Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt-Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt-Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

Tàu Hải quân Hoa Kỳ thăm hữu nghị thành phố Đà Nẵng

Ngày 6/4, tại cảng Tiên Sa, TP Đà Nẵng đã diễn ra buổi lễ đón tiếp sĩ quan và thủy thủ đoàn của Hải quân Hoa Kỳ nhân chuyến thăm Việt Nam.


Chiến hạm của Hải quân Hoa Kỳ cập cảng Tiên Sa (Ảnh: VGP)

Được sự hỗ trợ của Đại sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội và Tổng lãnh sự Quán Hoa Kỳ tại TP.HCM, trưa 6/4, tại cảng Tiên Sa, TP Đà Nẵng đã diễn ra buổi lễ đón tiếp sĩ quan và thủy thủ đoàn của Hải quân Hoa Kỳ nhân chuyến thăm Việt Nam, mở đầu cho đợt Hoạt động giao lưu Hải quân thường niên lần thứ 6 giữa hai nước. Đây là sự kiện đặc biệt hướng tới kỷ niệm 20 năm Việt – Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao.

Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam lần này gồm 2 tàu khu trục là tàu USS Fitzgerald có tên lửa dẫn đường và tàu tác chiến gần bờ USS Fort Worth. Hai tàu này do Đại tá Lê Bá Hùng, Phó Tư lệnh Biên Đội tàu khu trục số 7 – hải quân Hoa Kỳ làm chỉ huy.

Được biết, chương trình Giao lưu giữa hải quân Việt Nam và Hoa Kỳ kéo dài trong 5 ngày, tập trung vào các sự kiện phi tác chiến và các hoạt động trao đổi kỹ năng về quân y, tìm kiếm và cứu nạn, an ninh hàng hải. Các trao đổi chuyên môn sẽ tập trung vào lĩnh vực hàng hải như kiểm soát thiệt hại trên tàu, giải cứu tàu ngầm. Ngoài ra, còn có các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ như tổ chức hòa nhạc, thi đấu thể thao và một số hoạt động phục vụ cộng đồng khác.

Bên cạnh đó, hoạt động giao lưu trên biển sẽ cho phép tàu của hải quân hai nước thực hành Bộ Quy tắc ứng xử cho những cuộc chạm trán ngoài ý muốn trên biển và luyện tập các kỹ thuật tìm kiếm, cứu nạn và cách điều khiển tàu với trang bị hiện đại.

VTV
0

Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

Mỹ viện trợ Cảnh sát biển Việt Nam 11 tàu tuần tra

Theo tin mới nhất, Mỹ sẽ cung cấp thêm cho Cảnh sát biển Việt Nam 6 tàu tuần tiễu, nâng tổng số tàu viện trợ cho Việt Nam lên con số 11.


Tàu tuần tiễu của lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ

Mỹ cung cấp thêm cho cảnh sát biển Việt Nam 6 tàu tuần tiễu

Trong dịp kỷ niệm 20 năm quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, với chủ đề kỷ niệm của tháng 3 là tháng “quốc phòng và an ninh”, Thiếu tá Lý.V.Thắng, Trưởng Văn phòng Hợp tác Quốc phòng Đại sứ quán Hoa Kỳ, đã thông báo việc Hoa Kỳ sẽ cung cấp 6 tàu tuần tra cho Việt Nam trong thời gian tới.

Thiếu tá Thắng cho biết, Mỹ không chỉ trao đơn thuần 6 con tàu mà sẽ hỗ trợ toàn diện và dài hạn cho lực lượng cảnh sát biển Việt Nam. Hiện nay, đang có những chuyên gia Hoa Kỳ tại đây để đảm bảo cam kết của Hoa Kỳ trong việc hỗ trợ dài hạn cho Việt Nam.

Hiện có một số sĩ quan Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ về cách thức sử dụng các tàu này, để một thời gian nữa trở về nước có thể vận hành chúng một cách hiệu quả. Đồng thời, phía Mỹ cũng trao cho Việt Nam các thiết bị và phụ tùng thay thế, hoặc hỗ trợ xây dựng các cơ sở sửa chữa, bảo dưỡng lớn.

Thiếu tá Thắng bày tỏ, trên lĩnh vực an ninh biển, phía Hoa Kỳ sẽ làm việc chặt chẽ với cảnh sát biển và Hải quân Nhân dân Việt Nam, góp phần tăng cường năng lực thực thi pháp luật và tìm kiếm cứu nạn của Việt Nam.

Trong lĩnh vực liên quan đến hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, Hoa Kỳ sẽ phối hợp tăng cường năng lực ứng phó với thảm họa cho Việt Nam. Đặc biệt là trong năm nay Hoa Kỳ sẽ dành 5 triệu USD để hỗ trợ các hoạt động cứu trợ nhân đạo.

Được biết, vào đầu tháng 2 vừa qua, trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề quân sự và chính trị, ông Puneet Talwar cũng xác nhận là phía Mỹ đã bàn giao cho Cảnh sát biển Việt Nam 5 tàu tuần tra cao tốc, theo đúng cam kết viện trợ của Ngoại trưởng John Kerry trong chuyến công du Việt Nam vào cuối năm 2013.

Đồng thời, cũng trong đầu tháng 2 vừa qua Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam đã tiếp nhận một tàu tuần tra đã qua sử dụng do Nhật Bản tặng mang tên Syokaku (đặt lại tên là CSB 6001), là chiếc tàu đầu tiên trong số ba tàu đã qua sử dụng mà nước này đã hứa tặng cho Việt Nam để nâng cao năng lực cho lực lượng Cảnh sát biển.

Vào tháng 10/2014, Mỹ tuyên bố dỡ một phần lệnh cấm buôn bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, được áp đặt từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Giới chức Bộ Ngoại giao Mỹ cũng cho biết, bước đi đầu tiên được quyết định là 2 bên sẽ hướng đến mục đích an ninh hàng hải.

Báo thế giới nói Việt Nam sẽ mua những gì từ Mỹ?

Từ sau khi Mỹ dỡ một phần lệnh cấm buôn bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, đã có rất nhiều thông tin phỏng đoán về việc Việt Nam sẽ mua những vũ khí, trang bị nào hay việc Việt Nam sẽ được Mỹ cung cấp những gì?

Theo tin của ABC News và Defence News, trong bối cảnh Trung Quốc đang thể hiện lập trường cứng rắn về tranh chấp lãnh thổ trên biển và có những hành động ngày càng hung hăng, lấn át các nước đông nam Á trên biển Đông, rất có thể Mỹ sẽ đẩy mạnh “đầu tư an ninh trên biển” cho Việt Nam.


Trực thăng MH-60R Seahawk của Mỹ

Trang Defence News tháng 10-2014 còn đưa một thông tin khá lạ là, trong gói hợp tác an ninh trên biển cho Việt Nam còn có cả loại máy bay chiến đấu cánh quạt A-29 Super Tucano - sản phẩm hợp tác của Công ty chế tạo hàng không Embraer của Brazil và công ty Sierra Nevada Corporation/SNC.

Super Tucano là loại máy bay chiến đấu cánh quạt, tốc độ chậm (trên 500km), trần bay thấp (dưới 10km), thích hợp với các cuộc chiến cường độ thấp, phù hợp với các hoạt động chiến tranh du kích ở các vùng rừng núi hay tuần tra các khu vực biên giới và huấn luyện phi công.

Ngoài ra, còn có thông tin là Việt Nam có thể đặt mua cả máy bay tuần tiễu hàng hải P-3C Orion không trang bị vũ khí, chức năng chủ yếu là săn ngầm. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể sẽ mua máy bay trực thăng tuần tra trên biển Sea Hawk, do Công ty máy bay Sikorsky Mỹ nghiên cứu chế tạo.


Tàu tuần tiễu ven biển lớp Cyclone của Bollinger Shipyards

Về phương tiện tuần tra trên biển, đối tác mà Việt Nam có khả năng lựa chọn là bao gồm Công ty hàng hải Huntington Ingalls cùng với Công ty Lockheed Martin - doanh nghiệp nghiên cứu chế tạo tàu tuần duyên Hải quân Mỹ và nhà máy đóng tàu Austal.

Tuy nhiên, các trang mạng Mỹ thiên về khả năng Việt Nam sẽ hợp tác với nhà máy đóng tàu Bollinger (Bollinger Shipyards), bởi doanh nghiệp này là nhà chế tạo tàu tuần tiễu ven biển lớp Cyclone (Cyclone-class coastal patrol ship), có lượng giãn nước vừa phải, phù hợp với yêu cầu của Việt Nam.

Các tàu này có lượng giãn nước 336 tấn, chiều dài 55m, rộng 7,6m, cao 2,5m. Tàu có tốc độ tối đa khoảng 35 hải lý/h (tương đương 65km/h)m, phạm vi hành trình tối đa 2500 hải lý (tương đương 4600km/h). Tàu có biên chế thủy thủ đoàn 28 người (trong đó có 4 sĩ quan).

Tuy nhiên, trên đây chỉ là những thông tin do báo chí nước ngoài đăng tải, chưa có sự xác nhận của các cơ quan chức năng Việt Nam.

Nhật Nam-Báo Đất Việt
0

Mỹ giúp Việt Nam tăng cường an ninh biển Đông

Việc cải tạo các bãi,đá của TQ ở Biển Đông,nếu đúng là có các hoạt động khiêu khích đối với các quốc gia khác trong khu vực,Mỹ sẽ yêu cầu chấm dứt.

Tờ Người lao động dẫn lời Thiếu tá Lý V. Thắng (Lục quân Mỹ), Trưởng Văn phòng Hợp tác quốc phòng Đại sứ quán Mỹ đã gặp gỡ với báo chí được tổ chức chiều 6/3 để thông báo về các sự kiện sẽ được Mỹ và Việt Nam cùng thực hiện trong tháng này để nêu bật các mối quan hệ an ninh song phương đang ngày càng phát triển giữa hai nước.


Theo đó, với chủ đề “quốc phòng và an ninh”, nhiều câu hỏi đã được đặt ra liên quan đến việc quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông đã Thiếu tá Lý V. Thắng giải đáp.

Ông bày tỏ quan điểm của Mỹ, Biển Đông là khu vực chung, Mỹ tôn trọng sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc nếu sự trỗi dậy đóng góp cho hòa bình, an ninh của khu vực.

"Chúng tôi không có ý định chèn ép bất kỳ quốc gia nào cũng như liên minh với bất kỳ nước nào trong khu vực để chèn ép quốc gia khác" - Thiếu tá Thắng nói.

Đánh giá đối với việc Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng, cải tạo các đá… tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, trong đó có nhiều điểm cưỡng chiếm của Việt Nam bằng vũ lực đã được nhiều chuyên gia quốc tế đánh giá các điểm xây dựng này có tính tấn công nhiều hơn là phòng thủ, Thiếu tá Thắng nhắc lại quan điểm của Mỹ không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Tuy nhiên ông cho rằng: "Với việc cải tạo đất mà các chuyên gia đánh giá là mang tính khiêu khích, nếu đúng là có các hoạt động khiêu khích đối với các quốc gia khác trong khu vực, chúng tôi sẽ yêu cầu chấm dứt các hoạt động đó".

Còn Thiếu tá thuộc lực lượng phòng vệ biển Mỹ, Arturo Perez, Phó Văn phòng hợp tác quốc phòng Đại sứ quán thì khẳng định:

"Mục tiêu của phía Mỹ là giúp Việt Nam tăng cường năng lực để có thể thực thi pháp luật bảo vệ lãnh thổ của mình, dù là gần bờ hay ngoài 12 hải lý.

Tất cả các hoạt động hợp tác đang thực hiện không nằm ngoài mục tiêu giúp Việt Nam có thể tự mình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc", Thiếu tá Arturo Perez nói.

Bằng chứng là Mỹ đang tiến hành các hoạt động để cung cấp cho Việt Nam 6 xuồng tuần tra cao tốc như đã cam kết.

Liên quan đến các vấn đề trên Biển Đông, trước đó trong một báo cáo của Cục Hải dương - môi trường quốc tế và các vấn đề khoa học thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đã đề cập: tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với gần như toàn bộ biển Đông mà Bắc Kinh đưa ra trong cái gọi là “đường 9 đoạn” là “không phù hợp với luật pháp quốc tế về biển”.

Theo Vneconomy, bản báo cáo dài 24 trang khẳng định: “Có vẻ như không có luật, tuyên bố, tuyên cáo hay văn bản chính thức nào khác của Trung Quốc mô tả được và khiến cộng đồng quốc tế chú ý về tuyên bố chủ quyền lịch sử đối với vùng biển nằm trong “đường 9 đoạn”, báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ viết.

