Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tin kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tin kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

Sự sụp đổ của thị trường dầu mỏ thế giới

Đại dịch COVID-19 và một cuộc chiến về giá đã đẩy các thị trường năng lượng thế giới rơi vào khủng hoảng. Trong lịch sử, thị trường dầu mỏ toàn cầu chưa bao giờ sụp đổ đột ngột như hiện nay.


Nền công nghiệp dầu khí, cung cấp hơn 60% năng lượng cho toàn thế giới, đã chìm trong một cuộc khủng hoảng kép mà có lẽ chưa ai từng nghĩ có thể xảy ra vào đầu năm nay. Một cuộc chiến giá cả, trong đó các quốc gia sản xuất dầu mỏ tranh giành thị phần, đã dẫn đến việc thị trường này bị tổn hại nặng nề khi vấp phải một cuộc khủng hoảng lớn hơn do dịch COVID-19 gây ra và sắp tới nhiều khả năng sẽ là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Điều đó sẽ dẫn tới nhu cầu của thị trường giảm mạnh chưa từng thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào kể từ khi dầu mỏ trở thành mặt hàng toàn cầu. Giá dầu đã giảm 2/3 kể từ đầu năm 2020 và sẽ còn tiếp tục lao dốc. Chỉ trong tháng 4, mức giảm tiêu thụ của toàn cầu gấp 7 lần so với mức giảm sâu nhất tính theo quý sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Ở những khu vực không còn khả năng chứa dầu và mất thị trường, giá của một thùng dầu có thể giảm xuống mức bằng 0.

Sự sụp đổ này sẽ gây ra tình trạng bất ổn ở những nước xuất khẩu dầu và góp phần dẫn đến sự hỗn loạn của các thị trường tài chính. Điều đó cũng sẽ khiến môi trường địa chính trị vốn đã căng thẳng phức tạp thêm, kể cả bằng cách lôi kéo nước Mỹ vào một cuộc tranh cãi quốc tế về các giải pháp cần thực hiện để phục hồi đống đổ nát này. Tháng 2/2020, sản lượng dầu của Mỹ đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, với 13,2 triệu thùng/ngày - cao hơn đáng kể so với sản lượng của các nước sản xuất dầu mỏ hàng đầu khác trên thế giới là Saudi Arabia và Nga. Nhờ cuộc cách mạng dầu khí đá phiến với sự hỗ trợ của các kỹ thuật khai thác mới, nước Mỹ đã đạt được kỷ lục đó sau một thập kỷ đi lên từ một nước nhập khẩu dầu lớn nhất trở thành một nước xuất khẩu dầu lớn thế giới.

Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng đã bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt đó. Mặc dù từ lâu ông Trump ủng hộ giá dầu ở mức thấp - và từng nhanh chóng đăng dòng tweet phản đối Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và những nỗ lực quản lý nguồn cung toàn cầu trong những năm gần đây - nhưng cú sụp đổ lần này lại châm ngòi cho một thực tế trái ngược. Tổng thống Mỹ gần đây đã có cuộc điện đàm với người đồng cấp Nga Vladimir Putin để thảo luận về các giải pháp có thể có nhằm ngăn chặn cái mà sau đó ông gọi là sự sụt giảm gây tổn hại. Sau đó, ông Trump đã điện đàm với Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman, tuyên bố rằng các nước sản xuất dầu mỏ lớn đang xem xét phối hợp cùng nhau cắt giảm đáng kể sản lượng. Saudi Arabia đã triển khai những vấn đề được thống nhất trong cuộc điện đàm trên bằng việc tái triệu tập một cuộc họp của OPEC cùng với các nước chủ chốt trong lĩnh vực dầu mỏ, gồm Canada và Mexico. Tất cả những điều này đã làm cho giá dầu tăng trở lại mặc dù những yếu tố “khi nào”, “như thế nào” và “do ai” của thoả thuận tiềm năng trên vẫn còn chưa rõ ràng. Và càng nhiều đối tượng tham gia thì việc triển khai một thoả thuận sẽ càng trở nên khó khăn hơn.

Bản chất và phạm vi rộng lớn của sự sụp đổ và cuộc tranh giành địa chính trị hiện nay do nó tạo ra là những thách thức hiếm thấy đối với nước Mỹ và ngành năng lượng của nước này. Những thách thức này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế và chính sách đối ngoại của Mỹ trong một thời khắc vốn đã tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ.

Hồi kết của một trật tự mới trong ngành dầu mỏ

Cũng giống như rất nhiều ngành công nghiệp khác, tình trạng khó khăn trong các thị trường dầu mỏ là do đại dịch COVID-19 gây ra. Nhưng riêng trường hợp dầu mỏ, tình trạng khó khăn đó xuất hiện cùng với bước ngoặt về địa chính trị.

Đợt sụt giảm giá dầu gần đây nhất, bắt đầu từ năm 2014 do hậu quả của một đợt dư thừa nguồn cung, cuối cùng cũng đã kết thúc vào năm 2016 với sự xuất hiện của một trật tự dầu lửa quốc tế mới – Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ mở rộng (OPEC+). Đây là một thoả thuận giữa 11 thành viên OPEC và 10 nước không thuộc OPEC nhằm thống nhất về việc cắt giảm sản lượng để ổn định một thị trường đang trên đà sụt giảm. Đôi khi người ta gọi đó là Liên minh Vienna bởi đây là địa danh ký kết thoả thuận này, OPEC+ được thiết lập dựa vào liên minh không chính thức giữa Saudi Arabia và Nga sau khi 2 nước sản xuất dầu lớn nhất vào thời điểm đó đạt được thoả thuận hợp tác. Việc liên minh trên được thành lập cũng đã mở đường cho một mối quan hệ chiến lược, đem lại cho Nga cơ hội xây dựng quan hệ với một trong những đồng minh quan trọng nhất của Mỹ ở Trung Đông và cũng để Nga thu hút đầu tư từ Saudi Arabia. Đối với Saudi Arabia, đó là một con đường để mặc cả trong mối quan hệ với Mỹ và đạt được lợi thế đòn bẩy nào đó trong cuộc giằng co với Iran.

Tuy nhiên, giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng COVID-19, đợt bùng phát ở Trung Quốc trong tháng 1 và tháng 2 vừa qua, đã làm lung lay mối liên minh không chính thức trên. Trung Quốc, thị trường dầu mỏ tăng trưởng nhanh nhất thế giới đột nhiên bị đóng cửa. Thay vì tăng trưởng như kỳ vọng, nhu cầu dầu mỏ của thế giới đã lao dốc chưa từng thấy với mức giảm 6 triệu thùng/ngày trong quý I/2020.

Đầu tháng 3 vừa qua, trong và xung quanh các hội nghị của OPEC và OPEC+ ở Vienna, Saudi Arabia và Nga đã bắt đầu các cuộc thảo luận về cách ứng phó. Nhưng các nước nhanh chóng nhận ra rằng họ có quan điểm rất khác biệt. Ngân sách của Nga được tính toán dựa trên mức giá dầu tương đối thấp, khoảng 42 USD/thùng. Trong khi đó, theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Saudi Arabia cần một mức giá cao hơn, khoảng 80 USD/thùng để cân đối ngân sách của mình. Theo đó, Saudi Arabia cần những đợt cắt giảm sản lượng sâu hơn nhằm cố gắng thiết lập mức giá sàn; trong khi đó Nga tuy tỏ ra không chắc chắn nhưng giả định rằng tác động của COVID-19 nhiều khả năng sẽ lớn hơn rất nhiều và sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu trên toàn thế giới, nên yêu cầu duy trì thoả thuận đã có cho đến tháng 6 và sau đó sẽ đàm phán tiếp.

Saudi Arabia khăng khăng muốn cắt giảm sản lượng, Nga thì một mực nói không. Và thế là liên minh OPEC+ rạn nứt.

Mở van

Phản ứng tức thì của Saudi Arabia đối với tình trạng rạn nứt trong liên minh là tuyên bố rằng do không đạt được thoả thuận cắt giảm sản lượng với tất cả các nước khai thác dầu mỏ khác, nên nước này sẽ hoạt động hết công suất. Quốc gia này đã bắt đầu bơm dầu với công suất tối đa, hướng tới mục tiêu tăng thêm 2,5 triệu thùng vào sản lượng 9,7 triệu thùng mà nước này đang khai thác mỗi ngày. Sản lượng tăng thêm là để bù đắp khoản thâm hụt doanh thu do giá dầu giảm. Nga phản ứng lại bằng việc tuyên bố rằng nước này cũng sẽ khai thác hết công suất, nhưng năng lực để tăng sản lượng của nước này thấp hơn nhiều, với gần 300.000 thùng/ngày. Cuộc chiến giành thị phần đã bắt đầu như vậy.

Tuy nhiên, trong khi giá cả đang lao dốc không phanh, sự bùng phát dịch COVID-19 đang chuyển sang giai đoạn hai, với sức tàn phá lớn hơn - giai đoạn đại dịch toàn cầu. Việc đóng cửa gần như toàn bộ nền kinh tế thế giới đã gây ra sự sụp đổ về nhu cầu ở phạm vi toàn cầu chưa từng thấy trong lịch sử. Vào tháng 4, mức sụt giảm có thể lên đến 20 triệu thùng/ngày hoặc nhiều hơn, tương đương với khoảng 20% tổng cầu của thế giới.

Ngay cả khi nhu cầu giảm mạnh, dầu vẫn được hút ra khỏi giếng; nếu không được chuyển đến khách hàng thì phải được đưa đi nơi khác, điều đó có nghĩa là lượng dầu dư thừa sẽ được đưa vào kho dự trữ, chủ yếu là bể chứa ở khắp thế giới. Dựa trên thông số theo từng quốc gia, IHS Markit tính toán rằng kho chứa dầu thế giới sẽ được đổ đầy vào cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Khi điều này xảy ra, sẽ có hai hậu quả: giá dầu sẽ tụt dốc và nhà sản xuất sẽ đóng cửa các giếng dầu bởi họ không thể vứt bỏ số dầu đã khai thác.

Do tính chất của các mỏ dầu ở mỗi nước nên Nga và Saudi Arabia có khả năng sản xuất dầu với chi phí rẻ hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Ở những nước có chi phí khai thác dầu đắt hơn, khi giá mỗi thùng dầu bán được thấp hơn chi phí vận hành các giếng dầu, thì một công ty không thể tiếp tục khai thác mà không chịu lỗ trên mỗi thùng dầu. Vào thời điểm đó, công ty sẽ tạm thời đóng cửa giếng dầu. Trong số đó, dầu đá phiến của Mỹ sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất.

Kết quả là nhiều khả năng Mỹ sẽ phải từ bỏ thị phần trên thị trường toàn cầu vào tay nước khác. Theo Igor Sechin, CEO của Rosneft (tập đoàn sản xuất 40% sản lượng dầu ở Nga) và là người phản đối thoả thuận OPEC+ năm 2016: “Nếu bạn từ bỏ thị phần, thì bạn sẽ không bao giờ lấy lại được”. (Đối với một số người ở Moskva, đây là điều đáng mừng, vì họ coi sự phát triển của ngành khai thác dầu đá phiến của Mỹ đồng nghĩa với việc trao cho nước này quyền tự do áp đặt các lệnh trừng phạt đối với lĩnh vực năng lượng của Nga, như những lệnh trừng phạt được đưa ra vào tháng 12/2019 đã khiến việc xây dựng đường ống dẫn dầu Dòng chảy phương Bắc 2 từ Nga sang Đức tạm ngừng ngay trước khi nó được hoàn thành).

Các doanh nghiệp sản xuất dầu đá phiến của Mỹ đang phải chịu áp lực. Những công ty này đã cắt giảm ngân sách, đồng thời giảm hoặc dừng cả việc khoan dầu. (Với dầu đá phiến, các nhà sản xuất phải khoan những giếng dầu mới để duy trì sản lượng). Theo ước tính của IHS Markit, sản lượng của Mỹ có thể giảm gần 3 triệu thùng/ngày vào cuối năm nay. Nếu điều đó xảy ra, Mỹ sẽ vẫn là một nước khai thác dầu lớn, nhưng vẫn còn kém xa Nga và Saudi Arabia và lượng nhập khẩu sẽ tăng. Theo phân tích của IHS Markit, xét đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng dầu đá phiến đối với nền kinh tế Mỹ, thiệt hại về kinh tế đối với nước này sẽ ở mức cao, tổng thiệt hại có thể lên đến 2,5 triệu việc làm.

Một thị trường bị quá tải

Liệu có cách nào để ổn định thị trường toàn cầu hay không? Việc kết thúc cuộc chiến thị phần sẽ làm giảm thặng dư nguồn cung chảy vào thị trường, giảm bớt một phần áp lực nào đó và có tác động tích cực đối với tâm lý thị trường. Đó là một trong những yếu tố để định giá. Điều này sẽ chỉ giải quyết một phần của vấn đề dư thừa nguồn cung, nhưng là một phần có vai trò quan trọng.

Điều quan trọng là cách thức đạt được sự cân bằng đó. Saudi Arabia có một nền tảng đặc biệt để thúc đẩy một giải pháp giải như thế, bởi nước này là chủ tịch của G20 trong năm nay, một diễn đàn của các nền kinh tế lớn trên thế giới nhằm giải quyết và tìm ra phương sách giải quyết các vấn đề kinh tế quốc tế. Trong cuộc khủng hoảng 2008-2009, G20 có chức năng như một ban giám đốc điều hành nền kinh tế thế giới. Nhưng đó là một kỷ nguyên mang tính hợp tác nhiều hơn.

Mỹ có những hạn chế nhất định trong khả năng hành động. Hiện nay, các thành viên quốc hội nước này, những người thường ủng hộ các thoả thuận vũ khí với Riyadh, muốn gắn toàn bộ mối quan hệ Mỹ-Saudi Arabia với chính sách dầu lửa quốc tế: 13 Thượng nghị sỹ đảng Cộng hoà của các bang sản xuất dầu đã viết thư cho Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman bày tỏ sự bất bình đối với cái mà họ gọi là chính sách của Saudi Arabia nhằm “giảm giá dầu thô và tăng năng suất khai thác”; 6 nghị sỹ trong số đó, bao gồm chủ tịch Ủy ban quân lực Thượng viện, sau đó đã đưa ra một lá thư thẳng thắn hơn, cho rằng quan hệ quốc phòng Mỹ-Saudi Arabia sẽ khó có thể duy trì nếu trình trạng hỗn loạn và khó khăn trên chủ ý nhắm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trực tiếp nhắc đến cơ hội duy nhất để Saudi Arabia “xoa dịu các thị trường năng lượng và tài chính toàn cầu”.

