã tích đầy nước.
Đúng là mực nước sông Mêkông và các hồ chứa nước xuống thấp như vậy là do mưa ít, hạn hán nghiêm trọng nhất trong suốt thập kỷ gần đây. Theo trạm thủy văn tỉnh Nakhon Phanom, lượng nước mưa trung bình năm 2019 chỉ đạt 90mm/m3 so với mức 300mm/m3 hồi năm 2018.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khoa học và cư dân trong vùng lo ngại là đợt hạn hán này đặc biệt nghiêm trọng hơn, do các đập thủy điện ở thượng nguồn tạo ra những biến đổi lớn không thể đảo ngược trên dòng sông vốn là nguồn cung cấp nước cho một trong những khu vực trồng lúa nước lớn nhất Đông Nam Á.
Mối nguy từ các đập thủy điện Trung Quốc và Lào
Hiện tại, trên sông Lan Thương (đoạn Mêkông chảy qua Trung Quốc), Trung Quốc đã có 11 đập thủy điện, với tổng sản lượng điện 21.300 megawatt. Không chỉ có vậy, Trung Quốc còn đang lên kế hoạch xây thêm 8 đập ở lưu vực sông, cả ở dòng chính và trên các nhánh phụ. Trung tâm Stimson, trụ sở tại Washington, ước tính những đập này có thể tạo thêm 6.000 megawatt điện cho Trung Quốc.
Các đập thủy điện tại Lào nhiều, nhưng có quy mô nhỏ hơn so với Trung Quốc : 64 đập hiện mang lại sản lượng chưa tới 6.000 megawatt điện, nhưng 63 đập khác đang được xây dựng hoặc được lên kế hoạch xây dựng. Với tham vọng trở thành nguồn cung cấp năng lượng tại châu Á, Lào còn đề xuất xây thêm hơn 300 đập. Kế hoạch này có thể khiến sản lượng điện từ các nhà máy thủy điện của Lào trên sông Mêkông vượt Trung Quốc.
Hồi đầu tháng 07, cơ quan khai thác đập thủy điện Cảnh Hồng của Trung Quốc thông báo giảm xả ½ lượng nước để phục vụ công tác bảo trì trên đoạn sông Mêkông trên lãnh thổ Trung Quốc .
Một nguyên nhân khác là đập thủy điện Xayabury, do một công ty Thái Lan xây dựng tại Lào để cấp điện cho Thái Lan, đã bắt đầu được thử nghiệm từ ngày 15/07.
Vì thiếu nước tưới, chính quyền Thái Lan đã phải yêu cầu nông dân ngưng trồng thêm lúa. Bộ Ngoại Giáo Thái Lan cho Reuters biết họ đã mời đại sứ Trung Quốc tại Thái Lan đến thảo luận về các biện pháp khắc phục khủng hoảng nước trên sông Mêkông do biến đổi khí hậu và hạn hán. Thái Lan cũng đã kêu gọi Lào mở đập Xayaburi xả nước xuống hạ lưu sông Mêkông. Bộ Ngoại Giao Thái Lan sau đó thông báo Trung Quốc và Lào đã xả nước từ các đập thủy điện và mực nước sông Mêkông tại tỉnh Nakhon Phanom đã dâng lên.
Tuy nhiên, trước đó đại sứ quán Trung Quốc không hồi đáp đề nghị bình luận về tình trạng hạn hán. Còn các chuyên gia môi trường cho rằng tình trạng thiếu nước bất thường như vậy là dấu hiệu đáng ngại cho tương lai của sông Mêkông và hệ động thực vật gắn với dòng sông này.
Trang mạng của cộng đồng người Pháp và người nói tiếng Pháp Le petit journal tại Thái Lan hôm nay cho biết các nhà đấu tranh vì môi trường sinh thái hôm thứ Sáu 26/07 đã đệ đơn kiến nghị lên Tòa hành chính tối cao đề nghị chính phủ Thái Lan đình chỉ các dự án mua điện được sản xuất từ đập thủy điện Xayabury tại Lào. Theo dự kiến, đập này sẽ chính thức đi vào hoạt động vào tháng 10/2019 với sản lượng điện 1.220 megawatt.
Nỗi lo của ngư dân
Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên WWF cảnh báo khả năng di cư của các loài cá bị xáo trộn, vì các đập thủy điện tác động lên chu kỳ tự nhiên của dòng chảy. Vì thế, WWF kêu gọi hoãn khai thác đập Xayabury cho đến khi có kết quả nghiên cứu mới về tác động của đập này.
Pianporn Deetes giám đốc chiến dịch tại Thái Lan của tổ chức Sông Ngòi Quốc Tế International Rivers than phiền là người ta chỉ quan tâm đến việc khai thác sông Mêkông vì mục đích làm thủy điện, còn cuộc sống và quyền lợi của những người khác sống phụ thuộc vào sông Mêkông đã bị gạt ra ngoài lề.
Theo chuyên gia này, chính tuyên bố của Trung Quốc là các đập thủy điện có thể giúp điều chỉnh mực nước sông Mêkông ở hạ nguồn theo hướng cung cấp thêm nước trong mùa khô và đến mùa mưa thì giữ nước lại đã gây lo ngại về việc con người đang can thiệp vào chu kỳ tự nhiên của sông Mêkông. Việc cố gắng tác động vào dòng chảy của sông qua việc xả nước đập thủy điện có thể tạo ra những thay đổi khó lường.
Hồi tháng 05/2019, tạp chí khoa học Nature trích dẫn kết quả một công trình nghiên cứu của thế giới về tác hại của thủy điện đối với sông ngòi, theo đó tình trạng trên sông Mêkông là đặc biệt nghiêm trọng. Giáo sư Bernhard Lehner, thuộc đại học Canada McGill, cho AFP biết là tính trung bình, ngư dân hàng năm đánh bắt được hơn 1 triệu tấn cá nước ngọt từ sông Mêkông, nhưng hiện giờ có quá nhiều đập thủy điện dự kiến được xây dựng và điều này sẽ rất có thể tác động tiêu cực tới sự sinh sôi phát triển của rất nhiều loài cá.
Hiện nay, ở hạ nguồn sông Mêkông, do không còn nhiều cá to, nhiều ngư dân đã buộc phải dùng những loại lưới có mắt lưới nhỏ hơn để đánh bắt cá nhỏ. Dù không còn thu được nhiều cá như trước đây, nhưng các ngư dân không còn lựa chọn nào khác, vì họ không có nghề nào khác và cũng không có đất để trồng trọt. Họ sống phụ thuộc hoàn toàn vào dòng sông. Mà dòng chảy tự nhiên của sông Mêkông thì nay đang bị tác động ngay chính từ thượng nguồn, đặc biệt là các đập thủy điện khổng lồ của Trung Quốc.
Theo RFI
Thứ Ba, 30 tháng 7, 2019
Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019
Asanzo khởi kiện báo Tuổi Trẻ ra tòa, yêu cầu bồi thường
Cho rằng báo Tuổi Trẻ xuyên tạc sai sự thật, gây thiệt hại nặng nề, công ty Asanzo đã khởi kiện ra tòa, yêu cầu bồi thường thiệt hại.
0
Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019
Asanzo đang khởi kiện doanh nghiệp giả mạo thương hiệu
VTC1 | Công an TP HCM (PC03) xác nhận cơ quan này đã có quyết định khởi tố vụ án "buôn lậu" đối với Công ty TNHH sản xuất thương mại Sa Huỳnh nhập hàng Trung Quốc nhưng sau đó dán nhãn mác Asanzo
Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019
Ảo tưởng xây đường sắt cao tốc Bắc-Nam
Số phận đường sắt Bắc – Nam nói riêng, cùng với số phận đất nước nói chung, cũng chạy vòng quanh theo tư vấn nếu người quyết định không có tầm nhìn.
LTS: Tuần Việt Nam mở Diễn đàn "Vì Việt Nam hùng cường" với mong muốn thu nhận từ quý độc giả những ý kiến, bài viết về các giải pháp phát triển đất nước trong tất cả các lĩnh vực nhằm khơi thông tiềm năng phát triển, cổ vũ niềm tin của cộng đồng vào tương lai Việt Nam.
Chủ đề đầu tiên của Diễn đàn tập trung vào thể chế kinh tế. Mời quý vị cùng theo dõi.
(Sau khi giới thiệu các bài viết liên quan đến dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam, Diễn đàn nhận được nhiều ý kiến cùng chủ đề. Xin giới thiệu thêm ý kiến sau như là góp ý cho dự án đặc biệt này).
Sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra con số 26 tỷ USD cho đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h dựa trên tính toán của các chuyên gia Đức và Hà Lan đã dấy lên tranh luận về con số cách biệt 32 tỷ USD so với 58,7 tỷ USD cho tốc độ 350 km/h của Bộ Giao thông Vận tải.
Biện hộ cho con số 58,7 tỷ USD, ông Tổng giám đốc Công ty tư vấn TEDI Phạm Hữu Sơn nêu ra mấy điểm dưới đây:
1. Chi phí xây lắp đường sắt tốc độ 200 km/h giảm so với đường sắt tốc độ 350 km/h là 10%; chi phí thiết bị giảm 26%; các hệ thống thông tin tín hiệu, thiết bị phụ trợ có mức đầu tư cơ bản như nhau. Nên không thể có việc tổng mức đầu tư giảm hơn một nửa nếu xây dựng đường sắt Bắc Nam tốc độ 200 km/h thay vì 350 km/h.
2. Đường sắt tốc độ cao cần đảm nhiệm vận tải hành khách khối lượng lớn mà ngành hàng không và đường bộ không thể đáp ứng. Đường sắt tốc độ cao phù hợp cho các quãng đường từ 300 đến 800 km; nếu tàu Bắc Nam chạy tốc độ 200 km/h thì sẽ không thể cạnh tranh được với hàng không và các phương tiện khác.
3. Công nghệ chạy tàu tốc độ cao được Bộ Giao thông Vận tải đề xuất là "động lực phân tán" tương tự tàu Shinkansen của Nhật Bản, là xu thế được nhiều nước áp dụng. Nếu chọn tàu tốc độ 200 km/h sẽ đi ngược lại xu thế thế giới và nhiều thiết bị cho loại tàu này đã không còn sản xuất.
TEDI là công ty tư vấn về đường sắt Bắc - Nam của Bộ Giao thông Vận tải. Mọi chiến lược phát triển đường sắt Bắc - Nam của Bộ Giao thông Vận tải đều dựa vào TEDI. Ý kiến của TEDI ở một chừng mực nhất định thể hiện ý kiến của Bộ Giao thông Vận tải. Vì thế, không thể không phản biện quan điểm của TEDI. Qua phát biểu của ông Tổng giám đốc TEDI cho thấy Bộ Giao thông Vận tải có những cách nhìn chưa đúng sau đây.
I. Vận tải hàng hóa là yêu cầu tiên quyết
Vận chuyển hàng hóa và vận chuyển hành khách là hai chức năng quan trọng của giao thông đường sắt. Ở nhiều tuyến đường, vận tải hàng hóa còn được ưu tiên hơn vận tải hành khách.
Với đường sắt sắt Bắc – Nam của Việt Nam, mang tính cột sống duy nhất kéo dài suốt đất nước qua hầu hết các tỉnh thành quan trọng, thì ưu tiên vận chuyển hàng hóa không thể kém ưu tiên vận tải hành khách. Bởi vậy, bất cứ đề xuất nào ở tốc độ, 200km, 350 km, 500 km… thì cũng bắt buộc phải chuyên chở được hàng hóa. Đây là điều kiện tiên quyết.
Bởi vậy, tuyến đường có vận tốc 350km/h hiện nay của Bộ GTVT đề xuất không chuyên chở được hàng hóa, thì bị loại hoàn toàn ra khỏi mọi xem xét. Đơn giản như trong toán học - là vi phạm tiên đề.
II. Những đánh giá không đúng của TEDI
Thứ nhất, do tính cột sống nối hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, thì giao thông giữa các tỉnh thành mới là quan trọng số 1, chứ không chỉ là giao thông giữa 2 địa điểm Hà Nội và TP.HCM. Lượng hành khách và hàng hóa lưu thông giữa các tỉnh lớn hơn nhiều lần so với tuyến trực tiếp hà Nội – TP.HCM.
Chẳng hạn, với tốc độ 200km/h, tuyến Hà Nội – Vinh chỉ mất 1h 30 phút, Thanh Hóa – Vinh mất 45 phút, Vinh – Đồng Hới mất 1 h. Tương tự TP HCM – Phan Thiết mất 1 h. Phan Thiết – Nha trang mất 1h… Nghĩa là thời gian đi lại giữa các tỉnh ngắn và vô cùng thuận lợi.
Bởi thế lấy Hà Nội – TP HCM để so sánh với thời gian máy bay rồi khẳng định không cạnh tranh được với máy bay là một lầm lẫn ấu trĩ.
Thứ hai, các chủng loại giao thông là song hành cùng nhau, bổ sung cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau. Lấy mục đích xây đường sắt 350km/h để cạnh tranh với máy bay, bóp chết vận tải hàng không là không thực tế , trái với biện chứng và tự trở thành mù quáng.
Thứ ba, vận tải hàng hóa mới là ưu điểm vô đối của tốc độ 200km/h mà TEDI có tình bỏ qua là một sai lầm nghiêm trọng.
Thứ tư, nói rằng thiết bị tàu hỏa đường sắt 200km/h đã ngừng sản xuất là hồ đồ. Hãy tìm hiểu lại đường sắt thế giới.
Nói dùng tốc độ 200km/h là “đi ngược với xu thế thế giới” là sai. Các hệ thống đường sắt là cùng song hành. Đường sắt cao tốc 350 - 500km/h chỉ chiếm một tỷ phần rất nhỏ. Chưa nước nào chỉ có mỗi đường sắt tốc độ cao trên 350 km/h, mà bỏ đi toàn bộ hệ thống đường sắt tốc độ dưới 350km/h, bỏ đi hệ thống đường sắt chở hàng.