Báo cáo này cũng nói thêm rằng, các bản đồ của Trung Quốc, ngay cả những tấm có từ năm 1974, không đủ để hậu thuẫn cho các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh trên biển Đông.

“Nhiều tấm bản đồ do Trung Quốc xuất bản cũng thiếu sự chính xác, rõ ràng và nhất quán để có thể truyền tải bản chất và quy mô của một tuyên bố chủ quyền trên biển”, báo cáo khẳng định.
0

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Việt Nam – Hoa Kỳ: Nền tảng nào cho cuộc chơi?

Cũng như mọi mối quan hệ khác trên chính trường quốc tế, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ bị chi phối bởi lợi ích các bên.


LTS: Vừa qua, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ đã trình quốc thư lên Tổng thống Obama đề nghị hai bên tích cực chuẩn bị cho chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nhân dịp này, Tuần Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đình Lương, nguyên trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại song phương Việt – Mỹ về những dấu mốc trong quan hệ hai nước suốt 20 năm bình thường hoá quan hệ.


Vì lợi ích chung

Hai mươi năm qua quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, và nay đã thành quan hệ đối tác toàn diện. Riêng ông, ông nhìn nhận thế nào về mối quan hệ đó?

Cũng như mọi mối quan hệ khác trên chính trường quốc tế, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ bị chi phối bởi lợi ích các bên. Chúng ta hãy điểm qua lịch sử.



Ông Nguyễn Đình Lương

Năm 1873, ông Bùi Viện vượt qua sóng gió đại dương Thái Bình Dương sang tận Washington, chờ cả năm trời, gặp cho được Tổng thống Mỹ để cầu viện chống Pháp. Khi gặp, Tổng thống Mỹ đã hoan nghênh ngay, bởi khi đó Mỹ và Pháp đang đánh nhau ở Mexico. Ngặt nỗi Bùi Viện không mang theo Quốc thư, nên ông đành trở về tay không. Nhưng khi ông Bùi Viện trở lại cùng Quốc thư, Mỹ lại không quan tâm nữa, do chiến tranh Mỹ - Pháp tại Mexico đã kết thúc. Hai nước không còn lợi ích chung. .

Những năm 1945-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 11 lần gửi thư, gửi điện cho Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đề nghị ủng hộ độc lập của Việt Nam và thiết lập quan hệ toàn diện giữa hai nước, nhưng không một hồi âm. Bởi vì VN không hiện hình trên màn ảnh lợi ích nước Mỹ, hoặc bị hình ảnh lợi ích với các nước lớn khác che khuất, nên Mỹ không quan tâm.

Mãi tới năm 1995 hai nước bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Chỉ một năm sau bình thường hoá quan hệ, Hoa Kỳ đã chủ động bắt đầu đàm phán hiệp định thương mại song phương (BTA) và Việt Nam hưởng ứng ngay, vì hai bên đều cần, đều muốn, đều nhìn thấy lợi ích.

Khi đàm phán BTA, Đại sứ Mỹ đầu tiên Peterson đã nói ông hy vọng có BTA, xuất khẩu Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tăng lên 5-6 tỷ đô la, con số quá lớn đối với Việt Nam lúc đó và chưa ai hình dung được. Ông Đại sứ không dự đoán về mốc thời gian cụ thể.

Nhưng chỉ cần 2 năm thực thi BTA, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã đạt con số đó, và hôm nay, 2014 đã đạt được hơn 18 tỷ USD, gấp hơn 3 lần kỳ vọng của Peterson.

Hoa Kỳ luôn là thị trường xuất khẩu lớn nhất và cũng là thị trường xuất siêu lớn của Việt Nam.

Như vậy trong chuyện xuật khẩu này Việt Nam có lợi, chứ Mỹ nhập siêu từ Việt Nam đâu hẳn đã có lợi được bao nhiêu?

Lợi ích của Việt Nam thì đã rõ, ai cũng thấy.

Nhưng Mỹ cũng có lợi chứ. Người tiêu dùng Mỹ có sự lựa chọn phong phú hơn. Trên thị trường nước Mỹ cũng có thêm một đối thủ cạnh tranh ngày một chắc tay, góp phần tăng sức cạnh tranh chung của nền kinh tế Mỹ.

Thứ nữa, một chiếc áo sơ mi gia công ở Việt Nam giá thành khoảng 10 USD đến 15 USD, Việt Nam chỉ được 4-5 USD tiền công, bán trên thị trường Mỹ 80 - 100USD. Hay một đôi giày thể thao giá thành sản xuất ở VN trị giá khoảng 10 - 20% giá bán trên thị trường Mỹ.

Tức là hai bên đều có lợi, chưa ai tính được ai lợi nhiều, ai lợi ít, nhưng trong một cuộc chơi, anh nào giỏi hơn, khôn hơn anh đó thắng nhiều hơn.

Lợi ích này càng nhiều, càng tăng, quan hệ kinh tế thương mại càng phát triển.

Ngoài kinh tế - thương mại, Hoa kỳ và Việt Nam còn có nhiều lĩnh vực hợp tác. Lợi ích ở đây được hiểu như thế nào, ví dụ như trong chiến lược địa chính trị?

Có lợi thì mới có cuộc chơi.

Trên chính trường thế giới, các cuộc tập hợp lực lượng hiện đang diễn ra sôi động. Những ai có nhu cầu tập hợp lực lượng ở châu Á (và cả trên thế giới) thì không thể bỏ qua Việt Nam vì vị trí địa chính trị của nó. Và Hoa kỳ cũng vậy, chắc chắn Hoa Kỳ không muốn để Việt Nam đứng ngoài cuộc tập hợp của mình, lại càng không muốn để Việt Nam là người cản phá chiến lược đó. Chính vị trí địa chính trị của Việt Nam đang buộc người Mỹ phải từng bước có những cam kết hợp tác ngày càng sâu, trong nhiều lĩnh vực.

Tôi không hình dung ra chiến lược chuyển trục châu Á của Mỹ sẽ như thế nào, nếu không tính tới yếu tố Việt Nam, trong lúc Việt Nam đang chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ, và cũng có nhu cầu tập hợp lực lượng, tìm cho mình sự yên ổn để phát triển, trong một thế giới không yên ổn.

Lợi ích càng tăng, càng nhiều đòi hỏi sự hợp tác càng rộng, càng sâu. Đó cũng là tính tất yếu của các bước phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa kỳ trong tương lai.

Khi lợi ích đã nhiều, đã lớn, mỗi bên đều biết kiềm chế, là nhẹ bớt đi sự khác biệt để khai thông cho sự hợp tác. Hoa Kỳ muốn lôi kéo Việt Nam thì phải làm nhẹ đi những đòi hỏi về nhân quyền. Việt Nam muốn chơi với Mỹ thì phải gạt bỏ đi những khác biệt, ví dụ như đang xảy ra trong đàm phán TPP.

Cũng có lúc, những biến động chính trị xã hội trên thế giới hoặc khu vực tác động đến quan hệ các nước. Ví dụ các diễn biến ở biển Đông, dường như đã làm cho Mỹ xích lại gần Việt Nam hơn và đẩy nhanh việc Hoa Kỳ nới lỏng cấm vận vũ khí sát thương.

Trong bài tổng hợp những kết quả cuộc hội thảo “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 20 năm thành công hơn nữa” diễn ra vừa qua tại Hà Nội, ông Viện trưởng Học viện Ngoại giao Đặng Đình Quý, người tổ chức và chủ trì hội thảo, đã đưa ra nhiều nhận định sâu sắc và thú vị. Trong số đó tôi muốn nhắc lại một nhận xét: Lợi ích của Việt Nam và Hoa Kỳ không chỉ trong quan hệ song phương mà cả trong hợp tác giữa hai nước trong những khuôn khổ lớn hơn như ASEAN, AFTA và nhiều tổ chức quốc tế khác…

Ví dụ chiến lược chuyển trục châu Á của Mỹ không thể không tính tới ASEAN. Trong lúc có nước luôn chọc gậy bánh xe thì Hoa Kỳ coi sự đoàn kết thống nhất và sự vững mạnh của ASEAN là nằm trong lợi ích của Hoa Kỳ, và Việt Nam đang là một thành viên tích cực, chân thành mong muốn đóng góp cho sự lớn mạnh, đoàn kết thống nhất trong ASEAN. Vậy sự phối hợp hợp tác của Hoa Kỳ và Việt Nam ở đây là rất cần thiết, rất có ích.

Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) được đánh giá là một bước phát triển mới của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Theo ông, Việt Nam và Hoa kỳ đang theo đuổi những lợi ích gì ở đây?

Cuộc đàm phán TPP hay ở chỗ, nó là một là đàm phán cả gói (không tách riêng vấn đề) và đàm phán đa phương, cả một tập thể 12 nước, mà Hoa Kỳ coi như người chủ trì. Cách làm đó sẽ giúp xử lý được một loạt vấn đề không thế giải quyết trong đàm phán song phương.

Những vấn đề nhạy cảm với Việt Nam như quyền lập hội, minh bạch công khai hoạt động của DNNN, công khai và bình đẳng trong mua sắm công, trong tiếp cận các nguồn lực vốn, tài nguyên, thị trường… trước đây khi đàm phán BTA Hoa kỳ đã nêu ra, nhưng Việt Nam kiên quyết không chấp nhận, kỳ này đàm phán tập thể, hầu hết các nước tham gia đàm phán đã chấp nhận rồi. Muốn kết thúc đàm phán thì Việt Nam phải có các phương án lùi và sau đó về phải sửa luật cho khớp với cam kết.

Khó khăn phức tạp như vậy, tại sao Việt Nam vẫn hăng hái tham gia, và dù biết Việt Nam sẽ rất khó nhưng Hoa Kỳ vẫn muốn Việt Nam tham gia?

Trong các nước Đông Nam Á, ngoài Brunei, Singapore và Malaysia tự nguyện tham gia từ đầu, Hoa Kỳ không rủ ai mà chỉ rủ Việt Nam. Có lẽ vì người Mỹ nghĩ rằng Việt Nam chơi với Mỹ còn hơn là không, và ít nhất đừng để Việt Nam bị người khác chi phối hoàn toàn.

Thứ nữa, rủ Việt Nam vào TPP tức là kéo Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế thị trường sôi động và vô hình trung buộc Việt Nam cắt đi cái đuôi, cắt đi di sản của của nền kinh tế quan liêu bao cấp. Các di sản đó vừa là cho nền kinh tế Việt Nam kém hiệu quả, vừa duy trì một môi trường pháp lý vẩn đục, dung túng tham nhũng, khiến cho nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Mỹ ngại không dám bỏ vốn kinh doanh trên thị trường Việt Nam.

Và tại sao Việt Nam hăng hái ư? Sức ép kinh tế đang buộc Việt Nam phải hăng hái, nếu không bứt phá lên được thì nền kinh tế Việt Nam cứ bùng nhùng, thua kém và chắc chắn rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Tham gia TPP là một quyết định sáng suốt, là một hành động dũng cảm để tạo bứt phá, để đẩy áp lực đẩy tiếp tiến trình cải cách bên trong.

Hoàng Ngọc-VietNamNet
0

Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ sắp thăm VN


Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề kiểm soát vũ khí và an ninh quốc tế của Hoa Kỳ, bà Rose Gottemoeller, sẽ thăm Việt Nam để bàn về hợp tác an ninh trong khu vực.

Thông cáo trên trang web của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết các điểm dừng của bà Gottemoeller trong chuyến công du từ ngày 27/2 đến 9/3 bao gồm Philippines, Việt Nam, Úc và New Zealand.

Ngày 1-2/3, bà sẽ có mặt tại tỉnh Quảng Trị, Việt Nam, để đánh giá chương trình do Hoa Kỳ tài trợ nhằm dò tìm các chất nổ còn sót lại sau chiến tranh, thông cáo cho biết.

Ngày 3/3, bà sẽ đến Hà Nội để thảo luận về quan hệ song phương Mỹ-Việt sau 20 năm bình thường hóa quan hệ.

Cũng tại đây, bà sẽ thảo luận với giới chức Việt Nam về an ninh khu vực, hợp tác an ninh, an ninh hàng hải và Hội nghị Đánh giá Hiệp ước Không phổ biến Hạt nhân.

Bà Gottemoeller là quan chức thứ hai từ Bộ Ngoại giao Mỹ đến thăm Việt Nam trong năm nay.

Trước đó, Trợ lý Ngoại trưởng chuyên trách các vấn đề về chính trị và quân sự Hoa Kỳ Puneet Talwar cũng đã có chuyến thăm Việt Nam hồi cuối tháng Một.

Phát biểu tại Học viện Ngoại giao Việt Nam hôm 23/1, ông Talwar nói việc "mở rộng và củng cố quan hệ với Việt Nam" là "yếu tố mang tính quyết định" cho nỗ lực xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ.