Trong nội bộ nước Mỹ, chính phủ chỉ có một bộ công cụ hạn chế. Không giống với Riyadh và Moskva, Washington không thể áp đặt hạn mức sản xuất đối với các công ty khai thác dầu. Nước này cũng không thể lựa chọn đưa gần 700.000 thùng dầu mỗi ngày vào kho dự trữ xăng dầu chiến lược, đồng thời Mỹ sẽ cần quốc hội phê chuẩn để cấp ngân sách cho việc đó. Gói kích thích kinh tế trị giá 2.000 tỷ USD được đưa ra mới đây không bao gồm khoản ngân sách 3 tỷ USD cần chi cho việc này. (Nhiều khả năng, 3 tỷ USD đó sẽ là một khoản đầu tư rất tốt cho chính phủ, có khả năng nhân đôi giá trị khi giá dầu phục hồi trong vài năm tới).

Thẩm quyền điều tiết sản lượng dầu thuộc về các bang, đáng chú ý nhất là Ủy ban Đường sắt Texas, mặc dù có tên như vậy nhưng cơ quan này lại kiểm soát sản lượng dầu của bang - chiếm 40% tổng sản lượng của nước Mỹ. Ủy ban này có thẩm quyền cắt giảm sản lượng khai thác từ các giếng dầu căn cứ vào lý do phòng chống lãng phí, nhưng lần gần đây nhất cơ quan này sử dụng thẩm quyền đó là cách đây nửa thế kỷ. Hiện nay, bất kỳ một nỗ lực nào cho cái gọi là “phân bổ sản lượng theo tỷ lệ” có thể sẽ được một số doanh nghiệp ủng hộ trong khi những doanh nghiệp khác lại phản đối. Bên ngoài nước Mỹ, điều đó sẽ được hiểu là một tín hiệu rằng các nước khác cũng nên thực hiện việc cắt giảm sản lượng.

Trong bối cảnh phần lớn nền kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn, cuộc khủng hoảng dầu mỏ sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những tuần tới, đồng thời, người ta sẽ cảm nhận được thiệt hại không chỉ trong ngành công nghiệp này. Khi giá giảm và các kho dự trữ đầy lên, hoạt động sản xuất trên thế giới sẽ sụt giảm nghiêm trọng. Một phần có lẽ là hậu quả của dịch COVID-19 và tình trạng gián đoạn hoạt động sản xuất ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Một phần là do quyết định của các nước, bất chấp việc chúng ta đang sống trong một nền chính trị thế giới đầy hỗn loạn. Tuy nhiên, phần lớn sự sụt giảm là do một thị trường chịu tổn thất nặng nề do dịch COVID-19 và tình trạng đóng cửa của nền kinh tế thế giới.

Daniel Yergin là phó chủ tịch của IHS Markit. Bài viết được đăng trên tạp chí Foreign Affairs
0

Thứ Tư, 17 tháng 7, 2019

Việt Nam là nước 'nghèo' nhất đầu tư đường sắt cao tốc?

TTO - Nhiều nước có tiềm lực kinh tế mạnh hơn trong khu vực Asean cũng chưa tính tới việc đầu tư đường sắt tốc độ cao đắt đỏ như Bộ GTVT đề xuất.


Đường sắt VN cần đầu tư nhưng với mức phù hợp, không quá khả năng thanh toán của người dân - Ảnh: T.T.D.

Đề xuất phương án đầu tư đường sắt cao tốc Bắc - Nam của Bộ GTVT đạt tốc độ 350 km/h với tổng vốn đầu tư hơn 58,7 tỉ USD là tương đương khoảng 1/4 GDP toàn nền kinh tế.

VN vừa thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp để chạm tới nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.587 USD/năm, GDP của cả nền kinh tế ước đạt 240,5 tỉ USD vào năm 2018.

GS.TSKH Lã Ngọc Khuê, nguyên thứ trưởng Bộ GTVT, khẳng định nếu đề xuất đầu tư của Bộ GTVT được chấp thuận, VN là nước "nghèo" nhất trên thế giới đầu tư đường sắt cao tốc.

Các quốc gia đã đầu tư đường sắt cao tốc như Nhật Bản, Đức... đều là những nước giàu có hàng đầu trên thế giới. Từng giữ cương vị lãnh đạo trong ngành GTVT, GS.TSKH Lã Ngọc Khuê cho rằng để phát huy tối đa hiệu quả kinh tế các dự án đường sắt cao tốc đã đầu tư, nước Đức đã quyết định giảm tốc độ của các tuyến đường sắt cao tốc từ 320 km/h xuống khoảng 250 km/h.

Bởi điều này còn giúp tiết kiệm chi phí vận hành, chi phí thay thế thiết bị trong quá trình chạy tàu. Các đội tàu hỏa ICE3 có tốc độ chạy tàu 320 km/h đang dần được thay thế hết bằng đội tàu ICEx có tốc độ 250 km/h vào năm 2025 theo một chương trình điều chỉnh của Chính phủ Đức.

Vốn đầu tư tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam 58,7 tỉ USD lớn gấp 50 lần chi ngân sách trung ương dành cho phát triển hạ tầng giao thông bình quân những năm qua. Nếu dự án đường sắt cao tốc được chấp thuận đầu tư trong 30 năm thì ngân sách trung ương, trong bối cảnh rất có hạn hiện nay, không loại trừ phải đình hoãn nhiều dự án khác.

Có tới 80% vốn đầu tư đường sắt cao tốc - khoảng 1.075.567 tỉ đồng (46,96 tỉ USD) - được Bộ GTVT dự kiến huy động từ ngân sách. "Nguồn vốn đầu tư đường sắt cao tốc rất lớn và bối cảnh nợ công áp trần cho thấy rủi ro tài chính khi thực hiện tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam là không nhỏ" - chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.

Điều đáng nói hơn, số liệu trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam cũng cho thấy dự án không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Kể cả khi tốc độ tàu chạy tối đa theo thiết kế đạt 350 km/h thì thời gian chạy tàu từ Hà Nội - TP.HCM cũng mất khoảng 5 giờ, gấp hơn 2 lần thời gian di chuyển bằng máy bay.

Rõ ràng, trong bối cảnh các hãng hàng không giá rẻ ra đời ngày một nhiều hơn, sẽ rất khó để đường sắt cao tốc cạnh tranh.

Đề xuất đầu tư dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam cần loại trừ "căn bệnh vung tay quá trán" trong đầu tư công. Hệ quả nhiều dự án rơi vào đình trệ, chậm tiến độ... Bộ GTVT nên sớm có giải thích cụ thể hơn về phương án của mình sau khi Bộ KH-ĐT đã phân tích rất kỹ nhiều bất cập, tránh những băn khoăn của dư luận.

"Xài sang" mà không tương ứng với tính khả thi và hiệu quả, trong khi cần tới hàng chục tỉ USD, sẽ tạo nguy cơ không tạo thêm động lực, ngược lại sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Đó là vấn đề cần đặt ra trước khi quyết định đầu tư đại dự án này.

Nguồn: Tuổi Trẻ
0

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

Giải mã vấn đề nợ trong sáng kiến “Vành đai và Con đường”

