Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thời sự quốc tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thời sự quốc tế. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

Trung Quốc trước áp lực bị kiện vì Covid-19

Trong khi chính quyền Trung Quốc liên tục tuyên bố là “nạn nhân” của Covid-19 thì nhiều tổ chức, chính quyền các nước lại khởi kiện Bắc Kinh với lý do làm bệnh dịch lây lan rộng.

Một công nhân được lấy mẫu xét nghiệm Covid-19 ở Vũ Hán, Trung Quốc


Tối 24.4, tờ South China Morning Post dẫn báo cáo của Tập đoàn theo dõi tình báo SITE Intelligence (Mỹ) cho biết phòng thí nghiệm Vũ Hán (Trung Quốc) và nhiều tổ chức lớn đã bị tin tặc tấn công. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) bị rò rỉ 450 địa chỉ email và mật khẩu đăng nhập của nhân viên. Ngân hàng Thế giới, tổ chức Bill & Melinda Gates Foundation, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Mỹ (CDC) cũng nằm trong danh sách nạn nhân.

Mặc dù chưa xác định được nhóm tin tặc, SITE nhận định thủ phạm cố tình quấy rối và thu thập thông tin nhạy cảm về nguồn gốc Covid-19, vốn có thể gây khó khăn lớn cho Bắc Kinh.
Bị nhiều bang của Mỹ đệ đơn kiện

Trước đó, nhiều tổ chức, chính quyền đã lên án, yêu cầu Trung Quốc chịu trách nhiệm cho sự lây lan của Covid-19. Cụ thể, ngày 23.4, Mississippi trở thành tiểu bang tiếp theo ở Mỹ sau Missouri lên kế hoạch đệ đơn kiện yêu cầu Trung Quốc chịu trách nhiệm cho những thiệt hại xảy ra ở bang này.

Tờ Hoàn cầu Thời báo gay gắt gọi quyết định của hai bang trên là hành động theo “chủ nghĩa côn đồ” (nguyên văn: hooliganism). Điều này chỉ dẫn đến sự “ăn miếng trả miếng” và kéo cả thế giới vào hỗn loạn.

Trước đó, ngày 20.4, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng cho rằng cộng đồng quốc tế cần hợp tác cùng nhau thay vì đổ lỗi hay yêu cầu bồi thường. Và vi rút có nguồn gốc khoa học nên cần tôn trọng sự thật và khoa học, đừng nên chính trị hóa vấn đề.

Tuyên bố trên được đưa ra nhằm phản đối các cáo buộc liên tiếp của Tổng thống Mỹ Donald Trump về việc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm và hậu quả nặng nề nếu cố ý để vi rút lây lan. Washington gần đây liên tục yêu cầu Bắc Kinh mở cửa cho chuyên gia Mỹ vào Vũ Hán để điều tra.

Truyền thông và giới chức Mỹ đã tung ra hàng loạt điều tra và nghiên cứu buộc tội Trung Quốc che đậy thông tin vi rút SARS-CoV-2 và hạ thấp mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh. Một số giả thuyết cũng cho rằng phòng thí nghiệm tại Vũ Hán đã nghiên cứu một loại vũ khí sinh học mới và vô tình để lọt ra môi trường tự nhiên.

Thượng nghị sĩ Mỹ Tom Cotton chia sẻ với kênh Fox ngày 20.4 rằng ông đang đề xuất dự luật cho phép tất cả nạn nhân của vi rút có thể kiện chính phủ Trung Quốc và áp đặt biện pháp trừng phạt với những người che đậy thông tin.

Trong khi đó, liên quan việc bang Missouri đệ đơn kiện lên tòa án liên bang yêu cầu Trung Quốc chịu trách nhiệm cho những thiệt hại xảy ra ở bang này, Tổng chưởng lý bang Eric Schmitt muốn người dân của bang được bồi thường và Trung Quốc phải ngừng tích trữ thiết bị y tế.

Trước đó, nhiều đơn kiện dân sự tập thể khác do các doanh nghiệp đứng tên đã được đệ trình ở bang Florida và Nevada. Theo cuộc thăm dò của tổ chức Redfield & Wilton Strategies (Anh) trên 1.500 cử tri Mỹ, có đến 50% người được hỏi sẵn sàng ủng hộ một vụ kiện tập thể ở bang của họ để tìm kiếm sự bồi thường từ Trung Quốc.
Nhiều cuộc điều tra nhằm vào Trung Quốc

Phản ứng của Mỹ cũng kéo theo các cuộc điều tra độc lập từ nhiều nước nhằm vào sự ứng phó chậm trễ của Trung Quốc. Lực lượng tình báo khắp thế giới được cho là đang thu thập thông tin về phòng thí nghiệm Vũ Hán và sự lây lan ban đầu của vi rút.

Tờ Daily Mail đưa tin Thủ tướng Đức Angela Merkel kêu gọi Trung Quốc cung cấp nhiều thông tin hơn về giai đoạn khởi phát đại dịch. Các lãnh đạo châu Âu khác như Tổng thống Pháp Emmanuel Macron hay Ngoại trưởng Anh Dominic Raab đều đặt ra nghi vấn về tỷ lệ tử vong và nguồn gốc lây nhiễm ở Trung Quốc.

Tờ Bild, nhật báo hàng đầu của Đức, thì đăng tải hóa đơn trị giá 160 tỉ USD đòi Trung Quốc bồi thường cho những tổn thất về du lịch, hàng không, điện ảnh của nước này. Đính kèm với hóa đơn là lá thư gửi Chủ tịch Tập Cận Bình chỉ trích Bắc Kinh giấu dịch.

Ngày 22.4, Thủ tướng Úc Scott Morrison tuyên bố kêu gọi tất cả thành viên của WHO hợp tác đẩy nhanh việc điều tra nguồn gốc SARS-CoV-2.

Trong khi đó, phía Bắc Kinh nhiều lần cho rằng những kiện tụng trên là không có giá trị và phương Tây đang chính trị hóa vấn đề.