Hồi tháng 10 năm ngoái, Hoa Kỳ thông báo dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương kéo dài hàng chục năm với Việt Nam để giúp quốc gia này cải thiện an ninh trên biển.


Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry đã nhắc lại lời mời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ

Ông Nguyễn Phú Trọng sắp thăm Mỹ

Trong một diễn biến khác, hôm 26/2, báo Tuổi Trẻ dẫn nguồn tin riêng từ Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sẽ có chuyến công du sang Hoa Kỳ trong năm nay.

Tuy nhiên báo này không cho biết thời điểm cụ thể chuyến thăm của ông Trọng.

Trước đó, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cũng đã nhắc lại lời mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Hoa Kỳ khi điện đàm với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh ngày 13/2.

BBC
0

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam

Mỹ đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí vũ khí sát thương cho Việt Nam nhằm giúp cải thiện an ninh hàng hải, sau cuộc gặp giữa Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Washington hôm qua.

Bộ ngoại giao Mỹ cho hay việc dỡ bỏ được áp dụng với các vũ khí phục vụ mục đích hàng hải.
Theo giới chức Bộ ngoại giao Mỹ, ông Kerry đã thông báo cho Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh về quyết định trên khi hai ông có cuộc hội đàm tại Washington ngày 2/10.


Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (trái) và người đồng cấp Mỹ John Kerry - Ảnh: AFP

Ông Kerry cho biết Washington điều chỉnh chính sách hiện thời "để cho phép chuyển giao các vũ khí phòng thủ, trong đó có vũ khí phòng thủ sát thương nhằm phục vụ các mục đích an ninh hàng hải".

Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Mỹ Jen Psaki cho biết các đề nghị của Việt Nam về bất kỳ vũ khí sát thương cụ thể nào sẽ được đánh giá trên cơ sở từng trường hợp.

"Bộ ngoại giao Mỹ đã thực hiện các bước đi nhằm cho phép việc chuyển giao các vũ khí phòng thủ liên quan tới an ninh hàng hải cho Việt Nam trong tương lai", bà Psaki nói trong cuộc họp báo thường ngày hôm qua.

Theo giới chức Mỹ, trọng tâm sẽ là nhằm giúp Việt Nam tuần tra và bảo vệ vùng biển của mình trên Biển Đông, nhưng các vụ bán vũ khí trong tương lai có thể bao gồm tàu và các hệ thống trên không.

Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain đã hoan nghênh động thái trên.

"Việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam phục vụ mục đích an ninh hàng hải sẽ tăng cường sự hợp tác quốc phòng theo hướng có lợi cho cả 2 nước", hãng tin Reuters dẫn lời ông McCain.

Hồi tuần trước, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh nói rằng Hà Nội sẽ hoan nghênh việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sau khi báo chí Mỹ đưa tin rằng Washington sắp đi đến một quyết định về việc này.

Giới chức Bộ ngoại giao Mỹ từ chối nêu tên bất kỳ hệ thống vũ khí cụ thể nào có thể được cân nhắc cho thỏa thuận đầu tiên.

Nhưng các nguồn tin tại Mỹ cho biết Washington có thể bán cho Việt Nam các máy bay trinh sát P-3 Orion do Lockheed Martin chế tạo.

"Đây là một bước đi rất quan trọng đầu tiên nhằm thúc đẩy sự hợp tác trong tương lai", một trong số các quan chức Mỹ nói. "Việc thay đổi chính sách này sẽ cho phép chúng ta... cung cấp cho Việt Nam khả năng phòng vệ ở Biển Đông".

Giới chức quốc phòng Mỹ xem Việt Nam là một thị trường hứa hẹn cho các thiết bị của họ do chính sách cân bằng chiến lược của quân đội Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Mỹ áp đặt lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ đối với Việt Nam vào năm 1984. Tuy nhiên, quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã được bình thường hóa trong hơn 2 thập niên qua, với thương mại song phương hiện đạt mức khoảng 20 tỷ USD mỗi năm.

An Bình - Dân Trí
0

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014

Khi Việt Nam tăng cường liên hệ quân sự với Hoa Kỳ

Trong trường hợp dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, Hà Nội dự định mua các trang thiết bị quân sự của Hoa Kỳ. Đó là tuyên bố của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao CHXHCN Việt Nam Phạm Bình Minh. Trong đó, ông Bộ trưởng lưu ý rằng Trung Quốc chẳng nên lo lắng gì, bởi ở đây không phải là chuyện nói về lập liên minh quân sự-chính trị.

Lệnh cấm vận duy trì 40 năm nay, mặc dù cả hai nước từ lâu đã trở thành những đối tác kinh tế. Đang chờ đợi là những hạn chế này sẽ được tháo bỏ vào ngay trong năm nay. Quyết định như vậy có thể được công bố trong thời gian chuyến đi của người đứng đầu Lầu Năm Góc Chuck Hagel đến thăm Việt Nam, sẽ thực hiện trước khi hết năm.

Trước đó, một quan chức cấp cao của Nhà Trắng thông báo rằng Washington có kế hoạch dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam, để hỗ trợ Hà Nội trong cuộc tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh ở Biển Đông. Trước hết Hoa Kỳ dự kiến cung cấp cho Hà Nội các máy bay do thám P-3 Orion, có thể tiến hành theo dõi sự di chuyển của tàu nổi và tàu ngầm Trung Quốc.

Hoàn toàn chẳng ngẫu nhiên khi Việt Nam có ý định mua vũ khí của Hoa Kỳ, - chuyên viên phân tích chính trị Andrei Sidorov nhận xét.

“Tuyên bố của Việt Nam về dự định mua vũ khí từ Hoa Kỳ là động thái ngoại giao rất giỏi. Chỉ mấy lời ngắn gọn cho thấy ai là đối tác, có thể dựa vào ai trong trường hợp bùng phát vấn đề với Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên Trung Quốc luôn có thái độ tiêu cực quá mức trước hành động của các nước láng giềng theo hướng thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ và chủ trương của Washington xây dựng vành đai để kiềm chế Bắc Kinh. Quá trình này đã diễn ra trong nhiều năm nay, mặc dù người Mỹ vẫn nói rằng Trung Quốc là đối tác rất quan trọng của họ. Hoa Kỳ đã điều các tàu tuần phòng bảo vệ bờ biển đến Singapore và tạo lập căn cứ Thủy quân lục chiến tại Australia”.

Ý định của Việt Nam về củng cố vị thế của mình trên biển nhờ sự hỗ trợ của Hoa Kỳ là rõ ràng và dễ hiểu. Hà Nội thi hành chính sách nhiều vectơ, tự do chọn lựa đối tác và đồng minh, xuất phát từ bối cảnh cụ thể. Đồng thời, đây là một bộ phận trong cuộc chơi địa chính trị lớn đang diễn ra trong khu vực, - như quan điểm của chuyên viên Dmitry Mosyakov từ Viện Nghiên cứu phương Đông thuộc Viện Hàn lâm Khoa học LB Nga.

“Hiện hữu cuộc chơi chính trị đủ căng thẳng xung quanh Biển Đông (Hoa Nam) và biển Hoa Đông. Tình hình là khá phức tạp, vì thế bất kỳ tuyên bố nào cũng chứa đựng ý tưởng nội hàm nhất định. Điều đó giống như lời cảnh báo. Đây là một phần của cuộc chơi quân sự-chính trị diễn ra từ lâu. Đây là động tác ra bài kế tiếp trong trò chơi này. Tôi không nghĩ rằng bây giờ Trung Quốc sẽ ngay lập tức bắt đầu có phản ứng đáp trả cứng rắn nào đó. Nhiều khả năng đó là câu hỏi dành cho tham vấn, thương lượng, với một số nhượng bộ và thỏa thuận nào đó”.

Không nên đánh giá quá cao vai trò quan hệ của Washington và Hà Nội trong lĩnh vực quân sự, - đó là nhận định của Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Daniel Russell, chịu trách nhiệm điều phối công việc theo hướng khu vực châu Á-Thái Bình Dương. "Tôi không nghĩ rằng Việt Nam sẵn sàng đổi mối quan hệ lâu dài của mình với Trung Quốc, mặc dù đã có phần ảm đạm bởi xung đột gay gắt, để thay bằng quan hệ cấp thời duy chỉ với Hoa Kỳ”, - vị quan chức Mỹ nêu ý kiến.

Khi tiến hành cuộc chơi khai thác mâu thuẫn giữa Bắc Kinh và Hà Nội, rõ ràng Washington có ý tưởng riêng của mình, chung qui là nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực. Không phải bỗng dưng mà sau khi bùng phát cuộc tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc và Việt Nam hồi mùa hè này vì Bắc Kinh hạ đặt giàn khoan ở Biển Đông, thì các nhà quân sự Mỹ cũng tuyên bố rằng tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ sẽ ra vào hải cảng Việt Nam thường xuyên hơn. Trong trường hợp này, dễ hiểu là khả năng dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam chẳng đơn thuần là cử chỉ thiện chí từ phía Washington. Mà đó là phương cách để củng cố chiếc đòn bẩy Việt Nam làm hậu thuẫn chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại khu vực quan trọng này của thế giới.

Nguồn: Voice of Russia
0

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

Tổng thống Obama cảnh báo "hành động xâm lược" ở biển Đông

Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm thứ Tư cảnh báo rằng Mỹ sẵn sàng đáp trả "hành động gây hấn" của Trung Quốc đối với các nước láng giềng trên biển, nhưng nói rằng Washington nên làm gương bằng việc phê chuẩn một hiệp ước quan trọng.


Tổng thống Obama phát biểu tại trường Võ bị Quốc gia Hoa Kỳ ở West Point, New York, 28/5/2014.

Trong một bài phát biểu đề cập nhiều vấn đề chính sách đối ngoại tại học viện quân sự West Point, Tổng thống Obama nói rằng Mỹ cần phải dứt bỏ chính sách đứng ngoài cuộc và quân đội Mỹ phải chuẩn bị cho những cuộc khủng hoảng.

"Hành động gây hấn trong khu vực mà không bị kiểm soát - cho dù ở miền nam Ukraine hay biển Đông, hoặc bất cứ nơi nào khác trên thế giới - cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến các đồng minh của chúng ta, và có thể lôi cuốn quân đội chúng ta can dự," ông Obama nói.

Tuy nhiên, ông Obama nhấn mạnh cảnh báo về bất kỳ quyết định sử dụng vũ lực nào. "Ảnh hưởng của Mỹ luôn mạnh hơn khi chúng ta đi đầu làm gương," ông nói.

"Chúng ta không thể cố gắng giải quyết những vấn đề ở Biển Đông khi chúng ta không chịu đảm bảo rằng Công ước về Luật Biển được phê chuẩn, dù thực tế là các nhà lãnh đạo quân sự hàng đầu của chúng ta nói rằng hiệp ước đó giúp thăng tiến an ninh quốc gia của chúng ta," ông Obama nói, không nêu đích danh Trung Quốc khi ông phát biểu ngoài câu chữ chuẩn bị sẵn trong bài phát biểu.

"Đó không phải là sự lãnh đạo, đó là sự thoái lui. Đó không phải là sức mạnh. Đó là sự yếu kém," ông Obama nói.

Những thượng nghị sĩ của Đảng Cộng hòa đối thủ đã từ chối phê chuẩn hiệp ước, nói rằng công ước của Liên Hiệp Quốc sẽ làm mất hiệu lực chủ quyền của Mỹ.

Gần đây căng thẳng đã dâng cao giữa Trung Quốc và các nước láng giềng về tranh chấp lãnh hải. Việt Nam hôm thứ Ba cáo buộc Bắc Kinh đâm chìm một tàu đánh cá của mình ở Biển Đông.

'Hành động tập thể'

Ông Obama nói Mỹ vẫn sẽ lãnh đạo nhưng cần "tránh những sai lầm đắt giá" trong quá khứ và cho biết chính sách ngoại giao mới của Hoa Kỳ sẽ dựa trên "hành động mang tính tập thể" với đồng minh.

"Những người hoài nghi thường xem nhẹ tính hiệu quả của hành động đa phương. Đối với họ, giải quyết vấn đề thông qua các định chế quốc tế, hay tôn trọng luật pháp quốc tế là biểu hiện của sự yếu ớt. Tôi nghĩ là họ đã sai," ông nói.

Tổng thống Obama cũng công bố khoản ngân sách 5 tỷ đô la để chống khủng bố trên toàn cầu và hứa Hoa Kỳ "sẽ không tạo ra nhiều kẻ thù hơn số mà chúng ta loại khỏi chiến trường."