Tiền của Trung Quốc lấp đầy khoảng trống trong quỹ tài trợ cơ sở hạ tầng quốc tế. Vậy tại sao nó lại gây ra nợ nần và tranh luận?
Liệu Bắc Kinh có thực sự tìm cách mua ảnh hưởng chính trị ở nước ngoài hay không? Trung Quốc đang có một trong những dấu ấn phát triển toàn cầu lớn nhất. Nước duy nhất có các dòng chảy tài chính quốc tế chính thức lớn hơn là Mỹ. Tuy nhiên, Washington chi cho Hỗ trợ phát triển chính thức nhiều gấp 4 lần so với Bắc Kinh. Phần lớn nhất của các dòng tiền chính thức của Trung Quốc được xếp vào khoản Tài chính chính thức khác và gần như chi cho các khoản vay để thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng, năng lượng và liên lạc. Những dự án này là một phần của Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI), phương tiện chính của Trung Quốc để thúc đẩy sự phát triển cả trong và ngoài nước. Thông qua các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng, mục đích của Bắc Kinh là kết nối tốt hơn Trung Quốc với các phần khác của thế giới và để tăng cường giao thương dọc con đường này. 5 năm sau khi Tập Cận Bình công bố các kế hoạch của mình về BRI, Trung Quốc đã chi khoảng 25 tỷ USD cho những dự án cơ sở hạ tầng liên quan. Nhưng các nước được lợi từ các khoản đầu tư của Trung Quốc ở mức độ nào? Theo báo cáo tháng 3/2018 của Trung tâm phát triển toàn cầu (CGD), ít nhất 8 nước có nguy cơ vỡ nợ bởi các khoản cho vay liên quan đến BRI của Trung Quốc. Những người chỉ trích sợ rằng Trung Quốc đang sử dụng các khoản vay để tạo sự phụ thuộc và gia tăng ảnh hưởng chính trị. "Ngoại giao bẫy nợ" của Trung Quốc Nguyên cố vấn Chính phủ Mỹ và Giám đốc Trung tâm Carnegie-Tsinghua Paul Haenle tóm tắt nội dung chỉ trích: "Một số người tin rằng Trung Quốc đang thực hiện "ngoại giao bẫy nợ" thông qua BRI, khiến các nước đang phát triển phải phụ thuộc vào các khoản nợ và sau đó chuyển sự phụ thuộc đó thành ảnh hưởng địa chính trị". Haelen giải thích: "Những lo ngại đặc biệt xung quanh các hành động của Trung Quốc ở Sri Lanka, Pakistan và Malaysia đang là trọng tâm của các cuộc tranh luận về bẫy nợ. Trung Quốc giành được quyền điều hành 99 năm cảng Hambantota ở phía Nam Sri Lanka sau khi chi phí cho dự án đã tăng vượt khỏi tầm kiểm soát buộc Colombo phải từ bỏ quyền kiểm soát cảng để đối lấy gói cứu trợ của Trung Quốc". Tìm kiếm giải pháp thay thế việc thanh toán khi các nước không đủ khả năng trả nợ không phải là một cách làm mới đối với Trung Quốc. Báo cáo của CDG cho biết hồi năm 2011, có tin Trung Quốc đã xóa nợ cho Tajikistan để đổi lấy 1.158 km² lãnh thổ tranh chấp. Nhưng theo Haenle, năm 2018, “luận cứ bẫy nợ đã giành được sự tin cậy hơn sau khi Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamed đã hủy bỏ các dự án BRI trị giá 23 tỷ USD và cảnh báo đừng trở thành con mồi của ‘một phiên bản chủ nghĩa thực dân Trung Quốc’”. Một số nước phương Tây đã nhanh chóng ủng hộ quan điểm này. Ngoại trưởng Mỹ thời đó Rex Tillerson đã cảnh báo về cách tiếp cận phát triển của Trung Quốc trong bài diễn văn tại Đại học George Mason ở Virginia. Theo Tillerson, chiến lược của Trung Quốc "khuyến khích sự phụ thuộc bằng việc sử dụng các hợp đồng mập mờ, các thông lệ cho vay kiểu chiếm đoạt, và các thỏa thuận tham nhũng khiến các nước này mắc nợ và buộc phải cắt giảm chủ quyền, tước bỏ khả năng phát triển lâu dài và ổn định của họ". Frans-Paul van der Putten đã theo dõi Trung Quốc trong 12 năm, hiện làm việc tại Clingendael, tổ chức tư vấn chiến lược về quan hệ quốc tế Hà Lan. Ông cho rằng việc tạo ra các khoản nợ giữa các đối tác trong BRI là một chiến lược có chủ ý và được xem xét đầy đủ của Trung Quốc, với mục đích đổi nợ lấy tài nguyên hoặc hỗ trợ ngoại giao sau này là không có khả năng. Nhưng Bắc Kinh cũng hầu như không làm gì để ngăn điều này xảy ra. Điều này phù hợp với cách tiếp cận luôn thực dụng của Trung Quốc, theo van der Putten: "Việc các nước này có trả được nợ hay không thực sự không phải là vấn đề, bởi nếu họ không thể, chúng ta sẽ tìm cách khác để thu lợi". Trung Quốc không sợ sử dụng các khoản nợ làm đòn bẩy và các thỏa thuận của nước này với những nước mắc nợ đều không theo thể thức và được tiến hành theo từng trường hợp. Trung Quốc luôn thắng Với ý tưởng "hợp tác cùng thắng", Bắc Kinh luôn giành được gì đó từ khoản tài trợ của mình. Nếu đòn bẩy chính trị chỉ là một tác dụng phụ hữu ích, thì Trung Quốc sẽ phải giành được gì từ hàng tỷ USD nước này chi cho cơ sở hạ tầng nước ngoài? Mô hình phát triển của Trung Quốc dựa vào thương mại. Cơ sở hạ tầng tốt hơn có nghĩa là tăng cường thương mại, thúc đẩy sự phát triển. BRI nhằm kết nối và phát triển các khu vực phía Tây của Trung Quốc, nhưng cũng hướng tới phát triển các thị trường khác thành các lợi thế của mình. Phương Tây đã đạt tới tiềm năng phát triển và sẽ không mua thêm gì từ Trung Quốc. Nhưng châu Phi, với dân số lớn, trẻ và đang gia tăng, là lục địa có tiềm năng phát triển thực sự. Bằng việc thúc đẩy phát triển ở các nước châu Phi, Trung Quốc muốn phát triển và mở một thị trường mới ở lục địa này. Hơn nữa, theo lời giải thích của van der Putten, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng là "khoản đầu tư vào quan hệ tốt hơn giữa Chính phủ Trung Quốc và chính phủ của nước tiếp nhận. Cho vay là một lợi thế ngoại giao, bởi nó thắt chặt các quan hệ với một nước cụ thể. Đó là một thu hoạch của Trung Quốc mà không thể thể hiện bằng tiền". Cái có thể được thể hiện bằng tiền là công việc mà Trung Quốc cung cấp cho các công ty xây dựng của mình thông qua các dự án BRI. Ngân hàng chính sách Trung Quốc thường cung cấp tiền cho một dự án cụ thể tại nước vay nợ với điều kiện các công ty Trung Quốc thực hiện dự án. Van der Putten giải thích: "Vì vậy, đa phần các dòng tiền chảy từ các ngân hàng chính sách Trung Quốc tới các công ty xây dựng của Trung Quốc. Đường sắt đang được xây dựng, đường cao tốc đang được xây dựng. Có lẽ nó sẽ không bao giờ được sử dụng, nhưng các công ty xây dựng này đã đạt được mục tiêu của mình". Lấp đầy khoảng trống cơ sở hạ tầng Nhưng Trung Quốc được lợi không nghiễm nhiên có nghĩa là các nước tiếp nhận không thu được gì. Các dự án cơ sở hạ tầng Trung Quốc đang đáp ứng nhu cầu cần thiết - Ngân hàng phát triển châu Á ước tính rằng chỉ riêng châu Á cần khoảng 26.000 tỷ USD đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho tới năm 2030 để duy trì tốc độ tăng trưởng hiện nay. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thiếu cơ sở hạ tầng thích hợp là một trong những khó khăn lớn nhất đối với sự tăng tưởng và phát triển ở châu Phi và Mỹ Latinh. Vì vậy, theo Haenle, việc BRI tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng có thể đi đến "tình huống rõ ràng 'hai bên cùng thắng'". Haenle lập luận: "Đầu tư cơ sở hạ tầng hay thúc đẩy liên kết toàn cầu trong thế giới phát triển vốn chẳng có gì sai". Theo Marina Rudyak, người đã làm việc trong lĩnh vực phát triển trong nhiều năm và hiện đang hoàn thành luận án tiến sĩ về sự hợp tác phát triển Trung Quốc tại Đại học Heidelberg (Đức), có một "khoảng cách rất lớn giữa số tiền cần có để phát triển và số tiền hiện có, nhất là trong cơ sở hạ tầng",. Các tổ chức đa phương và các nhà tài trợ hiện nay không thể tài trợ tất cả những dự án phát triển cần thiết do đó vẫn còn nhiều không gian cho Trung Quốc bên cạnh các nhà tài trợ truyền thống. "Đó không phải vấn đề về tiền của Mỹ hay Trung Quốc, tiền của EU hay Trung Quốc. Châu Phi cần tất cả". Van der Putten giải thích rằng các ngân hàng phát triển quốc tế, như Ngân hàng phát triển châu Phi và Ngân hàng Thế giới, đã giới hạn các khoản tài trợ sẵn có. Điều này không đủ để tài trợ cho tất cả các dự án phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết. Các ngân hàng thương mại phương Tây không thể cung cấp các khoản cho vay rủi ro kể từ sau khủng hoảng kinh tế. Van der Putten nói: "Vai trò của Trung Quốc là rất quan trọng bởi họ không chỉ là một nguồn tài chính thay thế, mà còn là một nguồn tài chính thực sự lớn". Các ngân hàng phát triển của Trung Quốc, như Ngân hàng phát triển Trung Quốc và Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc (Exim), cung cấp tài chính cho dự án dựa vào mức giá bình thường. Van der Putten nhấn mạnh: "Đây không phải là viện trợ phát triển", nhưng nó có một số đặc điểm của viện trợ phát triển. "Có những khoản vay rủi ro cho các nước đang phát triển, nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng của họ". Mô hình cho vay của Trung Quốc Tiền của Trung Quốc lấp đầy khoảng trống trong quỹ tài trợ cơ sở hạ tầng quốc tế. Vậy tại sao nó lại gây ra nợ nần và tranh luận? Lý do là hầu hết quỹ tài trợ BRI đang dựa vào các cấu trúc quan hệ giữa hai nhà nước. Điều này có thể tạo ra các thách thức về khoản nợ chính phủ với các tác động có thể có đối với các mối quan hệ song phương. Các khoản nợ thường được thực hiện theo các tiêu chuẩn được quyết định bởi các tổ chức đa phương như Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế hay các cơ chế đa phương như Câu lạc bộ Paris. Nhưng Trung Quốc không phải là thành viên của Câu lạc bộ Paris, vì vậy nước này không cần thông báo cho các thành viên về các hoạt động tín dụng của mình và không phải theo bất kỳ tiêu chuẩn nào. Báo cáo của CDG kết luận: "Không có một khuôn khổ đa phương chỉ dẫn hay khuôn khổ khác để xác định cách tiếp cận của Trung Quốc với các vấn đề về tình bền vững của các khoản nợ, chúng ta chỉ có bằng chứng có tính giai thoại về các hoạt động đặc biệt mà Trung Quốc thực hiện làm cơ sở để mô tả cách tiếp cận chính sách của quốc gia". Theo giải thích của Scott Morris, một trong những tác giả của báo cáo CDG về nợ ở các nước BRI, thay vì các tiêu chuẩn phổ quát, "Trung Quốc nói chung tuân thủ luật địa phương khi cho vay để thực hiện các dự án phát triển. Điều này có nghĩa là các tiêu chuẩn cao khi luật địa phương mạnh và tiêu chuẩn rất thấp khi luật yếu". Sự khác nhau với các khoản vay từ các tổ chức như Ngân hàng Thế giới là những tổ chức này đánh giá luật địa phương và sẽ áp đặt sự bảo hộ của mình nếu luật địa phương quá yếu. Morris cho biết Trung Quốc bỏ lại trách nhiệm này cho các chính phủ đối tác và "tuân thủ theo luật địa phương". Ông bổ sung thêm: "Trung Quốc cũng không nhạy cảm với các vấn đề về tình bền vững của nợ, vì thế các điều khoản cho vay không hoàn toàn phù hợp với các rủi ro nợ của quốc gia. Vì thế, việc các nước tiếp nhận được lợi từ các khoản vay của Bắc Kinh đến mức độ nào phụ thuộc rất nhiều vào các tiêu chuẩn của riêng họ”. Cái giá Bắc Kinh phải trả Trung Quốc cũng phải trả giá cho các vấn đề nợ ở các nước trong BRI. Trong các năm 2000-2014, Bắc Kinh chi 13 tỷ USD cho các hoạt động liên quan đến nợ. Về vấn đề nợ khó đòi, Trung Quốc giảm rủi ro bằng việc mở rộng các điều khoản cho vay. Theo Morris, Trung Quốc cũng chịu rủi ro đáng kể khi những bên cho vay không được trả nợ. Morris nói: mặc dù "nợ là yếu tố cần thiết cho đầu tư cơ sở hạ tầng, số lượng lớn các khoản nợ gây rủi ro lớn và cần quản lý cẩn thận bởi những người cho vay và những người đi vay”. Rudyak cho biết rằng điều quan trọng nhất là sự chỉ trích quốc tế cũng đang tạo một "vấn đề lớn ở Trung Quốc". "Công luận Trung Quốc chỉ trích gay gắt khoản viện trợ và các khoản cho vay của Trung Quốc". Trung Quốc không những không thu lại được tiền mà còn chịu sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế. Ngày càng có nhiều người Trung Quốc hỏi tại sao Bắc Kinh không chi số tiền này cho người nghèo ở trong nước. Trung Quốc và các khoản cho vay đa phương Trong một khuôn khổ đa phương, Trung Quốc đang hoạt động theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới. Theo Rubyak, Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) "hoàn toàn" đáp ứng được các quy định trong hệ thống Bretoon Woods. "Nếu bạn nhìn vào công việc thực tế họ đang làm, ngoại trừ nó được người Trung Quốc thành lập hoặc đề xuất và được đặt ở Bắc Kinh, bên cạnh tất cả các ngân hàng chính sách khác của Trung Quốc, nó là một ngân hàng đa phương bình thường và nhàm chán”. AIIB lưu thông số tiền ít hơn rất nhiều so với các ngân hàng chính sách khác của Trung Quốc, như Ngân hàng phát triển Trung Quốc hay Ngân hàng Exim Trung Quốc. Một số người chỉ trích khẳng định rằng Trung Quốc muốn xây dựng một hệ thống riêng bên cạnh trật tự thống trị hiện nay hoặc các thể chế Bretton Wooods như Ngân hàng Thế giới và IMF. Với những ngân hàng chính sách của mình, Bắc Kinh có thể tránh được hạn chế của trật tự hiện nay, các tiêu chuẩn và quy chế mà liên quan chặt chẽ đến trật tự đó. Van der Putten không nghĩ Trung Quốc muốn thay thế Ngân hàng Thế giới. Ông nói: "Khi nói tới tài trợ phát triển và tài trợ cơ sở hạ tầng, Trung Quốc chỉ sử dụng tất cả các phương tiện có sẵn". Nhưng Bắc Kinh có thể sử dụng ảnh hưởng cho vay đang ngày một tăng để tăng cường sức ảnh hưởng trong Ngân hàng Thế giới. Haenke nói: "Dĩ nhiên Trung Quốc cũng sẽ tìm cách có được tầm vóc và ảnh hưởng toàn cầu tương xứng với sức mạnh của nước này". Trong các tổ chức như Ngân hàng Thế giới, Bắc Kinh vẫn không có mức độ ảnh hưởng như họ mong muốn. "Bắc Kinh đang đảm nhận vai trò lãnh đạo lớn hơn trong các tổ chức Bretton Woods và Liên hợp quốc, nhưng cũng thành lập các tổ chức riêng mà nước này cho rằng thích nghi tốt hơn với thực tế ngày nay". Quan điểm này được chia sẻ ngày càng nhiều bởi các nhà lãnh đạo thế giới. Trong khi kêu gọi nỗ lực hiện đại hóa các tổ chức để phản ánh cán cân quyền lực hiện nay thay vì tạo ra những cái mới, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã nói gián tiếp tới Trung Quốc. Tại Diễn đàn kinh tế thế giới vào tháng 1/2019, Angela Merkel nói: "Từ phía chúng ta, bị ảnh hưởng bởi các giá trị phương Tây, chúng ta nên sẵn sàng xem xét các tổ chức đã có và nhìn nhận cán cân quyền lực được phản ánh một cách thực tế với các tổ chức đó. Chúng ta phải chấp nhận các thực tế và cải cách mới và một cách tiếp cận mới sẽ làm yên lòng những ai đang ngờ vực về hệ thống quốc tế". Bằng việc thành lập các tổ chức mới, Haenle tin rằng "Trung Quốc không muốn phá hủy trật tự quốc tế, nước này muốn khôi phục nó. Tôi có một người bạn Trung Quốc so sánh quan điểm của Bắc Kinh về trật tự quốc tế với các đền thờ. Họ muốn xây những đền thờ mới, sửa chữa những đền thờ cũ, nhưng họ không muốn dỡ bỏ bất kỳ đền thờ nào". Sẽ không hợp lý khi Trung Quốc muốn lật đổ trật tự quốc tế, vì "Trung Quốc là một trong những nước được lợi nhất từ trật tự toàn cầu trong 4 thập kỷ qua". Các mục đích và chính trị Theo Rudyak, các tổ chức Bretton Woods "đang phản ánh những gì sau năm 1945 và thế giới đã thay đổi. Nhưng hiện nay tất nhiên khó khăn với cải cách là việc nhiều nước, muốn có tiếng nói lớn hơn, không phải các nền dân chủ tự do". Morris và các đồng tác giả khẳng định rằng Bắc Kinh nên đa phướng hóa BRI để tổ chức lại những nỗ lực ngày càng tăng của Trung Quốc trong tài trợ phát triển quốc tế và giảm thiểu các vấn đề nợ. Theo lời Morris: "Trung Quốc đánh giá cao sự can dự của mình với các tổ chức đa phương bởi đây là mối quan hệ ảnh hưởng. Tôi nghĩ các tổ chức này có cơ hội lớn nhất để thuyết phục và giúp Trung Quốc cải thiện các dự án và các tiểu chuẩn cho vay",. Bước đi gần đây của Trung Quốc nhằm mở một trung tâm phát triển năng lực chung với IMF là một động thái đáng khích lệ, với mục đích đào tạo các chuyên gia về chính sách và kinh tế vì vậy các nước có thể quyết định tốt hơn liệu có nên tiếp nhận khoản vay hay không. Rudyak khẳng định: "Thực tế là Trung Quốc có rất nhiều tri thức phát triển để chia sẻ. Trung Quốc đi từ nghèo đói đến vị trí hiện nay là điều mà không một ai trong chúng ta ở phương Tây làm được theo cách tương tự và trong khoảng thời gian như thế". Thay vì những chỉ trích chung chung về "ngoại giao bẫy nợ", chúng ta nên phân tích rõ hơn những dự án cụ thể nào sai hay đúng và tại sao. Sophie van der Meer là nhà khoa học chính trị, nhà báo Hà Lan. Bài viết được đăng trên The Diplomat. Trần Quang (gt)
0

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2018

Hoa Kỳ và thế trận Cờ Vây đối với Trung Quốc

Cuộc chiến Cờ Vây của Hoa Kỳ đang lôi kéo các đồng minh và đối tác nhằm cô lập Trung Quốc cả về kinh tế và quân sự, theo một ý kiến từ Hoa Kỳ.


Tổng thống Donald Trump trong chuyến thăm đến Bắc Kinh hồi tháng 11/2017

Bài diễn văn hôm 04/10 của Phó Tổng thống Mike Pence khiến một số người ở Trung Quốc coi như 'lời tuyên chiến' từ Chính phủ Trump nhắm vào Trung Quốc từ thương mại, công nghệ tới quân sự và ý thức hệ.

BBC phỏng vấn tiến sỹ Phạm Đỗ Chí từ Florida về các diễn biến mới nhất liên quan đến quan hệ Mỹ - Trung và vấn đề hướng đi của Việt Nam.

Câu hỏi đầu tiên là nhìn từ Hoa Kỳ, đây là vấn đề hai ông Trump-Pence muốn hướng tới cử tri Mỹ trước bầu cử giữa kỳ, hay thực sự nhắm vào Trung Quốc, và nếu đó là ý định của họ thì có lý do gì về chiến lược?

TS Phạm Đỗ Chí: Không chỉ bài diễn văn của Phó Tổng thống Mike Pence ngày 4/10 (tại Viện Hudson), mà bài diễn văn "nảy lửa" ngay trước đó của chính Tổng thống Donald Trump tại phiên họp khoáng đại thường niên của Liên Hiệp Quốc đã nêu lên những vấn đề tệ hại của các quốc gia theo đường lối Xã hội Chủ nghĩa trên toàn cầu, và kêu gọi các quốc gia đang phát triển nên tránh xa CNXH, đã lần nữa làm nổi bật sự trở lại của cuộc 'Chiến Tranh Lạnh Mới'.