Thứ năm, không có hành khách. Với tàu tốc độ 350km/h lưu lượng hành khách rất ít, do giá thành vé cao, dẫn đến còn lâu mới thu hồi vốn.
Thứ sáu, thời gian xây dựng kéo dài. Chắc chắn tuyến đường tốc độ 350km/h do giá thành đắt, không thể dễ dàng huy động nguồn vốn, nên sẽ kéo dài đến 20 -30 năm và còn lâu hơn nữa.
Thứ bảy, kéo theo gánh nặng nợ nần. Tổng vốn đầu tư 58,7 tỷ USD là quá sức đối với nền kinh tế Việt Nam. Tập trung nguồn lực lớn như vậy, việt Nam sẽ lún sâu vào gánh nợ, không còn nguồn lực dành cho các đầu tư khác. Chưa nói đến hiệu quả kém, chậm khai thác, và lâu hoàn vốn.
Thứ tám, ảo tưởng. Bệnh ảo tưởng đã lan nhiễm vào mọi ngóc ngách của nước ta. Nghèo đói nhưng lại đi vay để sắm cái đắt tiền nhất mà người giàu hơn nhiều lần cũng không dám sắm. Đã lạc hậu, nhưng lại mơ tưởng đi tiên phong trước cả các nước tiên phong, cho nên mới đề ra những câu khẩu hiệu phi thực tế loại: “ Đi tắt đón đầu”,…
Hệ thống tàu tốc độ 200km/h cả Âu - Mỹ sở hữu đã hơn nửa thế kỷ rồi mà Việt Nam còn mơ vẫn chưa được. Huống chi, còn có những người ảo tưởng hơn ngồi ở bộ GTVT mơ luôn lên trời xanh - lại mơ ngay làm đường sắt 350km/h, không chỉ bán cả gia tài, mà còn thế chấp cả tài nguyên, đi vay tiền mà mua mà xây cho bằng được, dẫu chỉ một đoạn, dẫu kéo dài cả mấy chục năm. Đó là tai họa lớn cho đất nước.
III. Tổng mức xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h không quá 20 tỷ USD.
Mức đầu tư 26 tỷ USD cho đường sắt Hà Nội – Sài Gòn tốc độ 200km/h của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là vẫn còn cao. Hãy cho các công ty tư nhân Việt Nam tính toán đầu tư thì con số sẽ về dưới 20 tỷ USD.
IV.Thời gian xây dựng 10 năm
Với bất cứ công trình kinh tế nào thì thời gian xây dựng càng nhanh càng tốt, càng sớm đưa vào khai thác càng có lợi. Với tổng số vốn đầu tư không đến 20 tỷ USD, với một ban điều hành giỏi, thời gian xây dựng tuyến đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h sẽ không vượt quá 10 năm.
Để cho các công ty tư nhân Việt Nam xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200 km/h thì chắc chắn giá thành dưới 20 tỷ USD và thời gian xây dựng dưới 10 năm.
Kết luận
1. Xây đựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200 km/h là phương án duy nhất đúng cho Việt Nam.
2. Ưu tiên công nghệ châu Âu là nơi có hệ thống đường sắt tốc độ 200km/h phát triển rộng rãi nhiều năm và giàu kinh nghiệm.
3. Đặt mục tiêu xây dựng trong 10 năm.
4. Giới hạn cận trên cho tổng chi phí đầu tư là 20 tỷ đô la.
5. Mở thầu quốc tế dành cho các công ty Âu – Mỹ - Nhật về thiết kế, tư vấn, giám sát.
6. Chỉ có các công ty Việt Nam tham gia xây dựng đường sắt Bắc – Nam dưới sự thiết kế, tư vấn và giám sát quốc tế.
Đừng nghĩ rằng các công ty tư nhân Việt Nam chưa có kinh nghiệm nên không thể xây dựng đường sắt Bắc – Nam. Họ biết cách thuê chuyên gia nước ngoài để thiết kế, mua thiết bị và điều hành xây dựng, cùng chuyển giao công nghệ ở mức giá hợp lý. Mức giá của các công ty tư nhân khi phải tự bỏ tiền túi sẽ thấp hơn mức giá của nhà nước từ 2, 3, 4 lần, mà chất lượng lại đảm bảo theo dự kiến. Khác với nhà nước là chủ đầu tư, giá thành đắt gấp 2,3,4 lần nhưng chất lượng vẫn không xác định.
Vấn đề xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ nào, cách thức như thế nào, giá thành ước lượng bao nhiêu, trong khoảng thời gian nào, đã rất rõ ràng. Người quyết định có tầm nhìn sáng suốt sẽ cao hơn mọi lời của tư vấn. Còn đối với tầm nhìn phụ thuộc vào tư vấn thì câu hỏi mãi chạy vòng quanh. Và số phận đường sắt Bắc – Nam nói riêng, cùng với số phận đất nước nói chung, cũng chạy vòng quanh theo tư vấn.
Tiến sĩ toán học Nguyễn Ngọc Chu
0
LTS: Tuần Việt Nam mở Diễn đàn "Vì Việt Nam hùng cường" với mong muốn thu nhận từ quý độc giả những ý kiến, bài viết về các giải pháp phát triển đất nước trong tất cả các lĩnh vực nhằm khơi thông tiềm năng phát triển, cổ vũ niềm tin của cộng đồng vào tương lai Việt Nam.
Chủ đề đầu tiên của Diễn đàn tập trung vào thể chế kinh tế. Mời quý vị cùng theo dõi.
(Sau khi giới thiệu các bài viết liên quan đến dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam, Diễn đàn nhận được nhiều ý kiến cùng chủ đề. Xin giới thiệu thêm ý kiến sau như là góp ý cho dự án đặc biệt này).
Sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra con số 26 tỷ USD cho đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h dựa trên tính toán của các chuyên gia Đức và Hà Lan đã dấy lên tranh luận về con số cách biệt 32 tỷ USD so với 58,7 tỷ USD cho tốc độ 350 km/h của Bộ Giao thông Vận tải.
Biện hộ cho con số 58,7 tỷ USD, ông Tổng giám đốc Công ty tư vấn TEDI Phạm Hữu Sơn nêu ra mấy điểm dưới đây:
1. Chi phí xây lắp đường sắt tốc độ 200 km/h giảm so với đường sắt tốc độ 350 km/h là 10%; chi phí thiết bị giảm 26%; các hệ thống thông tin tín hiệu, thiết bị phụ trợ có mức đầu tư cơ bản như nhau. Nên không thể có việc tổng mức đầu tư giảm hơn một nửa nếu xây dựng đường sắt Bắc Nam tốc độ 200 km/h thay vì 350 km/h.
2. Đường sắt tốc độ cao cần đảm nhiệm vận tải hành khách khối lượng lớn mà ngành hàng không và đường bộ không thể đáp ứng. Đường sắt tốc độ cao phù hợp cho các quãng đường từ 300 đến 800 km; nếu tàu Bắc Nam chạy tốc độ 200 km/h thì sẽ không thể cạnh tranh được với hàng không và các phương tiện khác.
3. Công nghệ chạy tàu tốc độ cao được Bộ Giao thông Vận tải đề xuất là "động lực phân tán" tương tự tàu Shinkansen của Nhật Bản, là xu thế được nhiều nước áp dụng. Nếu chọn tàu tốc độ 200 km/h sẽ đi ngược lại xu thế thế giới và nhiều thiết bị cho loại tàu này đã không còn sản xuất.
TEDI là công ty tư vấn về đường sắt Bắc - Nam của Bộ Giao thông Vận tải. Mọi chiến lược phát triển đường sắt Bắc - Nam của Bộ Giao thông Vận tải đều dựa vào TEDI. Ý kiến của TEDI ở một chừng mực nhất định thể hiện ý kiến của Bộ Giao thông Vận tải. Vì thế, không thể không phản biện quan điểm của TEDI. Qua phát biểu của ông Tổng giám đốc TEDI cho thấy Bộ Giao thông Vận tải có những cách nhìn chưa đúng sau đây.
I. Vận tải hàng hóa là yêu cầu tiên quyết
Vận chuyển hàng hóa và vận chuyển hành khách là hai chức năng quan trọng của giao thông đường sắt. Ở nhiều tuyến đường, vận tải hàng hóa còn được ưu tiên hơn vận tải hành khách.
Với đường sắt sắt Bắc – Nam của Việt Nam, mang tính cột sống duy nhất kéo dài suốt đất nước qua hầu hết các tỉnh thành quan trọng, thì ưu tiên vận chuyển hàng hóa không thể kém ưu tiên vận tải hành khách. Bởi vậy, bất cứ đề xuất nào ở tốc độ, 200km, 350 km, 500 km… thì cũng bắt buộc phải chuyên chở được hàng hóa. Đây là điều kiện tiên quyết.
Bởi vậy, tuyến đường có vận tốc 350km/h hiện nay của Bộ GTVT đề xuất không chuyên chở được hàng hóa, thì bị loại hoàn toàn ra khỏi mọi xem xét. Đơn giản như trong toán học - là vi phạm tiên đề.
II. Những đánh giá không đúng của TEDI
Thứ nhất, do tính cột sống nối hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, thì giao thông giữa các tỉnh thành mới là quan trọng số 1, chứ không chỉ là giao thông giữa 2 địa điểm Hà Nội và TP.HCM. Lượng hành khách và hàng hóa lưu thông giữa các tỉnh lớn hơn nhiều lần so với tuyến trực tiếp hà Nội – TP.HCM.
Chẳng hạn, với tốc độ 200km/h, tuyến Hà Nội – Vinh chỉ mất 1h 30 phút, Thanh Hóa – Vinh mất 45 phút, Vinh – Đồng Hới mất 1 h. Tương tự TP HCM – Phan Thiết mất 1 h. Phan Thiết – Nha trang mất 1h… Nghĩa là thời gian đi lại giữa các tỉnh ngắn và vô cùng thuận lợi.
Bởi thế lấy Hà Nội – TP HCM để so sánh với thời gian máy bay rồi khẳng định không cạnh tranh được với máy bay là một lầm lẫn ấu trĩ.
Thứ hai, các chủng loại giao thông là song hành cùng nhau, bổ sung cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau. Lấy mục đích xây đường sắt 350km/h để cạnh tranh với máy bay, bóp chết vận tải hàng không là không thực tế , trái với biện chứng và tự trở thành mù quáng.
Thứ ba, vận tải hàng hóa mới là ưu điểm vô đối của tốc độ 200km/h mà TEDI có tình bỏ qua là một sai lầm nghiêm trọng.
Thứ tư, nói rằng thiết bị tàu hỏa đường sắt 200km/h đã ngừng sản xuất là hồ đồ. Hãy tìm hiểu lại đường sắt thế giới.
Nói dùng tốc độ 200km/h là “đi ngược với xu thế thế giới” là sai. Các hệ thống đường sắt là cùng song hành. Đường sắt cao tốc 350 - 500km/h chỉ chiếm một tỷ phần rất nhỏ. Chưa nước nào chỉ có mỗi đường sắt tốc độ cao trên 350 km/h, mà bỏ đi toàn bộ hệ thống đường sắt tốc độ dưới 350km/h, bỏ đi hệ thống đường sắt chở hàng.
Thứ năm, không có hành khách. Với tàu tốc độ 350km/h lưu lượng hành khách rất ít, do giá thành vé cao, dẫn đến còn lâu mới thu hồi vốn.
Thứ sáu, thời gian xây dựng kéo dài. Chắc chắn tuyến đường tốc độ 350km/h do giá thành đắt, không thể dễ dàng huy động nguồn vốn, nên sẽ kéo dài đến 20 -30 năm và còn lâu hơn nữa.
Thứ bảy, kéo theo gánh nặng nợ nần. Tổng vốn đầu tư 58,7 tỷ USD là quá sức đối với nền kinh tế Việt Nam. Tập trung nguồn lực lớn như vậy, việt Nam sẽ lún sâu vào gánh nợ, không còn nguồn lực dành cho các đầu tư khác. Chưa nói đến hiệu quả kém, chậm khai thác, và lâu hoàn vốn.
Thứ tám, ảo tưởng. Bệnh ảo tưởng đã lan nhiễm vào mọi ngóc ngách của nước ta. Nghèo đói nhưng lại đi vay để sắm cái đắt tiền nhất mà người giàu hơn nhiều lần cũng không dám sắm. Đã lạc hậu, nhưng lại mơ tưởng đi tiên phong trước cả các nước tiên phong, cho nên mới đề ra những câu khẩu hiệu phi thực tế loại: “ Đi tắt đón đầu”,…
Hệ thống tàu tốc độ 200km/h cả Âu - Mỹ sở hữu đã hơn nửa thế kỷ rồi mà Việt Nam còn mơ vẫn chưa được. Huống chi, còn có những người ảo tưởng hơn ngồi ở bộ GTVT mơ luôn lên trời xanh - lại mơ ngay làm đường sắt 350km/h, không chỉ bán cả gia tài, mà còn thế chấp cả tài nguyên, đi vay tiền mà mua mà xây cho bằng được, dẫu chỉ một đoạn, dẫu kéo dài cả mấy chục năm. Đó là tai họa lớn cho đất nước.
III. Tổng mức xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h không quá 20 tỷ USD.
Mức đầu tư 26 tỷ USD cho đường sắt Hà Nội – Sài Gòn tốc độ 200km/h của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là vẫn còn cao. Hãy cho các công ty tư nhân Việt Nam tính toán đầu tư thì con số sẽ về dưới 20 tỷ USD.
IV.Thời gian xây dựng 10 năm
Với bất cứ công trình kinh tế nào thì thời gian xây dựng càng nhanh càng tốt, càng sớm đưa vào khai thác càng có lợi. Với tổng số vốn đầu tư không đến 20 tỷ USD, với một ban điều hành giỏi, thời gian xây dựng tuyến đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200km/h sẽ không vượt quá 10 năm.