Việc quân đội Hoa Kỳ chấm dứt sứ mệnh tại Afghanistan vào cuối năm nay sẽ giải phóng các nguồn tài chính để đối phó với những đe dọa ở những nơi khác, chẳng hạn "quỹ hợp tác chống khủng bố" trị giá 5 tỷ đôla để giúp các nước chống chủ nghĩa cực đoan.

Khoản tiền này sẽ được sử dụng cho việc huấn luyện lực lượng an ninh tại Yemen, hỗ trợ liên minh đa quốc gia đang gìn giữ hòa bình ở Somalia, hợp tác với các đồng minh châu Âu để huấn luyện lực lượng an ninh hoạt động hiệu quả ở Libya và trợ giúp chiến dịch của Pháp ở Mali, ông nói thêm.

Đề cập đến cuộc nội chiến ở Syria, ông hứa sẽ "tăng cường hỗ trợ" cho phe đối lập dù không nói cụ thể.


Các thành viên của lớp tốt nghiệp năm 2014 tại Trường Võ bị West Point ném mũ của họ ở phần cuối của buổi lễ hôm thứ Tư

Chính sách ngoại giao mới

Bài phát biểu của ông Obama được cho là nhằm định hình lại chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, trong đó vẫn sử dụng quân đội khi cần thiết nhưng chỉ khi có sự đồng thuận của quốc tế.

"Chúng ta cần mở rộng các công cụ của mình để bao gồm các các biện pháp ngoại giao và phát triển, trừng phạt và cô lập, dùng đến luật pháp quốc tế - và nếu chính đáng, cần thiết và hiệu quả thì sử dụng hành động quân sự đa phương."

"Chúng ta phải làm vậy vì những hành động mang tính tập thể trong những trường hợp này nhiều khả năng sẽ thành công hơn, có thể duy trì dễ hơn, và khó dẫn tới những sai lầm đắt giá."

Đây là bài diễn văn đầu tiên trong hàng loạt phát biểu của Tổng thống Mỹ về chính sách ngoại giao trong 10 ngày tới để đáp lại các chỉ trích rằng chính sách đối ngoại của Mỹ là 'yếu ớt'.

Hôm 28/5, một nhân vật chủ chốt của Đảng Cộng hòa trong Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Mỹ nói sự "thiếu quyết đoán và thận trọng quá mức" của ông Obama "khiến người ta phải lo lắng".

"Tôi không nói là chúng ta phải làm cảnh sát của thế giới, nhưng tôi cho rằng việc chúng ta không lãnh đạo đang tạo ra một khoảng trống, và chính trong khoảng trống đấy nhiều vấn đề đã nảy sinh," Thượng Nghĩ sỹ Bob Corker nói.

Bình luận về bài diễn văn then chốt của ông Obama ở West Point, một số báo tiếng Anh so sánh 'học thuyết ngoại giao' của ông với Chủ thuyết Nixon trong thập niên 1970.

Quan điểm 'giúp đồng minh nhưng không đánh thay' của Tổng thống Richard Nixon khi đó đã khiến Hoa Kỳ tăng cường hỗ trợ cho các chính quyền ở Tehran và Sài Gòn nhưng đồng thời rút quân tác chiến của Mỹ ra.

Học thuyết Nixon sau đó bị phê phán là thất bại ở cả Iran và Nam Việt Nam.

Nguồn: GMA News, BBC, VOA
0

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

Quân sự Mỹ-Việt và chính sách "ba không"

Bài viết của GS Carlyle A. Thayer, Học viện Quốc phòng Australia, đăng trên BBC.

Phản ứng cứu trợ nhanh chóng của Hoa Kỳ trước sự tàn phá của cơn bão Haiyan ở Philippines là kết quả của sự tập luyện nhuần nhuyễn về cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai của quân đội Hoa Kỳ.


Hoa Kỳ bắt đầu chú trọng tới cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai sau Chiến tranh Lạnh khi hai hoạt động này nằm trong số các vấn đề an ninh phi truyền thống mà các quốc gia nhấn mạnh tới.

Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nhìn lại phản ứng cả quyết của Hoa Kỳ sau khi sóng thần ập vào Indonesia hồi năm 2004.

Một năm sau đó Hoa Kỳ lại có lực lượng cứu trợ cho Myanmar sau bão Nargis nhưng không được tham gia trực tiếp do thái độ của chính quyền Myanmar.

Hoa Kỳ có thể phản ứng rất nhanh tại Philippines vì quân đội hai bên đã bao gồm cả cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai vào hàng loạt các chương trình tập trận chung thường niên.

Nói cách khác, Hoa Kỳ và Philippines đã bàn bạc từ trước về thể thức trợ giúp của nước ngoài, các thủ tục hoạt động và các hoạt động tương hỗ.

Quân đội Hoa Kỳ sẵn sàng thực hiện cứu trợ nhân đạo cho bất cứ nước nào ở Châu Á Thái Bình Dương bất chấp liên hệ quân sự của họ với nước đó ra sao, dù là đồng minh, đối tác chiến lược hay một dạng quan hệ nào khác.

Dĩ nhiên Philippines là trường hợp đặc biệt vì quan hệ lâu dài giữa hai nước từ thời thuộc địa.
Cử tri người Philippines ở Hoa Kỳ cũng có vai trò quan trọng. Và Philippines là đồng minh đã ký hiệp ước với Hoa Kỳ.

"Ba không"

Khả năng quân đội Hoa Kỳ trở lại Cảng Cam Ranh trong tương lai gần là khó xảy ra.

Việt Nam có chính sách "ba không" - không liên minh quân sự, không căn cứ quân sự và không sử dụng quan hệ song phương nhắm vào nước thứ ba.

Việt Nam cũng có khả năng tương đối tốt để ứng phó với các thảm họa tự nhiên quy mô lớn.

Dĩ nhiên bất cứ nước nào cũng có thể bị choáng ngợp bởi thảm họa tự nhiên lớn và cần sự trợ giúp của nước ngoài.

Hoa Kỳ và Việt Nam đã bao gồm cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai trong Biên bản Ghi nhớ quốc phòng.

Điều này cho phép Việt Nam nhận sự trợ giúp từ Hoa Kỳ và các nước khác trong trường hợp có tình trạng khẩn cấp quốc gia.



Khả năng ứng phó trước thảm họa tự nhiên của Hoa Kỳ sẽ được cải thiện cùng với sự hiện diện luân phiên của binh lính Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, nhất là ở Philippines.

Hoa Kỳ cũng thúc đẩy hợp tác và hoạt động tương hỗ trong lĩnh vực tìm kiếm và cứu hộ ở cả Việt Nam và Philippines.

Hiện tại Vịnh Cam Ranh được chia ra làm ba khu vực: vùng quân sự của Việt Nam, khu vực dân sự và một khu mới phát triển dành cho sửa chữa và bảo trì tàu quân sự.

Có tin nói Nga, nước đang trợ giúp Việt Nam trong việc bảo trì tàu ngầm hạng Kilo, đang muốn có đặc quyền vào khu mới này.

Cho tới nay Việt Nam mới chỉ cho các tàu phi tác chiến của Hoa Kỳ cập cảng Cam Ranh để sửa chữa. Các tàu này thuộc Tư lệnh Hải vận của Hoa Kỳ.

Kịch bản có khả năng diễn ra nhất trong lĩnh vực cứu trợ nhân đạo và ứng phó thiên tai là Việt Nam cho phép máy bay và/hoặc các tàu hải quân Hoa Kỳ vào phi trường hay hải cảng của họ tron phòng chống thiên tai lớn ở Việt Nam hay ở quốc gia lân bang.

Và kịch bản này chỉ xảy ra trong tình huống đặc biệt.

Khi Hoa Kỳ và Philippines đồng ý được với nhau về mặt pháp lý để thực thi Tuyên bố Tầm nhìn Chung của họ, người ta sẽ thấy số quân luân phiên của Hoa Kỳ ở Philippines tăng đáng kể.

Nó cũng bao gồm dự trữ đồ tiếp tế phòng khi có thiên tai.

Như vậy Cảng Cam Ranh sẽ thành thừa.
5

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

NASA tìm kiếm những hợp tác cụ thể với Việt Nam

11/12/2012- (Chinhphu.vn)– Đây là khẳng định của ông Charles F. Bolden, Tổng Giám đốc Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA) khi đến thăm Trung tâm Vệ tinh Quốc gia (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam).


Ông Charles F. Bolden và Đoàn đại biểu NASA đến thăm Trung tâm Vệ tinh Quốc gia. Ảnh: VGP/Xuân Tuyến

Tại buổi gặp gỡ, ông Phạm Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Vệ tinh Quốc gia, giới thiệu với ông Charles F. Bolden và đoàn NASA về Trung tâm Vệ tinh Quốc gia và Dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam.

Với vai trò đặc biệt quan trọng trong “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020”, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam được giao nhiệm vụ quan trọng bao gồm: Làm chủ công nghệ và tự chế tạo vệ tinh loại nhỏ có khả năng quan sát toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trong mọi điều kiện thời tiết bằng công nghệ rada; xây dựng và xử lý dữ liệu vệ tinh phục vụ giám sát và cảnh báo sớm thiên tai và thảm hoạ môi trường; dự báo sớm sản lượng nông nghiệp, nguồn lợi hải sản, cập nhật hệ thống bản đồ điện tử cho quản lý và quy hoạch đất đai; nghiên cứu và phòng chống biến đổi khí hậu.

Ông Phạm Anh Tuấn mong muốn NASA, một trong những cơ quan hàng đầu thế giới về công nghệ vũ trụ, tích cực chia sẻ kinh nghiệm với Trung tâm Vệ tinh Quốc gia trong quá trình xây dựng và vận hành Trung tâm Vũ trụ Việt Nam.

Ông Charles F. Bolden khẳng định, NASA mong muốn thúc đẩy hơn nữa hợp tác công nghệ vũ trụ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, trước mắt là tìm kiếm những dự án hợp tác cụ thể với Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Trung tâm Vệ tinh Quốc gia.

Trước đó, ông Charles F. Bolden đã có cuộc làm việc với GS Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam để đánh giá kết quả hợp tác trong thời gian qua, đồng thời tìm biện pháp thúc đẩy hợp tác giữa hai cơ quan trong̀ lĩnh vực hàng không, vũ trụ thời gian tới.

Hiện tại, NASA ủng hộ Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam trở thành thành viên của Ủy ban về Vệ tinh Giám sát Trái đất và tham gia dự án thành lập trung tâm dữ liệu ảnh vệ tinh.

Hai bên cũng đang thực hiện Dự án “Nghiên cứu tương tác mây và khí hậu trong khu vực Đông Nam Á” và “Nghiên cứu sự phản hội ô nhiễm khí quyển khu vực Đông Nam Á”.

Trong thời gian tới, hai bên sẽ thảo luận để thống nhất về việc NASA giúp đào tạo nhân lực của Viện trong lĩnh vực khoa học Trái đất, đặc biệt là chương trình khoa học ứng dụng trong cảnh báo thiên tai và tổ chức các lớp học trực tuyến; trao đổi về chương trình hệ thống định vị toàn cầu và chương trình kiểm chứng, hiệu chỉnh toàn cầu. Hai bên cũng sẽ tiến hành trao đổi cán bộ trong ngành khoa học Trái đất và về những ứng dụng thực tế trong quan sát Trái đất.

Theo kế hoạch, sáng 11/12, Tổng Giám đốc NASA Charles F. Bolden có buổi giao lưu tại Trường chuyên Hà Nội – Amsterdam.

Báo điện tử Chính phủ
0

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

Phó Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ thăm Việt Nam

Chiều 19-11, tại Hà Nội, Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tiếp Trung tướng Conan, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn đang có chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam.


Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ - Trung tướng Thomas L. Conant. Ảnh: Internet

Tại buổi tiếp, hai bên đã trao đổi một số vấn đề mà quân đội Việt Nam và Hoa Kỳ cùng quan tâm.

Thời gian tới, quân đội hai nước cần tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực cứu hộ, cứu nạn; quân y; khắc phục hậu quả chiến tranh; hợp tác an ninh hàng hải; sửa chữa tàu thuyền…

Hai bên cũng nhất trí quân đội hai nước cần tăng cường trao đổi đoàn, chia sẻ kinh nghiệm để thúc đẩy mối quan hệ, hợp tác trên các lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm.

TTXVN
0

Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

Vai trò Mỹ trong quan hệ Việt - Trung

17/11/2012- Quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ rõ ràng trên đà đi lên, với các diễn biến tích cực ở gần như mọi lĩnh vực trong quan hệ song phương.