Đòi bồi thường 4.000 tỉ USD

Theo BBC hồi đầu tháng 4, tổ chức Henry Jackson Society ở Anh đề xuất kiện Trung Quốc vì vi phạm các nguyên tắc y tế trong quá trình xử lý dịch. Tổ chức này yêu cầu Trung Quốc bồi thường 4.000 tỉ USD cho thế giới, riêng Anh phải được bồi thường 449 tỉ USD.

Nguồn: https://thanhnien.vn/the-gioi/trung-quoc-truoc-ap-luc-bi-kien-vi-covid-19-1215842.html
0

Đại dịch Covid-19: Trung Quốc và hiệu ứng ‘‘gậy ông đập lưng ông’’

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (P) lần đầu tiên đến thăm một bệnh viện Vũ Hán, gần 2 tháng sau khi chính thức công bố dịch, phong tỏa Vũ Hán. Ảnh chụp ngày 10/03/2020. Xie Huanchi/Xinhua via REUTERS

Covid-19 tiếp tục là chủ đề chính của các tuần báo Pháp. Trong lúc L’Obs tập trung làm sáng tỏ hậu trường của chiến dịch chuẩn bị gỡ bỏ phong tỏa sắp tới, Le Point chỉ ra những thói tật của bộ máy quan liêu khiến nước Pháp trả giá đắt trong đại dịch. L’Express bàn về những bài học thành công của nước Đức. Courrier International chú ý đến thay đổi lớn trong giao tiếp xã hội thời kỳ hậu phong tỏa.

Le Point tuần này có bài xã luận đáng chú ý của nhà bình luận Nicolas Baverez mang tựa đề: ‘‘Trung Quốc và hiệu ứng gậy ông đập lưng ông’’. Bài viết so sánh đại dịch Covid-19, bùng lên từ Trung Quốc rồi lan khắp thế giới hiện nay, với cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát từ nước Mỹ năm 2008. Nhà báo Le Point nhận định : Giống như Hoa Kỳ, thoạt tiên, chính quyền Trung Quốc đã được hưởng lợi từ cuộc khủng hoảng xuất phát từ nước mình. Tuy nhiên, cũng tương tự như nước Mỹ đã phải gánh chịu ‘‘làn sóng dân túy bùng lên’’ sau khủng hoảng, giờ đây chính quyền Trung Quốc ‘‘có thể sẽ phải chứng kiến vị thế của Trung Quốc bị suy yếu do trách nhiệm của Bắc Kinh, trong giai đoạn bệnh dịch xuất hiện và khi đại dịch lan rộng khắp thế giới’’.

Bắc Kinh hiện rõ chân tướng

Cuộc khủng hoảng y tế hiện nay, mà Bắc Kinh cố gắng chứng minh đã ‘‘xử lý một cách mẫu mực’’, cho thấy rõ ‘‘bản chất toàn trị của chế độ Trung Quốc, gắn liền với chính sách tuyên truyền dối trá, và một Nhà nước bạo lực’’. Giờ đây công luận thế giới bắt đầu hiểu rằng ‘‘dịch bệnh đã bị bưng bít hơn hai tháng trời, một giai đoạn có ý nghĩa quyết định, khiến dịch lan rộng’’. Số lượng người nhiễm virus và người chết bị bóp méo.

Đọc thêm :Để dịch virus corona vượt tầm kiểm soát: Tội chính của Bắc Kinh là giấu thông tin?
Lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã làm đúng những lời tổ sư Mao Trạch Đông để lại: Bóp méo sự thật theo đòi hỏi của thực tế. Bắc Kinh đã không tính đến những người chết vì Covid - 19 tại gia đình. Theo thống kê mới điều chỉnh, số người chết tại gia đình chiếm 1/3 tổng số người thiệt mạng. Tuy nhiên, con số người chết thực sự có thể lên đến ít nhất 25.000 người, so với số chính thức 4.632 hiện nay. Bởi, theo chính một số nghiên cứu dịch tễ học Trung Quốc, số người vừa chết vì Covid - 19, vừa chết do bệnh khác chiếm đến 72% người qua đời tại các bệnh viện Vũ Hán. Cho đến nay, Bắc Kinh chỉ chấp nhận thống kê số người chết duy nhất vì bệnh Covid -19.

Đại dịch Covid-19 cũng phơi bày tình trạng kiểm soát công dân bằng kỹ thuật số, ngày càng sát sao tại Trung Quốc. Bắc Kinh có chính sách chi đến một triệu nhân dân tệ cho tất cả doanh nghiệp nào phát triển một dự án kỹ thuật số liên quan đến dịch bệnh. Ví dụ như thiết lập các ‘‘hộ chiếu y tế’’ cho tài xế tắc-xi hay giới tài xế nói chung, do tập đoàn Alibaba quản lý. Việc sử dụng máy bay không người lái để kiểm soát công dân, kiểm soát việc đi lại, kỹ thuật nhận dạng người qua võng mạc hay tập hợp thông tin về sức khỏe người dân, hoàn toàn không cần tính đến sự chấp thuận của các công dân. Tình trạng kiểm soát gia tăng là một trong những nguyên nhân khiến người dân Trung Quốc hiện nay dè dặt trong việc tiêu thụ, bên cạnh các nguyên nhân khác như sợ thất nghiệp, bị hạ lương. Kinh tế Trung Quốc hiện nay đang trong tình trạng mất cân đối cung - cầu nghiêm trọng, một bên là sản xuất bị bắt buộc phải nối lại (với hoạt động bằng 90% so với trước), bên kia là nhu cầu bị cắt đến một nửa (do nhu cầu nội địa không tăng mạnh, cũng như nhu cầu bên ngoài, do kinh tế thế giới tê liệt).