Để cho các công ty tư nhân Việt Nam xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200 km/h thì chắc chắn giá thành dưới 20 tỷ USD và thời gian xây dựng dưới 10 năm.
Kết luận
1. Xây đựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ 200 km/h là phương án duy nhất đúng cho Việt Nam.
2. Ưu tiên công nghệ châu Âu là nơi có hệ thống đường sắt tốc độ 200km/h phát triển rộng rãi nhiều năm và giàu kinh nghiệm.
3. Đặt mục tiêu xây dựng trong 10 năm.
4. Giới hạn cận trên cho tổng chi phí đầu tư là 20 tỷ đô la.
5. Mở thầu quốc tế dành cho các công ty Âu – Mỹ - Nhật về thiết kế, tư vấn, giám sát.
6. Chỉ có các công ty Việt Nam tham gia xây dựng đường sắt Bắc – Nam dưới sự thiết kế, tư vấn và giám sát quốc tế.
Đừng nghĩ rằng các công ty tư nhân Việt Nam chưa có kinh nghiệm nên không thể xây dựng đường sắt Bắc – Nam. Họ biết cách thuê chuyên gia nước ngoài để thiết kế, mua thiết bị và điều hành xây dựng, cùng chuyển giao công nghệ ở mức giá hợp lý. Mức giá của các công ty tư nhân khi phải tự bỏ tiền túi sẽ thấp hơn mức giá của nhà nước từ 2, 3, 4 lần, mà chất lượng lại đảm bảo theo dự kiến. Khác với nhà nước là chủ đầu tư, giá thành đắt gấp 2,3,4 lần nhưng chất lượng vẫn không xác định.
Vấn đề xây dựng đường sắt Bắc – Nam tốc độ nào, cách thức như thế nào, giá thành ước lượng bao nhiêu, trong khoảng thời gian nào, đã rất rõ ràng. Người quyết định có tầm nhìn sáng suốt sẽ cao hơn mọi lời của tư vấn. Còn đối với tầm nhìn phụ thuộc vào tư vấn thì câu hỏi mãi chạy vòng quanh. Và số phận đường sắt Bắc – Nam nói riêng, cùng với số phận đất nước nói chung, cũng chạy vòng quanh theo tư vấn.
Tiến sĩ toán học Nguyễn Ngọc Chu
Thứ Tư, 17 tháng 7, 2019
Việt Nam là nước 'nghèo' nhất đầu tư đường sắt cao tốc?
TTO - Nhiều nước có tiềm lực kinh tế mạnh hơn trong khu vực Asean cũng chưa tính tới việc đầu tư đường sắt tốc độ cao đắt đỏ như Bộ GTVT đề xuất.
Đường sắt VN cần đầu tư nhưng với mức phù hợp, không quá khả năng thanh toán của người dân - Ảnh: T.T.D.
Đề xuất phương án đầu tư đường sắt cao tốc Bắc - Nam của Bộ GTVT đạt tốc độ 350 km/h với tổng vốn đầu tư hơn 58,7 tỉ USD là tương đương khoảng 1/4 GDP toàn nền kinh tế.
VN vừa thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp để chạm tới nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.587 USD/năm, GDP của cả nền kinh tế ước đạt 240,5 tỉ USD vào năm 2018.
GS.TSKH Lã Ngọc Khuê, nguyên thứ trưởng Bộ GTVT, khẳng định nếu đề xuất đầu tư của Bộ GTVT được chấp thuận, VN là nước "nghèo" nhất trên thế giới đầu tư đường sắt cao tốc.
Các quốc gia đã đầu tư đường sắt cao tốc như Nhật Bản, Đức... đều là những nước giàu có hàng đầu trên thế giới. Từng giữ cương vị lãnh đạo trong ngành GTVT, GS.TSKH Lã Ngọc Khuê cho rằng để phát huy tối đa hiệu quả kinh tế các dự án đường sắt cao tốc đã đầu tư, nước Đức đã quyết định giảm tốc độ của các tuyến đường sắt cao tốc từ 320 km/h xuống khoảng 250 km/h.
Bởi điều này còn giúp tiết kiệm chi phí vận hành, chi phí thay thế thiết bị trong quá trình chạy tàu. Các đội tàu hỏa ICE3 có tốc độ chạy tàu 320 km/h đang dần được thay thế hết bằng đội tàu ICEx có tốc độ 250 km/h vào năm 2025 theo một chương trình điều chỉnh của Chính phủ Đức.
Vốn đầu tư tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam 58,7 tỉ USD lớn gấp 50 lần chi ngân sách trung ương dành cho phát triển hạ tầng giao thông bình quân những năm qua. Nếu dự án đường sắt cao tốc được chấp thuận đầu tư trong 30 năm thì ngân sách trung ương, trong bối cảnh rất có hạn hiện nay, không loại trừ phải đình hoãn nhiều dự án khác.
Có tới 80% vốn đầu tư đường sắt cao tốc - khoảng 1.075.567 tỉ đồng (46,96 tỉ USD) - được Bộ GTVT dự kiến huy động từ ngân sách. "Nguồn vốn đầu tư đường sắt cao tốc rất lớn và bối cảnh nợ công áp trần cho thấy rủi ro tài chính khi thực hiện tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam là không nhỏ" - chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.
Điều đáng nói hơn, số liệu trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam cũng cho thấy dự án không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Kể cả khi tốc độ tàu chạy tối đa theo thiết kế đạt 350 km/h thì thời gian chạy tàu từ Hà Nội - TP.HCM cũng mất khoảng 5 giờ, gấp hơn 2 lần thời gian di chuyển bằng máy bay.
Rõ ràng, trong bối cảnh các hãng hàng không giá rẻ ra đời ngày một nhiều hơn, sẽ rất khó để đường sắt cao tốc cạnh tranh.
Đề xuất đầu tư dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam cần loại trừ "căn bệnh vung tay quá trán" trong đầu tư công. Hệ quả nhiều dự án rơi vào đình trệ, chậm tiến độ... Bộ GTVT nên sớm có giải thích cụ thể hơn về phương án của mình sau khi Bộ KH-ĐT đã phân tích rất kỹ nhiều bất cập, tránh những băn khoăn của dư luận.
"Xài sang" mà không tương ứng với tính khả thi và hiệu quả, trong khi cần tới hàng chục tỉ USD, sẽ tạo nguy cơ không tạo thêm động lực, ngược lại sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Đó là vấn đề cần đặt ra trước khi quyết định đầu tư đại dự án này.
Nguồn: Tuổi Trẻ
0
Đường sắt VN cần đầu tư nhưng với mức phù hợp, không quá khả năng thanh toán của người dân - Ảnh: T.T.D.
Đề xuất phương án đầu tư đường sắt cao tốc Bắc - Nam của Bộ GTVT đạt tốc độ 350 km/h với tổng vốn đầu tư hơn 58,7 tỉ USD là tương đương khoảng 1/4 GDP toàn nền kinh tế.
VN vừa thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp để chạm tới nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.587 USD/năm, GDP của cả nền kinh tế ước đạt 240,5 tỉ USD vào năm 2018.
GS.TSKH Lã Ngọc Khuê, nguyên thứ trưởng Bộ GTVT, khẳng định nếu đề xuất đầu tư của Bộ GTVT được chấp thuận, VN là nước "nghèo" nhất trên thế giới đầu tư đường sắt cao tốc.
Các quốc gia đã đầu tư đường sắt cao tốc như Nhật Bản, Đức... đều là những nước giàu có hàng đầu trên thế giới. Từng giữ cương vị lãnh đạo trong ngành GTVT, GS.TSKH Lã Ngọc Khuê cho rằng để phát huy tối đa hiệu quả kinh tế các dự án đường sắt cao tốc đã đầu tư, nước Đức đã quyết định giảm tốc độ của các tuyến đường sắt cao tốc từ 320 km/h xuống khoảng 250 km/h.
Bởi điều này còn giúp tiết kiệm chi phí vận hành, chi phí thay thế thiết bị trong quá trình chạy tàu. Các đội tàu hỏa ICE3 có tốc độ chạy tàu 320 km/h đang dần được thay thế hết bằng đội tàu ICEx có tốc độ 250 km/h vào năm 2025 theo một chương trình điều chỉnh của Chính phủ Đức.
Vốn đầu tư tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam 58,7 tỉ USD lớn gấp 50 lần chi ngân sách trung ương dành cho phát triển hạ tầng giao thông bình quân những năm qua. Nếu dự án đường sắt cao tốc được chấp thuận đầu tư trong 30 năm thì ngân sách trung ương, trong bối cảnh rất có hạn hiện nay, không loại trừ phải đình hoãn nhiều dự án khác.
Có tới 80% vốn đầu tư đường sắt cao tốc - khoảng 1.075.567 tỉ đồng (46,96 tỉ USD) - được Bộ GTVT dự kiến huy động từ ngân sách. "Nguồn vốn đầu tư đường sắt cao tốc rất lớn và bối cảnh nợ công áp trần cho thấy rủi ro tài chính khi thực hiện tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam là không nhỏ" - chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.
Điều đáng nói hơn, số liệu trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam cũng cho thấy dự án không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Kể cả khi tốc độ tàu chạy tối đa theo thiết kế đạt 350 km/h thì thời gian chạy tàu từ Hà Nội - TP.HCM cũng mất khoảng 5 giờ, gấp hơn 2 lần thời gian di chuyển bằng máy bay.
Rõ ràng, trong bối cảnh các hãng hàng không giá rẻ ra đời ngày một nhiều hơn, sẽ rất khó để đường sắt cao tốc cạnh tranh.
Đề xuất đầu tư dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam cần loại trừ "căn bệnh vung tay quá trán" trong đầu tư công. Hệ quả nhiều dự án rơi vào đình trệ, chậm tiến độ... Bộ GTVT nên sớm có giải thích cụ thể hơn về phương án của mình sau khi Bộ KH-ĐT đã phân tích rất kỹ nhiều bất cập, tránh những băn khoăn của dư luận.
"Xài sang" mà không tương ứng với tính khả thi và hiệu quả, trong khi cần tới hàng chục tỉ USD, sẽ tạo nguy cơ không tạo thêm động lực, ngược lại sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Đó là vấn đề cần đặt ra trước khi quyết định đầu tư đại dự án này.
Nguồn: Tuổi Trẻ
Về tư duy địa kinh tế – địa chính trị của thế kỷ 21
Không hoạch định được tương lai, người ta có thể trở thành một bộ phận trong tương lai của người khác. Không có con đường nào đi tới tương lai tốt đẹp lại được dẫn dắt bằng một tư duy lạc hậu.
Gần ba mươi năm trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc, khoảng thời gian đủ dài để một đất nước phát triển tới tầm cao mới về chất, nhưng Việt Nam vẫn không thể phát triển, trái lại vẫn mắc kẹt trong những tình thế kinh tế – chính trị bất lợi. Nguyên nhân của tình trạng này có phần rất lớn thuộc về trách nhiệm của công tác hoạch định chiến lược phát triển kinh tế.
Thế giới có nhiều kinh nghiệm tốt, nhiều tấm gương thần kỳ trong phát triển kinh tế, nhưng Việt Nam không thể máy móc làm theo, lý do đơn giản là thời thế đã thay đổi và Việt Nam không giống họ. Chiến lược phát triển kinh tế cũng không thể chạy theo những ảo vọng chính trị, bất chấp thực tế cuộc sống. Một chiến lược phát triển kinh tế hợp lý phải căn cứ vào điều kiện và thực lực của đất nước, đồng thời phải phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Với tư tưởng chủ đạo trên, khoa học về địa chính trị và địa kinh tế sẽ là những công cụ quan trọng giúp chúng ta hoạch định được một chiến lược phát triển kinh tế hợp lý và khả thi nhất.
1. Tư duy mới bắt nguồn từ sự thay đổi của Thời đại
Địa kinh tế là khoa học nghiên cứu các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia, thậm chí một khu vực. Chẳng hạn, đặc điểm địa lý khu vực Địa Trung Hải tạo ra thế mạnh để phát triển vận tải biển và thương nghiệp của các quốc gia ở khu vực này. Địa chính trị là khoa học nghiên cứu các yếu tố địa lý chi phối xu thế và thái độ chính trị của quốc gia hoặc khu vực. Học thuyết domino chính trị là ví dụ rõ nét về địa chính trị. Học thuyết này đã ám ảnh các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản lan xuống phía Nam, làm cho Hoa Kỳ ngày càng dính líu và cuối cùng can dự vào cuộc chiến tranh Việt Nam.
Chiến tranh Lạnh kết thúc làm mỗi quốc gia phải thay đổi nhận thức về các giá trị và lợi ích để phù hợp với trật tự thế giới mới. Những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật làm cho mọi lĩnh vực của đời sống luôn trong trạng thái thay đổi nhanh chóng, nhân tố mới xuất hiện ngày càng nhanh và nhiều khiến cho rất nhiều quan niệm cũ bị phá vỡ hoặc cần phải xem xét lại. Cũng trong trạng thái phát triển mới này của thế giới, nhiều quan niệm địa kinh tế và địa chính trị truyền thống trở nên lỗi thời và cần được thay thế bằng những quan niệm mới phù hợp với thời đại. Để xây dựng những quan niệm mới, trước hết, chúng ta cần nhận dạng đúng xu thế và các nhân tố mới đang quyết định đến tiến trình phát triển của thế giới đương đại.
Thứ nhất, toàn cầu hóa đang trở thành xu thế nổi bật tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển và đạt được những thành công lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Toàn cầu hóa diễn ra không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà trên mọi lĩnh vực của cuộc sống kể cả văn hóa, chính trị, mang lại cho các quốc gia cơ may phát triển, chia sẻ những kinh nghiệm, ưu thế và cả rủi ro giữa các quốc gia và khu vực. Những thành tựu đầy sức thuyết phục của Trung Quốc kể từ khi nước này mở cửa, sự trì trệ, bế tắc của một số quốc gia biệt lập như Afghanistan, Iraq, CHDCND Triều Tiên… là những ví dụ tương phản rõ nét nhất về ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với mỗi cộng đồng dân tộc.