James Bellacqua và Brad Daniels
Gửi cho BBC từ bang Virginia, Hoa Kỳ


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta thăm Việt Nam tháng Sáu 2012

Vui lòng cân nhắc khi xem

Các trao đổi cấp cao, từng không thể nghĩ đến, đã trở nên bình thường trong những năm gần đây. Ngoại trưởng Hillary Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đều thăm Việt Nam năm 2012.

Quan hệ kinh tế đặc biệt mạnh mẽ và gia tăng: Hoa Kỳ đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam. Trao đổi thương mại song phương, chưa đầy 540 triệu đôla khi quan hệ ngoại giao được bình thường hóa năm 1995, nay lên gần 22 tỷ đôla. Cũng có hợp tác đáng kể trong y tế, giáo dục, và môi trường.

Hai nước cũng ký thỏa thuận về điện hạt nhân, hàng không dân dụng và chống tội phạm xuyên quốc gia. Điều quan trọng, hai nước cựu thù cũng bắt đầu củng cố quan hệ quân sự. Hai nước tiến hành hoạt động hải quân chung lần đầu tiên năm 2010 và hợp tác chặt chẽ về những “vấn đề di sản” còn lại từ chiến tranh, như xử lý bom mìn và vật liệu chưa nổ

Những diễn biến này xuất phát từ lợi ích kinh tế và chiến lược trùng lắp cũng như lo ngại chung về ổn định khu vực. Ví dụ, quan hệ cải thiện với Washington phù hợp với chính sách ngoại giao “đa phương” của Hà Nội, muốn mở rộng quan hệ với các đại cường để tránh phụ thuộc vào một nước duy nhất. Kinh tế thiên về xuất khẩu của Việt Nam cũng hưởng lợi nhờ liên hệ mạnh hơn với kinh tế Mỹ.

Xích lại với Mỹ

Trung Quốc là một yếu tố khác thúc đẩy động thái làm bạn của Hà Nội với Washington. Thoạt nhìn, Trung Quốc và Việt Nam có vẻ chia sẻ nhiều điểm chung. Cả hai nước chia sẻ những điểm tương đồng văn hóa, cùng do đảng cộng sản cầm quyền và đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Nhưng quan hệ song phương của họ vô cùng phức tạp, và nhiều căng thẳng. Các giai đoạn bị Trung Quốc thống trị đã củng cố sự nghi ngờ sâu sắc trong người Việt. Hai nước cũng có cuộc chiến ngắn ngủi nhưng đẫm máu đầu năm 1979.

Gần đây hơn, cán cân thương mại bất lợi và và nhu cầu ngày càng tăng của Bắc Kinh về tài nguyên thiên nhiên đã làm tăng lo ngại cho Việt Nam rằng nền kinh tế của nước này đang trở nên quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Hơn nữa, thái độ bị cho là hung hăng của Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa đã đang làm nhen nhóm các mối quan ngại về an ninh và kinh tế của Việt Nam về chủ quyền đối với vùng biển tranh chấp đó.

Việt Nam đã đáp lại một phần bằng cách củng cố quan hệ với các đại cường khác - mà đáng kể nhất là Hoa Kỳ, quốc gia mà Việt Nam tích cực tìm kiếm một sự tái cam kết ở trong khu vực. Washington, vốn chia sẻ tâm trạng bất an về sự trỗi dậy của Trung Quốc và có các mối quan tâm riêng về bảo vệ tự do hàng hải qua Biển Đông, đến lượt mình đã tiếp nhận sự tiếp cận của Việt Nam. Đặc biệt, việc tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong các diễn đàn đa phương của Đông Nam Á đã được Việt Nam chào đón. Chẳng hạn, tháng 7/2010 tại Diễn đàn Khu vực Asean, Washington và Hà Nội đã huy động phản ứng ngoại giao đa quốc gia đáp lại động thái được cho là hung hãn của Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa. Lãnh đạo Việt Nam cũng giúp mở đường cho Hoa Kỳ tham gia Hội nghị thượng đỉnh Đông Á.

Ngoài ra, mối quan tâm được chia sẻ về Trung Quốc có vẻ là một chất xúc tác cho tăng cường quan hệ an ninh Mỹ-Việt. Chẳng hạn, quyết định hồi tháng 6/2011 của Hà Nội nhằm mở lại căn cứ hải quân quan trọng ‎ chiến lược ở vịnh Cam Ranh cho các tàu chiến nước ngoài ra vào được nhiều nhà quan sát nhìn nhận như là một lời mời đặc biệt đối với Hoa Kỳ, nhằm mục đích đối phó với sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa kề cận.

Lo ngại của Trung Quốc



Truyền thông nhà nước của Trung Quốc đã lên tiếng bày tỏ sự không hài lòng của Bắc Kinh về một số phát triển gần đây trong quan hệ Mỹ-Việt trong quan hệ an ninh, và nhắc nhở Hà Nội lưu ‎tâm về hậu quả.

Về phần mình, Bắc Kinh tỏ ra công khai nghi ngờ về sự ấm lên trong quan hệ Mỹ-Việt, đặc biệt là các chiều kích an ninh trong mối quan hệ này. Truyền thông nhà nước của Trung Quốc đã lên tiếng bày tỏ sự không hài lòng của Bắc Kinh về một số phát triển gần đây trong quan hệ Mỹ-Việt trong quan hệ an ninh, và nhắc nhở Hà Nội lưu ‎tâm về hậu quả.

Trung Quốc có nhiều quan ngại. Đầu tiên là mối quan hệ được cải thiện giữa Washington và Hà Nội sẽ tiếp tay cho mục tiêu "bao vây" hoặc "hạn chế" Trung Quốc và qua đó làm suy yếu các mục tiêu chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Bắc Kinh cũng cảnh giác rằng các căng thẳng trong khu vực, bao gồm cả căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ biện minh cho sự hiện diện lâu dài của quân Mỹ ở Đông Nam Á. Một mối quan ngại cuối cùng của Trung Quốc là Hà Nội sẽ cố gắng lợi dụng các nỗ lực của Hoa Kỳ để "tái cân bằng" châu Á và nhấn mạnh hơn tuyên bố chủ quyền của Việt Nam trên Biển Nam Trung Hoa.

Do sự gần gũi về địa lý và tầm quan trọng về kinh tế của Trung Quốc, duy trì quan hệ ổn định với Bắc Kinh có lẽ là mối quan tâm quan trọng duy nhất của Việt Nam trong chính sách đối ngoại. Hà Nội cẩn trọng cân nhắc các quyết định của mình trong mối quan hệ với Bắc Kinh và thường chứng minh với một số mức độ nhất định nhằm xoa dịu người láng giềng phương Bắc. Ví dụ, trong những năm gần đây, Việt Nam đã xóa bỏ những mô tả tiêu cực về Trung Quốc trên các trang mạng của người Việt, đóng cửa các xuất bản phẩm trong nước chỉ trích Bắc Kinh và giam giữ các blogger Việt Nam công khai chất vấn Hà Nội về việc xử lý mối quan hệ song phương của mình. Việt Nam cũng đã bắt giữ các thành viên của phong trào Pháp Luân Công, vốn bị cấm ở Trung Quốc, và chú trọng đảm bảo an ninh đặc biệt cho rước đuốc Olympic tiền Thế vận hội mùa hè Bắc Kinh năm 2008 chặng ở Việt Nam.

Tuy nhiên, Hà Nội đồng thời cũng thể hiện thái độ sẵn sàng chống Bắc Kinh, đặc biệt trong những vấn đề xét thấy có liên quan đến chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam là một trong những bên tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông tích cực đối đầu với Trung Quốc nhiều nhất. Trong một số trường hợp, Hà Nội đã phản ứng thái độ hung hãn của Trung Quốc trê Biển Đông bằng trả đũa và đôi lúc là tiến hành các biện pháp khiêu khích khác. Chẳng hạn, đáp lại việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh hải quân và tuần duyên tại đây, hồi tháng 6/2011 quân đội Việt Nam tiến hành tập trận hải quân bắn đạn thật ngoài khơi bờ biển miền trung của Việt Nam trên Biển Đông và công bố mua tàu ngầm của Nga để "bảo vệ đất nước".

Không muốn mất lòng



Việt Nam sẽ theo đuổi quan hệ với Hoa Kỳ theo cách mà không làm tổn hại nghiêm trọng quan hệ với Trung Quốc.

Mối quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ có thể được hiểu rõ nhất trong bối cảnh của mối quan hệ Trung-Việt phức tạp. Sự hiện diện quân sự đáng kể của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương cũng như lợi ích chồng chéo của Washington và Hà Nội trong việc ổn định khu vực làm cho Hoa Kỳ trở thành một đối tác tiềm năng của Việt Nam khi tìm kiếm phương thức chống lại Trung Quốc. Nhưng đồng thời Hà Nội cũng rất thính nhạy với mối quan hệ nhạy cảm với Bắc Kinh và tích cực đề phóng bất kỳ kịch bản nào mà theo đó sẽ tăng cường hợp tác với Washington mà gây ra sự suy giảm đáng kể trong mối quan hệ Trung-Việt. Do đó, Việt Nam có khả năng tìm kiếm các mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ khi mối quan hệ dường như giúp ngăn chặn hành động của Trung Quốc mà Hà Nội không mong muốn, nhưng Việt Nam cũng đề phòng để tránh bất kỳ sự kích động phản ứng dữ dội từ Trung Quốc.

Dẫu vậy, triển vọng ngắn hạn của quan hệ Mỹ - Việt là tốt đẹp, và vẫn còn chỗ để phát triển. Cố gắng gần đây của Mỹ nhằm “tái cân bằng” châu Á – Thái Bình Dương trùng khớp với nỗ lực của Việt Nam muốn đa dạng hóa quan hệ ngoại giao và mở ra cơ hội mới cho hợp tác. Ví dụ, Hoa Kỳ và Việt Nam đã thảo luận về việc đẩy quan hệ song phương lên tầm “đối tác chiến lược”. Hai nước đang đàm phán về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương. Về an ninh, hai nước hồi tháng Tư 2012 đã tiến hành hoạt động hải quân lần thứ ba. Khi Bộ trưởng Quốc phòng Panetta thăm Việt Nam, hai bên cũng đạt thỏa thuận đẩy mạnh hợp tác quân sự nhiều lĩnh vực.

Dĩ nhiên cần chỉ ra rằng quan hệ Mỹ - Việt còn có những thách thức. Trong đó có di sản chiến tranh, sứ né tránh xây dựng liên minh của Hà Nội, hồ sơ nhân quyền của Việt Nam và lo ngại của Việt Nam về việc Mỹ thúc đẩy dân chủ.

Tuy vậy, chúng tôi kết luận rằng triển vọng chung về quan hệ là tốt đẹp, nhờ sự tái cam kết với châu Á của Mỹ, lợi ích kinh tế chung, và mong muốn chung xây dựng niềm tin. Những mục tiêu chung này sẽ bảo đảm quan hệ hai nước tiếp tục đi lên.

Điều quan trọng là khi xu hướng này tiếp tục, Hoa Kỳ sẽ ngày càng trở thành yếu tố gây phức tạp cho quan hệ vốn đã phức tạp của Trung Quốc và Việt Nam. Trong khi Trung Quốc chắc sẽ theo dõi quan hệ an ninh Mỹ - Việt với sự lo ngại, thì tầm quan trọng mà Hà Nội dành cho quan hệ với Bắc Kinh sẽ bảo đảm cho quan hệ Việt – Trung chỉ bị chia rẽ ở mức tối thiểu.

Việt Nam cũng không xem quan hệ với Washington và Bắc Kinh là trò chơi chỉ một kẻ thắng. Như Nguyễn Nam Dương, một nhà nghiên cứu ở Học viện Ngoại giao Việt Nam, nói: “Việt Nam sẽ có quan hệ độc lập với cả Hoa Kỳ và Trung Quốc, và chúng tôi muốn phân biệt rõ hai quan hệ đó.”

Nói cách khác, mặc dù quan hệ Việt – Trung có thể tiếp tục căng thẳng, Hà Nội sẽ cố gắng duy trì quan hệ xây dựng với Bắc Kinh dựa trên hợp tác kinh tế và giảm bớt những va chạm sẵn có. Việt Nam sẽ theo đuổi quan hệ với Hoa Kỳ theo cách mà không làm tổn hại nghiêm trọng quan hệ với Trung Quốc.

James Bellacqua và Brad Daniels là các nhà phân tích ở Ban Nghiên cứu Trung Quốc của CNA. Bài viết phản ánh ‎ý kiến cá nhân của hai người, chứ không nhất thiết là của CNA.

Nguồn: BBC
0

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Quan hệ Việt-Mỹ: thân nhau cho đến bao giờ?

14/11/2012- (American Review Nov 2012) Sự vươn dậy nhanh chóng của Trung Quốc đã đưa Việt Nam và Mỹ xích lại gần nhau hơn, nhưng điều này sẽ kéo dài được bao lâu?