Về mặt địa chính trị, trước mắt Trung Quốc đang ở thế thượng phong trong khủng hoảng hiện nay, trong một bối cảnh chưa từng có kể từ năm 1945, khi Hoa Kỳ hoàn toàn rút khỏi cuộc chơi. Đối với Bắc Kinh, đại dịch cho thấy thế giới đang ngừng ‘‘phương Tây hoá’’, các nền dân chủ thể hiện đang bất lực, còn Trung Quốc củng cố quan hệ với các quốc gia đang trỗi dậy, bằng ngoại giao y tế (cung cấp ồ ạt trang thiết bị y tế), đầu tư thông qua các dự án Con Đường Tơ Lụa Mới, và kiểm soát các định chế đa phương, đầu tiên là Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO). Thế nhưng, theo Le Point, đại dịch này làm nổi bất tính chất tương phản sâu xa, đằng sau ‘‘thế thượng phong bên ngoài của Trung Quốc’’, một quốc gia có nền công nghệ phát triển, là các hành xử ‘‘rất cổ hủ’’. Những thiệt hại ghê gớm cho thế giới hiện nay đang làm dấy lên những đòi hỏi phải khởi kiện Trung Quốc.

‘‘Chủ nghĩa đa phương quốc tế trong cơn hôn mê’’

‘‘Chủ nghĩa đa phương quốc tế trong cơn hôn mê’’ là tựa đề một bài phân tích khác của Le Point, ghi nhận cuộc đại khủng hoảng 2020 đang làm tăng tốc tiến trình tan rã của cơ chế hợp tác quốc tế, được đặt nền móng từ sau Thế chiến Hai. Le Point trở lại với cội nguồn của trật tự thế giới hiện nay, với nhận định của cố tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, chính trị gia Thụy Điển Dag Hammarskjöld: Mục tiêu xây dựng Liên Hiệp Quốc ‘‘không phải là để đưa nhân loại đến thiên đường, mà là để giúp chúng ta không rơi xuống địa ngục’’. Rốt cục, sứ mạng của Liên Hiệp Quốc đã thất bại : Đại dịch này cho thấy rõ.

Đọc thêm: Virus corona - Covid-19: Tổ Chức Y Tế Thế Giới có góp phần để dịch trầm trọng hơn?
Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, định chế phụ trách y tế của Liên Hiệp Quốc đã không đảm nhiệm được vai trò: WHO bênh vực Bắc Kinh, gạt Đài Loan ra ngoài, trong khi nền dân chủ này đã có chính sách đúng trong cuộc chiến chống dịch, WHO cũng không tiến hành điều tra một cách không thiên vị nguồn gốc virus… Về phần mình, Hội Đồng Bảo An cũng tồi tệ không kém. Ngày 10/04, định chế có vai trò lớn đối với nền an ninh thế giới này mới họp lần đầu tiên về Covid-19, nhưng không ra đuợc nghị quyết.

Dù sao, Le Point cũng kết thúc bài phân tích với một sắc thái lạc quan, khi nhấn mạnh là, thời đại chúng ta cho thấy, thường là sau mỗi lần trải qua chiến tranh hay khủng hoảng, nền dân chủ, nhân quyền và hợp tác quốc tế lại được thiết lập. Sau mỗi lần rơi vào đại thảm họa, nhân loại lại trở về tìm kiếm thống nhất và tinh thần đoàn kết. ‘‘Đại dịch 2020 có thể là điểm khởi đầu cho việc tái xây dựng hệ thống quan hệ quốc tế’’.

‘2020 là năm tốt nhất để đối phó với một đại dịch’’

Đại dịch 2020 có thể là điểm khởi đầu cho một hệ thống quan hệ quốc tế mới. Le Point có bài phỏng vấn nhà bình luận chính trị Thụy Điển Johan Norberg cho thấy triển vọng này, với tiêu đề ‘‘2020 là năm tốt nhất để đối phó với một đại dịch’’. Nhà bình luận Thụy Điển - theo quan điểm tự do, ủng hộ tiến trình toàn cầu hoá hiện nay, cho dù cần phải điều chỉnh - tỏ ra tin tưởng là nền khoa học với trình độ và mức độ toàn cầu hóa như hiện nay hoàn toàn có thể cho phép nhân loại đối phó tốt với đại dịch, với điều kiện ‘‘phải đoàn kết’’. Theo ông, về mặt nghiên cứu khoa học, chưa bao giờ quốc tế lại phản ứng mau lẹ như vậy với một bệnh dịch mới xuất hiện: Khoảng một tuần sau khi virus được xác nhận, các nhà khoa học Trung Quốc đã thiết lập được bản đồ gen, vào giữa tháng 2, các nhà khoa học Đức đã chế được xét nghiệm nhanh…

Ra khỏi phong tỏa: Vẻ đẹp của ‘‘vũ điệu’' không tiếp xúc

Quan điểm lạc quan của nhà bình luận Thụy Điển có thể mang lại một không khí hưng phấn về dài hạn, nhưng trước mắt rất nhiều xã hội hiện nay đang lúng túng trước viễn cảnh còn lâu mới có vác-xin, trong lúc thời kỳ phong tỏa không thể kéo dài. Sống sao đây trong giai đoạn ra khỏi phong tỏa, khi nguy cơ một đợt dịch mới bùng phát bất cứ lúc nào, là chủ đề chính của tuần san Courrier International?

Thời kỳ hậu phong tỏa sẽ chứng kiến một thay đổi lớn trong cách thức giao tiếp xã hội, xưa nay dựa trên tiếp xúc cơ thể, từ cái bắt tay, ôm hôn, hay hôn má, tùy theo mỗi nền văn hóa. Tiếp xúc cơ thể thuộc về nền tảng của quan hệ con người. Tuy nhiên, giờ đây, giãn cách xã hội, tránh né tiếp xúc lại là đòi hỏi bắt buộc của thời kỳ chung sống với Covid-19. Liệu một xã hội có thể tồn tại bình thường không, khi mọi người không còn có những tiếp xúc về cơ thể?

Theo một bài viết trên nhật báo Đức Süddeutsche Zeitung, một kỷ nguyên ‘‘không tiếp xúc’’ là ‘‘không thể tránh khỏi’’. Một bài viết khác trên Washington Post thì nhấn mạnh, đối diện với thảm họa kinh hoàng, với bao người thiệt mạng do virus, thì ‘‘lối sống chắc chắn sẽ bị đảo lộn hoàn toàn’’. Cây viết Gia Kourlas, một chuyên gia về vũ đạo, trên New York Times, hình dung lối sống mới với nhiều chất thơ, khi quan sát những cảnh tượng hoàn toàn mới mẻ trên đường phố New York, khi giãn cách xã hội là điều bắt buộc, mỗi người như trở thành một diễn viên múa, với những chuyển động lạ kỳ, tránh mọi tiếp xúc với người khác. Những cảnh tượng, theo tác giả, mang lại một vẻ đẹp lạ thường.