Ông Trump đã cho khởi xướng chiến lược này ngay từ thời gian tranh cử của ông trong nội bộ Đảng Cộng hòa nhất là từ giữa năm 2016, gói ghém đơn giản trong khẩu hiệu làm Mỹ Đứng Đầu Trở Lại ("Make America Great Again") hay sau này trong 21 tháng đã làm Tổng thống, ông luôn dùng lời kêu gọi Nước Mỹ trên hết ("America First") như nguyên tắc cốt lõi cho các chính sách quốc gia hệ trọng.

Rõ ràng đó là chiến lược chỉ đạo của cặp ứng cử viên Trump-Pence nay thành hiện thực trong cương vị lãnh đạo, nhằm củng cố vai trò lãnh đạo của cường quốc số một thế giới, tương phản hẳn với ngoại giao mềm của cựu Tổng thống Barack Obama đi xin lỗi khắp thế giới về vai trò sai lầm của Mỹ khi tỏ ra là lãnh đạo thế giới, là cảnh sát viên lo duy trì trật tự thế giới và đôi khi gây nhiều điều tai hại cho an ninh thế giới…

Vẻ mềm mỏng của ông Obama được vài nước tỏ ra yêu thích như cuộc đón tiếp nồng nhiệt ở Việt Nam nói là "ông bình dân gần gũi", nhưng ngược lại bị Trung Quốc coi khinh ra mặt với các nghi thức tiếp đón ông nhạt nhẽo lúc đến thăm Trung Quốc và "không đúng tầm nghi lễ đáng dành cho một nguyên thủ Hoa Kỳ", theo một số tờ báo bên Mỹ chê ông.

Hiện nay thì khác, chiến lược của ông Trump có thể coi như "một viên đá nhắm hai con chim", vừa nhấn mạnh vị thế của Mỹ trên thế giới trong cuộc thương chiến hiện tại với Trung Quốc, vừa nhắm cả vào cuộc bầu cử giữa kỳ tại Mỹ vào tháng 11 sắp tới, cho cử tri Mỹ thấy "oai lực" của Đảng Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của một nguyên thủ có lập trường và ý thức hệ chính trị rõ ràng, với một lịch trình chính sách (policy agenda) cụ thể được thực hiện đúng theo như tuyên bố lúc tranh cử.

BBC:Nói đến chiến tranh thương mại, bước tiếp theo của Mỹ là gì, và các sáng kiến về chính sách họ được tính toán trong bối cảnh giá dầu, giá vàng, USD cũng biến động như thế nào, ông có thể giải thích rõ hơn?


Ông Trump và cử tri Mỹ ở Cleveland, Ohio tháng 3/2016

TS Phạm Đỗ Chí: Chiến tranh thương mại của Mỹ với Trung Quốc đã đi vào giai đoạn 2 sau khi khởi xướng cuộc chiến tài chính tiền tệ đã làm tiền Trung Quốc (NDT) giảm đi 8% và thị trường chứng khoán TQ giảm quanh mức 25% từ tháng 4/18, song hành với việc áp thêm thuế mới 10% trên 200 tỷ đô hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.

Bước tiếp được nhiều giới dự báo là Mỹ sẽ áp thuế cao hơn là 25% trên 200 tỷ đô hàng nói trên, và Tổng thống Trump còn tuyên bố sẵn sàng áp thuế vào khối 276 tỷ đô hàng nhập còn lại từ TQ, theo thống kê nhập khẩu năm 2017.
Nếu được tung ra thực hiện, đây sẽ là đòn quyết liệt nhất của Mỹ, phụ trợ thêm thế Cờ Vây toàn diện đang dần được Mỹ siết chặt với TQ, ngoài các nước cờ nhấn mạnh ý thức hệ, (về chủ nghĩa xã hội), phong tỏa công nghệ, chính trị và quân sự.

Cần chú ý thêm vài biến động trong nền kinh tế thế giới hay thị trường tài chính quốc tế có thể đang xảy ra do chiến lược trên đây của Mỹ, hay như hậu quả liên hệ sắp tới.

Giá dầu có thể được giữ ở mức cao hiện tại hay lên hơn nữa với hỗ trợ của Mỹ để giúp Nga phục hồi và củng cố nền kinh tế đang yếu kém do sự cô lập hóa của Âu châu có Mỹ hỗ trợ một phần (sau vụ Crimea), và phần khác để hỗ trợ Saudi Ả Rập và khối OPEC nhằm cô lập Iran là chính sách mới ở Trung Đông của Mỹ do Tổng thống Trump đề ra, tương phản với chính sách của cựu Tổng thống Obama.

Song hành với giá dầu cao, có những dấu hiệu cho thấy giá vàng có thể đảo ngược bắt đầu khuynh hướng tăng (uptrend), lần đầu từ nhiều năm nay đã sụt giảm sau khi đạt đỉnh cao trên 1900$/ounce vào năm 2009. Nguyên do là mức lạm phát có thể tăng trên 2% ở Mỹ khiến đồng USD có thể bắt đầu suy yếu sau khi đạt đỉnh cao từ vài năm nay, nhất là trong những tháng đầu năm 2018.


Tàu khu trục USS Decatur (DDG-73)

Giới đầu tư hay nhất là đầu cơ quốc tế cũng có thể bị kích động bởi dân chúng Trung Quốc đang chạy tẩu tán ra khỏi tiền Nhân dân tệ mua USD, Euro, tiền yen và nay là vàng (nơi giữ tài sản quen thuộc của dân Á đông) mà giá đã xuống quá thấp so với giá dầu đang lên cao. Hiện tượng này giống như lúc giá vàng bắt đầu tăng lên các năm 2004-2005.

BBC: Tờ The Economist ở Anh vừa chạy headline nói về The Next Recession(Suy thoái lần sau) trên thế giớivà cho là chính phủ Trung Quốc đang gặp khó khăn, phá giá đồng Nhân dân tệ cũng khó, mà để giá tiền này cao thì xuất khẩu tiếp tục bị Trump đánh vào bằng thuế quan(tariffs), theo ông vấn đề có đúng thế không? Và cả sự phong tỏa công nghệ với Trung Quốc nữa, ảnh hưởng sẽ ra sao?

TS Phạm Đỗ Chí: Khá nhiều kinh tế gia nổi tiếng đều cũng đang lên tiếng như báo The Economist về nguy cơ "The Next Recession" thế giới khó thể tránh, bắt đầu bằng đầu tầu Mỹ, sau khi sự phục hồi rồi tăng trưởng của kinh tế Mỹ đã kéo dài từ 2009. Trong sự nghiệp một nhà kinh tế, tôi luôn cố tránh tiên đoán về trồi sụt của chu kỳ kinh tế hay kinh doanh (economic or business cycle) của Mỹ dựa trên dự báo của vài nhà kinh tế nổi tiếng hay dùng các mô hình kinh toán (econometric models).

Trái lại 'nhà tiên tri' về kinh tế mà tôi tin tưởng suốt vài chục năm qua là thị trường chứng khoán Mỹ, thường đi trước diễn tiến của nền "kinh tế thực" (the real economy) khoảng 6-9 tháng. Tôi vẫn đợi thêm diễn tiến của chỉ số DJ Index và S&P 500 ra sao trong vài tháng nữa để suy đoán suy thoái kinh tế Mỹ sắp diễn ra chưa và sẽ nặng hay nhẹ?

Nhưng tôi đồng ý với quan điểm trên của báo The Economist là Trung Quốc đang bị Mỹ kẹp chặt, với thuế quan tiếp tục áp dụng mạnh mẽ và lan tỏa, kèm thêm sự chặn đứng việc mua hay ăn cắp công nghệ của TQ với các hãng Mỹ. Thí dụ tê liệt mới đây của hãng ZTE của TQ là rất rõ ràng. Mỹ đang kèm theo sự phong tỏa tương tự với hãng Huawei.

TQ khó mà ngăn chặn sự phá giá của đồng CNY (NDT), do ảnh hưởng tâm lý "tẩu tán tài sản" của dân chúng, và nhất là các hãng xưởng muốn chạy ra khỏi Trung Quốc để đầu tư sang các nước khác. Tiền CNY đã mất giá 8-9% sau hai đợt đầu của cuộc thương chiến; nếu Mỹ đánh tiếp thuế quan 25% lên 200 tỷ hàng nhập Trung Quốc trước cuối năm, tiền CNY có thể mất giá thêm 10% theo nhiều dự đoán. Và nếu áp thuế lên cả 276 tỷ đô hàng nhập còn lại từ TQ, tiền CNY sẽ xuống dốc không phanh?

Về chiến lược thương mại tiền tệ này của Mỹ với Trung Quốc, có thể ví như Mỹ không cần can thiệp bằng sức mạnh quân sự vào Trung Quốc, nhưng thực sự đang gửi cả 100 sư đoàn 'quân biết nói tiếng Hoa' vào lãnh thổ TQ: đó chính là những người dân Trung hoa tháo chạy bằng tiền CNY để mua đô la Mỹ, euro, yen… như đã thấy, và sắp sửa tới đây có lẽ là vàng nếu USD có dấu hiệu suy yếu kéo dài?

BBC:Về chính trị và quân sự, chính quyền Trump hiện có bài gì đối với Trung Quốc và việc gây sức ép với Bắc Kinh có được đồng thuận của lưỡng đảng trong Quốc Hội không? Nước nào là đồng minh của Mỹ trong trận cờ này?

TS Phạm Đỗ Chí: Như đã đề cập bên trên, Donald Trump chủ trương 'gần Nga xa Trung Quốc', trái ngược hẳn với thời 1971-72 lúc Tổng thống Richard Nixon cùng 'đạo diễn' Henry Kissinger tìm cách giãn xa Moscow và chạy sang Bắc Kinh, ve vãn mở cửa thị trường khổng lồ của Trung Quốc cho hàng Mỹ và cũng nhờ họ giúp một tay để rút chạy ra khỏi Chiến tranh Việt Nam, kể cả bằng cách hy sinh bỏ rơi hẳn 'đồng minh một lúc' là VNCH.

Việc giúp giữ giá dầu thế giới ở mức cao như nói trên là để 'giúp Nga đánh Hoa' vì kinh tế Trung Quốc luôn cần nhập khẩu một khối lượng dầu lớn để tăng trưởng.

Nhưng quan trọng nhất về nước cờ chính trị để chống Trung Quốc của Tổng thống Trump là các tuyên bố ngạo mạn gần đây của Trung Quốc là họ sẽ tiến dần đến vị trí cường quốc số một thế giới thay Mỹ, và "mọi thứ sẽ làm ở Trung Hoa vào năm 2025".

Các tuyên bố này và âm mưu thống lĩnh khu vực từ trước đây của Trung Quốc nay đã lộ ra trên tầm mức thế giới, và viễn ảnh "một anh châu Á thắng thế người Âu Mỹ và thống lĩnh thế giới" là không thể chấp nhận được với Tây Phương, và đã đánh thức toàn Âu châu với niềm tự hào văn hóa truyền thống , cũng như làm nước Mỹ chợt tỉnh dậy sau nhiều năm lầm lỗi do chính sách sai lầm thiên về Trung Quốc của Nixon-Kissinger và các chính sách mềm yếu của thời Obama với Trung Quốc.

Tuy có nhiều khác biệt giữa các ứng cử viên hai Đảng Cộng hòa và Dân chủ, nhất là trước cuộc bầu cử gay go giữa kỳ tới đây, nhưng chính sách chống Trung Quốc có vẻ đang được sự ủng hộ rộng rãi của lưỡng đảng trong Quốc hội Mỹ, phản ánh dư luận quần chúng yểm trợ cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, do những bất công quá rõ từ nhiều năm trong chính sách thương mại quốc tế của Trung Quốc, nhất là với Mỹ.

Bất chấp những ve vãn hay ngay cả mua chuộc của Trung Quốc, liên minh thương mại quốc tế mà họ muốn thành lập để chống Mỹ đã thất bại nặng nề. Ngược lại, một liên minh mới gồm Canada, Mexico, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc đang thành hình chống lại chính sách thương mại của TQ.

Trong bản hiệp định mới giữa Hoa Kỳ và Canada với Mexico, thay cho NAFTA và có lợi cho Mỹ hơn trước, đã có thỏa thuận quan trọng (Mỹ đạt được) là bất cứ thành viên nào cũng không có quyền thỏa thuận một hiệp định thương mại tự do với một nền kinh tế phi thị trường, mà hàm ý chính là Trung Quốc vì nước này vẫn chưa được thế giới hay tổ chức WTO coi là nền kinh tế thị trường.

Trong hiệp định sắp đạt thỏa thuận với EU và Nhật Bản, cũng chấp nhận nhiều "nhường nhịn" với Mỹ, một điều kiện tương tự đề phòng Trung Quốc cũng sẽ được đặt ra.

Sau cùng về quân sự, rõ ràng là bản Luật mới về quân sự mà QH Mỹ vừa thông qua, với ngân sách lớn cho các can thiệp tương lai của Mỹ, cùng với các quyết định quân sự quan trọng cùng lúc của Mỹ trong vòng một tuần lễ (23-30/9/18), gồm: cho máy bay B-52 thị sát vùng Biển Đông; tập trận Thủy quân lục chiến ngoài khơi; và nhất là cho tàu Decatur tiến vào vùng di chuyển hàng hải tự do để "nắn gân Trung Quốc" và bị chính chiến hạm Lan Châu cắt mặt cách 41m, gây phản ứng dọa nạt mạnh mẽ của Ngũ Giác Đài, đã là xác định hùng hồn và mạnh mẽ mà theo tôi có thể khiến Việt Nam có phần yên tâm hơn về sự cương quyết can thiệp của Mỹ ở Biển Đông.


Tổng thống Trump (giữa) nêu ra một số nét chính về đường lối châu Á của chính phủ Mỹ trong chuyến thăm Đông Nam Á vừa qua

Hoa Kỳ trong tương lai muốn bắt buộc Trung Quốc tôn trọng luật di chuyển hàng hải tự do trong vùng, phủ nhận và ngăn chặn 'Đường Lưỡi Bò' ở Biển Đông. Tin mới nhất cho hay Thượng viện Mỹ đã thông qua Đạo luật cho phép Mỹ cắt đứt Đường Lưỡi Bò đó của Trung Quốc ở Biển Đông. May mắn chăng là VN có thể ở vào thế Bất chiến tự nhiên thành?

BBC:Cuối cùng, Việt Nam cần chọn cách đi gì khi cuộc xung khắc Mỹ- Trung đang tăng đà? Các chính sách lớn của Việt Nam có gì đúng, sai?

TS Phạm Đỗ Chí: Đây là một đề tài lớn và quan trọng cần đề cập trong một bài bình luận riêng biệt. Nhưng một cách tóm tắt, Việt Nam có thể hưởng lợi lớn trong cuộc thương chiến Mỹ -Trung Quốc hiện tại bằng cách thay thế cho nhiều hàng nhập từ Trung Quốc vào Mỹ.