Nayan Chanda/American Review
Lê Quốc Tuấn chuyển dịch Việt Ngữ


Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Ngoại trưởng Mỹ bà H. Clinton ngày 10/07/2012 tại Hà Nội

Vui lòng cân nhắc khi xem

Trong những ngày sau khi chiếc trực thăng cuối cùng nhấc mình khỏi bãi đáp trực thăng toà đại sứ Hoa Kỳ, bầu trời Sài Gòn rơi vào im lặng và những người chiến thắng đã bận rộn dương cao màu vàng đỏ tiêu chuẩn của Mặt trận Giải phóng Dân tộc trên cột cờ của các cơ quan đại diện nước ngoài. Riêng toà đại sứ như một pháo đài của Mỹ là không có lá cờ quân giải phóng. Được hỏi về lý do cho ngoại lệ này, một nhân viên từ Hà Nội quả quyết với tôi bằng một nụ cười: "Người Mỹ sẽ quay lại ngay." Như ông giải thích, "Người Mỹ lo lắng về sự bành trướng của Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt Nam đã là rào cản lớn nhất chống lại đường tiến về phương Nam của Bắc Kinh."

Đầu năm nay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã được cấp cho một cuộc tham quan mời gọi đến Vịnh Cam Ranh nổi tiếng vốn đã từng nổi bật trong trí tưởng tượng chiến lược của Mỹ. Điều này không phải là để cho thấy rằng Mỹ và Việt Nam đang ở đâu đó gần với loại hợp tác chiến lược mà những người kể chuyện Việt Nam của tôi từng mơ ước vào năm 1975, nhưng là hành trình ngoằn ngoèo của sự hòa giải và việc tái lập mối quan hệ hữu nghị giữa hai đối thủ vẫn còn là một câu chuyện hấp dẫn. Câu chuyện ấy cũng cung cấp các bài học có giá trị trong sự tương tác của ba yếu tố - địa chính trị, chủ nghĩa yêu nước và ý thức hệ - từng định hình các biến đổi rực rỡ muôn hình vạn trạng. Lịch sử hai ngàn năm quan hệ yêu ghét của Việt Nam với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc, tham vọng quốc gia của mình và mối quan tâm của Đảng Cộng sản cầm quyền để duy trì chế độ có thể giải thích được con đường khó khăn đi đến bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.

Năm 1975, vào lúc kết thúc cuộc chiến, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tự hào với chiến thắng lịch sử của mình, muốn xây dựng lại đất nước bị tàn phá nhưng lại lo lắng về những dấu hiệu thù địch công khai từ phía Trung Quốc. Từ những cân nhắc đến khía cạnh địa chính trị rộng lớn, mối lạc quan về cuộc phục hồi quan hệ nhanh chóng với Washington có thể là suy nghĩ hợp lý, nhưng lại dựa trên một sự hiểu lầm tổng thể về chính sách năng động của Mỹ. Bất chấp mong muốn khôi phục lại quan hệ với tất cả các cựu thù ở châu Á, bao gồm cả Trung Quốc của Tổng thống Jimmy Carter, cuộc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã chứng minh là không thể thực hiện. Carter đã không thể chia sẻ được tâm nhìn xa của Việt Nam và về phần mình Việt Nam đã đánh giá thấp những vết thương chiến tranh tâm lý sâu sắc của Mỹ. Trong khi muốn quan hệ với Washington để cân bằng với sức mạnh của Trung Quốc, Việt Nam lại quá tự hào về cuộc chiến thắng đến mức từ bỏ các chiến lợi phẩm từ cuộc chiến - lời hứa viện trợ tái thiết của Mỹ trong hiệp định hòa bình Paris năm 1973. Sau khi các cuộc đàm phán về bình thường hoá bị sụp đổ vào năm 1978, bối cảnh địa chính trị đã trải qua một sự thay đổi bất lợi đáng kể cho Việt Nam kéo dài gần hai thập kỷ.

Bốn năm sau khi kết thúc của cuộc chiến tranh dài, một lần nữa Việt Nam lại ở trong tình trạng chiến tranh trên nhiều mặt trận phía bắc và phía tây của mình. Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ tấn công vào biên giới phía tây trong năm 1977-78, dẫn đến cuộc chiến tranh giải phóng nhân dân Campuchia của Việt Nam. Trung Quốc trả đũa bằng một cuộc xâm lược trừng phạt miền Bắc Việt Nam vào năm 1979. Giai đoạn này đã bắt đầu một thời kỳ kéo dài hàng thập kỷ, trong đó Việt Nam phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế ở trong nước và bị cô lập ở bên ngoài. Áp lực của liên minh trên thực tế giữa Mỹ và Trung Quốc và sự hỗ trợ của liên minh do Khmer Rouge lãnh đạo trở nên phức tạp bởi việc mất đi ủng hộ từ Liên bang Xô Viết vốn đang cải tổ. Các cuộc đàm phán nhằm bình thường hóa quan hệ với Mỹ bị sa lầy bởi những yêu cầu bất tận của Mỹ về trách nhiệm với tù binh chiến tranh và các binh sĩ mất tích (MIA) trong chiến tranh. Giới bảo thủ trong chính quyền và quân đội, những người không bao giờ tha thứ cho Việt Nam vì đã sỉ nhục quốc thể Hoa Kỳ, tìm cách khôi phục lại danh dự của đất nước bằng cách phải đưa hài cốt các liệt sĩ về nước và duy trì lệnh cấm vận làm tê liệt thương mại từng áp đặt từ năm 1975. Để ra khỏi các khó khăn kinh tế và bị cô lập ngoại giao, Việt Nam đã phát động công cuộc đổi mới cải cách của mình và bắt đầu rút hết quân ra khỏi Campuchia vào năm 1989.

Vào thời điểm Việt Nam gần rút quân theo yêu cầu của Mỹ, ASEAN và tham dự các cuộc đàm phán về tương lai chính trị của Campuchia, bối cảnh địa chính trị đã thay đổi một lần nữa. Cuộc tái lập quan hệ hữu nghị Trung-Xô và sự cô lập Bắc Kinh của quốc tế sau vụ thảm sát Thiên An Môn không chỉ thay đổi môi trường bên ngoài mà còn dấy lên những lo ngại về an ninh của chế độ. Các cuộc biểu tình lớn ở Trung Quốc, kết thúc trong đàn áp bạo lực tại Thiên An Môn và sự sụp đổ liên tục như những quân cờ domino của những chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tiếp theo sau đó làm vang lên hồi chuông cảnh báo ở Bắc Kinh và Hà Nội. Trong khi hết sức cần viện trợ và thương mại với phương Tây, Việt Nam lại cảnh giác với "diễn biến hòa bình" và sự lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa nhân danh hỗ trợ. Cái gọi là lộ trình bình thường hóa của chính quyền George HW Bush đã bị nhìn vào bằng sự nghi ngờ sâu sắc. Sự thất bại không đạt đưọc bình thường hóa của Nguyễn Cơ Thạch, nhà ngoại giao hàng đầu của Việt Nam, bất chấp những nhượng bộ về MIA và rút quân khỏi Campuchia, khiến Hà Nội phải thay đổi quỹ đạo chống Trung Quốc của mình. Một cuộc họp hội nghị thượng đỉnh bí mật giữa các nhà lãnh đạo đảng Trung Quốc và Việt Nam đã được tổ chức tại Thành Đô vào ngày 4 và ngày 05 tháng 9 năm 1990. Đấy là nền tảng cho cuộc suy giảm dần dần mối xung đột giữa Trung Quốc với Việt Nam và một thỏa thuận để thành lập một chính phủ liên minh tại Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc.

Với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc diễn ra, mục tiêu chính của Việt Nam trong việc tìm kiếm quan hệ với Washington là về hợp tác kinh tế. Nhưng Việt Nam vẫn còn đặt nặng vào việc bảo vệ nhằm chống lại mối đe dọa đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trớ trêu thay, chính quyền Dân chủ dưới thời Bill Clinton đã chứng tỏ là cứng rắn hơn với Việt Nam so với thời chính quyền Cộng hòa trước đó. Bị thúc ép bởi các chính trị gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã gia tăng áp lực về MIA và các vi phạm quyền con người. Mặc dù giới kinh doanh nhìn thấy cơ hội ở Việt Nam và phối hợp vận động hành lang để buộc Washington cuối cùng phải đồng ý nương nhẹ lập trường của mình. Tháng hai năm 1995, Mỹ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam, và lời thông báo khôi phục quan hệ ngoại giao đã đến vào tháng Bảy. Cuối cùng, vào ngày 05 Tháng Tám năm 1995 (30 năm sau khi chiến tranh kết thúc), khi Tổng trưởng Ngoại Giao Warren Christopher kéo ngọn cờ sao sọc lên cao trong toà Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội, mối quan tâm chính của Việt Nam đã thay đổi. Không còn là quan tâm đến một liên minh chiến lược như đã từng để mở cửa nền kinh tế ra thế giới và, cụ thể, là để giành được chế độ tối huệ quốc trong thương mại.

Sự dè dặt của Việt Nam được xem như là một đồng minh với Mỹ để chống lại Trung Quốc đã trở nên rõ ràng trong tháng 3 năm 2000. Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen trở thành vị quan chức nội các đầu tiên đến thăm Việt Nam, nhưng Hà Nội đã nỗ lực theo cách riêng của mình để thông báo rằng không hề có thương thảo gì về các mối quan hệ chiến lược. Ngay cả khi Clinton đến Việt Nam vào tháng 12 năm 2000, một chỉ thị mật của Ủy ban Trung ương đã yêu cầu các đảng viên phải hiển thị một "khuôn mặt lạnh" với Clinton. Khoảng cách giữa người dân và Đảng Cộng sản đã không thể lạnh lẽo hơn. Tôi đã chứng kiến hàng ngàn người dân Sài Gòn trẻ tuổi vượt qua các rào cản công an, nhào đến xe tổng thống hò reo "Bill, Bill". Đối với Đảng Cộng Sản, đó là sự kiện Mỹ thuần phục và công nhận Việt Nam chứ không phải là Việt Nam đang tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ vì mục đích ở Bắc phương. Trong cuộc họp với Clinton, tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã dạy tổng thống một bài học về lịch sử vẻ vang chống ngoại xâm của Việt Nam, và đã chẳng hề bàn thảo gì về hiện tại hay tương lai của mối quan hệ với Hoa Kỳ. Vì thế, Việt Nam đã phải đợi thêm ba năm nữa và chờ sự thay đổi ở môi trường bên ngoài.

Nhiệm kỳ tổng thống Bush lần thứ hai dường như đã di chuyển ra khỏi thái độ hơi nịnh nọt mà Mỹ từng có với Trung Quốc trong sự trỗi dậy của sự cố máy bay gián điệp EP-3. Thậm chí trước cả cuộc căng thẳng vì vụ máy bay do thám, dư luận quan trọng tại Washington đã bày tỏ quan ngại về việc phô trương sức mạnh của Trung Quốc. Zalmay Khalilzad, một trong những tác giả tập báo cáo của tập đoàn RAND, người sau đó trở thành cố vấn an ninh quốc gia, lưu ý rằng Hoa Kỳ nên thúc đẩy hiện diện quân sự tổng thể ở châu Á để đáp ứng với quyền lực gia tăng của Trung Quốc. Bản báo cáo chỉ ra rằng "có một logic cơ bản để hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nhằm ngăn chặn một cuộc dự tranh làm bá quyền trong khu vực của Trung Quốc. Khi Washington bắt đầu tập trung vào việc thay đổi sự cân bằng trong khu vực Đông Á, các quyền lợi của Mỹ tại Việt Nam trở nên có ý nghĩa chiến lược.

Việt Nam cũng lo lắng về áp lực tiếp tục của Trung Quốc ở Biển Đông và ở các tỉnh dọc theo biên giới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng sáu năm 2003, đảng phỏng đoán rằng tình hình ở Đông Á đã phát triển theo hướng bất lợi và phải thực hiện những nỗ lực để phát triển mối quan hệ với Mỹ. "Thế cân bằng đã mất" như Việt Nam đã nói với các quan chức Mỹ. Quan hệ Mỹ Việt rất yếu, trong khi quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện rất nhiều và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực đã gia tăng. Mối nhận thức lẫn nhau mới này đã dẫn đến chuyến thăm đầu tiên của một bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tới Washington vào tháng 11 năm 2003. Tiếp theo là chuyến ghé cảng đầu tiên của tàu của Hải quân Mỹ USS Vandergrift đến thành phố Hồ Chí Minh.