Nạn quan liêu khiến Pháp điêu đứng

Trong lúc Courrier International chú ý nhiều đến khía cạnh thi vị trong sự thay đổi lối giao tiếp trong xã hội thời ra khỏi phong tỏa, thì Le Point tuần này tập trung làm sáng tỏ những tệ hại của nền quan liêu khiến nước Pháp sa lầy trong đại dịch Covid - 19, không những trong giai đoạn phản ứng đầu tiên, mà đặc biệt trong giai đoạn ra khỏi phong tỏa và phục hồi kinh tế. Điều tra của Le Point đánh giá là chính phủ đã không xác lập được một chính sách rõ ràng, giống như các nền dân chủ châu Á, hay láng giềng Đức. Một nghị sĩ cánh trung ở vùng Haut-Rhin cáo buộc chính phủ bỏ lỡ cơ hội hành động sớm ba tuần, khiến phong tỏa phải kéo dài, gây thiệt hại ước tính 100 tỉ euro.

Ngoài vấn đề thiếu máy trợ thở, thiếu khẩu trang nghiêm trọng, Le Point cũng nêu bật việc nước Pháp thiếu chiến lược xét nghiệm, do thể chế quan liêu nặng nề. Từ năm 2013, các phòng thực nghiệm y sinh về thú y không có quyền sử dụng các sinh phẩm có nguồn gốc người, và ngược lại. Cho dù Viện Hàn Lâm Y Học Pháp lên tiếng phản đối từ sớm, nhưng chỉ đến ngày 05/04 (tức hơn hai tuần sau khi phong tỏa hãm dịch), chính phủ mới dỡ bỏ hạn chế này. Cũng trong thời gian đó, tại Ý hay Đức, đã hoàn toàn không có sự đối lập như vậy. Đây là một trong những nguyên nhân khiến Pháp bị chậm chân trong sản xuất xét nghiệm đại trà. Một ví dụ khác là việc Cơ quan y tế cấp vùng (ARS) trong một thời gian dài đã không cho phép xét nghiệm nhân viên làm việc tại các nhà dưỡng lão (Ehpad). Việc chậm xét nghiệm bị cáo buộc là đã dẫn đến số người nhiễm virus và tử vong cao tại các Ehpad.

Theo Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OCDE), có đến 20% chi phí y tế tại Pháp là ‘‘không cần thiết, gây lãng phí khổng lồ cho công quỹ’'. Theo chủ tịch Liên minh các bệnh viện Pháp (FHF), ông Frédéric Valletoux, nước Pháp cần nhiều đầu tư hơn cho y tế, nhưng cần đầu tư một cách thông minh hơn.

‘‘Hậu trường’’ chiến dịch gỡ phong tỏa: Sứ mạng gần như bất khả

L’Obs tuần này chú ý đến ‘‘những vấn đề trong hậu trường’’ của chiến dịch ra khỏi phong tỏa tại Pháp. Ý tưởng chính của phóng sự điều tra của L’Obs là ‘‘phong tỏa dễ hơn rất nhiều so với việc ra khỏi phong tỏa. Chính quyền hiện nay ý thức rõ đang phải đối mặt với một bài toán vô cùng hắc búa. Phương pháp điều hành xã hội từ trên xuống, bằng uy quyền, sẽ là không đủ, nhưng làm thế nào có thể chinh phục được dư luận, trong lúc khủng hoảng kinh tế đã bắt đầu, và các khiếu kiện nhắm vào chính quyền đang xuất hiện ngày một nhiều?’’. Một nhân vật thân cận với tổng thống giải thích: ‘‘Hiện tại, một kẻ thù chung (dịch bệnh) giúp chúng ta đoàn kết… nhưng đến khi giai đoạn này chấm dứt, điều kinh khủng sẽ xảy ra, các rạn nứt xã hội sẽ bùng lên…’’.

Nhiều nhân vật thân cận với tổng thống Emmanuel Macron coi mục tiêu ra khỏi phong tỏa một cách an toàn, tức không xẩy ra làn sóng lây nhiễm lớn thứ hai, là ‘‘nhiệm vụ bất khả’’. Một trong những nguyên nhân chính là giới khoa học dần dần phát hiện ra rằng một người có thể nhiều lần bị nhiễm virus, trong lúc ''trước đó toàn bộ chiến lược dựa vào khả năng miễn dịch’’. Nhiều người trong giới thân cận với tổng thống Macron đặt niềm tin vào sức mạnh phi thường của vị nguyên thủ, luôn sẵn sàng đối đầu với thách thức.

L’Obs trở lại bài phát biểu lần thứ 4 của tổng thống Emmanuel Macron, ngày 13/04, thu hút gần 37 triệu khán thính giả, điều chưa từng có trong lịch sử truyền hình Pháp. Mười lăm phút trước đó, toàn bộ các bộ trưởng, các nhân vật trọng yếu trong đảng cầm quyền đều không hay biết gì về những đường nét lớn của chiến lược phong tỏa, về ngày bắt đầu ra khỏi phong tỏa (11/05). Theo L’Obs, sau một thời gian dựa hẳn vào hội đồng khoa học, giờ đây vào giai đoạn đặc biệt bất trắc này, tổng thống Macron nhận lãnh trở lại vai trò người ra quyết định cuối cùng. Ngày bắt đầu ra khỏi phong tỏa mà ông đưa ra được coi là sớm hơn nhiều so với dự tính của bộ Giáo Dục. Tuy nhiên, theo L’Obs, cũng chính tổng thống Pháp đã lắng nghe tối đa tư vấn từ các phía, giới chuyên gia, triết gia, trí thức, giới chính trị, lãnh đạo tôn giáo, giới chủ, các nghiệp đoàn… trước khi ra quyết định sau cùng.