Nhưng nói thế, không có nghĩa là Việt Nam nên để các hãng Trung Quốc tràn vào Việt Nam để thay nhãn 'Made in China' bằng 'mác Việt Nam giả' để xuất sang Mỹ. Qua các tiếp xúc riêng ở Hoa Kỳ, tôi có thể khẳng định là các giới chức Mỹ rất cảnh tỉnh với 'âm mưu' này của Trung Quốc, và giống như trường hợp thép nhập từ Việt Nam, họ có thể sẵn sàng áp thuế rất cao đến 25% với các mặt hàng Việt Nam hay ngay cả chặn hẳn hàng 'mác giả Việt Nam thay mác Trung Quốc' lúc vào cửa khẩu Mỹ.

Trong tinh thần này, Thông tư 19 của Ngân hàng Nhà nước từ ngày 12/10/18 cho phép tiền CNY (NDT) vào bảy tỉnh biên giới (và sau này có thể lan tràn khắp VN), là một quyết định chính sách sai lầm cần rút lại ngay, trước khi có tác động làm hàng Trung Quốc tràn thêm ồ ạt vào Việt Nam, và làm lũng đoạn chính sách tiền tệ, ngoài vấn đề nghiêm trọng là vi hiến và xâm phạm chủ quyền quốc gia.

Con đường rõ ràng để đi là cải cách thể chế, tăng cường tính thị trường của nền kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân trong sản xuất và lập các thương hiệu, chuỗi sản xuất mới và riêng biệt.

Nhìn xa hơn, với chính sách mới của Mỹ khuyến khích phát triển khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Việt Nam có thể hưởng lợi lớn về cả chính trị và kinh tế thương mại bằng cách tham gia một liên minh mới với vài nước chính ở Đông Nam Á (không nhất thiết phải là ASEAN-- vì khối này có Lào và Campuchia đã nghiêng hẳn về TQ), cùng Ấn Độ, Úc và New Zealand để phát triển ngoại giao và thương mại vùng, đặt thế đứng vững chãi nhằm tăng cường thương mại bền vững với Mỹ.
Không loại trừ trường hợp Mỹ có thể đề nghị tái lập TPP với vài điều kiện mới, để cô lập Trung Quốc thêm nữa ngoài vòng mua bán bùng nổ của châu Á với Bắc Mỹ và khối EU.

Trong việc cần tạo thế cân bằng chính trị giữa hai sức mạnh khổng lồ Trung-Mỹ, hay nôm na thường gọi là thế "đu dây" của Việt Nam, sẽ là lỗi lầm nghiêm trọng nếu Việt Nam ngả về Trung Quốc vì nỗi sợ truyền thống hay do nhu cầu ngắn hạn, tình huống trong nội bộ.

Đó có thể là thế "Chẳng Đặng Đừng" duy nhất của Việt Nam mà đa số người dân đang có vẻ ủng hộ mạnh mẽ, mong muốn đất nước tiến tới, cho một tương lai độc lập phú cường.

Nguồn: BBC News Tiếng Việt
0

Kiểu tư vấn khiến Trung Quốc hoang mang trong bão thương mại với Trump

Lãnh đạo Trung Quốc dường như bất ngờ khi thái độ của Mỹ trong chiến tranh thương mại trái với nhận định của các cố vấn trong nước.


Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (ngồi giữa) tại Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc ở Bắc Kinh năm 2016. Ảnh: AFP.

Trong lúc cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ trở nên khốc liệt, các nhà hoạch định chính sách ở Trung Quốc ngày càng hoang mang khi các tổ chức tư vấn và chuyên gia kinh tế mà họ triệu tập để tham vấn chỉ chăm chăm đưa ra những "lời nói ngọt" và "thông tin chắt lọc" nhằm tránh làm mếch lòng lãnh đạo, SCMP hôm 22/10 dẫn các nguồn tin thân cận với chính phủ Trung Quốc và giới quan sát.

Hồi đầu năm, khi Trump bắt đầu đưa ra lời đe dọa áp thuế, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn tin rằng họ có thể thuyết phục Washington không gây ra cuộc đối đầu thương mại. Với lời khuyên từ các cơ quan tư vấn, họ cho rằng Trump chỉ là một Tổng thống bốc đồng và sẽ dễ dàng hài lòng khi Trung Quốc chấp nhận mua thêm một số hàng hóa của Mỹ.

Khi Phó thủ tướng Lưu Hạc tới Washington vào tháng 2 và tháng 3, ông đưa ra đề xuất mua thêm một loạt hàng hóa của Mỹ, nhưng danh sách các mặt hàng này lại được phía Trung Quốc chuẩn bị một cách "quá vội vàng", theo một nguồn tin của Politico. "Những danh sách kiểu này lẽ ra phải được lên từ sớm hơn rất nhiều như một phần của chiến lược toàn diện, không phải là giải pháp tình thế được vạch ra trong đêm trước cuộc họp quan trọng", nguồn tin nói.

Đề xuất này của Trung Quốc không làm chính quyền Trump hài lòng và căng thẳng thương mại tiếp tục gia tăng. Hồi tháng 4, một chuyên gia kinh tế nổi tiếng của Trung Quốc vừa có chuyến thăm Mỹ kể trong một hội thảo ở Đại học Thanh Hoa rằng trong khi các tổ chức tư vấn và cơ quan hoạch định chính sách ở Mỹ đã gần hoàn thiện các kế hoạch hành động thương mại với Trung Quốc, Bắc Kinh vẫn "bình chân như vại".

"Dựa trên những gì được truyền thông nhà nước và các quan chức đưa ra, Trung Quốc dường như không sẵn sàng cho cơn bão thương mại sắp ập đến. Cảm giác chung lúc đó là quan hệ Mỹ - Trung vẫn trong tầm kiểm soát và theo quỹ đạo bình thường", chuyên gia kinh tế này nói.

Đến ngày 6/7, Trump quyết định áp thuế 25% với gần 50 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc, khiến Bắc Kinh vội vàng chống trả bằng đòn áp thuế tương tự. Lúc này, các quan chức Bắc Kinh bắt đầu tỏ ra giận dữ khi các chuyên gia trong nước đều đưa ra những lời khuyên dè dặt, chủ yếu để phục vụ lợi ích cho những bộ ngành hậu thuẫn họ, các nguồn tin nói.

"Dù các tổ chức tư vấn này đều trực thuộc nhà nước, lập trường của họ đối với cuộc chiến thương mại rất khác nhau", một nguồn tin nói. Trong một số trường hợp, các chuyên gia được triệu tập lại không nghiên cứu đầy đủ về vấn đề mà mình được mời đưa ra lời khuyên.

Khi Trump liên tiếp tung ra các đòn đánh mới, tiếp tục áp thuế với 200 tỷ hàng hóa Trung Quốc và rút khỏi Liên minh Bưu chính Thế giới nhằm gây khó dễ cho hoạt động thương mại điện tử toàn cầu của Trung Quốc, giới lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu chỉ trích những cơ quan tư vấn đưa ra lời khuyên, ý tưởng cho chính phủ.

"Một số cơ quan tư vấn cho rằng Trung Quốc cần phải đẩy mạnh hơn nữa cải cách kinh tế, trong khi số khác khẳng định phải duy trì lập trường cứng rắn với Mỹ", một nguồn tin cho biết. "Sự khác biệt trong quan điểm của các tổ chức tư vấn này là rất lớn, nhưng điều đó là bình thường. Điều gây thất vọng lớn nhất là một số cơ quan tư vấn không chịu nói sự thật".

Khi giới lãnh đạo Bắc Kinh muốn tìm hiểu tâm tư của các doanh nhân nước ngoài trong chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, một số cơ quan tư vấn trực thuộc bộ ngành của chính phủ đã tìm cách "gạn lọc" thông tin mà họ thu thập được từ các kênh liên lạc từ các văn phòng xúc tiến thương mại quốc tế và các bộ có liên quan.

Việc cung cấp các thông tin kiểu "gạn lọc" này được cho là nhằm không làm mất lòng lãnh đạo các bộ ngành quản lý trực tiếp những tổ chức tư vấn đó, nhưng chúng lại khiến các nhà hoạch định chính sách ở Bắc Kinh không có được cái nhìn toàn cảnh và chính xác về cách nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận về căng thẳng đang lên trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung.

Hai nghiên cứu viên thuộc Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc hồi tháng 5 tiến hành một nghiên cứu về tác động của đòn áp thuế Mỹ với tăng trưởng GDP Trung Quốc. Dựa trên các số liệu thống kê của Mỹ, họ kết luận rằng tăng trưởng GDP Trung Quốc chỉ bị giảm khoảng 0,2%, tương tự kết quả nghiên cứu được các đơn vị tư vấn khác công bố.

Điều này làm dấy lên nghi ngờ rằng các chuyên gia này có thể đã cố tình điều chỉnh số liệu để cho ra kết quả "hợp lý". Một cựu quan chức thương mại Trung Quốc nói rằng con số này thiếu chi tiết, không xét tới những khác biệt về cấu trúc và thay đổi trong chuỗi cung ứng giữa hai nước.

"Các chuyên gia và quan chức Trung Quốc lúc đầu tưởng rằng đòn áp thuế của Trump chỉ phục vụ cho cuộc bầu cử quốc hội giữa kỳ sắp tới ở Mỹ và mọi thứ sẽ thay đổi sau đó", một cựu cố vấn chính sách giấu tên của Mỹ cho biết. "Họ đã hoàn toàn nhầm và hiểu sai tình thế. Tôi cho rằng đây là hậu quả của việc họ ngày càng trở nên tách biệt và không ai dám nói với Bắc Kinh rằng họ đã sai".

Định hướng chính trị


Phó thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc (trái) phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos hồi tháng 1. Ảnh: CGTN.

Trung Quốc hiện có hơn 500 tổ chức tư vấn, so với hơn 1.800 tổ chức tương tự ở Mỹ. Phần lớn các đơn vị tư vấn này đều trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ và được tăng ngân sách hỗ trợ đáng kể trong những năm gần đây.

Các tổ chức tư vấn này đã lọt vào danh sách những cơ quan tư vấn hàng đầu thế giới năm 2017 do Viện Lauder thuộc Đại học Pennsylvania công bố hồi đầu năm. Tổ chức tư vấn hàng đầu Trung Quốc được xếp hạng 29 trong tổng số 170 tổ chức trên toàn cầu.

Hồi tháng 7, để tăng cường năng lực nghiên cứu, đề xuất chính sách chống lại đòn tấn công thương mại của Trump, Bộ Tài chính Trung Quốc đã lần đầu tiên lập liên minh 20 tổ chức tư vấn của nước này. Liên minh gồm các cơ quan tư vấn mạnh nhất đến từ Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia, Bộ Thương mại, Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao và một số trường đại học hàng đầu của nước này.

Tuy nhiên, tính hiệu quả của liên minh bị nhiều người hoài nghi khi vấn đề chính trị nhiều khi được đặt lên trên chất lượng thông tin. "Bè phái, cô lập và chỉ phục vụ cấp trên trực tiếp của mình là vấn đề kinh niên trong các cơ quan tư vấn của Trung Quốc", Li Zhongshang, giáo sư Đại học Nhân Dân, người từng làm việc cho Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và đại sứ quán Trung Quốc ở Australia, nói.

"Dù đã được cấp ngân sách dễ dàng hơn trong vài năm qua, nhiều chuyên viên tư vấn vẫn rất coi trọng việc đảm bảo nguồn ngân sách và sự hài lòng từ cấp trên của mình", Li nói. "Họ ít quan tâm hơn tới chất lượng nghiên cứu, vì biết rằng việc dùng kết quả nghiên cứu của mình tác động tới các nhà hoạch định chính sách là rất khó khăn. Điều này rất khác so với Mỹ, nơi các chuyên gia tư vấn có thể đưa các diễn viên, doanh nhân hay các chính trị gia nghiệp dư tiến vào trung tâm của nền chính trị".

Một số nghiên cứu viên thuộc liên minh này nói rằng các nghiên cứu của Trung Quốc về Mỹ không đủ sâu để giúp Bắc Kinh chuẩn bị tốt cho cuộc chiến thương mại với một Tổng thống Trump khó lường, người từng cam kết với cử tri sẽ ngăn chặn các hành động vi phạm thương mại của Trung Quốc.

"Nhiều chuyên gia nghiên cứu chỉ ngồi lỳ trước màn hình máy tính, không bao giờ chịu tham gia hoạt động thực địa nào", Li Guoqiang, chuyên gia tại Trung tâm Nghiên cứu Phát triển thuộc Hội đồng Nhà nước Trung Quốc, nói. "Không ai có thể dựa vào những nghiên cứu đó để xử lý các vấn đề trong thực tiễn".

Trong lúc đó, Trung Quốc thắt chặt công tác quản lý tư tưởng, đặc biệt là với giới học giả, nghiên cứu, yêu cầu họ luôn chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của đảng. Bất cứ cuộc thảo luận vượt thẩm quyền nào về chính sách của chính phủ đều có thể khiến các học giả này bị kỷ luật. Điều này khiến một số cố vấn Trung Quốc và nhà ngoại giao phương Tây lo ngại rằng các đề xuất, kiến nghị của họ có thể bị gạn lọc, chỉnh sửa để "phù hợp về chính trị" trước khi đến được với các lãnh đạo cấp cao nhất.

Một cựu quan chức Mỹ thường xuyên tới Trung Quốc cho biết các cố vấn và quan chức Trung Quốc từng trao đổi rất cởi mở với ông gần đây đang trở nên ngày càng kín tiếng, ngay cả trong các cuộc nói chuyện riêng. "Càng lúc càng khó để biết được họ đang nghĩ gì, vì họ chỉ lặp lại quan điểm chính thức của chính phủ", cựu quan chức này nói. "Điều này sẽ dẫn tới nguy cơ đưa ra quyết định sai lầm cao hơn, thậm chí là cả sai lầm chí mạng".

Dường như việc thiếu các nguồn thông tin đáng tin cậy khiến giới lãnh đạo Trung Quốc đến nay vẫn lần lữa chưa đưa ra quyết định về động thái tiếp theo trong chiến tranh thương mại với Mỹ. "Trung Quốc trước mắt nhiều khả năng sẽ duy trì lập trường 'chờ và xem' khi Trump đóng vai trò dẫn dắt cuộc chiến thương mại", một nguồn tin nói.