Thứ hai, các lực lượng đa quốc gia, đặc biệt là công ty đa quốc gia và các công ty nước ngoài có vai trò ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia mà họ có mặt. Đóng góp của các công ty nước ngoài đối với nền kinh tế của mỗi nước ngày càng lớn. Điều này đúng với cả trường hợp Hoa Kỳ, nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Vào năm 1996, các công ty loại này sản xuất 15,8% giá trị sản phẩm hàng hóa tại Hoa Kỳ, tỷ lệ này là 13,2% năm 1988 và chỉ 8,8% năm 1985. Tại Anh, Canada, Thụy Điển cũng có khuynh hướng tương tự. Thậm chí các hãng nước ngoài ở Ireland còn chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều, sản xuất ra 66% sản lượng hàng hóa và sử dụng 47% nhân lực của quốc gia này. Những nét phác thảo trên cho thấy, mọi quốc gia, kể cả những quốc gia phát triển nhất, ngày càng lệ thuộc và gắn bó mọi mặt với nhau, và vì vậy, để phát triển, Việt Nam càng không thể đứng ngoài quy luật chung này.
Cuối cùng và đặc biệt quan trọng là, thế giới ngày càng bị ảnh hưởng và chi phối bởi các cường quốc. Trong nửa đầu thế kỷ XXI, các cường quốc vẫn tiếp tục là lực lượng thao túng hệ thống chính trị, kinh tế toàn cầu. Điều đáng lưu ý là, trước đây, các cường quốc tạo ra thế lưỡng cực, còn hiện nay, các cường quốc ảnh hưởng một cách đa chiều đến mức nhiều người nhầm lẫn thế giới phát triển theo xu thế đa cực. Thực ra thế giới không đa cực. Nếu trong nửa đầu thế kỷ này, người Mỹ không cải thiện về mặt văn hóa, không đổi mới chính trị để có thể lãnh đạo thế giới một cách đồng thuận, Hoa Kỳ sẽ không có phẩm chất của một quốc gia lãnh đạo thế giới, có nghĩa là thế giới vẫn trong trạng thái vô cực.
2. Địa kinh tế và địa chính trị – Khoa học của những quan niệm động
Trong thời đại chúng ta không thể tiếp tục nhận thức thế giới theo những quan niệm có tính bất biến, những quan niệm mới về địa chính trị và địa kinh tế mà chúng ta phát triển phải có đặc tính động, phù hợp với đặc điểm cơ bản của thế giới năng động ngày nay.
Thứ nhất, đặc điểm địa chính trị, địa kinh tế của mỗi quốc gia thay đổi theo trình độ phát triển và bối cảnh chung của khu vực và thế giới. Thí dụ, Việt Nam có vị trí liền kề với Trung Quốc, nhưng nếu quốc gia khổng lồ này không tích cực đổi mới như hiện nay mà vẫn trong tình trạng trì trệ của những năm 60 – 70, thì đặc điểm địa chính trị của Việt Nam sẽ được nhìn nhận khác đi trong một bối cảnh khác. Việc xuất hiện những con rồng châu Á như Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc làm thay đổi nhiều đặc điểm và tính chất của thị trường khu vực, làm đặc điểm địa kinh tế của khu vực thay đổi, và bởi vậy, nhận định về địa kinh tế của Việt Nam cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ hai, bán kính vùng ảnh hưởng của địa chính trị, địa kinh tế có xu hướng mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Ngày nay, các diễn biến chính trị, kinh tế – xã hội quan trọng nhanh chóng lan tỏa trên mọi miền của thế giới. Trước đây, với Việt Nam, Trung Quốc là láng giềng còn Hoa Kỳ là miền đất rất xa xôi, nhưng quan niệm này nay đã thay đổi cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại. Ngày nay, với APEC, với diễn đàn Á – Âu, nhiều quốc gia xa xôi đã trở nên gần gũi với Việt Nam cả về chính trị cũng như kinh tế – xã hội.
Thứ ba, lợi ích quốc gia ngày càng bị đan xen với lợi ích quốc tế khiến cho việc xử lý các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế phải đặc biệt cẩn trọng và linh hoạt hơn.Nói đến địa chính trị và địa kinh tế là nói đến lợi ích quốc gia. Trong quá khứ, do sự xâm nhập của các lực lượng quốc tế vào một quốc gia ở mức độ rất hạn chế nên lợi ích quốc gia thường tách biệt, thậm chí đối lập với lợi ích quốc tế.Ngày nay, với sự lên ngôi của các lực lượng đa quốc gia, các lợi ích quốc gia thường đan xen lên nhau đến mức khó phân biệt rạch ròi. Chẳng hạn, khi bất đồng với EU trong vấn đề Iraq, Hoa Kỳ không thể trừng phạt kinh tế các công ty EU vì trong đó có lợi ích của các nhà đầu tư Hoa Kỳ.
Những quan niệm mới trên sẽ giúp chúng ta đánh giá xác thực các ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của Việt Nam, góp phần đưa ra một chiến lược phát triển kinh tế khả thi, linh hoạt, dễ dàng điều chỉnh trước một thế giới năng động, phức tạp và nhiều rủi ro của hiện tại và tương lai.
3. Khai thác ưu thế địa chính trị và địa kinh tế
Vận dụng tư duy mới để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam phải kết hợp giữa khai thác triệt để các ưu thế địa chính trị, địa kinh tế của đất nước với việc thực thi một chính sách hợp tác kinh tế quốc tế sáng suốt. Một chiến lược như vậy sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xác lập địa vị của Việt Nam trong hệ thống kinh tế – chính trị toàn cầu.
Trước hết, để có một chiến lược phát triển kinh tế đúng, chúng ta phải hiểu mình, hiểu cấu trúc lực lượng xã hội, hiểu trạng thái hiện tại, những gì chúng ta đang có và mục tiêu chúng ta cần vươn tới. Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là một nền kinh tế tạo ra rất ít giá trị gia tăng. Việt Nam là một quốc gia không có nhiều truyền thống kinh doanh. Lịch sử Việt Nam thiếu vắng những nhà công thương lớn. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đạt được thành tích đáng kể trong nông nghiệp nhưng trên tổng thể, nông nghiệp cũng phơi bày những điểm yếu cơ bản của chúng ta. Hiện nay, 70 đến 80% lực lượng lao động Việt Nam đang làm việc trong khu vực nông nghiệp, ngành kinh tế tạo được rất ít giá trị gia tăng. Chúng ta phải phát triển những ngành kinh tế làm ra nhiều giá trị gia tăng, phải phấn đấu để sao cho trong vòng 15 đến 20 năm tới có được một tỷ lệ lao động như vậy làm việc trong các ngành kinh tế mới này.
Tiếp đó, chúng ta phải hiểu người, tức các quốc gia, các thể chế quốc tế, chấp nhận họ như những đối tác và cũng có thể là đối thủ cạnh tranh. Hiểu để hợp tác và khai thác sức mạnh của các đối tác, hạn chế những thế mạnh của đối thủ cạnh tranh. Nhưng dù là đối tác hay đối thủ, họ đều có ích cho chúng ta và trên những khía cạnh và mức độ khác nhau, họ đều tham gia vào quá trình đổi mới, phát triển của Việt Nam. Hiểu được điều này chúng ta sẽ có thái độ trân trọng và có cách đối thoại, hợp tác có hiệu quả nhất với các đối tác bên ngoài.
Điều cuối cùng, việc khai thác các ưu thế địa chính trị và địa kinh tế luôn phải gắn với xu thế và các nhân tố chủ yếu quyết định đến tiến trình phát triển của thời đại. Vận dụng tư duy mới trong địa kinh tế và địa chính trị, chúng ta có thể tránh được những sai lầm của quá khứ trong công tác hoạch định chiến lược phát triển. Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và tự do thương mại bùng nổ như hiện nay, chúng ta không nhất thiết phải làm lại những gì thế giới đã làm mà cần ưu tiên khai thác thế mạnh của mình để chủ động gia nhập quá trình này. Chỉ có như vậy chúng ta mới xác lập được vị trí xứng đáng của Việt Nam trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Trong khuôn khổ hạn chế, bài viết này không có tham vọng vạch ra một cách chi tiết, mà chỉ mong muốn đưa ra một phác thảo cơ bản nhất cho chiến lược phát triển kinh tế mới của Việt Nam trong khoảng thời gian 15 đến 20 năm tới.
Phát triển kinh tế mềm để điều chỉnh và thích ứng trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nhiều biến động
Tư duy địa chính trị và địa kinh tế mới cho thấy không thể xây dựng kinh tế theo cấu trúc cứng nhắc và càng không thể phát triển Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa. Việt Nam hiện đại hóa mà không cần và không nhất thiết phải công nghiệp hóa. Công nghiệp không phải là một thế mạnh của Việt Nam, hãy để cho Trung Quốc và các nước khác làm công nghiệp. Chủ trương công nghiệp hóa chỉ hướng phát triển kinh tế Việt Nam cho những mục tiêu trong nước mà không thấy được Việt Nam cần phát triển kinh tế để đáp ứng đòi hỏi của thị trường khu vực và thế giới. Nếu phát triển theo hướng công nghiệp hóa, chúng ta sẽ tiếp tục đánh mất những ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của mình. Công nghiệp hóa trong giai đoạn hiện nay không chỉ là sự bất khả thi về vốn đầu tư, mà về bản chất chỉ là sự làm lại những gì thế giới đã làm nhưng luôn thua kém về trình độ, và do vậy, không thể cạnh tranh với các quốc gia công nghiệp đi trước. Công nghiệp hóa sẽ dẫn đến một cơ cấu kinh tế cứng, khó thích ứng và rất khó điều chỉnh trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nhiều biến động.
Việt Nam nên phát triển kinh tế mềm, trở thành một quốc gia cung cấp dịch vụ cho khu vực và thế giới, bởi đất nước ta án ngữ một dải rất rộng vùng Đông Nam á, là cửa ngõ thông ra thế giới của một khu vực rộng lớn từ Lào đến Campuchia, toàn bộ miền Đông – Bắc Thái Lan và miền Bắc Miến Điện. Với việc phát triển kinh tế dịch vụ, Việt Nam sẽ có vị thế quan trọng trong việc hỗ trợ quá trình phát triển tại khu vực. Hạt nhân cấu trúc kinh tế mềm của Việt Nam dựa trên phát triển kinh tế dịch vụ, đặc biệt là du lịch và ngành kinh tế biển. Ví dụ như khu vực Hạ Long, 30 năm trước đây là một trung tâm công nghiệp khai thác mỏ, cung cấp than để công nghiệp hóa đất nước, một thành phố bụi bặm với những con người lầm lũi. Bây giờ, Hạ Long có ngành kinh tế du lịch với Vịnh Hạ Long nổi tiếng và khu nghỉ mát Tuần Châu hiện đại. Du lịch sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn than, giúp vùng than đoạn tuyệt với quá khứ lầm than và ngày càng trở nên tươi đẹp
Trục Đông – Tây, con đường hội nhập quốc tế và phát triển nhanh nhất
Trước đây, người Pháp phân chia Việt Nam thành ba kỳ theo trục Bắc – Nam, nhưng với quan điểm địa kinh tế hiện đại, cách phân chia này đã trở nên lạc hậu. Ngày nay, Việt Nam cần phát triển theo hướng Đông – Tây thay vì theo trục Bắc – Nam như cũ. Việt Nam phải phát huy thế mạnh của đất nước có hơn 3000 km bờ biển trong bối cảnh đại dương là một vùng kinh tế được khai thác mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Vận tải đường biển với chi phí thấp và năng lực chuyển tải lớn sẽ nối thế giới với Việt Nam đi tới các khu vực kém phát triển của các quốc gia láng giềng phía Tây. Phát triển lan truyền theo trục Đông – Tây thể hiện tư tưởng hội nhập quốc tế và tạo ra cơ hội để Việt Nam có thể đạt được tốc độ phát triển nhanh và hiệu quả hơn nhiều so với trục Bắc – Nam.
Việt Nam ở bên cạnh Trung Quốc nhưng thực chất là gần với khu vực lạc hậu của Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam hay Việt Nam hỗ trợ các vùng lạc hậu của Trung Quốc phát triển? Đại dương mênh mông mở ra cơ hội lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay và trong tương lai. Nếu không nhận thức được điều này, tiếp tục phát triển Việt Nam theo trục Bắc – Nam sẽ dẫn đến nhiều sai lầm, kể cả trong việc phân bổ quyền lực bộ máy lãnh đạo. Chiến lược phát triển theo trục Đông – Tây, xây dựng các đô thị ven biển làm hạt nhân và tạo nguồn động lực lan truyền quá trình phát triển tới các vùng sâu của Việt Nam và đi tới các quốc gia láng giềng, sẽ mang lại nhiều cơ may và lợi ích to lớn cho Việt Nam và cả khu vực.
Phát triển theo trục Đông – Tây, với việc mở mang kinh tế biển và vận tải biển, không chỉ giảm bớt sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc, không những tạo điều kiện cho Việt Nam xâm nhập thị trường Trung Quốc rộng lớn mà còn cải thiện đáng kể khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khổng lồ này. Nếu không phát triển theo trục Đông – Tây, Việt Nam không khai thác được các ưu thế về địa kinh tế của mình và càng trở nên bị động và lúng túng trong cuộc cạnh tranh với một nước Trung Quốc có quá nhiều ưu thế. Chỉ khi nào công cuộc cải cách biến Trung Quốc thành một quốc gia phát triển thực sự, tất cả các vùng kinh tế của nước này đạt được trình độ phát triển cao thì trục Bắc – Nam mới tác động tích cực đến sự phát triển của Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, những hàng hóa có chất lượng quốc tế cũng như nguồn công nghệ cao vào Việt Nam từ phía Đông mà không phải từ phía Bắc, trục Bắc – Nam không những không tác động tích cực, thậm chí còn có nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Bởi luồng hàng hóa vào Việt Nam theo trục này thường là hàng hóa của nền công nghiệp hương trấn địa phương với chất lượng thấp và có nhiều biểu hiện vi phạm các quy định thương mại quốc tế.