Thủ tướng Pháp có hai tuần lễ để thảo ra kế hoạch chi tiết ra khỏi phong tỏa, với 17 chương trình hành động khác nhau do các bộ phụ trách. Những vấn đề thực tế hàng đầu đặt ra là : Mở lại trường học, tổ chức giao thông, tổ chức các không gian làm việc tại doanh nghiệp như thế nào?

‘‘Dân Pháp không bạc ác với thế hệ cao niên!’’

Riêng về chủ đề tỉ lệ tử vong cao tại các trung tâm chăm sóc người cao tuổi sống phụ thuộc (gọi tắt là Ehpad), cũng thường gọi là nhà dưỡng lão, Le Point có bài phỏng vấn cựu nghị sĩ đảng Xã Hội Jérôme Guedj. Cuộc đối thoại được Le Point đánh giá là không có ‘‘vùng cấm’’. Tỉ lệ người chết vì Covid-19 tại các Ehpad rất cao gây bàng hoàng công luận (theo thống kê của bộ Y Tế ngày 23/04, trong số 21.856 người qua đời vì Covid-19, có 8.309 người chết tại các cơ sở y tế-xã hội, trong đó chủ yếu là tại các Ehpad).

Cựu dân biểu đảng Xã Hội nhấn mạnh là cần đặt vấn đề này trong xu hướng lão hóa chung của các quốc gia phát triển. Đến năm 2040, nước Pháp ước tính sẽ có khoảng 4 triệu người trên 85 tuổi. Đây là điều mà nhà bác học Lévi-Strauss từng ví như một trong những biến đổi nhân chủng học lớn lao, để lại những hệ quả ghê gớm, có thể so sánh với thời điểm nhân loại chọn lối sống định cư vào thời kỳ đồ đá mới. Làm thế nào chăm sóc tốt cho sức khỏe những người già cả nhất trong những năm tháng cuối đời là một vấn đề rất lớn của xã hội.

Về số lượng người cao tuổi tử vong tại các nhà dưỡng lão, cựu nghị sĩ Jérôme Guedj cho biết, hàng năm có 150.000 người trên tổng số khoảng 600.000 cụ ông, cụ bà sống trong các Ehpad, ra đi. Trung bình các cụ đến Ehpad với nhiều căn bệnh nặng, và chỉ sống trung bình khoảng hai năm tại đây. Ehpad thường được coi là nơi ở cuối đời của rất nhiều người già tại Pháp. Cựu nghị sĩ Guedij cũng hy vọng là, cuộc khủng hoảng y tế hiện nay là một cơ hội cho thấy cần đầu tư nhiều hơn để cải thiện việc chăm sóc người cao tuổi.

Người Đức giành thắng lợi như thế nào?

Hồ sơ chính của L’Express là về các bài học từ nước Đức. Bài ‘‘Virus corona: Người Đức đã giành thắng lợi như thế nào’’ nhận xét: Trừ phi có một làn sóng dịch thứ hai, có thể nói Đức là quốc gia thành công nhất trong số các nước châu Âu đông dân. Số lượng người chết vì Covid-19 tại Đức chỉ chưa bằng một phần tư tại Pháp (tính đến ngày 21/04) (dưới 5.000 người so với trên 20.000 người tại Pháp), trong lúc cả hai quốc gia gần như đối diện với dịch Covid-19 vào cùng thời điểm.

Về ưu thế của Đức, bác sĩ Gernot Marx, trưởng khoa hồi sức, bệnh viện Aix-la-Chapelle, nhận xét: Trên thực tế, ngành y tế Pháp và Đức có thể nói có chất lượng gần giống như nhau, vấn đề tạo sự khác biệt là quyết định chính trị của chính phủ Đức. Berlin đã mau chóng nhận ra vai trò quyết định của xét nghiệm nhanh. Ngay từ giữa tháng Giêng, tức chỉ ít ngày sau khi có những thông tin đầu tiên về dịch tại Trung Quốc, một ê-kíp của Bệnh viện Đại học nổi tiếng Charité (Berlin) đã bắt tay chế tạo loại xét nghiệm này.

L’Express cũng thừa nhận nước Đức cũng có nhiều điểm yếu tương tự như Pháp, ví dụ như trong vấn đề phụ thuộc vào Trung Quốc về khẩu trang, cũng như đang trong quá trình cải tổ hệ thống bệnh viện, với khả năng sẽ giảm mạnh số lượng bệnh viện trên toàn quốc, để giảm chi phí. Tuy nhiên, người Đức đã tỏ ra có hiệu quả hơn trong đại dịch này, và chính đại dịch Covid-19 cũng là một cơ hội để người Đức trở lại nhìn nhận lại các giá trị của một hệ thống y tế, đã được đặt nền móng từ cuối thế kỷ XIX, dưới thời thủ tướng Bismarck, để xem xem những gì nên giữ, những gì nên bỏ.

Nguồn: http://www.rfi.fr/vi/%C4%91i%E1%BB%83m-b%C3%A1o/20200425-%C4%91%E1%BA%A1i-d%E1%BB%8Bch-covid-19-trung-qu%E1%BB%91c-v%C3%A0-hi%E1%BB%87u-%E1%BB%A9ng-g%E1%BA%ADy-%C3%B4ng-%C4%91%E1%BA%ADp-l%C6%B0ng-%C3%B4ng
0

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

COVID-19 hình thành các xu hướng mới trong trật tự toàn cầu?

Theo Bộ phận dự báo, phân tích và tư vấn rủi ro (EIU) trực thuộc Tập đoàn The Economist (Anh), đại dịch viêm đường hô hấp cấp (COVID-19) sẽ không tạo ra một trật tự toàn cầu hoàn toàn mới nhưng sẽ mang đến những thay đổi ở ba khía cạnh quan trọng.


Thứ nhất, bộc lộ những thực tế mà trước nay chưa được quan tâm đúng mức như việc Trung Quốc đã thiết lập phạm vi ảnh hưởng của mình tại nhiều khu vực trên thế giới mà trước kia nhiều nước không để ý.
Thứ hai, đẩy nhanh các xu hướng địa chính trị hiện nay, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược ngày càng căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc cũng như sự dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông.