Tuy nhiên, Chen Wenling, chuyên gia kinh tế chính tại Trung tâm Giao lưu Kinh tế Quốc tế Trung Quốc có quan hệ mật thiết với chính phủ Trung Quốc, tự tin rằng Bắc Kinh sẽ trụ vững trước đòn thương mại của Trump và Washington cuối cùng sẽ phải nhượng bộ. "Trung Quốc phải đáp trả và không ngần ngại tung đòn đau vào Mỹ", bà Chen nói trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng 9.

Theo Chen, chiến tranh thương mại kéo dài sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế Mỹ và người dân nước này sẽ cảm thấy nỗi đau đó khi "men say" về cắt giảm thuế, sự khởi sắc của thị trường chứng khoán và sự cải thiện của thị trường việc làm tan hết. "Người Mỹ sẽ thức tỉnh từ cơn cuồng Trump và nhận ra cái giá phải trả cho các chính sách của ông", bà nói. "Nhận thức méo mó hiện nay của họ sẽ biến mất trong nửa cuối năm nay, khi hậu quả của chiến tranh thương mại bắt đầu ngấm tới người tiêu dùng".

Xu Changchun, chuyên gia nghiên cứu chiến lược của Trung tâm Giao lưu Kinh tế Quốc tế Trung Quốc, cho rằng với mức độ gắn kết của kinh tế Mỹ - Trung như hiện nay, đòn áp thuế của Trump chỉ là "lưỡng bại câu thương". "Chúng tôi như hai người anh em. Khi hòa thuận, chúng tôi có thể phất lên cùng nhau", Xu tuyên bố. "Nhưng một khi môi hở, răng nhất định sẽ lạnh".

Thành Nguyễn

Nguồn: VnE
0

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2018

Chiến tranh Thương mại có lợi cho nhiều nhà xuất khẩu Trung Quốc

Tại Hội chợ Triển lãm hàng Xuất khẩu ở Quảng Châu, Trung Quốc, câu chuyện của nhiều nhà sản xuất đã được Bloomberg góp nhặt nhằm vẽ lên bức trang toàn cảnh nhất về cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc.


Với hàng nghìn gian hàng từ các nhà sản xuất trên khắp Trung Quốc, Bloomberg có thể tiếp cận một cách dễ dàng với nguồn thông tin đa dạng nhằm tìm hiểu các doanh nghiệp Trung Quốc đối đầu với Chiến tranh Thương mại cũng như tác động của nó với doanh nghiệp của họ và triển vọng nền kinh tế.

Ningbo Staxx, công ty chuyên sản xuất xe nâng của Trung Quốc, cho biết Chiến tranh Thương mại mang đến cho họ những lợi ích trong ngắn hạn, khi các khách hàng và công ty đang cùng nhau vượt qua những rào cản của chính sách thuế quan mà Tổng thống Mỹ áp dụng với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc.

Jeremy Chow, giám đốc kinh doanh của công ty cho biết, trường hợp của công ty họ là minh chứng tốt nhất với việc mua trước các đơn hàng phòng trường hợp mức thuế có thể cao hơn nữa. Đó cũng là lời giải thích cho sự tăng tốc bất ngờ trong tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc tháng 9 vừa qua.

Ở thời điểm hiện tại, xe nâng mà Ningbo Staxx sản xuất nằm trong diện đánh thuế 25%. Tuy nhiên, họ chọn cách tháo rời các bộ phận để bán cho các đối tác Mỹ trước khi lắp lại sản phẩm. Việc này khiến chi phí sản xuất tăng 10% trong khi phí nhập khẩu là 10%. Dù sao, nó vẫn thấp hơn 5% so với việc nhập khẩu nguyên sản phẩm.

Tuy nhiên, cơ hội cho sự chênh lệch này sẽ biến mất vào năm tới khi mức thuế 10% tăng lên 25%. Thomas Wang, giám đốc phụ trách xuất khẩu của công ty, lại tỏ ra không quá lo lắng về sự sụt giảm doanh số bán hàng với mức độ cạnh tranh về chi phí với sản phẩm của công ty, dù có bị đánh thuế 25%.

Việc doanh nghiệp Trung Quốc tìm cách lách thuế quan của Mỹ không phải là điều bí mật. Ngoài các mặt hàng về máy móc, một số doanh nghiệp trong ngành sản xuất gỗ cũng chọn cách lách thuế để hưởng mức thuế rẻ hơn. Thậm chí, có những công ty nước ngoài đứng vị trí trung gian để hiện thực hóa việc lách thuế này bởi nó có lợi cho tất cả các bên, trừ chính sách của Tổng thống Trump.

Tuy nhiên, không phải toàn bộ bức tranh đều màu hồng với các doanh nghiệp Trung Quốc. Các nhà sản xuất đồ trang trí Giáng sinh đang lo ngại việc Mỹ đánh thuế vào mặt hàng vốn có tỷ suất lợi nhuận rất thấp này. Chi phí nhân công tăng cao khiến các nhà sản xuất Trung Quốc không thể giảm giá hơn nữa. Nếu chịu thuế, người tiêu dùng Mỹ sẽ phải chấp nhận những sản phẩm giá cao hơn. Họ chỉ có thể mua hoặc không mua.

Một số doanh nghiệp xuất khẩu khác của Trung Quốc thì chịu tác động bởi việc chính phủ nước này đánh thuế đáp trả nhằm vào các mặt hàng Trung Quốc. Giá cấu kiện tăng cao khiến chi phí giá thành sản phẩm trở nên đắt đỏ. Trong khi đó, khách hàng lại thích dùng những sản phẩm với linh kiện Mỹ, điều khiến việc tìm nguồn cung thay thế không phải giải pháp hiệu quả.

Theo Tri Thức Trẻ/ Bloomberg
0

Khoản nợ 6.000 tỷ USD đẩy Trung Quốc tiến sát "mối họa Titanic"


Các chính quyền địa phương của Trung Quốc có thể đã nợ tới 40.000 tỷ tệ (5.800 tỷ USD), thậm chí còn nhiều hơn đẩy nền kinh tế nước này đối mặt nguy cơ bị núi nợ đè.

S&P Global, một công ty về dịch vụ tài chính có trụ sở tại Mỹ, nhận định nợ công "ngầm" của các chính quyền địa phương Trung Quốc có thể đã lên tới 40.000 tỷ tệ hoặc hơn, tương đương khoảng 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này trong năm 2017. Đây là con số đáng báo động trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang dần hạ nhiệt trong khi sản xuất bắt đầu "thấm đòn" từ cuộc chiến thương mại với Mỹ.

"Những khoản nợ tiềm năng là tảng băng trôi với rủi ro tín dụng là con tàu Titanic", Gloria Lu, chuyên gia phân tích tín dụng của S&P Global, nói trong báo cáo được phát hành hôm 16/10 về kinh tế Trung Quốc.

Với nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại trong khi hạn ngạch phát hành trái phiếu chính phủ dành cho địa phương không đủ để phát triển cho các dự án cơ sở hạ tầng để hỗ trợ tăng trưởng khu vực, nhà chức trách các địa phương trên toàn Trung Quốc đã sử dụng "công cụ tài chính của chính quyền địa phương" (LGFV) để huy động tiền. Đây chính là vấn đề.

LGFV khiến mức nợ thực tế của chính phủ ở các địa phương có thể cao hơn vài lần so với mức công bố. Dù không được báo cáo nhưng thực tế, tỷ lệ nợ trên GDP của nước này đã đạt đến mức "đáng báo động". Nợ ẩn dưới các LGFV khiến việc thống kê rất khó khăn.

"Theo quan điểm của chúng tôi, thị trường đã đúng khi cảm thấy lo ngại hơn về tính ổn định trong các khoản nợ của Trung Quốc và rủi ro tài chính tăng lên. Tôi cũng cảm thấy áp lực mới trên đồng nhân dân tệ", Liu Li-Gang, kinh tế gia trưởng của Citigroup tại Hong Kong, nhận định.

Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc đang có dấu hiệu giảm trong thời gian gần đây. Quãng thời gian tăng trưởng nóng của nền kinh tế Trung Quốc đã kết thúc.

Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, vốn không có dấu hiệu cho thấy sự hạ nhiệt trong tương lai gần, càng làm nảy sinh những khó khăn với nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Các doanh nghiệp của Trung Quốc đã bắt đầu hứng chịu những tác động từ chính sách thuế quan mà Tổng thống Trump áp dụng lên 250 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu của nước này vào Mỹ.

Trong khi đó, cuộc chiến thương mại sẽ thể hiện tất cả những hậu quả của nó trong năm 2019, đe dọa biến những khó khăn, thách thức hiện tại trở nên nghiêm trọng hơn. Cùng với đó, khoản nợ lên tới 6.000 tỷ từ các chính quyền địa phương có thể đẩy kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng bị nợ đè.

Theo Tri Thức Trẻ/ Bloomberg
0

Mỹ – Trung và một cuộc chiến khác

Việc Trung Quốc bị cáo buộc “đánh cắp” tài sản trí tuệ, nhất là các thành quả công nghệ của Mỹ không phải là một điều quá mới. Ước tính, các công ty Mỹ mất khoảng 600 tỷ USD hàng năm tiền bản quyền liên quan đến những thứ mà họ dày công nghiên cứu và phát triển.


Gần đây, giới công nghệ đang sục sôi với việc một sĩ quan tình báo cấp cao thuộc Bộ An ninh quốc gia Trung Quốc bị bắt tại Bỉ và bị dẫn độ về Mỹ. Viên sỹ quan này bị cáo buộc gián điệp và đánh cắp bí mật thương mại và thông tin từ General Electric Aviation – công ty Mỹ dẫn đầu trong ngành hàng không vũ trụ.

Theo Bộ Tư pháp Mỹ, sĩ quan Yanjun Xu, đang phải đối mặt với các tội danh gián điệp kinh tế. Đây cũng là lần đầu tiên Mỹ dẫn độ một nhân vật thuộc chính phủ Trung Quốc từ một nước khác về Mỹ để đưa ra tòa xét xử.

Bí mật nào là an toàn?

Các vụ gián điệp Trung Quốc ăn cắp bí mật thương mại của Mỹ không phải là điều hiếm thấy. Trên thực tế, Mỹ đã từng bỏ tù rất nhiều công dân Mỹ gốc Trung Quốc vì tội danh này. TS. Tao Li, một nhà khoa học đã nhập quốc tịch Mỹ, bị kết tội tiếp nhận bí mật nghiên cứu thuốc chống ung thư từ công ty dược phẩm GlaxoSmithKline (GSK). Sau đó, TS Tao Li đã tuồn những thông tin này cho TS. Yu Xue (cũng là một người Mỹ gốc Trung Quốc) khi ông này làm việc tại phòng nghiên cứu của GSK. Yu Xue đã bị kết tội một tháng trước khi Tao Li ra tòa.

Mục đích của hai người này là tuồn thông tin về Trung Quốc và mở một công ty cạnh tranh với GSK mang tên Renopharma đặt tại Nam Kinh. Theo Bộ Tư pháp Mỹ, Renopharma được hỗ trợ tài chính từ chính phủ Trung Quốc.

Vào đầu tháng Tám vừa qua, một kỹ sư Mỹ gốc Hoa của GE tên Xiaoqing Zheng cũng đã bị bắt và buộc tội lấy trộm công nghệ mật và chuyển về Trung Quốc hàng nghìn tài liệu quý giá liên quan đến công nghệ tua bin. Điều đặc biệt là, khi đang làm việc cho GE, Zheng sở hữu ít nhất một công ty ở Trung Quốc nghiên cứu về công nghệ tương tự như những gì ông đang làm tại GE. Thậm chí, FBI còn tìm thấy một sổ tay về hoạt động gián điệp của Trung Quốc, trình bày chi tiết những mức thưởng cho những ai mang công nghệ về nước.

Cảnh giác và ngăn chặn

“Made in China 2025” (MIC 2025) là một kế hoạch chiến lược của chính phủ Trung Quốc kéo dài 10 năm và được công bố vào năm 2015 nhằm nâng cấp ngành công nghiệp Trung Quốc, nâng tầm quốc gia này thành một cường quốc toàn cầu. Đây là nỗ lực để chuyển dịch nền sản xuất của Trung Quốc lên cao hơn trong chuỗi giá trị, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao. Kế hoạch này không chỉ khẳng định rằng chính phủ đóng vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế, nó còn minh họa ý định của Trung Quốc tận dụng hệ thống pháp lý để ủng hộ các công ty trong nước đánh bại các công ty nước ngoài trong một số ngành nghề nhất định.

Mối lo lớn nhất đối với phương Tây, đó là thông qua kế hoạch MIC 2025, Trung Quốc có thể khuyến khích việc đánh cắp các công nghệ hiện đại khác nhau từ những công ty lớn của nước ngoài, nhất là Mỹ.

Vào cuối tháng Chín, một bài báo trên tờ South China Morning Post đặt ra câu hỏi liệu kế hoạch thống trị ngành công nghiệp công nghệ cao có phải là một mối đe dọa lớn đối với phương Tây hay không. Bài báo đưa ra ví dụ về một startup ít người biết đến ở Trung Quốc tên Redcore. Hồi tháng Tám, Redcore tự hào công bố rằng nó đã “phá vỡ sự độc quyền của Mỹ” trên thị trường công nghệ với việc phát triển thành công một ứng dụng trình duyệt web của riêng mình.

Nhưng tuyên bố của startup có trụ sở tại Bắc Kinh này sớm bị bỏ ngoài tai do các chuyên gia đã tìm thấy dấu vết của trình duyệt Google Chrome trong phần mềm trình duyệt web của Redcore. Bài báo tiếp tục nhấn mạnh sự chỉ trích lâu naycủa phương Tây về chiến thuật chuyển giao công nghệ và lấy trộm tài sản trí tuệ của Trung Quốc, cũng như khoảng cách mà quốc gia này cần phải thu hẹp với Mỹ nếu như tiếp tục muốn nuôi hy vọng trở thành siêu cường quốc về công nghệ.

Cũng theo phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Công nghệ Thông tin Trung Quốc Miao Wei vào năm 2015, ông thừa nhận Trung Quốc cần 30 năm mới có thể phát triển để trở thành siêu cường trong ngành sản xuất và MIC 2025 chỉ là những bước của mục tiêu này, nó không mang thông điệp mạnh mẽ như những gì người ta nghĩ.