Cao điểm của mối quan hệ nồng ấm đã đến trong tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Việt Nam đầu tiên được tiếp đãi tại Nhà Trắng. Trong bản tuyên bố chung, George W. Bush và Khải cho biết cả hai cùng "chia sẻ tầm nhìn về hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Đông Nam Á, khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng ý sẽ hợp tác song phương và đa phương để thúc đẩy các mục tiêu này. Sự bao gồm các cụm từ "khu vực châu Á-Thái Bình Dương" trong thông cáo là ám chỉ công khai duy nhất về các mối quan hệ vượt quá giới hạn song phương hoặc thậm chí có tính khu vực Đông Nam Á. Khải đã ký một thỏa thuận về tình báo an ninh với Hoa Kỳ cho phép hợp tác về chống rửa tiền và tham gia chia sẻ thông tin tình báo với Washington.

Mối quan hệ Mỹ Việt đã trở nên sâu sắc hơn trong bối cảnh sức mạnh và tính quyết đoán ngày càng tăng trong khu vực Biển Đông của Trung Quốc. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã đến thăm Hà Nội trong một cuộc họp các bột trưởng ASEAN trong năm 2010, ở đó bà đã bày tỏ mối quan tâm của Hoa Kỳ về hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, đánh dấu một cấp độ mới của sự hợp tác với Việt Nam. Năm sau, Hoa Kỳ và Việt Nam tham gia vào các cuộc thảo luận để nâng cao mối quan hệ song phương lên một quan hệ đối tác chiến lược. Mối quan hệ về quân sự đã trưởng thành. Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam năm 2003 đến Washington đã quyết định rằng các chuyến thăm cao cấp tương tự sẽ diễn ra mỗi ba năm một lần. Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ qua lại thăm viếng nhau bốn lần. Chuyến thăm tháng 6 năm 2012 của Leon Panetta đã thu hút chú ý nhiều hơn trong bối cảnh mối quan hệ Mỹ-Trung bị xấu đi. Panetta đã được chào mời đi thăm cảng Cam Ranh, nơi từng là căn cứ hải quân và máy bay ném bom tầm xa của Liên Xô.

Trong khi mối quan hệ đã phát triển đáng kể trong thập kỷ qua, sự tương tác của ba yếu tố tiếp tục chi phối mối quan hệ. Một nướcTrung Quốc với quân sự mạnh mẽ đặt ra một mối đe dọa lớn hơn cho chủ quyền của Việt Nam hơn bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn chia xẻ chung sự lo ngại về một mối đe dọa từ phương Tây đến hệ thống chính trị của họ, cùng lúc ấy, tất cả lại cùng muốn tìm kiếm hợp tác kinh tế của Tây phương để xây dựng quốc gia thịnh vượng và mạnh mẽ.

Năm 1978, một nhà ngoại giao Việt Nam, Lưu Doanh Huỳnh, giải thích logic đằng sau cuộc vun trồng quan hệ với Moscow của Việt Nam: "Trong lịch sử, chúng tôi chỉ đã được an toàn với Trung Quốc trong hai hoàn cảnh. Một là khi Trung Quốc yếu và nội bộ bị chia rẽ. Hai là khi họ bị đe dọa bởi những kẻ man rợ từ phía bắc. Trong thời đại hiện nay, người Nga là những kẻ man rợ của chúng tôi . Cùng một logic ấy có thể được áp dụng cho nhu cầu vun xới quan hệ với Mỹ của Việt Nam hiện nay - một người bạn mạnh mẽ để ngăn chặn Trung Quốc quá hung hăng. Như các nhà lãnh đạo Việt Nam thường xuyên nhắc nhở người nước ngoài, một quốc gia có thể chọn bạn của mình nhưng không thể chọn láng giềng. Tuy nhiên điều thú vị là, Việt Nam sẽ xa lánh bất kỳ liên minh quân sự nào với Washington vốn có thể kích động sự thù địch với người láng giềng khổng lồ của mình hoặc làm cho chính phủ Việt Nam bị tổn thương với áp lực của Mỹ về dân chủ và nhân quyền. Cải thiện quan hệ giữa hai nước là có thật nhưng do đó có những giới hạn.

Nguồn: http://americanreviewmag.com/stories/The-slow...
2

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

Tương lai quan hệ Việt-Mỹ nhiệm kỳ 2 của Obama

(VOV) - "Tôi tin rằng, trong 4 năm nhiệm kỳ 2, quan hệ Việt Nam – Mỹ sẽ phát triển hơn về mặt kinh tế".



Trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vừa qua, đương kim Tổng thống Obama đã giành chiến thắng vang dội trước  ứng cử viên Mitt Romney của đảng Cộng hoà.


Nhân dịp này, phóng viên VOV online đã phỏng vấn nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Bộ Công an, Thiếu tướng, PGS-TS Lê Văn Cương, chuyên gia nghiên cứu quốc tế, về những thách thức và khó khăn mà ông Obama sẽ phải đối mặt trong nhiệm kỳ này.


Vì sao Obama thắng áp đảo?

** PV: Thưa Thiếu tướng, PGS-TS, ông có thể phân tích nguyên nhân dẫn đến chiến thắng của ông Obama?


Thiếu tướng Lê Văn Cương: Người ta đã bàn rất nhiều về chiến thắng của ông Obama. Tuy nhiên, chúng ta phải thấy rằng, việc đương kim Tổng thống B.Obama tái đắc cử nhiệm kỳ 2 trong bối cảnh nước Mỹ hết sức đặc biệt, đó là tình trạng nước Mỹ đang sa sút, nợ công chồng chất và tỷ lệ thất nghiệp là 7,9%. Điều này chưa có trong tiền lệ gần 100 năm nay của một tổng thống bước vào nhiệm kỳ 2 ở Mỹ.


Niềm vui chiến thắng của gia đình Tổng thống Obama (ảnh: Reuters)

Người dân Mỹ bỏ phiếu cho ông Obama có thể xem là ngoại lệ.  Điều đó cho thấy họ rất khách quan và cho rằng, nguyên nhân sâu xa của tình hình kinh tế khó khăn, thất nghiệp, nợ công lớn, không phải ông Obama tạo ra mà chính do người tiền nhiệm – ông  G.Bush. 


Trong gần 4 năm cầm quyền, ông Obama đã làm được một số việc. Về đối nội, ông đã kéo nước Mỹ ra khỏi vực sâu của khủng hoảng kinh tế. Do ảnh hưởng sâu của khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 2008 – 2009,  ông G.Bush đã làm cho nước Mỹ lâm vào vực thẳm. Ông Obama chưa thể xử lý được tình trạng đó, nhưng cũng đã đưa nước Mỹ ra khỏi vực sâu. Đặc biệt, năm 2012, kinh tế có bước phát triển, tỷ lệ thất nghiệp từ hơn 9% năm 2010 nay giảm xuống dưới 8% năm 2012.


Trong 4 năm qua, ông Obama cũng đã khắc phục được những sai lầm của người tiền nhiệm để lại. Ông Obama đã triển khai cuộc chiến chống khủng bố có kết quả hơn ông G.Bush. Trong 3 năm qua, nước Mỹ trở nên an toàn hơn, phá nhiều âm mưu khủng bố đối với Mỹ và các đồng minh của Mỹ, đặc biệt loại bỏ được trùm khủng bố Osama bin Laden và một số nhân vật trụ cột của Al Qaeda ở cấp cao nhất.


Vị thế của nước Mỹ cũng được nâng cao. Ông Obama được các tầng lớp ở Mỹ ủng hộ từ người gốc Phi, Latin, Á đến thanh niên và phụ nữ. Trong khi ông Mitt Romney không được như vậy. Về đối ngoại, ông Mitt Romney không có kinh nghiệm còn kinh tế lại không đưa ra được phương án có sức thuyết phục để khắc phục những yếu kém hiện nay. Chính cử tri Mỹ nghi ngờ và có cảm giác sợ ông Romney quay lại con đường ông G.Bush trước đây và họ cho đó là thất bại của nước Mỹ cả kinh tế và đối ngoại. 


Người Mỹ đã ủng hộ ông Obama và đặt lòng tin vào ông, bởi ông có khả năng tiếp tục giải quyết những khó khăn của nước Mỹ.


Phía trước Obama là núi cao

** PV: Thưa ông, những thách thức và khó khăn của ông Obama trong nhiệm kỳ 2 là gì?


Thiếu tướng Lê Văn Cương: Thực ra, nhiệm kỳ 2 giai đoạn 2013 - 2016 ông Obama sẽ phải đối mặt với những khó khăn cả đối nội lẫn đối ngoại.


Về đối nội, điều khó khăn nhất vẫn là kinh tế. Dù đã ra khỏi vực sâu của suy thoái nhưng kinh tế Mỹ vẫn chưa có bước phát triển bứt phá, nợ công lớn. Chưa bao giờ ở Mỹ, tổng thống lên trong bối cảnh kinh tế lại khó khăn như vậy, nợ công chồng chất, kinh tế bắt đầu phát triển nhưng hết sức chậm, thậm chí cũng không ổn định và thiếu chắc chắn. Và chưa rõ lối ra.


 


Thiếu tướng, PGS-TS Lê Văn Cương, chuyên gia nghiên cứu quốc tế (ảnh: Thu Thủy)

Trong nhiệm kỳ 2, nếu hết sức cố gắng, ông Obama chỉ có thể khắc phục được một phần. Nhiệm kỳ sau năm 2016, nước Mỹ còn khó khăn hơn, nền kinh tế cũng phải mất từ 5 đến 7 năm mới có thể khắc phục được. Đó là áp lực lớn nhất của ông Obama. “Làm thế nào để giảm nợ công và thâm hụt ngân sách” là bài toán thường trực đối với ông Obama và chính quyền của ông.


Ông Obama đưa ra phương án là tăng thuế người giàu để có tiền, vừa giảm nợ công vừa giảm thâm hụt ngân sách cũng như chi cho kế hoạch mà ông đã hứa như: bảo hiểm xã hội, y tế, an sinh, giáo dục và đào tạo… Ông Obama không chấp nhận gia hạn Luật cắt giảm thuế đối với các cá nhân có thu nhập trên 200.000 USD và các cặp vợ chồng có thu nhập trên 250.000 USD/năm. Luật này có hiệu lực từ thời ông G.Bush.


Khó khăn của ông Obama hiện nay là Hạ viện Mỹ do Đảng Cộng hòa kiểm soát. Nếu ông Obama không tạo sự đồng thuận với Đảng Cộng hòa trong Quốc hội thì những quyết sách về kinh tế xã hội trong nước sẽ gặp khó khăn. Vì thế trong nhiệm kỳ 2 này, điều quan trọng nhất mà ông Obama phải tập trung giải quyết là những vấn đề trong nước.


Về đối ngoại, ông Obama vẫn sẽ phải coi trọng các vấn đề như: Chống khủng bố, Xử lý những vấn đề nóng của Trung Đông và Bắc Phi, trong đó có vấn để Syria và những  thách thức ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đối với Mỹ, châu Á là thị trường năng động nên, Washington sẽ  tăng cường tiếp cận, hợp tác thông qua hợp tác châu Á – Thái Bình Dương để có khả năng tháo gỡ bớt khó khăn trong nội bộ kinh tế của Mỹ.


Dự đoán quan hệ Mỹ-Việt

** PV: Theo Thưa Thiếu tướng, PGS-TS dự đoán thì ở nhiệm kỳ 2 này, nội các của ông Obama có thay đổi nhiều không?


Thiếu tướng Lê Văn Cương: Theo tôi, trong nhiệm kỳ 2 này, ông Obama chắc chắn sẽ có một số thay đổi về chính sách đối nội và đối ngoại như vậy chắc chắn sẽ có thay đổi nhất định về nhân sự. Tuy nhiên, vẫn có những thay đổi và được ưu tiên cho lĩnh vực tài chính và ngân hàng. Ông sẽ lựa chọn những người giỏi nhất vào trong lĩnh vực này vì lợi ích của đất nước.


Thứ 2, bổ sung chuyên gia giỏi về các vấn đề ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Trung Đông và Bắc Phi.


Ông Obama sẽ quan tâm nhất đến đội ngũ và những chuyên gia về kinh tế, tiền tệ. Bộ trưởng Tài chính và vấn đề xã hội cũng sẽ được ưu tiên.


Ở Mỹ, vấn đề Ngoại trưởng là vị trí đặc biệt quan trọng, rất được coi trọng. Theo dư luận đánh giá, ở Mỹ, nếu tổng thống là vị trí số 1 thì Ngoại trưởng phải là vị trí thứ 2 vì đây là người nắm chắc vấn đề toàn cầu, có khả năng kịp thời xử lý vấn đề toàn cầu. Bà Hillary Clinton có thể không tham gia trong nhiệm kỳ 2 này bởi bà có lý do riêng hoặc có thể chuẩn bị cho cuộc tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2016 hoặc bà sẽ làm một việc khác để lại dấu ấn.