Thái độ chính trị sáng suốt cho một chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế hiệu quả
Trong tư duy địa chính trị và địa kinh tế hiện đại, một chiến lược hợp tác kinh tế hiệu quả phải gắn liền với một đường lối hợp tác chính trị sáng suốt. Bởi vậy, trước tiên chúng ta cần phác thảo những nét chủ yếu để nhận diện các đối tác chính trị quan trọng nhất.
Hoa Kỳ với vai trò cường quốc số một thế giới, luôn quan tâm đến cả thế giới, tuy nhiên, do năng lực không phải là vô hạn, Hoa Kỳ chỉ đặc biệt chú trọng đến một số đối tác và khu vực quan trọng nhất. Trung Quốc đặt trọng tâm những mối quan tâm vào toàn bộ châu á và ngày càng quan tâm hơn đến khu vực ASEAN, nhưng do những vấn đề của chính mình, giữa tham vọng và năng lực của quốc gia này còn là một khoảng cách lớn. Trung Quốc để ý đến Việt Nam nhiều nhất trong số các quốc gia láng giềng phía nam vì những quan hệ vốn có trong lịch sử và vì Việt Nam là một quốc gia với 80 triệu dân, có một vị trí đáng kể trên trường quốc tế. Trung Quốc có thể thông qua Việt Nam để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác trong khối ASEAN. Ngoài ra, còn phải kể đến Nhật Bản, nước cũng có tham vọng trở thành cường quốc khu vực, và do vậy cũng chú ý nhiều đến Việt Nam trong chiến lược Đại Đông á của họ.
Việt Nam không phải là một nước lớn nhưng cũng không bao giờ là một quốc gia nhỏ bé. Trong bảng xếp hạng thế giới, với vị trí thứ 15-16 về dân số và 66 về diện tích, đáng lẽ phải là một quốc gia có ảnh hưởng quan trọng trên trường quốc tế nhưng chúng ta đã phạm phải sai lầm trong phát triển, bỏ lỡ nhiều cơ hội, thời gian và công sức nên Việt Nam vẫn chưa có vị thế tương xứng với tầm vóc của mình.
Chúng ta đang sống trong thời đại của đối thoại và hợp tác quốc tế, nhưng dường như chúng ta vẫn tiếp tục xem quá khứ là đối tác quan trọng nhất. Thế hệ hiện tại thỏa hiệp với những yêu cầu của thế hệ đi trước làm cho sự phát triển của Việt Nam tiến triển rất chậm chạp. Cũng vì ít tham gia đối thoại chính trị quốc tế nên Việt Nam chưa có chính sách hợp tác quốc tế hiệu quả. Hội nhập trong nỗi lo sợ đánh mất mình và diễn đạt sự bảo vệ bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa thành vỏ bọc nhằm bảo tồn cả những yếu tố đã lạc hậu của hệ thống chính trị, làm cho mọi hoạt động chính trị của Việt Nam về cơ bản là đàm phán và thỏa hiệp với quá khứ. Chừng nào chưa thoát khỏi sự chi phối của quá khứ thì Việt Nam vẫn chưa có chính sách hợp tác quốc tế hiệu quả và chúng ta vẫn chỉ là một quốc gia tự náo nhiệt mình.
Chiến lược hợp tác quốc tế sáng suốt và hợp lý nhất của Việt Nam trong vòng nửa đầu thế kỷ XXI là mở cửa sang phương Tây, hợp tác triệt để với Hoa Kỳ, chung sống hòa bình với Trung Quốc. Chúng ta không mong đợi nhiều từ Trung Quốc nhưng hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc là điều kiện tối cần thiết để chúng ta có điều kiện tập trung những cố gắng vào phát triển kinh tế. Trong chiến lược hợp tác và cạnh tranh với Trung Quốc, Việt Nam phát triển kinh tế càng khác với Trung Quốc bao nhiêu càng tốt. Trên thế giới này không có một nước nào có thể cạnh tranh với Trung Quốc nếu sản xuất những hàng hóa có đặc tính giống hàng hóa Trung Quốc. Nước Thụy Sĩ nhỏ bé nhưng người Thụy Sĩ sống tốt bên cạnh châu Âu hùng mạnh nhờ dịch vụ ngân hàng và sản xuất những máy móc tinh vi. Kinh nghiệm của người Thuỵ Sĩ chỉ ra cho chúng ta nên sản xuất những gì khác biệt với hàng hóa Trung Quốc, những gì mà đặc tính số đông không là ưu thế. Chỉ có như vậy Việt Nam mới phát triển ổn định và ít rủi ro bên cạnh một nền kinh tế lớn như Trung Quốc.
Không hoạch định được tương lai, người ta có thể trở thành một bộ phận trong tương lai của người khác. Không có con đường nào đi tới tương lai tốt đẹp lại được dẫn dắt bằng một tư duy lạc hậu. Hoạch định chiến lược phát triển là sự quy hoạch tương lai, đòi hỏi nhiều sáng tạo của trí tưởng tượng, tính năng động và sự sáng suốt khoa học. Trong một thời gian dài bị chi phối bởi những tham vọng chủ quan, kinh tế Việt Nam luôn bị đặt vào tình thế bị động, lúng túng đối phó trước thực tế phát triển. Nguyên nhân có phần do chúng ta đã bỏ qua hoặc xử lý thiếu hiệu quả các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế khi hoạch định chiến lược phát triển cho đất nước. Không thể dựa vào ảo tưởng chính trị để đưa ra những mục tiêu nhằm tự huyễn hoặc mình và cũng không thể sao chép, lặp lại những kinh nghiệm của các quốc gia đi trước. Trong nhiệm vụ khó khăn và phức tạp này, vận dụng một cách sáng tạo những quan niệm khoa học hiện đại về địa chính trị và địa kinh tế sẽ giúp chúng ta tránh được những sai lầm của quá khứ. Chỉ có sự sáng suốt khoa học mới có thể đưa ra một quyết sách chiến lược phát triển kinh tế hợp lý nhất, con đường đúng đắn và nhanh nhất đi tới tương lai, hội nhập vào trào lưu chung của thời đại. Chính trong quá trình này chúng ta sẽ tìm lại được chính mình, một nước Việt Nam mới, giàu mạnh và phát triển.
S.T
Theo Redsvn
0
Gần ba mươi năm trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc, khoảng thời gian đủ dài để một đất nước phát triển tới tầm cao mới về chất, nhưng Việt Nam vẫn không thể phát triển, trái lại vẫn mắc kẹt trong những tình thế kinh tế – chính trị bất lợi. Nguyên nhân của tình trạng này có phần rất lớn thuộc về trách nhiệm của công tác hoạch định chiến lược phát triển kinh tế.
Thế giới có nhiều kinh nghiệm tốt, nhiều tấm gương thần kỳ trong phát triển kinh tế, nhưng Việt Nam không thể máy móc làm theo, lý do đơn giản là thời thế đã thay đổi và Việt Nam không giống họ. Chiến lược phát triển kinh tế cũng không thể chạy theo những ảo vọng chính trị, bất chấp thực tế cuộc sống. Một chiến lược phát triển kinh tế hợp lý phải căn cứ vào điều kiện và thực lực của đất nước, đồng thời phải phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Với tư tưởng chủ đạo trên, khoa học về địa chính trị và địa kinh tế sẽ là những công cụ quan trọng giúp chúng ta hoạch định được một chiến lược phát triển kinh tế hợp lý và khả thi nhất.
1. Tư duy mới bắt nguồn từ sự thay đổi của Thời đại
Địa kinh tế là khoa học nghiên cứu các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia, thậm chí một khu vực. Chẳng hạn, đặc điểm địa lý khu vực Địa Trung Hải tạo ra thế mạnh để phát triển vận tải biển và thương nghiệp của các quốc gia ở khu vực này. Địa chính trị là khoa học nghiên cứu các yếu tố địa lý chi phối xu thế và thái độ chính trị của quốc gia hoặc khu vực. Học thuyết domino chính trị là ví dụ rõ nét về địa chính trị. Học thuyết này đã ám ảnh các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản lan xuống phía Nam, làm cho Hoa Kỳ ngày càng dính líu và cuối cùng can dự vào cuộc chiến tranh Việt Nam.
Chiến tranh Lạnh kết thúc làm mỗi quốc gia phải thay đổi nhận thức về các giá trị và lợi ích để phù hợp với trật tự thế giới mới. Những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật làm cho mọi lĩnh vực của đời sống luôn trong trạng thái thay đổi nhanh chóng, nhân tố mới xuất hiện ngày càng nhanh và nhiều khiến cho rất nhiều quan niệm cũ bị phá vỡ hoặc cần phải xem xét lại. Cũng trong trạng thái phát triển mới này của thế giới, nhiều quan niệm địa kinh tế và địa chính trị truyền thống trở nên lỗi thời và cần được thay thế bằng những quan niệm mới phù hợp với thời đại. Để xây dựng những quan niệm mới, trước hết, chúng ta cần nhận dạng đúng xu thế và các nhân tố mới đang quyết định đến tiến trình phát triển của thế giới đương đại.
Thứ nhất, toàn cầu hóa đang trở thành xu thế nổi bật tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển và đạt được những thành công lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Toàn cầu hóa diễn ra không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà trên mọi lĩnh vực của cuộc sống kể cả văn hóa, chính trị, mang lại cho các quốc gia cơ may phát triển, chia sẻ những kinh nghiệm, ưu thế và cả rủi ro giữa các quốc gia và khu vực. Những thành tựu đầy sức thuyết phục của Trung Quốc kể từ khi nước này mở cửa, sự trì trệ, bế tắc của một số quốc gia biệt lập như Afghanistan, Iraq, CHDCND Triều Tiên… là những ví dụ tương phản rõ nét nhất về ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với mỗi cộng đồng dân tộc.
Thứ hai, các lực lượng đa quốc gia, đặc biệt là công ty đa quốc gia và các công ty nước ngoài có vai trò ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia mà họ có mặt. Đóng góp của các công ty nước ngoài đối với nền kinh tế của mỗi nước ngày càng lớn. Điều này đúng với cả trường hợp Hoa Kỳ, nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Vào năm 1996, các công ty loại này sản xuất 15,8% giá trị sản phẩm hàng hóa tại Hoa Kỳ, tỷ lệ này là 13,2% năm 1988 và chỉ 8,8% năm 1985. Tại Anh, Canada, Thụy Điển cũng có khuynh hướng tương tự. Thậm chí các hãng nước ngoài ở Ireland còn chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều, sản xuất ra 66% sản lượng hàng hóa và sử dụng 47% nhân lực của quốc gia này. Những nét phác thảo trên cho thấy, mọi quốc gia, kể cả những quốc gia phát triển nhất, ngày càng lệ thuộc và gắn bó mọi mặt với nhau, và vì vậy, để phát triển, Việt Nam càng không thể đứng ngoài quy luật chung này.
Cuối cùng và đặc biệt quan trọng là, thế giới ngày càng bị ảnh hưởng và chi phối bởi các cường quốc. Trong nửa đầu thế kỷ XXI, các cường quốc vẫn tiếp tục là lực lượng thao túng hệ thống chính trị, kinh tế toàn cầu. Điều đáng lưu ý là, trước đây, các cường quốc tạo ra thế lưỡng cực, còn hiện nay, các cường quốc ảnh hưởng một cách đa chiều đến mức nhiều người nhầm lẫn thế giới phát triển theo xu thế đa cực. Thực ra thế giới không đa cực. Nếu trong nửa đầu thế kỷ này, người Mỹ không cải thiện về mặt văn hóa, không đổi mới chính trị để có thể lãnh đạo thế giới một cách đồng thuận, Hoa Kỳ sẽ không có phẩm chất của một quốc gia lãnh đạo thế giới, có nghĩa là thế giới vẫn trong trạng thái vô cực.
2. Địa kinh tế và địa chính trị – Khoa học của những quan niệm động
Trong thời đại chúng ta không thể tiếp tục nhận thức thế giới theo những quan niệm có tính bất biến, những quan niệm mới về địa chính trị và địa kinh tế mà chúng ta phát triển phải có đặc tính động, phù hợp với đặc điểm cơ bản của thế giới năng động ngày nay.
Thứ nhất, đặc điểm địa chính trị, địa kinh tế của mỗi quốc gia thay đổi theo trình độ phát triển và bối cảnh chung của khu vực và thế giới. Thí dụ, Việt Nam có vị trí liền kề với Trung Quốc, nhưng nếu quốc gia khổng lồ này không tích cực đổi mới như hiện nay mà vẫn trong tình trạng trì trệ của những năm 60 – 70, thì đặc điểm địa chính trị của Việt Nam sẽ được nhìn nhận khác đi trong một bối cảnh khác. Việc xuất hiện những con rồng châu Á như Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc làm thay đổi nhiều đặc điểm và tính chất của thị trường khu vực, làm đặc điểm địa kinh tế của khu vực thay đổi, và bởi vậy, nhận định về địa kinh tế của Việt Nam cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ hai, bán kính vùng ảnh hưởng của địa chính trị, địa kinh tế có xu hướng mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Ngày nay, các diễn biến chính trị, kinh tế – xã hội quan trọng nhanh chóng lan tỏa trên mọi miền của thế giới. Trước đây, với Việt Nam, Trung Quốc là láng giềng còn Hoa Kỳ là miền đất rất xa xôi, nhưng quan niệm này nay đã thay đổi cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại. Ngày nay, với APEC, với diễn đàn Á – Âu, nhiều quốc gia xa xôi đã trở nên gần gũi với Việt Nam cả về chính trị cũng như kinh tế – xã hội.