Với những gì đã và đang xảy ra, khả năng Trung Quốc tiếp tục lấy trộm tài sản trí tuệ từ Mỹ là hoàn toàn có thể. Trước mối nguy cơ hiện hữu này, gần đây Chính phủ của Tổng thống Donald Trump đã có những bước đi cần thiết để từng bước ngăn chặn vấn nạn này trước khi quá muộn.

Trung Quốc quyết theo đuổi cuộc chiến thương mại với Mỹ

Ngày 14/10, Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ Thôi Thiên Khải cho biết, Bắc Kinh không còn cách nào khác ngoài việc phải đáp trả …

Trung Quốc không dùng Nhân dân tệ để giải quyết xung đột với Mỹ
Trung Quốc tuyên bố sẽ không dùng Nhân dân tệ làm “vũ khí” trong cuộc chiến thương mại với Mỹ.

Mỹ khẳng định căng thẳng thương mại với Trung Quốc không đe dọa kinh tế toàn cầu
Ngày 13/10, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin cho rằng những biện pháp thuế quan gây sức ép để Trung Quốc mở cửa hơn …

Quang Đào

(tổng hợp)
0

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2018

Trung Quốc sẽ làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu

Trên thực tế, Trung Quốc đã không thoát khỏi sự sụp đổ năm 2008. Họ chỉ trì hoãn nó – cho đến hiện nay. Do đó, dường như Bắc Kinh đang làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu một lần nữa. Lần nay, nạn nhân lớn nhất sẽ là Trung Quốc.


Bắc Kinh sẵn sàng đẩy thế giới vào một cuộc suy thoái khác.

Nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn, tiền tệ và các thị trường của nước này, phản ánh tình trạng bất ổn, đang xáo trộn. Tập Cận Bình không có giải pháp nào. Điều duy nhất ông đang làm là gánh thêm nợ nần.

Đó là điều cực kỳ đáng tiếc vì một Bắc Kinh mắc nợ quá nhiều một lần nữa bắt đầu đẩy thế giới vào suy thoái. Thông qua các chính sách trục lợi, Trung Quốc đã đẩy nhanh cuộc suy thoái toàn cầu vào thập kỷ trước, và dường như họ cũng sẽ gây ra cuộc suy thoái tiếp theo.

Lần trước, người Trung Quốc đã hưởng lợi rất lớn từ sự khốn khổ của toàn thế giới. Lần này, họ sẽ không may mắn như vậy và gần như chắc chắn sẽ trở thành những nạn nhân lớn nhất.

Nhìn bề ngoài, nền kinh tế của Trung Quốc trông có vẻ tốt đẹp. Ngày 16/7, Cục thống kê quốc gia báo cáo rằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng 6,7% trong Quý II năm 2018, giảm từ mức 6,8% trong Quý I nhưng phù hợp với kỳ vọng.

Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc không phải là vấn đề, bất kể được báo cáo thế nào. Nước này có một vấn đề căn bản: họ đang nhanh chóng mắc nợ. Nước này đang chịu số nợ có thể gấp 1,5 lần GDP danh nghĩa họ tạo ra – nếu những số liệu GDP chính thức là chính xác.

Tuy nhiên, chúng lại không chính xác. Cục thống kê quốc gia đã báo cáo số liệu GDP ở mức ổn định, điều sẽ là cực kỳ bất thường trong một nền kinh tế hoàn thiện đầy đủ, chưa kể đến một nước đang phát triển như Trung Quốc.

Do đó, bề ngoài, những số liệu của Bắc Kinh là đáng ngờ. Lấy ví dụ năm 2016, Bắc Kinh tuyên bố đạt tỷ lệ tăng trưởng là 6,7%. Giữa năm 2017, Ngân hàng thế giới (WB), đã công bố một biểu đồ cho thấy vào năm 2016, GDP của Trung Quốc tăng 1,1%.

Con số 1,1%, vốn khiến nhiều người bất ngờ, phù hợp với tổng chỉ số chính xác duy nhất đánh giá hoạt động kinh tế của Trung Quốc, tổng lượng tiêu thụ năng lượng chính. Theo các số liệu chính thức, vào năm 2016, tổng lượng tiêu thụ năng lượng chính tăng 1,4%.

Năm 2017, nền kinh tế đã tăng tốc – tiêu thụ năng lượng tăng lên 2,9% - nhưng GDP không thể tăng trưởng ở mức đã công bố là 6,9%.

Mức tăng trưởng thấp làm nổi bật vấn đề dai dẳng của Bắc Kinh: không nền kinh tế nào có thể tiếp tục vô hạn định tạo ra nợ nhanh hơn tạo ra GDP, đặc biệt với tốc độ của Trung Quốc. Ở một thời điểm nào đó, như các nhà kinh tế học sẽ nói, phải có một sự “điều chỉnh”, và một “cuộc khủng hoảng” như phần còn lại trong số chúng ta sẽ mô tả nó. Hơn nữa, sự điều chỉnh, hay cuộc khủng hoảng, phải thật lớn vì nó đã bị trì hoãn quá lâu. Bắc Kinh đã trì hoãn những sự điều chỉnh kể từ cuộc suy thoái năm 2008 có lẽ là với thời kỳ cho vay-chi tiêu lớn nhất trong lịch sử. Trong 5 năm bắt đầu vào năm 2009, các ngân hàng của Trung Quốc đã mở rộng nhiều khoản tín dụng gần tương đương với số tín dụng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng của Mỹ, mặc dù vào cuối năm 2008, nền kinh tế Trung Quốc chưa bằng 1/3 quy mô nền kinh tế Mỹ. Hoạt động này tiếp tục diễn ra kể từ cuối nửa thập kỷ đó.

Kết quả là nền kinh tế Trung Quốc trở nên mất cân bằng, những sự mất cân bằng đó trở nên có tính đe dọa, và đất nước này đã tích lũy số nợ đáng kể. Theo Bloomberg, năm 2008, tỷ lệ nợ so với GDP của Trung Quốc, một thước đo tiêu chuẩn cho tính bền vững của nợ, là 141%. Con số đó vốn đã gây lo ngại, nhưng tình hình còn nhanh chóng trở nên xấu đi kể từ đó. Bloomberg cho biết tỷ lệ này đã tăng vọt lên đến 256% vào giữa năm 2017.

Con số này chắc chắn còn cao hơn, đặc biệt là khi tính đến cái gọi là “nợ bí mật” trong hệ thống “ngân hàng ngầm”. Andrew Collier đến từ Trung tâm nghiên cứu Orient Capital có trụ sở tại Hong Kong nói rằng các ngân hàng ngầm quản lý “gần một nửa tổng số tiền ở Trung Quốc”. Tính đến tất cả các khoản nợ này, Collier tin rằng tỷ lệ nợ so với GDP của nước này là khoảng 400%. Một tỷ lệ phần trăm kiểu như vậy cho thấy gánh nặng nợ nần của nước này là vô cùng nặng nề.

Món nợ nặng nề của Trung Quốc là một trở ngại cho tăng trưởng, đặc biệt là vì nhiều khoản đầu tư được thực hiện với những khoản vay này không có hiệu quả. Một số không hiệu quả vì chúng bị hiểu sai hoàn toàn và sẽ vẫn như vậy hoặc vì chúng sẽ chỉ có hiệu quả trong tương lai. Dù thế nào, những khoản đầu tư đó cũng gây ra một vấn đề của hiện tại. Các nhà kỹ trị Trung Quốc có thể làm nhiều điều, nhưng như Fraser Howie, đồng tác giả của cuốn sách “Chủ nghĩa tư bản đỏ: Nền tảng tài chính mong manh của sự trỗi dậy phi thường của Trung Quốc”, nói với tác giả vào tháng 6: “Điều họ không thể làm là biến những khoản đầu tư ngu ngốc trở thành tốt đẹp”.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tìm cách loại bỏ những vấn đề này bằng cách mắc thêm nợ. Thủ thuật đó đã có tác dụng vào cuối những năm 1990, nhưng khối nợ tích lũy giờ đây trở nên nặng nề đến mức làm chậm tăng trưởng và làm lung lay niềm tin.

Trong số những điều khác, những quan ngại về kinh tế đã dẫn đến tình trạng thoái vốn ồ ạt vào năm 2015 và năm 2016, khi theo những ước tính chính xác nhất, dòng chảy vốn ròng ra ngoài vượt mức 2000 tỷ USD. Bắc Kinh đã ngăn chặn dòng chảy ra ngoài, nhưng chỉ bằng những biện pháp kiểm soát vốn hà khắc, chỉ một vài trong số đó được công bố chính thức.

Bất chấp thành công trong việc ngăn dòng vốn chảy ra ngoài, vẫn còn những mối lo ngại. Tháng 10/2017, Chu Tiểu Xuân, khi vẫn là người đứng đầu Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, công khai nêu lên khả năng rằng Trung Quốc sẽ gánh chịu “thời điểm Minsky”, thời điểm mà các giá trị tài sản sụp đổ. Đây cũng là nỗi lo lắng của người dân Trung Quốc, những người rõ ràng nghĩ rằng điều gì đó tồi tệ đang đến. Hết khảo sát này đến khảo sát khác cho thấy 1/3 đến 1/2 người giàu Trung Quốc lên kế hoạch rời khỏi đất nước của họ trong trung hạn.

Như những bình luận khác thường của Chu Tiểu Xuân chỉ ra, tình hình của Bắc Kinh vẫn nghiêm trọng. Michael Pettis đến từ Đại học Bắc Kinh đã chỉ ra trong các bình luận tại Diễn đàn Thịnh vượng toàn cầu vào tháng 12/2017 rằng sự khác biệt giữa tình hình Trung Quốc hiện nay và các cuộc khủng hoảng nợ trước đây ở những nước khác là trong các cuộc khủng hoảng trước đó, những sự mất cân bằng về kinh tế không “sâu sắc” và nợ không ở mức “cao” như vậy.

Trung Quốc có thể tránh được tình trạng mất cân bằng và nợ nần lâu hơn các nước khác. Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ mọi thứ từ người đi vay, người cho vay, các thị trường đến tòa án. Tuy nhiên, nền kinh tế không thể tránh khỏi thời điểm then chốt đó khi một sự điều chỉnh diễn ra.

Tại sao? Donald Trump xuất hiện. Cho dù người ta nghĩ Tổng thống Trump bắt đầu một cuộc chiến tranh thương mại hay chỉ phản ứng với cuộc chiến mà Trung Quốc khởi xướng – tác giả bỏ phiếu cho cách hiểu thứ hai – thì ông cũng đang thực hiện những hành động tấn công nền kinh tế Trung Quốc và làm lung lay niềm tin.

Sau một làn sóng mạnh mẽ ban đầu do hoạt động tuyên truyền tạo ra, các học giả và nhà phân tích Trung Quốc đang bắt đầu hiểu ra rằng “chiến tranh thương mại” là một cuộc tranh đấu lâu dài mà đất nước họ không thể duy trì.

Tại sao? Trump nói về các khoản thâm hụt thương mại, nhưng những hành động của chính quyền ông lại tập trung vào công nghệ. Một cuộc cạnh tranh về công nghệ, hơn cả một cuộc chiến tranh thương mại, trông giống như một cuộc tranh đấu cho tương lai. Như Thomas Friedman của tờ New York Times đã viết vào đầu tháng 5, đây không phải cuộc chiến về các loại thuế hay thậm chí là về thương mại; đây là cuộc chiến cho tương lai. Kết luận của Friedman không phải là phân tích của riêng ông mà là những quan điểm từ các nguồn của Trung Quốc. Nhiều người ở Trung Quốc nhìn nhận điều này là, hoặc gần như là, một cuộc tranh đấu để tồn tại. Đúng lúc đó, người Mỹ cũng sẽ nhìn nhận giống như vậy.

Trong bất kỳ tình huống nào, những hành động của Trump cũng đang gây áp lực mạnh mẽ đối với nền kinh tế Trung Quốc. Anne Stevenson-Yang, đồng sáng lập Trung tâm nghiên cứu J Capital có trụ sở tại Bắc Kinh, nói với tờ National Interest: “Tôi thực sự tin rằng quyết tâm của Trump cắt giảm lượng đồng USD đang lưu thông sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng cho Trung Quốc, như anh có thể thấy từ lợi suất trái phiếu hiện nay, thị trường chứng khoán A-share (cổ phiếu niêm yết trên sàn Thượng Hải và sàn Thâm Quyến, định giá bằng đồng nhân dân tệ - ND), và giá trị đồng nhân dân tệ. Đây không phải là ý định của Trump mà là một tác động của việc tăng lãi suất, phần nào là chức năng của việc cắt giảm thuế, vì việc vay quá nhiều tiền làm tăng lãi suất, cộng thêm vào điều hẳn sẽ là một sự suy giảm trong thương mại của Mỹ. Lý do giải thích tại sao điều này có thể châm ngòi cho cuộc khủng hoảng nợ đã được dự đoán từ lâu là nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào doanh thu bằng đồng USD để hỗ trợ cho việc mở rộng cung ứng tiền tệ. Không có nó, họ chỉ có thể in thêm tiền, và điều đó gây ra lạm phát”.

Các nhà kỹ trị Trung Quốc có thể đang tiếp cận đến những giới hạn xa hơn của những gì họ có thể in ra để duy trì hoạt động nền kinh tế. Cuối năm 2017, M2 của Trung Quốc, thước đo tiền tệ lưu hành rộng lớn (gồm tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm – ND) đã lên đến 25.980 tỷ USD, chiếm 202,3% GDP năm 2017. Trong khi đó, M2 của Mỹ vào thời điểm đó là 13.820 tỷ USD, chỉ bằng 71,8% GDP.

Trump đang cắt giảm dòng chảy tiền tệ ngay khi Bắc Kinh cần nó nhất. Trong vài tuần gần đây, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, một ngân hàng thuộc trung ương, đã vội vàng bổ sung thêm tiền mặt. Như Collier nói với tờ The National Interest, nhìn chung các quan chức Trung Quốc nghĩ rằng tình trạng siết chặt gần đây đã đi quá xa và họ cũng đã tìm cách “đối phó với tác động của một cuộc chiến tranh thương mại đối với nền kinh tế”.

Và Trung Quốc, một nước có thặng dư thương mại, đặc biệt dễ bị tổn thương trước một cuộc chiến tranh thương mại. Ngân hàng thế giới ước tính rằng xuất khẩu chiếm 19,8% GDP năm 2017 của Trung Quốc.

Collier không mong đợi một cuộc khủng hoảng tài chính của Trung Quốc, nhưng động thái trong ngắn hạn là bổ sung tín dụng sẽ dẫn đến việc có “thêm các dự án tồi tệ” và do đó là “một nền kinh tế cơ sở yếu kém hơn”.