Trong lĩnh vực Quốc phòng, an ninh sẽ không có sự thay đổi đột biến để đảm bảo chính sách của Mỹ ổn định.


** PV: Thưa Thiếu tướng, PGS-TS, ông nhận định như thế nào về mối quan hệ giữa Việt Nam – Mỹ trong thời gian tới?


Thiếu tướng Lê Văn Cương: Mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ là vấn đề khá lớn và thu hút sự quan tâm của nhiều người, đặc biệt là các   học giả Việt Nam và Quốc tế.

Theo tôi, mối quan hệ Việt Nam – Mỹ đã được thử thách qua 17 năm (từ 1995 đến nay), qua 3 đời tổng thống. Đến thời điểm này, mối quan hệ đó đã đặt trên một nền tảng quan hệ kinh tế khá chắc chắn vì lợi ích của nhân dân 2 nước.

Việt Nam  nằm ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và việc Mỹ quay trở lại khu vực này và xem nó là địa bàn trọng điểm thì việc quan hệ với Việt Nam là chuyện đương nhiên và bình thường.


Đối với Việt Nam, mở rộng mối quan hệ với Mỹ là vì lợi ích của Việt Nam. Chúng ta không bao giờ quan hệ với Mỹ để chống lại nước khác và thực tế Việt Nam không bao giờ liên kết để chống lại nước thứ 3. Nhưng là một quốc gia độc lập có chủ quyền, chúng ta có lợi ích thúc đẩy quan hệ với Mỹ. Bản thân Mỹ cũng có lợi ích trong việc quan hệ với Việt Nam.


Ở nhiệm kỳ 2, theo tôi,  ông Obama sẽ dựa trên nền tảng đó tục thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Mỹ, đặc biệt là thúc đẩy mở rộng về kinh tế.


Tôi tin rằng, trong 4 năm nhiệm kỳ 2, quan hệ Việt Nam – Mỹ sẽ phát triển hơn về mặt kinh tế. Tôi cũng mong muốn có nhiều tập đoàn kinh tế Mỹ vào Việt Nam vì lợi ích của 2 nước.


 ** PV: Xin cảm ơn ông.


0

Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Tầm quan trọng của Việt Nam trong chính sách ngoại giao của Mỹ

08/11/2012- Quan hệ Việt – Mỹ trong tương lai một lần nữa được đặt ra sau khi cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ kết thúc với Tổng thống Barack Obama tái đắc cử.


Ông Douglas Coulter tin tầm quan trọng của Việt Nam sẽ gia tăng ở Mỹ

Trong bốn năm qua, quan hệ Việt – Mỹ ngày càng trở nên khăng khít, bất chấp một số chỉ trích rằng Tổng thống Mỹ “làm ngơ” vấn đề nhân quyền.

Trả lời BBC vài ngày trước cuộc bầu cử, ông Douglas Coulter, người từng phụ trách các chiến dịch tổng tuyển cử cho đảng Dân chủ ở Wisconsin và Indiana (1971-77), và dạy về tài chính ở Trung Quốc (1997-2011), nay là Giám đốc điều hành Quỹ Open Minds Foundation nói về tầm quan trọng của Việt Nam trong chính sách ngoại giao của Mỹ dù ai làm chủ Tòa Bạch Ốc sau bầu cử.

Douglas Coulter: Sự quan trọng của Việt Nam trong chính sách ngoại giao của Mỹ rõ ràng đang gia tăng. Việt Nam trở nên quan trọng hơn hẳn so với bốn năm trước.
Lý do là sự trỗi dậy và ngày càng hung hăng của Trung Quốc. Chỉ vài năm trở lại đây, chính sách đối ngoại và người dân Mỹ mới nhận ra điều này. Vấn đề rõ nhất dĩ nhiên là Biển Nam Trung Hoa, nhưng Hoa Kỳ cũng tìm kiếm cân bằng kinh tế với Trung Quốc ở châu Á.

Việt Nam sẽ đóng vai trò lớn hơn nhiều, nhưng câu hỏi là vai trò này sẽ thi hành thế nào trước sự có mặt to lớn và mạnh mẽ của Trung Quốc.

BBC: Dựa trên giao tiếp của ông với người Việt, ông thấy họ muốn gì ở Hoa Kỳ?

So với người Mỹ, người Việt nhận thức rõ và lo lắng trước sự lấn lướt của Trung Quốc hơn, đơn giản vì khoảng cách.

Do lịch sử lâu dài, người Việt cũng hiểu người Trung Quốc hơn người Mỹ, vì thế có thể nhận thức về đe dọa rõ hơn.

Nhưng lại vì khác biệt kích cỡ, người Việt sẽ không thế chống đối Trung Quốc trực tiếp và bằng vũ lực. Có quá nhiều quan hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau.
Những người Việt tôi trò chuyện đều có vẻ muốn Hoa Kỳ có mặt và ủng hộ quyền lợi của Việt Nam. Tôi nghĩ Việt Nam sẽ không công khai yêu cầu chuyện này vì sự nhạy cảm trong quan hệ với Trung Quốc, và có lẽ Hoa Kỳ cũng không công khai khoe điều này vì cùng một lý do.

Nhưng người Việt muốn Hoa Kỳ có mặt để Trung Quốc sẽ phải đụng chạm với Hoa Kỳ khi họ xâm phạm quyền lợi của Việt Nam.

BBC: Thế khi có vấn đề với Trung Quốc, Việt Nam có thể trông chờ gì từ sự có mặt của Hoa Kỳ ở châu Á?

Hiện liên hệ ngoại giao và quân sự Mỹ - Việt cũng đã gia tăng rồi. Dù ai có thành tổng thống Mỹ, chắc chắn cũng sẽ tiếp tục xu hướng này.

Bước đi phản kích Trung Quốc đã bắt đầu ở Mỹ và sẽ chỉ đi tiếp mà thôi. Câu hỏi đặt ra là người ta làm điều này thế nào. Chắc chắn người Việt biết rõ hơn người Mỹ là chuyện này có thể nhạy cảm ra sao. Chắc chắn là sẽ có thêm ủng hộ về ngôn từ, và sự có mặt quân sự cũng gia tăng, mặc dù tôi chưa rõ về hỗ trợ kinh tế.

BBC: Nếu xảy ra xung đột ở Biển Đông, Hoa Kỳ có giúp Việt Nam không?





Tôi có thể hiểu với người Việt, đây là câu hỏi chủ chốt. Nhưng tôi không có câu trả lời dứt khoát.

Chắc chắn trong tình huống này, người Mỹ sẽ thông cảm với Việt Nam. Nhưng sau Iraq và Afghanistan, rồi thâm hụt ngân sách, sức mạnh quân sự và mong muốn can thiệp của Mỹ đã yếu đi.

Mặt khác, còn có câu hỏi Trung Quốc muốn đi xa tới đâu. Liệu Trung Quốc có muốn tấn công hải quân Mỹ ở Biển Nam Trung Hoa? Mỹ có muốn tấn công không? Tôi nghĩ rằng các bên đều không muốn xảy ra đối đầu.

BBC: Ông đánh giá liệu Hoa Kỳ có ảnh hưởng nào đến các chính sách của Việt Nam hay không, hay chỉ là “người quan sát”?

Tôi không rõ những gì đang diễn ra sau hậu trường. Chắc chắn có những lĩnh vực Hoa Kỳ muốn có ảnh hưởng. Nhưng ở đây, quan điểm cá nhân của tôi tác động đến câu trả lời. Tôi nghĩ đây là lĩnh vực rất nguy hiểm.

Hoa Kỳ có quyền có ý kiến, nhưng tôi nghi ngờ sự khôn ngoan khi anh muốn tác động hay tạo áp lực trong các lĩnh vực mà chính phủ Việt Nam không thiện cảm. Hiệu ứng có lẽ sẽ tiêu cực, giống như Pháp lại định gây ảnh hưởng hay áp lực lên chính phủ Mỹ.

Việt Nam đang trải qua giai đoạn chuyển tiếp lớn. Hoa Kỳ nên rất cẩn thận. Tôi không rõ một quốc gia bên ngoài lại có thể thực sự hiểu các lực đẩy chính trị bên trong một nước khác.

Theo BBC
0

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

Mỹ cho Việt Nam vay 118 triệu đôla mua vệ tinh viễn thông

02/10/2012- Chính phủ Hoa Kỳ loan báo sẽ cho Việt Nam vay 118 triệu đôla để mua một vệ tinh viễn thông do một công ty của Mỹ sản xuất.


Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ, Ex-Im, hôm thứ Hai cho biết Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, VNPT, sẽ sử dụng vệ tinh này để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của các thị trường truyền hình và viễn thông.

Ex-Im nói vệ tinh này có thể phủ sóng 4 nước Việt Nam, Campuchia, Lào và Thái Lan.

Công ty Lockheed Martin sẽ chế vệ tinh này và nhờ vậy sẽ nuôi được 500 việc làm.

Vẫn theo Ex-Im, khoản vay này phải được Tổng thống Obama phê chuẩn bởi vì đây là món tiền lớn, và vì được cấp cho một nước xã hội chủ nghĩa.

Theo VOA
0

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

"Mỹ sẽ gỡ bỏ lệnh cấm bán 'Vũ khí sát thương' cho Việt Nam"

29/7/12- KBCHN: Không Quân Trần Văn Ngọc là một người viết rất nổi tiếng nhưng anh lại ít hay viết. Những nhận định của anh rất xác thực mặc dù bài viết anh xác định "Lời Bàn Ngang" nhưng thực tế KBCHN nghĩ sẽ không ngang. Chờ xem.


Hai thượng nghị sỹ, đặc biệt là ông John McCain, có mối quan tâm lớn tới Việt Nam

Lời bàn ngang:

Sau khi đã "chào hàng" với nhà cầm quyền Việt Nam về những nhân tài người Mỹ gốc Việt trong mọi lãnh vực dân sự cũng như quân sự, "Kỹ nghệ chiến tranh" và các quân nhân "người Mỹ gốc Việt" đang tại chức, vấn đề nhân quyền đặt ra chỉ nhằm tìm một khoảng không gian sinh hoạt thích hợp cho những người này trong tương lai. Khi sư xung đột "Việt-Trung" xảy ra họ đã là những quân nhân hay nhân viên dân chính đang phục vụ dưới mầu cờ "Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam". Dĩ nhiên chúng ta phải hiểu đấy là những nhân viên được chính phủ Hoa-kỳ biệt phái sang Việt Nam để tham gia điều hành guồng máy chiến tranh cũng như xử dụng ngay lập tức các chiến cụ mà lệnh cấm gỡ bỏ.

Chúng ta thường nghe người Mỹ nói: "If it not happen then make it happen" (*). Kinh nghiệm chiến tranh Việt Nam đã đủ để cho người Mỹ không thể trực tiếp giao những loại vũ khí tối tân cho quân đội Cộng Sản Việt Nam; cho nên sau khi những giao ước Việt-Mỹ hoàn tất, lệnh cấm bán "Vũ khí sát thương" được gỡ bỏ chúng ta sẽ thấy không lâu sau đó quân đội Việt Nam đột nhiên có ngay một lực lượng Lục-Quân, Hải-Quân và Không Quân tân tiến không bằng nhưng ngang ngửa với quân đội Hoa-Kỳ. Sau 30 tháng 4 năm 1975 tại Utapao và Subic Bay, chỉ cần một thùng sơn là các chiến cụ của Việt Nam Cộng Hòa lại trở thành chiến cụ của Mỹ. Cái giá của một thùng sơn quá rẻ.

Để tránh những phiền hà với lưỡng viện Quốc Hội cũng như với nhân dân Hoa-Kỳ; đây là phương cách tốt đẹp nhất để Hoa-Kỳ trực tiếp tham chiến trong trận chiến Việt-Trung. Chiến tranh chấm dứt, không có tổn thất nhân mạng của công dân Hoa-Kỳ và cũng chỉ tốn vài thùng sơn là Hoa-Kỳ lại thu hồi những quân trang quân dụng cần phải thu hồi. Các quân vận hạm Hoa-Kỳ lại tấp nập vào hải cảng Cam Ranh cho Việt Nam sửa chữa; để khi sửa xong các chiến cụ cần thu hồi sẽ theo đoàn tầu này mà quy hồi cố quốc.

Mỹ sẽ gỡ bỏ lệnh cấm bán "Vũ khí sát thương" cho Việt Nam.

KQ Trần-Văn Ngọc

(*): Nếu nó không xảy ra, hãy làm cho nó xảy ra

Theo KBCHN
0