Thứ ba, lợi ích quốc gia ngày càng bị đan xen với lợi ích quốc tế khiến cho việc xử lý các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế phải đặc biệt cẩn trọng và linh hoạt hơn.Nói đến địa chính trị và địa kinh tế là nói đến lợi ích quốc gia. Trong quá khứ, do sự xâm nhập của các lực lượng quốc tế vào một quốc gia ở mức độ rất hạn chế nên lợi ích quốc gia thường tách biệt, thậm chí đối lập với lợi ích quốc tế.Ngày nay, với sự lên ngôi của các lực lượng đa quốc gia, các lợi ích quốc gia thường đan xen lên nhau đến mức khó phân biệt rạch ròi. Chẳng hạn, khi bất đồng với EU trong vấn đề Iraq, Hoa Kỳ không thể trừng phạt kinh tế các công ty EU vì trong đó có lợi ích của các nhà đầu tư Hoa Kỳ.
Những quan niệm mới trên sẽ giúp chúng ta đánh giá xác thực các ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của Việt Nam, góp phần đưa ra một chiến lược phát triển kinh tế khả thi, linh hoạt, dễ dàng điều chỉnh trước một thế giới năng động, phức tạp và nhiều rủi ro của hiện tại và tương lai.
3. Khai thác ưu thế địa chính trị và địa kinh tế
Vận dụng tư duy mới để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam phải kết hợp giữa khai thác triệt để các ưu thế địa chính trị, địa kinh tế của đất nước với việc thực thi một chính sách hợp tác kinh tế quốc tế sáng suốt. Một chiến lược như vậy sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xác lập địa vị của Việt Nam trong hệ thống kinh tế – chính trị toàn cầu.
Trước hết, để có một chiến lược phát triển kinh tế đúng, chúng ta phải hiểu mình, hiểu cấu trúc lực lượng xã hội, hiểu trạng thái hiện tại, những gì chúng ta đang có và mục tiêu chúng ta cần vươn tới. Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là một nền kinh tế tạo ra rất ít giá trị gia tăng. Việt Nam là một quốc gia không có nhiều truyền thống kinh doanh. Lịch sử Việt Nam thiếu vắng những nhà công thương lớn. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đạt được thành tích đáng kể trong nông nghiệp nhưng trên tổng thể, nông nghiệp cũng phơi bày những điểm yếu cơ bản của chúng ta. Hiện nay, 70 đến 80% lực lượng lao động Việt Nam đang làm việc trong khu vực nông nghiệp, ngành kinh tế tạo được rất ít giá trị gia tăng. Chúng ta phải phát triển những ngành kinh tế làm ra nhiều giá trị gia tăng, phải phấn đấu để sao cho trong vòng 15 đến 20 năm tới có được một tỷ lệ lao động như vậy làm việc trong các ngành kinh tế mới này.
Tiếp đó, chúng ta phải hiểu người, tức các quốc gia, các thể chế quốc tế, chấp nhận họ như những đối tác và cũng có thể là đối thủ cạnh tranh. Hiểu để hợp tác và khai thác sức mạnh của các đối tác, hạn chế những thế mạnh của đối thủ cạnh tranh. Nhưng dù là đối tác hay đối thủ, họ đều có ích cho chúng ta và trên những khía cạnh và mức độ khác nhau, họ đều tham gia vào quá trình đổi mới, phát triển của Việt Nam. Hiểu được điều này chúng ta sẽ có thái độ trân trọng và có cách đối thoại, hợp tác có hiệu quả nhất với các đối tác bên ngoài.
Điều cuối cùng, việc khai thác các ưu thế địa chính trị và địa kinh tế luôn phải gắn với xu thế và các nhân tố chủ yếu quyết định đến tiến trình phát triển của thời đại. Vận dụng tư duy mới trong địa kinh tế và địa chính trị, chúng ta có thể tránh được những sai lầm của quá khứ trong công tác hoạch định chiến lược phát triển. Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và tự do thương mại bùng nổ như hiện nay, chúng ta không nhất thiết phải làm lại những gì thế giới đã làm mà cần ưu tiên khai thác thế mạnh của mình để chủ động gia nhập quá trình này. Chỉ có như vậy chúng ta mới xác lập được vị trí xứng đáng của Việt Nam trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Trong khuôn khổ hạn chế, bài viết này không có tham vọng vạch ra một cách chi tiết, mà chỉ mong muốn đưa ra một phác thảo cơ bản nhất cho chiến lược phát triển kinh tế mới của Việt Nam trong khoảng thời gian 15 đến 20 năm tới.
Phát triển kinh tế mềm để điều chỉnh và thích ứng trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nhiều biến động
Tư duy địa chính trị và địa kinh tế mới cho thấy không thể xây dựng kinh tế theo cấu trúc cứng nhắc và càng không thể phát triển Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa. Việt Nam hiện đại hóa mà không cần và không nhất thiết phải công nghiệp hóa. Công nghiệp không phải là một thế mạnh của Việt Nam, hãy để cho Trung Quốc và các nước khác làm công nghiệp. Chủ trương công nghiệp hóa chỉ hướng phát triển kinh tế Việt Nam cho những mục tiêu trong nước mà không thấy được Việt Nam cần phát triển kinh tế để đáp ứng đòi hỏi của thị trường khu vực và thế giới. Nếu phát triển theo hướng công nghiệp hóa, chúng ta sẽ tiếp tục đánh mất những ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của mình. Công nghiệp hóa trong giai đoạn hiện nay không chỉ là sự bất khả thi về vốn đầu tư, mà về bản chất chỉ là sự làm lại những gì thế giới đã làm nhưng luôn thua kém về trình độ, và do vậy, không thể cạnh tranh với các quốc gia công nghiệp đi trước. Công nghiệp hóa sẽ dẫn đến một cơ cấu kinh tế cứng, khó thích ứng và rất khó điều chỉnh trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nhiều biến động.
Việt Nam nên phát triển kinh tế mềm, trở thành một quốc gia cung cấp dịch vụ cho khu vực và thế giới, bởi đất nước ta án ngữ một dải rất rộng vùng Đông Nam á, là cửa ngõ thông ra thế giới của một khu vực rộng lớn từ Lào đến Campuchia, toàn bộ miền Đông – Bắc Thái Lan và miền Bắc Miến Điện. Với việc phát triển kinh tế dịch vụ, Việt Nam sẽ có vị thế quan trọng trong việc hỗ trợ quá trình phát triển tại khu vực. Hạt nhân cấu trúc kinh tế mềm của Việt Nam dựa trên phát triển kinh tế dịch vụ, đặc biệt là du lịch và ngành kinh tế biển. Ví dụ như khu vực Hạ Long, 30 năm trước đây là một trung tâm công nghiệp khai thác mỏ, cung cấp than để công nghiệp hóa đất nước, một thành phố bụi bặm với những con người lầm lũi. Bây giờ, Hạ Long có ngành kinh tế du lịch với Vịnh Hạ Long nổi tiếng và khu nghỉ mát Tuần Châu hiện đại. Du lịch sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn than, giúp vùng than đoạn tuyệt với quá khứ lầm than và ngày càng trở nên tươi đẹp
Trục Đông – Tây, con đường hội nhập quốc tế và phát triển nhanh nhất
Trước đây, người Pháp phân chia Việt Nam thành ba kỳ theo trục Bắc – Nam, nhưng với quan điểm địa kinh tế hiện đại, cách phân chia này đã trở nên lạc hậu. Ngày nay, Việt Nam cần phát triển theo hướng Đông – Tây thay vì theo trục Bắc – Nam như cũ. Việt Nam phải phát huy thế mạnh của đất nước có hơn 3000 km bờ biển trong bối cảnh đại dương là một vùng kinh tế được khai thác mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Vận tải đường biển với chi phí thấp và năng lực chuyển tải lớn sẽ nối thế giới với Việt Nam đi tới các khu vực kém phát triển của các quốc gia láng giềng phía Tây. Phát triển lan truyền theo trục Đông – Tây thể hiện tư tưởng hội nhập quốc tế và tạo ra cơ hội để Việt Nam có thể đạt được tốc độ phát triển nhanh và hiệu quả hơn nhiều so với trục Bắc – Nam.
Việt Nam ở bên cạnh Trung Quốc nhưng thực chất là gần với khu vực lạc hậu của Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam hay Việt Nam hỗ trợ các vùng lạc hậu của Trung Quốc phát triển? Đại dương mênh mông mở ra cơ hội lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay và trong tương lai. Nếu không nhận thức được điều này, tiếp tục phát triển Việt Nam theo trục Bắc – Nam sẽ dẫn đến nhiều sai lầm, kể cả trong việc phân bổ quyền lực bộ máy lãnh đạo. Chiến lược phát triển theo trục Đông – Tây, xây dựng các đô thị ven biển làm hạt nhân và tạo nguồn động lực lan truyền quá trình phát triển tới các vùng sâu của Việt Nam và đi tới các quốc gia láng giềng, sẽ mang lại nhiều cơ may và lợi ích to lớn cho Việt Nam và cả khu vực.
Phát triển theo trục Đông – Tây, với việc mở mang kinh tế biển và vận tải biển, không chỉ giảm bớt sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc, không những tạo điều kiện cho Việt Nam xâm nhập thị trường Trung Quốc rộng lớn mà còn cải thiện đáng kể khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khổng lồ này. Nếu không phát triển theo trục Đông – Tây, Việt Nam không khai thác được các ưu thế về địa kinh tế của mình và càng trở nên bị động và lúng túng trong cuộc cạnh tranh với một nước Trung Quốc có quá nhiều ưu thế. Chỉ khi nào công cuộc cải cách biến Trung Quốc thành một quốc gia phát triển thực sự, tất cả các vùng kinh tế của nước này đạt được trình độ phát triển cao thì trục Bắc – Nam mới tác động tích cực đến sự phát triển của Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, những hàng hóa có chất lượng quốc tế cũng như nguồn công nghệ cao vào Việt Nam từ phía Đông mà không phải từ phía Bắc, trục Bắc – Nam không những không tác động tích cực, thậm chí còn có nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Bởi luồng hàng hóa vào Việt Nam theo trục này thường là hàng hóa của nền công nghiệp hương trấn địa phương với chất lượng thấp và có nhiều biểu hiện vi phạm các quy định thương mại quốc tế.
Thái độ chính trị sáng suốt cho một chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế hiệu quả
Trong tư duy địa chính trị và địa kinh tế hiện đại, một chiến lược hợp tác kinh tế hiệu quả phải gắn liền với một đường lối hợp tác chính trị sáng suốt. Bởi vậy, trước tiên chúng ta cần phác thảo những nét chủ yếu để nhận diện các đối tác chính trị quan trọng nhất.
Hoa Kỳ với vai trò cường quốc số một thế giới, luôn quan tâm đến cả thế giới, tuy nhiên, do năng lực không phải là vô hạn, Hoa Kỳ chỉ đặc biệt chú trọng đến một số đối tác và khu vực quan trọng nhất. Trung Quốc đặt trọng tâm những mối quan tâm vào toàn bộ châu á và ngày càng quan tâm hơn đến khu vực ASEAN, nhưng do những vấn đề của chính mình, giữa tham vọng và năng lực của quốc gia này còn là một khoảng cách lớn. Trung Quốc để ý đến Việt Nam nhiều nhất trong số các quốc gia láng giềng phía nam vì những quan hệ vốn có trong lịch sử và vì Việt Nam là một quốc gia với 80 triệu dân, có một vị trí đáng kể trên trường quốc tế. Trung Quốc có thể thông qua Việt Nam để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác trong khối ASEAN. Ngoài ra, còn phải kể đến Nhật Bản, nước cũng có tham vọng trở thành cường quốc khu vực, và do vậy cũng chú ý nhiều đến Việt Nam trong chiến lược Đại Đông á của họ.
Việt Nam không phải là một nước lớn nhưng cũng không bao giờ là một quốc gia nhỏ bé. Trong bảng xếp hạng thế giới, với vị trí thứ 15-16 về dân số và 66 về diện tích, đáng lẽ phải là một quốc gia có ảnh hưởng quan trọng trên trường quốc tế nhưng chúng ta đã phạm phải sai lầm trong phát triển, bỏ lỡ nhiều cơ hội, thời gian và công sức nên Việt Nam vẫn chưa có vị thế tương xứng với tầm vóc của mình.
Chúng ta đang sống trong thời đại của đối thoại và hợp tác quốc tế, nhưng dường như chúng ta vẫn tiếp tục xem quá khứ là đối tác quan trọng nhất. Thế hệ hiện tại thỏa hiệp với những yêu cầu của thế hệ đi trước làm cho sự phát triển của Việt Nam tiến triển rất chậm chạp. Cũng vì ít tham gia đối thoại chính trị quốc tế nên Việt Nam chưa có chính sách hợp tác quốc tế hiệu quả. Hội nhập trong nỗi lo sợ đánh mất mình và diễn đạt sự bảo vệ bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa thành vỏ bọc nhằm bảo tồn cả những yếu tố đã lạc hậu của hệ thống chính trị, làm cho mọi hoạt động chính trị của Việt Nam về cơ bản là đàm phán và thỏa hiệp với quá khứ. Chừng nào chưa thoát khỏi sự chi phối của quá khứ thì Việt Nam vẫn chưa có chính sách hợp tác quốc tế hiệu quả và chúng ta vẫn chỉ là một quốc gia tự náo nhiệt mình.