Bắc Kinh đang trong tình thế khó khăn. Việc bổ sung tín dụng sẽ kích thích nền kinh tế và kiềm chế làn sóng vỡ nợ trái phiếu đang diễn ra. Tuy nhiên, thêm tín dụng sẽ làm suy yếu đồng nhân dân tệ, vốn đã giảm 3,25% so với USD vào tháng 6 và đang tiếp tục sụt giảm. Đồng nhân dân tệ yếu kém hơn dẫn đến dòng vốn chảy ra ngoài.

Đồng thời, Ngân hàng dự trữ liên bang đang tăng lãi suất. Mức lãi suất cao hơn của Mỹ có xu hướng dẫn đến dòng tiền ra khỏi Trung Quốc và vào Mỹ. Đầm lầy mà Trump đang rút cạn chính là Trung Quốc.

Và những hành động của Trump trong lĩnh vực thương mại, cùng với phản ứng của Bắc Kinh, sẽ dẫn đến suy giảm xuất khẩu, do đó sụt giảm lợi nhuận từ xuất khẩu.

Như Stevenson-Yang nói với tác giả, chẳng bao lâu nữa, Bắc Kinh sẽ ở vào vị trí mà họ có thể không có khả năng kiềm chế tình hình. Trong những tháng gần đây, họ đã bảo vệ tiền tệ của mình bằng cách bán đồng USD, và Trung Quốc có lượng dự trữ lớn. Tuy nhiên, số tiền dự trữ đó – chính thức công bố là 3.110 tỷ USD vào cuối tháng 6 – chắc chắn không lớn hay có tính luân chuyển như đã được khẳng định, do đó rốt cuộc chúng có thể tỏ ra không đủ lớn để ngăn chặn tình trạng hoảng loạn.

Bắc Kinh đã kiềm chế được tình hình vào năm 2008. Họ đã kích thích nền kinh tế để tránh một cuộc khủng hoảng do họ tạo ra. Nhiều người nói rằng quy định lỏng lẻo ở Mỹ đã dẫn đến suy thoái toàn cầu, nhưng những người có óc tò mò có thể muốn hỏi lý do tại sao quy định lại thất bại ở một đất nước vốn được biết đến là có hệ thống quy định chặt chẽ.

Câu trả lời là quy định của Mỹ - và các nhà lập pháp - bị lấn át bởi xu hướng thanh khoản toàn cầu. Xu hướng đó là kết quả trực tiếp của việc Trung Quốc, thông qua các chính sách trọng thương, tích lũy thặng dư thương mại và thông qua các chính sách khác giữ phần lớn số tiền mặt có được nhờ đó khỏi tay của người dân Trung Quốc.

Bắc Kinh đã đầu tư những khoản thặng dư đó vào khoản nợ của Mỹ, và do đó, thanh khoản đã tràn ngập Mỹ. Giống như ở Trung Quốc hiện nay, quá nhiều khả năng thanh khoản trở thành các khoản đầu tư không hiệu quả. Trong một giai đoạn “sôi nổi vô lý” – thuật ngữ được cựu Chủ tịch Ngân hàng dự trữ liên bang Alan Greenspan phổ cập – hầu hết tất cả mọi người đều trở nên choáng váng, giống như các nhà đầu tư đã từng trải qua vào những năm 1920.

Mỹ là nước đầu tiên chịu thiệt hại trong cuộc đại suy thoái gần đây nhất. Trong cuộc suy thoái tiếp theo, sẽ đến lượt Trung Quốc. Sau một thập kỷ với các khoản đầu tư yếu kém và kích thích quá mức, Bắc Kinh sẽ không thể né tránh khủng hoảng.

Trên thực tế, Trung Quốc đã không thoát khỏi sự sụp đổ năm 2008. Họ chỉ trì hoãn nó – cho đến hiện nay.

Do đó, dường như Bắc Kinh đang làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu một lần nữa. Lần nay, nạn nhân lớn nhất sẽ là Trung Quốc.

Gordon G. Chang là tác giả cuốn “Trung Quốc sắp sụp đổ”. Bài viết được đăng trên The National Interest.

Văn Cường (gt)
0

Thứ Hai, 16 tháng 4, 2018

Chuyên gia: Nợ công Việt Nam nguy hiểm hơn các nước khác

VietTimes.vn -- "Chúng ta đứng trước nguy cơ là không còn bất kỳ một đồng nào để đầu tư phát triển nữa. Hiện nay gần 70% NSNN dùng cho chi thường xuyên, còn lại là dịch vụ nợ chiếm hơn 30%. Như vậy là toàn bộ 100% NSNN chỉ để chi cho hai việc ấy thôi", chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong phân tích.


Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong

Nợ công của Việt Nam nguy hiểm hơn các nước khác

Nợ công của Việt Nam đang tiến gần tới kịch trần 65% GDP cho phép. Tuy nhiên điều đáng nói là trong vòng 5 năm trở lại đây nợ công đã tăng gấp đôi. Ông bình luận gì về vấn đề này?

- Nợ công của chúng ta hiện nay có 4 đặc trưng nổi bật. Thứ nhất là, nợ công tăng nhanh hơn mọi dự báo, kể cả những dự báo bi quan nhất, thậm chí vượt cả dự tính của Bộ Tài chính. Đây là một trong những dấu hiệu nguy hiểm nhất và ngày càng hiện hữu rõ hơn.
0

Thứ Năm, 28 tháng 12, 2017

Nền kinh tế Việt Nam tăng tốc ngoạn mục

Năm 2017 sắp kết thúc đã trở thành một năm thành công nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thập kỷ qua, đất nước đã đạt được kết quả kỷ lục trong nhiều lĩnh vực.

Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn)
Tp. Hồ Chí Minh

Trong cuộc phỏng vấn với Sputnik, chuyên gia hàng đầu của Nga về nền kinh tế Việt Nam, Giáo sư Vladimir Mazyrin, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN thuộc Viện Nghiên cứu Viễn Đông của Viện Hàn lâm Khoa học Nga, nói rằng, Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển kinh tế ổn định.

"Chứng tỏ về điều đó là nhiều chỉ số kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP 6,7% đạt mức tăng trưởng cao nhất trong gần 10 năm sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Một thành tựu quan trọng là cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh. Chứng tỏ về điều đó là khối lượng đầu tư thu hút trong năm nay — 33 tỷ USD, tăng 82,8% so với cùng kỳ năm 2016.

Việt Nam thu hút ngày càng nhiều dự án nước ngoài lớn. Ngành ngoại thương tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao chưa từng thấy. Theo Tổng cục Hải quan dự kiến, tới hết năm 2017, kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước sẽ đạt mức 410 tỷ USD, mức thặng dư thương mại sẽ khoảng 3 tỷ USD. Cần lưu ý rằng, Việt Nam thực hiện nhanh hơn mục tiêu tổng kim ngạch tăng thêm 100 tỷ USD.

Việt Nam đã mất 6 năm để con số này từ 30 tỷ USD lên mốc 100 tỷ USD, và chỉ mất 2 năm để đạt mốc 400 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu. Một yếu tố quan trọng là nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mô hình tăng trưởng theo chiều rộng với định hướng xuất khẩu. Cùng với mức tăng trưởng gần 12% của ngành công nghiệp chế biến, khu vực dịch vụ của Việt Nam cũng đạt được mức tăng trưởng tốt - 7,3%.

Hiện nay dịch vụ càng ngày càng chiếm thị phần lớn của thương mại toàn cầu, và khu vực này đang thu hút sự chú ý lớn. Dự trữ ngoại hối quốc gia đã tăng kỷ lục, đạt 46 tỷ USD, yếu tố này cũng rất quan trọng đối với sự ổn định kinh tế cũng như mức lạm phát thấp, chỉ có 1,6%. Việt Nam tập trung thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, trong năm nay lần đầu tiên trong nhiều năm qua, Việt Nam đã hoàn thành cả 13 chỉ tiêu kinh tế — xã hội."

Kết quả của những thành tựu này là Việt Nam đã tăng mấy bậc trong bảng xếp hạng các nền kinh tế phát triển, — giáo sư Mazyrin nói tiếp.

GDP Việt Nam đạt gần 220 tỷ USD, và tính theo GDP ngang giá sức mua thì GDP của Việt Nam được lên gần 600 tỷ USD. Việt Nam đang tiến nhanh tới con số một nghìn tỷ USD. Đây là tốc độ tăng trưởng ngoạn mục, mà mới gần đây không ai có thể tin được. Kết quả này đã đạt được nhờ chính sách đúng đắn của ban lãnh đạo đất nước. Ở đây cách đánh giá của tôi mâu thuẫn với ước tính của một số chuyên gia phương Tây.

Họ cho rằng những trở ngại nghiêm trọng đối với sự phát triển của Việt Nam là sự thống trị của khu vực công, quản lý nhà nước mạnh quá mức, điều kiện không thuận lợi cho vốn nước ngoài. Nếu ban lãnh đạo đất nước thực thi chính sách không đúng đắn thì không thể đạt được những kết quả như vậy. Và các tài sản chính cần phải thuộc quyền sở hữu nhà nước. Nếu hơn một nửa tài sản nhà nước bị cổ phần hóa, thì đây sẽ là cảnh hara-kiri của chủ quyền kinh tế.

Theo tính toán của tôi, chu kỳ kinh tế của Việt Nam thường kéo dài từ 9 đến 11 năm. Như vậy, sự tăng trưởng chắc chắn sẽ tiếp tục thêm 2-3 năm nữa, sau đó sẽ bắt đầu quá trình suy thoái, giai đoạn không tránh khỏi trong sản xuất tư bản. Các nhà kinh tế, bao gồm cả các chuyên gia Việt Nam, chỉ ra rằng, Việt Nam không thể duy trì trong một thời gian dài những lợi thế hiện nay như nguồn lao động trẻ và lao động giá rẻ. Đất nước cần phải chuyển sang mô hình kinh tế sáng tạo, cần phải tăng năng suất lao động và hiện đại hóa nông nghiệp.

Trong tương lai Việt Nam sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng khác. Đây là việc đẩy mạnh tự động hóa và sử dụng công nghệ robot trong sản xuất tại các nước phương Tây, chủ yếu ở Mỹ. Kết quả là các nước này sẽ không có nhu cầu đặt cơ sở sản xuất ở Đông Nam Á.

Một vấn đề nghiêm trọng hơn là quá trình biến đổi khí hậu làm tăng mực nước đại dương. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên chịu tác động mạnh của hiện tượng này. Theo đánh gía cho biến đổi khí hậu, nếu mực nước biển tăng 1-2 m, cả thung lũng sông Hồng, và đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập sâu, điều đó sẽ gây ra làn sóng người di cư khổng lồ. Bây giờ vấn đề này đang được nghiên cứu, các chương trình liên quan đang được chuẩn bị. Nhưng, đây là vấn đề tương lai. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định, và các ngân hàng thế giới và các cơ quan đánh giá đưa ra những dự báo lạc quan nhất cho sự phát triển của Việt Nam trong năm tới.

Nguồn: Sputnit News
0

Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2017

Trump cuối cùng đã thua trong chiến tranh Việt Nam tại Đà Nẵng thế nào?


Các phương tiện truyền thông nước ngoài tiếp tục phân tích Tuần lễ của các lãnh đạo nền kinh tế APEC tại Đà Nẵng và chuyến thăm của người đứng đầu nước Mỹ và Trung Quốc tới Hà Nội.

Ấn bản Ấn Độ Scroll.in đăng tải một bài viết sắc sảo về bài phát biểu của Tổng thống Mỹ Trump tại hội nghị thượng đỉnh APEC.

"Với suy nghĩ nhẹ dạ từ bỏ vai trò lãnh đạo của Mỹ trong khu vực, ông Trump cuối cùng đã thua trong chiến tranh Việt Nam — cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc. Diễn đàn APEC, được nhóm họp từ năm 1989, là một sáng kiến ​​lớn của Mỹ để xây dựng lại vai trò lãnh đạo của mình trong khu vực sau thảm họa suy giảm ảnh hưởng trong thời hậu chiến tại châu Á. Nhưng Trump, trong bài phát biểu của ông bày tỏ hối tiếc của mình trước sự vô ích của Tổ chức thương mại đa phương và nhường sân khấu lại cho nhà lãnh đạo mạnh mẽ Trung Quốc Tập Cận Bình,"tờ báo viết.

Tất nhiên, ông Tập không phát biểu ở Đà Nẵng về những việc mà Trung Quốc thực sự đã làm: từ gian lận thương mại đến đánh cắp sở hữu trí tuệ, từ việc tuyên bố một trong những tuyến đường biển quốc tế nhộn nhịp nhất trên Biển Đông là biển nội địa của Trung Quốc, tới việc tự cô lập Internet tại nước này. Nhưng lời hứa của ông về một chính sách công bằng và toàn diện mang lại cho ông những tràng pháo tay từ các nhà lãnh đạo châu Á, đang bị sốc trước việc Trump từ bỏ sự lãnh đạo thương mại của Mỹ, mà ông ta đã bắt đầu ngay lập tức sau khi vào Nhà Trắng, đầu tiên là Hoa Kỳ rời khỏi thỏa thuận TPP, và sau đó là thỏa thuận khí hậu Paris. Nhưng trong bài phát biểu quan trọng của mình ở Đà nẵng, ông đã chuyển giao không chỉ vị trí lãnh đạo trong khu vực, mà còn toàn bộ nền kinh tế thế giới tới người cai trị độc đoán của Trung Quốc, tác giả viêt.

Ấn bản quốc tế có uy tín The Diplomat đánh giá cao kết quả chuyến thăm của Trump đến Việt Nam trên quan điểm triển vọng hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

"Sự phát triển của việc hợp tác này rất cần thiết cho cả Việt Nam và lợi ích chiến lược của Mỹ ở Biển Đông. Mỹ ủng hộ Việt Nam bằng cách mở rộng khả năng trao đổi tin tức tình báo trên biển, cũng như hiện đại hóa đội tàu tuần tra Cảnh sát biển. Hà Nội đánh giá cao sự hiện diện vững chắc của Hoa Kỳ, nhằm cân bằng với Trung Quốc. Họ cố gắng duy trì một sự cân bằng giữa hai cường quốc để bảo vệ các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, nhưng cố để không rơi vào sự đối đầu. Nếu Hoa Kỳ tính toán đến điều này, việc hợp tác trong lĩnh vực quân sự với Việt Nam sẽ tiếp tục ", bài báo khẳng định.
0