Chiến lược hợp tác quốc tế sáng suốt và hợp lý nhất của Việt Nam trong vòng nửa đầu thế kỷ XXI là mở cửa sang phương Tây, hợp tác triệt để với Hoa Kỳ, chung sống hòa bình với Trung Quốc. Chúng ta không mong đợi nhiều từ Trung Quốc nhưng hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc là điều kiện tối cần thiết để chúng ta có điều kiện tập trung những cố gắng vào phát triển kinh tế. Trong chiến lược hợp tác và cạnh tranh với Trung Quốc, Việt Nam phát triển kinh tế càng khác với Trung Quốc bao nhiêu càng tốt. Trên thế giới này không có một nước nào có thể cạnh tranh với Trung Quốc nếu sản xuất những hàng hóa có đặc tính giống hàng hóa Trung Quốc. Nước Thụy Sĩ nhỏ bé nhưng người Thụy Sĩ sống tốt bên cạnh châu Âu hùng mạnh nhờ dịch vụ ngân hàng và sản xuất những máy móc tinh vi. Kinh nghiệm của người Thuỵ Sĩ chỉ ra cho chúng ta nên sản xuất những gì khác biệt với hàng hóa Trung Quốc, những gì mà đặc tính số đông không là ưu thế. Chỉ có như vậy Việt Nam mới phát triển ổn định và ít rủi ro bên cạnh một nền kinh tế lớn như Trung Quốc.
Không hoạch định được tương lai, người ta có thể trở thành một bộ phận trong tương lai của người khác. Không có con đường nào đi tới tương lai tốt đẹp lại được dẫn dắt bằng một tư duy lạc hậu. Hoạch định chiến lược phát triển là sự quy hoạch tương lai, đòi hỏi nhiều sáng tạo của trí tưởng tượng, tính năng động và sự sáng suốt khoa học. Trong một thời gian dài bị chi phối bởi những tham vọng chủ quan, kinh tế Việt Nam luôn bị đặt vào tình thế bị động, lúng túng đối phó trước thực tế phát triển. Nguyên nhân có phần do chúng ta đã bỏ qua hoặc xử lý thiếu hiệu quả các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế khi hoạch định chiến lược phát triển cho đất nước. Không thể dựa vào ảo tưởng chính trị để đưa ra những mục tiêu nhằm tự huyễn hoặc mình và cũng không thể sao chép, lặp lại những kinh nghiệm của các quốc gia đi trước. Trong nhiệm vụ khó khăn và phức tạp này, vận dụng một cách sáng tạo những quan niệm khoa học hiện đại về địa chính trị và địa kinh tế sẽ giúp chúng ta tránh được những sai lầm của quá khứ. Chỉ có sự sáng suốt khoa học mới có thể đưa ra một quyết sách chiến lược phát triển kinh tế hợp lý nhất, con đường đúng đắn và nhanh nhất đi tới tương lai, hội nhập vào trào lưu chung của thời đại. Chính trong quá trình này chúng ta sẽ tìm lại được chính mình, một nước Việt Nam mới, giàu mạnh và phát triển.
S.T
Theo Redsvn
Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2019
Sai lầm của Trump trong chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
Truyền thông thế giới tiếp tục thảo luận về việc Việt Nam được cho là nước hưởng lợi lớn nhất từ cuộc chiến thuế quan Mỹ-Trung, viết về thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ và những biện pháp trừng phạt có thể từ phía Hoa Kỳ.
Bloomberg cho biết rằng, theo ước tính của Capital Economics Ltd., nếu Trump đánh thuế 25% với toàn bộ hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam, y như ông làm với hàng hóa từ Trung Quốc, thì kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Hà Nội sẽ giảm 25%, tương đương với hơn 1% GDP.
Nhưng, đã từ lâu các nhà lãnh đạo Việt Nam làm việc tích cực để bảo vệ đất nước khỏi các cú sốc thương mại, loại bỏ sự phụ thuộc vào bất kỳ thị trường nào, kể cả Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Hà Nội đã ký hơn một chục hiệp định thương mại tự do, ví dụ, theo thỏa thuận với EU vừa được ký kết, 99% hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu.
Cũng như Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện Xuyên Thái Bình cuối cùng cung cấp cho Việt Nam quyền tiếp cận miễn thuế vào các thị trường như Canada và Nhật Bản để xuất khẩu nhiều sản phẩm.
Và tạp chí có uy tín The Wall Street Journal lưu ý rằng, chính sách thương mại của ông Trump làm thay đổi nguồn hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ thay vì giảm khối lượng hàng nhập khẩu.
Trong những tháng gần đây, việc áp thuế đối với hàng hóa Trung Quốc đã làm giảm thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc, nhưng tổng thâm hụt thương mại của Mỹ năm 2018 đã đạt mức cao kỷ lục.
Các nhà sản xuất đang rời khỏi Trung Quốc, nhưng không chuyển đến Mỹ. Trong khi xuất khẩu hàng hóa Trung Quốc sang Hoa Kỳ giảm 12,3% từ tháng 1 đến tháng 5, xuất khẩu từ Việt Nam đã tăng 36,4%. Theo báo cáo của ADB, Mỹ thậm chí có thể bị thiệt hại do sự chuyển hướng thương mại quốc tế.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, nếu chính sách áp thuế lan rộng khắp thế giới, việc làm ở Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng, trong khi đó các nước đang phát triển ở châu Á sẽ có nhiều việc làm. Thiệt hại của Mỹ có thể lên tới 30 nghìn việc làm trong ngành điện tử, 48 nghìn trong ngành sản xuất máy công nghiệp và hơn 50 nghìn trong nông nghiệp.
Xinhua đưa tin rằng, các tổ chức tài chính nước ngoài đang gia tăng sự hiện diện và tăng vốn tại Việt Nam, và mức tiền lương tối thiểu ở Việt Nam sẽ tăng trong năm 2020.
0
Bloomberg cho biết rằng, theo ước tính của Capital Economics Ltd., nếu Trump đánh thuế 25% với toàn bộ hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam, y như ông làm với hàng hóa từ Trung Quốc, thì kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Hà Nội sẽ giảm 25%, tương đương với hơn 1% GDP.
Nhưng, đã từ lâu các nhà lãnh đạo Việt Nam làm việc tích cực để bảo vệ đất nước khỏi các cú sốc thương mại, loại bỏ sự phụ thuộc vào bất kỳ thị trường nào, kể cả Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Hà Nội đã ký hơn một chục hiệp định thương mại tự do, ví dụ, theo thỏa thuận với EU vừa được ký kết, 99% hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu.
Cũng như Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện Xuyên Thái Bình cuối cùng cung cấp cho Việt Nam quyền tiếp cận miễn thuế vào các thị trường như Canada và Nhật Bản để xuất khẩu nhiều sản phẩm.
Và tạp chí có uy tín The Wall Street Journal lưu ý rằng, chính sách thương mại của ông Trump làm thay đổi nguồn hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ thay vì giảm khối lượng hàng nhập khẩu.
Trong những tháng gần đây, việc áp thuế đối với hàng hóa Trung Quốc đã làm giảm thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc, nhưng tổng thâm hụt thương mại của Mỹ năm 2018 đã đạt mức cao kỷ lục.
Các nhà sản xuất đang rời khỏi Trung Quốc, nhưng không chuyển đến Mỹ. Trong khi xuất khẩu hàng hóa Trung Quốc sang Hoa Kỳ giảm 12,3% từ tháng 1 đến tháng 5, xuất khẩu từ Việt Nam đã tăng 36,4%. Theo báo cáo của ADB, Mỹ thậm chí có thể bị thiệt hại do sự chuyển hướng thương mại quốc tế.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, nếu chính sách áp thuế lan rộng khắp thế giới, việc làm ở Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng, trong khi đó các nước đang phát triển ở châu Á sẽ có nhiều việc làm. Thiệt hại của Mỹ có thể lên tới 30 nghìn việc làm trong ngành điện tử, 48 nghìn trong ngành sản xuất máy công nghiệp và hơn 50 nghìn trong nông nghiệp.
Xinhua đưa tin rằng, các tổ chức tài chính nước ngoài đang gia tăng sự hiện diện và tăng vốn tại Việt Nam, và mức tiền lương tối thiểu ở Việt Nam sẽ tăng trong năm 2020.
Đăng trong:
Châu Á - Thái Bình Dương,
Kinh tế,
Việt Nam,
Việt-Mỹ
Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019
Giải mã vấn đề nợ trong sáng kiến “Vành đai và Con đường”
Tiền của Trung Quốc lấp đầy khoảng trống trong quỹ tài trợ cơ sở hạ tầng quốc tế. Vậy tại sao nó lại gây ra nợ nần và tranh luận? Liệu Bắc Kinh có thực sự tìm cách mua ảnh hưởng chính trị ở nước ngoài hay không? Trung Quốc đang có một trong những dấu ấn phát triển toàn cầu lớn nhất. Nước duy nhất có các dòng chảy tài chính quốc tế chính thức lớn hơn là Mỹ. Tuy nhiên, Washington chi cho Hỗ trợ phát triển chính thức nhiều gấp 4 lần so với Bắc Kinh. Phần lớn nhất của các dòng tiền chính thức của Trung Quốc được xếp vào khoản Tài chính chính thức khác và gần như chi cho các khoản vay để thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng, năng lượng và liên lạc. Những dự án này là một phần của Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI), phương tiện chính của Trung Quốc để thúc đẩy sự phát triển cả trong và ngoài nước. Thông qua các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng, mục đích của Bắc Kinh là kết nối tốt hơn Trung Quốc với các phần khác của thế giới và để tăng cường giao thương dọc con đường này. 5 năm sau khi Tập Cận Bình công bố các kế hoạch của mình về BRI, Trung Quốc đã chi khoảng 25 tỷ USD cho những dự án cơ sở hạ tầng liên quan. Nhưng các nước được lợi từ các khoản đầu tư của Trung Quốc ở mức độ nào? Theo báo cáo tháng 3/2018 của Trung tâm phát triển toàn cầu (CGD), ít nhất 8 nước có nguy cơ vỡ nợ bởi các khoản cho vay liên quan đến BRI của Trung Quốc. Những người chỉ trích sợ rằng Trung Quốc đang sử dụng các khoản vay để tạo sự phụ thuộc và gia tăng ảnh hưởng chính trị. "Ngoại giao bẫy nợ" của Trung Quốc Nguyên cố vấn Chính phủ Mỹ và Giám đốc Trung tâm Carnegie-Tsinghua Paul Haenle tóm tắt nội dung chỉ trích: "Một số người tin rằng Trung Quốc đang thực hiện "ngoại giao bẫy nợ" thông qua BRI, khiến các nước đang phát triển phải phụ thuộc vào các khoản nợ và sau đó chuyển sự phụ thuộc đó thành ảnh hưởng địa chính trị". Haelen giải thích: "Những lo ngại đặc biệt xung quanh các hành động của Trung Quốc ở Sri Lanka, Pakistan và Malaysia đang là trọng tâm của các cuộc tranh luận về bẫy nợ. Trung Quốc giành được quyền điều hành 99 năm cảng Hambantota ở phía Nam Sri Lanka sau khi chi phí cho dự án đã tăng vượt khỏi tầm kiểm soát buộc Colombo phải từ bỏ quyền kiểm soát cảng để đối lấy gói cứu trợ của Trung Quốc". Tìm kiếm giải pháp thay thế việc thanh toán khi các nước không đủ khả năng trả nợ không phải là một cách làm mới đối với Trung Quốc. Báo cáo của CDG cho biết hồi năm 2011, có tin Trung Quốc đã xóa nợ cho Tajikistan để đổi lấy 1.158 km² lãnh thổ tranh chấp. Nhưng theo Haenle, năm 2018, “luận cứ bẫy nợ đã giành được sự tin cậy hơn sau khi Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamed đã hủy bỏ các dự án BRI trị giá 23 tỷ USD và cảnh báo đừng trở thành con mồi của ‘một phiên bản chủ nghĩa thực dân Trung Quốc’”. Một số nước phương Tây đã nhanh chóng ủng hộ quan điểm này. Ngoại trưởng Mỹ thời đó Rex Tillerson đã cảnh báo về cách tiếp cận phát triển của Trung Quốc trong bài diễn văn tại Đại học George Mason ở Virginia. Theo Tillerson, chiến lược của Trung Quốc "khuyến khích sự phụ thuộc bằng việc sử dụng các hợp đồng mập mờ, các thông lệ cho vay kiểu chiếm đoạt, và các thỏa thuận tham nhũng khiến các nước này mắc nợ và buộc phải cắt giảm chủ quyền, tước bỏ khả năng phát triển lâu dài và ổn định của họ". Frans-Paul van der Putten đã theo dõi Trung Quốc trong 12 năm, hiện làm việc tại Clingendael, tổ chức tư vấn chiến lược về quan hệ quốc tế Hà Lan. Ông cho rằng việc tạo ra các khoản nợ giữa các đối tác trong BRI là một chiến lược có chủ ý và được xem xét đầy đủ của Trung Quốc, với mục đích đổi nợ lấy tài nguyên hoặc hỗ trợ ngoại giao sau này là không có khả năng. Nhưng Bắc Kinh cũng hầu như không làm gì để ngăn điều này xảy ra. Điều này phù hợp với cách tiếp cận luôn thực dụng của Trung Quốc, theo van der Putten: "Việc các nước này có trả được nợ hay không thực sự không phải là vấn đề, bởi nếu họ không thể, chúng ta sẽ tìm cách khác để thu lợi". Trung Quốc không sợ sử dụng các khoản nợ làm đòn bẩy và các thỏa thuận của nước này với những nước mắc nợ đều không theo thể thức và được tiến hành theo từng trường hợp. Trung Quốc luôn thắng Với ý tưởng "hợp tác cùng thắng", Bắc Kinh luôn giành được gì đó từ khoản tài trợ của mình. Nếu đòn bẩy chính trị chỉ là một tác dụng phụ hữu ích, thì Trung Quốc sẽ phải giành được gì từ hàng tỷ USD nước này chi cho cơ sở hạ tầng nước ngoài? Mô hình phát triển của Trung Quốc dựa vào thương mại. Cơ sở hạ tầng tốt hơn có nghĩa là tăng cường thương mại, thúc đẩy sự phát triển. BRI nhằm kết nối và phát triển các khu vực phía Tây của Trung Quốc, nhưng cũng hướng tới phát triển các thị trường khác thành các lợi thế của mình. Phương Tây đã đạt tới tiềm năng phát triển và sẽ không mua thêm gì từ Trung Quốc. Nhưng châu Phi, với dân số lớn, trẻ và đang gia tăng, là lục địa có tiềm năng phát triển thực sự. Bằng việc thúc đẩy phát triển ở các nước châu Phi, Trung Quốc muốn phát triển và mở một thị trường mới ở lục địa này. Hơn nữa, theo lời giải thích của van der Putten, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng là "khoản đầu tư vào quan hệ tốt hơn giữa Chính phủ Trung Quốc và chính phủ của nước tiếp nhận. Cho vay là một lợi thế ngoại giao, bởi nó thắt chặt các quan hệ với một nước cụ thể. Đó là một thu hoạch của Trung Quốc mà không thể thể hiện bằng tiền". Cái có thể được thể hiện bằng tiền là công việc mà Trung Quốc cung cấp cho các công ty xây dựng của mình thông qua các dự án BRI. Ngân hàng chính sách Trung Quốc thường cung cấp tiền cho một dự án cụ thể tại nước vay nợ với điều kiện các công ty Trung Quốc thực hiện dự án. Van der Putten giải thích: "Vì vậy, đa phần các dòng tiền chảy từ các ngân hàng chính sách Trung Quốc tới các công ty xây dựng của Trung Quốc. Đường sắt đang được xây dựng, đường cao tốc đang được xây dựng. Có lẽ nó sẽ không bao giờ được sử dụng, nhưng các công ty xây dựng này đã đạt được mục tiêu của mình". Lấp đầy khoảng trống cơ sở hạ tầng Nhưng Trung Quốc được lợi không nghiễm nhiên có nghĩa là các nước tiếp nhận không thu được gì. Các dự án cơ sở hạ tầng Trung Quốc đang đáp ứng nhu cầu cần thiết - Ngân hàng phát triển châu Á ước tính rằng chỉ riêng châu Á cần khoảng 26.000 tỷ USD đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho tới năm 2030 để duy trì tốc độ tăng trưởng hiện nay. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thiếu cơ sở hạ tầng thích hợp là một trong những khó khăn lớn nhất đối với sự tăng tưởng và phát triển ở châu Phi và Mỹ Latinh. Vì vậy, theo Haenle, việc BRI tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng có thể đi đến "tình huống rõ ràng 'hai bên cùng thắng'". Haenle lập luận: "Đầu tư cơ sở hạ tầng hay thúc đẩy liên kết toàn cầu trong thế giới phát triển vốn chẳng có gì sai". Theo Marina Rudyak, người đã làm việc trong lĩnh vực phát triển trong nhiều năm và hiện đang hoàn thành luận án tiến sĩ về sự hợp tác phát triển Trung Quốc tại Đại học Heidelberg (Đức), có một "khoảng cách rất lớn giữa số tiền cần có để phát triển và số tiền hiện có, nhất là trong cơ sở hạ tầng",. Các tổ chức đa phương và các nhà tài trợ hiện nay không thể tài trợ tất cả những dự án phát triển cần thiết do đó vẫn còn nhiều không gian cho Trung Quốc bên cạnh các nhà tài trợ truyền thống. "Đó không phải vấn đề về tiền của Mỹ hay Trung Quốc, tiền của EU hay Trung Quốc. Châu Phi cần tất cả". Van der Putten giải thích rằng các ngân hàng phát triển quốc tế, như Ngân hàng phát triển châu Phi và Ngân hàng Thế giới, đã giới hạn các khoản tài trợ sẵn có. Điều này không đủ để tài trợ cho tất cả các dự án phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết. Các ngân hàng thương mại phương Tây không thể cung cấp các khoản cho vay rủi ro kể từ sau khủng hoảng kinh tế. Van der Putten nói: "Vai trò của Trung Quốc là rất quan trọng bởi họ không chỉ là một nguồn tài chính thay thế, mà còn là một nguồn tài chính thực sự lớn". Các ngân hàng phát triển của Trung Quốc, như Ngân hàng phát triển Trung Quốc và Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc (Exim), cung cấp tài chính cho dự án dựa vào mức giá bình thường. Van der Putten nhấn mạnh: "Đây không phải là viện trợ phát triển", nhưng nó có một số đặc điểm của viện trợ phát triển. "Có những khoản vay rủi ro cho các nước đang phát triển, nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng của họ". Mô hình cho vay của Trung Quốc Tiền của Trung Quốc lấp đầy khoảng trống trong quỹ tài trợ cơ sở hạ tầng quốc tế. Vậy tại sao nó lại gây ra nợ nần và tranh luận? Lý do là hầu hết quỹ tài trợ BRI đang dựa vào các cấu trúc quan hệ giữa hai nhà nước. Điều này có thể tạo ra các thách thức về khoản nợ chính phủ với các tác động có thể có đối với các mối quan hệ song phương. Các khoản nợ thường được thực hiện theo các tiêu chuẩn được quyết định bởi các tổ chức đa phương như Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế hay các cơ chế đa phương như Câu lạc bộ Paris. Nhưng Trung Quốc không phải là thành viên của Câu lạc bộ Paris, vì vậy nước này không cần thông báo cho các thành viên về các hoạt động tín dụng của mình và không phải theo bất kỳ tiêu chuẩn nào. Báo cáo của CDG kết luận: "Không có một khuôn khổ đa phương chỉ dẫn hay khuôn khổ khác để xác định cách tiếp cận của Trung Quốc với các vấn đề về tình bền vững của các khoản nợ, chúng ta chỉ có bằng chứng có tính giai thoại về các hoạt động đặc biệt mà Trung Quốc thực hiện làm cơ sở để mô tả cách tiếp cận chính sách của quốc gia". Theo giải thích của Scott Morris, một trong những tác giả của báo cáo CDG về nợ ở các nước BRI, thay vì các tiêu chuẩn phổ quát, "Trung Quốc nói chung tuân thủ luật địa phương khi cho vay để thực hiện các dự án phát triển. Điều này có nghĩa là các tiêu chuẩn cao khi luật địa phương mạnh và tiêu chuẩn rất thấp khi luật yếu". Sự khác nhau với các khoản vay từ các tổ chức như Ngân hàng Thế giới là những tổ chức này đánh giá luật địa phương và sẽ áp đặt sự bảo hộ của mình nếu luật địa phương quá yếu. Morris cho biết Trung Quốc bỏ lại trách nhiệm này cho các chính phủ đối tác và "tuân thủ theo luật địa phương". Ông bổ sung thêm: "Trung Quốc cũng không nhạy cảm với các vấn đề về tình bền vững của nợ, vì thế các điều khoản cho vay không hoàn toàn phù hợp với các rủi ro nợ của quốc gia. Vì thế, việc các nước tiếp nhận được lợi từ các khoản vay của Bắc Kinh đến mức độ nào phụ thuộc rất nhiều vào các tiêu chuẩn của riêng họ”. Cái giá Bắc Kinh phải trả Trung Quốc cũng phải trả giá cho các vấn đề nợ ở các nước trong BRI. Trong các năm 2000-2014, Bắc Kinh chi 13 tỷ USD cho các hoạt động liên quan đến nợ. Về vấn đề nợ khó đòi, Trung Quốc giảm rủi ro bằng việc mở rộng các điều khoản cho vay. Theo Morris, Trung Quốc cũng chịu rủi ro đáng kể khi những bên cho vay không được trả nợ. Morris nói: mặc dù "nợ là yếu tố cần thiết cho đầu tư cơ sở hạ tầng, số lượng lớn các khoản nợ gây rủi ro lớn và cần quản lý cẩn thận bởi những người cho vay và những người đi vay”. Rudyak cho biết rằng điều quan trọng nhất là sự chỉ trích quốc tế cũng đang tạo một "vấn đề lớn ở Trung Quốc". "Công luận Trung Quốc chỉ trích gay gắt khoản viện trợ và các khoản cho vay của Trung Quốc". Trung Quốc không những không thu lại được tiền mà còn chịu sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế. Ngày càng có nhiều người Trung Quốc hỏi tại sao Bắc Kinh không chi số tiền này cho người nghèo ở trong nước. Trung Quốc và các khoản cho vay đa phương Trong một khuôn khổ đa phương, Trung Quốc đang hoạt động theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới. Theo Rubyak, Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) "hoàn toàn" đáp ứng được các quy định trong hệ thống Bretoon Woods. "Nếu bạn nhìn vào công việc thực tế họ đang làm, ngoại trừ nó được người Trung Quốc thành lập hoặc đề xuất và được đặt ở Bắc Kinh, bên cạnh tất cả các ngân hàng chính sách khác của Trung Quốc, nó là một ngân hàng đa phương bình thường và nhàm chán”. AIIB lưu thông số tiền ít hơn rất nhiều so với các ngân hàng chính sách khác của Trung Quốc, như Ngân hàng phát triển Trung Quốc hay Ngân hàng Exim Trung Quốc. Một số người chỉ trích khẳng định rằng Trung Quốc muốn xây dựng một hệ thống riêng bên cạnh trật tự thống trị hiện nay hoặc các thể chế Bretton Wooods như Ngân hàng Thế giới và IMF. Với những ngân hàng chính sách của mình, Bắc Kinh có thể tránh được hạn chế của trật tự hiện nay, các tiêu chuẩn và quy chế mà liên quan chặt chẽ đến trật tự đó. Van der Putten không nghĩ Trung Quốc muốn thay thế Ngân hàng Thế giới. Ông nói: "Khi nói tới tài trợ phát triển và tài trợ cơ sở hạ tầng, Trung Quốc chỉ sử dụng tất cả các phương tiện có sẵn". Nhưng Bắc Kinh có thể sử dụng ảnh hưởng cho vay đang ngày một tăng để tăng cường sức ảnh hưởng trong Ngân hàng Thế giới. Haenke nói: "Dĩ nhiên Trung Quốc cũng sẽ tìm cách có được tầm vóc và ảnh hưởng toàn cầu tương xứng với sức mạnh của nước này". Trong các tổ chức như Ngân hàng Thế giới, Bắc Kinh vẫn không có mức độ ảnh hưởng như họ mong muốn. "Bắc Kinh đang đảm nhận vai trò lãnh đạo lớn hơn trong các tổ chức Bretton Woods và Liên hợp quốc, nhưng cũng thành lập các tổ chức riêng mà nước này cho rằng thích nghi tốt hơn với thực tế ngày nay". Quan điểm này được chia sẻ ngày càng nhiều bởi các nhà lãnh đạo thế giới. Trong khi kêu gọi nỗ lực hiện đại hóa các tổ chức để phản ánh cán cân quyền lực hiện nay thay vì tạo ra những cái mới, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã nói gián tiếp tới Trung Quốc. Tại Diễn đàn kinh tế thế giới vào tháng 1/2019, Angela Merkel nói: "Từ phía chúng ta, bị ảnh hưởng bởi các giá trị phương Tây, chúng ta nên sẵn sàng xem xét các tổ chức đã có và nhìn nhận cán cân quyền lực được phản ánh một cách thực tế với các tổ chức đó. Chúng ta phải chấp nhận các thực tế và cải cách mới và một cách tiếp cận mới sẽ làm yên lòng những ai đang ngờ vực về hệ thống quốc tế". Bằng việc thành lập các tổ chức mới, Haenle tin rằng "Trung Quốc không muốn phá hủy trật tự quốc tế, nước này muốn khôi phục nó. Tôi có một người bạn Trung Quốc so sánh quan điểm của Bắc Kinh về trật tự quốc tế với các đền thờ. Họ muốn xây những đền thờ mới, sửa chữa những đền thờ cũ, nhưng họ không muốn dỡ bỏ bất kỳ đền thờ nào". Sẽ không hợp lý khi Trung Quốc muốn lật đổ trật tự quốc tế, vì "Trung Quốc là một trong những nước được lợi nhất từ trật tự toàn cầu trong 4 thập kỷ qua". Các mục đích và chính trị Theo Rudyak, các tổ chức Bretton Woods "đang phản ánh những gì sau năm 1945 và thế giới đã thay đổi. Nhưng hiện nay tất nhiên khó khăn với cải cách là việc nhiều nước, muốn có tiếng nói lớn hơn, không phải các nền dân chủ tự do". Morris và các đồng tác giả khẳng định rằng Bắc Kinh nên đa phướng hóa BRI để tổ chức lại những nỗ lực ngày càng tăng của Trung Quốc trong tài trợ phát triển quốc tế và giảm thiểu các vấn đề nợ. Theo lời Morris: "Trung Quốc đánh giá cao sự can dự của mình với các tổ chức đa phương bởi đây là mối quan hệ ảnh hưởng. Tôi nghĩ các tổ chức này có cơ hội lớn nhất để thuyết phục và giúp Trung Quốc cải thiện các dự án và các tiểu chuẩn cho vay",. Bước đi gần đây của Trung Quốc nhằm mở một trung tâm phát triển năng lực chung với IMF là một động thái đáng khích lệ, với mục đích đào tạo các chuyên gia về chính sách và kinh tế vì vậy các nước có thể quyết định tốt hơn liệu có nên tiếp nhận khoản vay hay không. Rudyak khẳng định: "Thực tế là Trung Quốc có rất nhiều tri thức phát triển để chia sẻ. Trung Quốc đi từ nghèo đói đến vị trí hiện nay là điều mà không một ai trong chúng ta ở phương Tây làm được theo cách tương tự và trong khoảng thời gian như thế". Thay vì những chỉ trích chung chung về "ngoại giao bẫy nợ", chúng ta nên phân tích rõ hơn những dự án cụ thể nào sai hay đúng và tại sao. Sophie van der Meer là nhà khoa học chính trị, nhà báo Hà Lan. Bài viết được đăng trên The Diplomat. Trần Quang (gt)
0
Đăng trong:
Châu Á - Thái Bình Dương,
Kinh tế,
Tin kinh tế,
Trung Quốc
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)