Thứ ba, COVID-19 có khả năng là chất xúc tác cho những thay đổi khó dự đoán hiện nay tại cả những nước phát triển và đang phát triển về những vấn đề như tương lai của Liên minh châu Âu (EU), vai trò của Nga và các cường quốc tầm trung khác.

Lịch sử đã chứng minh các cuộc khủng hoảng thường góp phần làm gia tăng cạnh tranh quyền lực toàn cầu. Cuộc khủng hoảng do COVID-19 gây ra đã và đang làm trầm trọng thêm mối quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Rất khó có khả năng những đổ vỡ hiện tại trong mối quan hệ giữa hai bên sẽ được hàn gắn trong thời gian ngắn. Dịch bệnh sẽ làm gia tăng các mâu thuẫn cơ bản giữa Mỹ và Trung Quốc, phá vỡ sự hòa hoãn tạm thời giữa hai bên sau thỏa thuận thương mại giai đoạn một được ký kết hồi đầu năm nay. Ngay cả trong thời điểm dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp, căng thẳng và nguy cơ đối đầu giữa hai bên tại Biển Đông vẫn gia tăng. COVID-19 không phải là nguyên nhân tạo ra những khó khăn mới trong quan hệ Mỹ-Trung mà chỉ thúc đẩy thêm những xu hướng đã hiện hữu từ nhiều năm qua khi hai nước cạnh tranh ảnh hưởng kinh tế và chính trị toàn cầu.

Bên cạnh những căng thẳng truyền thống là cuộc chiến "tung tin xuyên tạc" để công kích lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc. Trung Quốc đang tìm cách chối bỏ trách nhiệm của nước này về việc để bùng phát dịch bệnh bằng cách phát tán những thông tin nhiễu loạn và các thuyết âm mưu khác nhau. Trong khi đó, Mỹ đáp trả bằng cách quy kết trực tiếp trách nhiệm cho Trung Quốc, trong đó có việc gọi tên "virus Vũ Hán" hoặc "virus Trung Quốc". Trong cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng quốc tế về thông tin và dư luận, Trung Quốc nhấn mạnh vào sự so sánh tương phản giữa "hiệu quả" của họ trong việc khống chế dịch bệnh của nước này so với "sai lầm" trong mô hình dân chủ của Mỹ và phương Tây.

Đại dịch sẽ thúc đẩy sự dịch chuyển cán cân quyền lực toàn cầu từ Tây sang Đông thông qua những tác động tiêu cực sâu rộng và để lại hậu quả lâu dài đối với các nền kinh tế phát triển của Mỹ và châu Âu. Những biện pháp tài chính và tiền tệ mà những nước này đã và đang đưa ra để hỗ trợ nền kinh tế chưa chắc đã đủ để đảo ngược tác động tiêu cực của dịch bệnh, trong khi chắc chắn sẽ làm gia tăng nguy cơ khủng hoảng nợ công về trung hạn. Trong khi đó, Trung Quốc lại được hưởng lợi khi là một trong những nước đầu tiên vượt qua khủng hoảng nên có điều kiện tập trung nguồn lực vực dậy nền kinh tế. Trung Quốc sẽ càng có thêm khả năng trở thành một siêu cường toàn cầu lớn hơn sau khủng hoảng.

Chắc chắn đại dịch sẽ ít nhiều làm dấy lên những nghi ngại từ nhiều nước về sự lệ thuộc vào các chuỗi cung ứng từ Trung Quốc cũng như trách nhiệm của nước này khi không có những bước đi phù hợp trong giai đoạn đầu của dịch bệnh. Tuy nhiên, những điều này sẽ khó tác động đến vị thế của Trung Quốc như một siêu cường có tầm ảnh hưởng lớn hơn sau đại dịch. Hiện Trung Quốc đang cố sức khắc phục những tổn hại về uy tín và hình ảnh trong giai đoạn đầu của dịch bệnh, thông qua hỗ trợ y tế cho các nước và khu vực khác trên thế giới. Trung Quốc cũng sẽ tìm cách khoét sâu vào những hạn chế của Mỹ trong phản ứng đối với đại dịch. Quan hệ của Trung Quốc với Mỹ và châu Âu chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Tuy nhiên, nhiều khả năng cuộc khủng hoảng do COVID-19 gây ra sẽ chỉ càng làm bộc lộ rõ hơn những khu vực ảnh hưởng đã định hình của Trung Quốc tại châu Phi, khu vực Đông Âu, Mỹ Latinh và Đông Nam Á. Lúc này Trung Quốc lại càng có cơ hội mở rộng ảnh hưởng của mình thông qua cung cấp viện trợ về y tế và tài chính, trang thiết bị cho các nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh. Chẳng hạn, Trung Quốc đang thiết lập một "Vành đai và Con đường" về y tế tại một số nước châu Phi, vừa để củng cố hình ảnh và quyền lực "mềm" trên phạm vi toàn cầu, vừa để bảo vệ các lợi ích kinh tế và an ninh của nước này tại châu Phi. Các khu vực ảnh hưởng mới thiết lập của Trung Quốc sẽ trở thành những "đấu trường" mới cho cạnh tranh và xung đột nước lớn giữa Trung Quốc với Mỹ và các đồng minh.

Chính sách "Nước Mỹ trước tiên" của Tổng thống Mỹ Donald Trump cho thấy sự suy giảm sức mạnh toàn cầu của Mỹ bởi nhiều quốc gia ngày càng cho rằng nước này không còn là một đối tác đáng tin cậy cho dù trên thực tế, Mỹ vẫn là siêu cường toàn cầu về sức mạnh kinh tế và quân sự. Tuy nhiên, việc Mỹ rút khỏi trường quốc tế đã và đang tạo cơ hội cho Trung Quốc lấp vào những khoảng trống nhất định, đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh càng khiến Mỹ tập trung nguồn lực và sự chú ý vào trong nước. Nếu đánh giá thấp sức mạnh và ảnh hưởng lãnh đạo của Mỹ thì sẽ là một sai lầm. Hơn lúc nào hết, Mỹ đang ý thức rất rõ những tham vọng, toan tính của Trung Quốc và chắc chắn sẽ đáp trả.

Thất bại trong việc triển khai một phản ứng toàn châu Âu đối với khủng hoảng và xu hướng mỗi nước thành viên tự lo cho người dân của họ đã giáng một đòn mạnh vào EU. Các nước thành viên EU không hành động thống nhất và phối hợp khi khủng hoảng nổ ra mà hành động đơn phương, đóng cửa biên giới, ngừng đi lại tự do và dừng các quan hệ giao thông vận tải mà không có sự phối hợp. Mức độ chia rẽ và thiếu đoàn kết của châu Âu được phơi bày rất rõ ràng khi lời kêu gọi trợ giúp của Ý lúc đầu bị nhiều nước châu Âu khác phớt lờ, thậm chí có nước còn ngăn chặn xuất khẩu thuốc men và trang thiết bị y tế, cho phép Trung Quốc "nhảy vào" cung cấp viện trợ và qua đó củng cố thêm ảnh hưởng toàn cầu của nước này. Sau đó, EU đề nghị hỗ trợ một cách muộn màng cho các thành viên EU gặp khó khăn cũng như các nước thành viên có nhu cầu khác ở Tây Balkan nhưng khi đó thì "sự đã rồi". Tình trạng chia rẽ cùng tâm lý oán giận đã hình thành và sẽ tồn tại dai dẳng. Dịch bệnh càng lan rộng càng thúc đẩy sự chia rẽ trong lòng châu Âu, giữa phía Bắc và phía Nam, phía Đông với phía Tây. Tiếp sau các cuộc khủng hoảng nợ, nhập cư và Anh rời khỏi EU (còn được gọi là Brexit), cuộc khủng hoảng COVID-19 sẽ càng khiến EU suy yếu.

Những cường quốc khu vực như Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và các nước khác trong những năm gần đây đã tìm cách khai thác sự đổ vỡ của trật tự toàn cầu "sân sau" của họ. Đối với những nước này, đại dịch được xem như cơ hội để thúc đẩy sự hiện diện khu vực và toàn cầu. Nga đã gửi viện trợ y tế cho Ý trên những chuyến bay gắn dòng chữ "Từ nước Nga yêu thương", trong khi EU và các đối tác truyền thống khác chưa kịp hỗ trợ. Nga cũng đã thông báo sẽ gửi thiết bị y tế cho Mỹ. Tất nhiên trong thời điểm hiện tại, một số cường quốc khu vực như vậy cũng bị tác động bởi dịch bệnh nên khả năng mở rộng ảnh hưởng của họ cũng sẽ bị cản trở về ngắn hạn. Tuy nhiên, về lâu dài, dịch bệnh sẽ càng thúc đẩy sự phân rã và hình thành các xu hướng mới trong trật tự toàn cầu theo hướng có lợi cho nhóm các cường quốc mới nổi như Trung Quốc, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ.

Theo Bộ phận dự báo, phân tích và tư vấn rủi ro (EIU)

Theo: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-quoc-te/69-nghien-cu-quc-t/7457-covdi-19-hinh-thanh-cac-xu-huong-moi-trong-trat-tu-toan-cau
0

Sự sụp đổ của thị trường dầu mỏ thế giới

Đại dịch COVID-19 và một cuộc chiến về giá đã đẩy các thị trường năng lượng thế giới rơi vào khủng hoảng. Trong lịch sử, thị trường dầu mỏ toàn cầu chưa bao giờ sụp đổ đột ngột như hiện nay.


Nền công nghiệp dầu khí, cung cấp hơn 60% năng lượng cho toàn thế giới, đã chìm trong một cuộc khủng hoảng kép mà có lẽ chưa ai từng nghĩ có thể xảy ra vào đầu năm nay. Một cuộc chiến giá cả, trong đó các quốc gia sản xuất dầu mỏ tranh giành thị phần, đã dẫn đến việc thị trường này bị tổn hại nặng nề khi vấp phải một cuộc khủng hoảng lớn hơn do dịch COVID-19 gây ra và sắp tới nhiều khả năng sẽ là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Điều đó sẽ dẫn tới nhu cầu của thị trường giảm mạnh chưa từng thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào kể từ khi dầu mỏ trở thành mặt hàng toàn cầu. Giá dầu đã giảm 2/3 kể từ đầu năm 2020 và sẽ còn tiếp tục lao dốc. Chỉ trong tháng 4, mức giảm tiêu thụ của toàn cầu gấp 7 lần so với mức giảm sâu nhất tính theo quý sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Ở những khu vực không còn khả năng chứa dầu và mất thị trường, giá của một thùng dầu có thể giảm xuống mức bằng 0.

Sự sụp đổ này sẽ gây ra tình trạng bất ổn ở những nước xuất khẩu dầu và góp phần dẫn đến sự hỗn loạn của các thị trường tài chính. Điều đó cũng sẽ khiến môi trường địa chính trị vốn đã căng thẳng phức tạp thêm, kể cả bằng cách lôi kéo nước Mỹ vào một cuộc tranh cãi quốc tế về các giải pháp cần thực hiện để phục hồi đống đổ nát này. Tháng 2/2020, sản lượng dầu của Mỹ đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, với 13,2 triệu thùng/ngày - cao hơn đáng kể so với sản lượng của các nước sản xuất dầu mỏ hàng đầu khác trên thế giới là Saudi Arabia và Nga. Nhờ cuộc cách mạng dầu khí đá phiến với sự hỗ trợ của các kỹ thuật khai thác mới, nước Mỹ đã đạt được kỷ lục đó sau một thập kỷ đi lên từ một nước nhập khẩu dầu lớn nhất trở thành một nước xuất khẩu dầu lớn thế giới.

Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng đã bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt đó. Mặc dù từ lâu ông Trump ủng hộ giá dầu ở mức thấp - và từng nhanh chóng đăng dòng tweet phản đối Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và những nỗ lực quản lý nguồn cung toàn cầu trong những năm gần đây - nhưng cú sụp đổ lần này lại châm ngòi cho một thực tế trái ngược. Tổng thống Mỹ gần đây đã có cuộc điện đàm với người đồng cấp Nga Vladimir Putin để thảo luận về các giải pháp có thể có nhằm ngăn chặn cái mà sau đó ông gọi là sự sụt giảm gây tổn hại. Sau đó, ông Trump đã điện đàm với Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman, tuyên bố rằng các nước sản xuất dầu mỏ lớn đang xem xét phối hợp cùng nhau cắt giảm đáng kể sản lượng. Saudi Arabia đã triển khai những vấn đề được thống nhất trong cuộc điện đàm trên bằng việc tái triệu tập một cuộc họp của OPEC cùng với các nước chủ chốt trong lĩnh vực dầu mỏ, gồm Canada và Mexico. Tất cả những điều này đã làm cho giá dầu tăng trở lại mặc dù những yếu tố “khi nào”, “như thế nào” và “do ai” của thoả thuận tiềm năng trên vẫn còn chưa rõ ràng. Và càng nhiều đối tượng tham gia thì việc triển khai một thoả thuận sẽ càng trở nên khó khăn hơn.

Bản chất và phạm vi rộng lớn của sự sụp đổ và cuộc tranh giành địa chính trị hiện nay do nó tạo ra là những thách thức hiếm thấy đối với nước Mỹ và ngành năng lượng của nước này. Những thách thức này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế và chính sách đối ngoại của Mỹ trong một thời khắc vốn đã tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ.

Hồi kết của một trật tự mới trong ngành dầu mỏ

Cũng giống như rất nhiều ngành công nghiệp khác, tình trạng khó khăn trong các thị trường dầu mỏ là do đại dịch COVID-19 gây ra. Nhưng riêng trường hợp dầu mỏ, tình trạng khó khăn đó xuất hiện cùng với bước ngoặt về địa chính trị.

Đợt sụt giảm giá dầu gần đây nhất, bắt đầu từ năm 2014 do hậu quả của một đợt dư thừa nguồn cung, cuối cùng cũng đã kết thúc vào năm 2016 với sự xuất hiện của một trật tự dầu lửa quốc tế mới – Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ mở rộng (OPEC+). Đây là một thoả thuận giữa 11 thành viên OPEC và 10 nước không thuộc OPEC nhằm thống nhất về việc cắt giảm sản lượng để ổn định một thị trường đang trên đà sụt giảm. Đôi khi người ta gọi đó là Liên minh Vienna bởi đây là địa danh ký kết thoả thuận này, OPEC+ được thiết lập dựa vào liên minh không chính thức giữa Saudi Arabia và Nga sau khi 2 nước sản xuất dầu lớn nhất vào thời điểm đó đạt được thoả thuận hợp tác. Việc liên minh trên được thành lập cũng đã mở đường cho một mối quan hệ chiến lược, đem lại cho Nga cơ hội xây dựng quan hệ với một trong những đồng minh quan trọng nhất của Mỹ ở Trung Đông và cũng để Nga thu hút đầu tư từ Saudi Arabia. Đối với Saudi Arabia, đó là một con đường để mặc cả trong mối quan hệ với Mỹ và đạt được lợi thế đòn bẩy nào đó trong cuộc giằng co với Iran.

Tuy nhiên, giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng COVID-19, đợt bùng phát ở Trung Quốc trong tháng 1 và tháng 2 vừa qua, đã làm lung lay mối liên minh không chính thức trên. Trung Quốc, thị trường dầu mỏ tăng trưởng nhanh nhất thế giới đột nhiên bị đóng cửa. Thay vì tăng trưởng như kỳ vọng, nhu cầu dầu mỏ của thế giới đã lao dốc chưa từng thấy với mức giảm 6 triệu thùng/ngày trong quý I/2020.

Đầu tháng 3 vừa qua, trong và xung quanh các hội nghị của OPEC và OPEC+ ở Vienna, Saudi Arabia và Nga đã bắt đầu các cuộc thảo luận về cách ứng phó. Nhưng các nước nhanh chóng nhận ra rằng họ có quan điểm rất khác biệt. Ngân sách của Nga được tính toán dựa trên mức giá dầu tương đối thấp, khoảng 42 USD/thùng. Trong khi đó, theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Saudi Arabia cần một mức giá cao hơn, khoảng 80 USD/thùng để cân đối ngân sách của mình. Theo đó, Saudi Arabia cần những đợt cắt giảm sản lượng sâu hơn nhằm cố gắng thiết lập mức giá sàn; trong khi đó Nga tuy tỏ ra không chắc chắn nhưng giả định rằng tác động của COVID-19 nhiều khả năng sẽ lớn hơn rất nhiều và sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu trên toàn thế giới, nên yêu cầu duy trì thoả thuận đã có cho đến tháng 6 và sau đó sẽ đàm phán tiếp.

Saudi Arabia khăng khăng muốn cắt giảm sản lượng, Nga thì một mực nói không. Và thế là liên minh OPEC+ rạn nứt.

Mở van

Phản ứng tức thì của Saudi Arabia đối với tình trạng rạn nứt trong liên minh là tuyên bố rằng do không đạt được thoả thuận cắt giảm sản lượng với tất cả các nước khai thác dầu mỏ khác, nên nước này sẽ hoạt động hết công suất. Quốc gia này đã bắt đầu bơm dầu với công suất tối đa, hướng tới mục tiêu tăng thêm 2,5 triệu thùng vào sản lượng 9,7 triệu thùng mà nước này đang khai thác mỗi ngày. Sản lượng tăng thêm là để bù đắp khoản thâm hụt doanh thu do giá dầu giảm. Nga phản ứng lại bằng việc tuyên bố rằng nước này cũng sẽ khai thác hết công suất, nhưng năng lực để tăng sản lượng của nước này thấp hơn nhiều, với gần 300.000 thùng/ngày. Cuộc chiến giành thị phần đã bắt đầu như vậy.

Tuy nhiên, trong khi giá cả đang lao dốc không phanh, sự bùng phát dịch COVID-19 đang chuyển sang giai đoạn hai, với sức tàn phá lớn hơn - giai đoạn đại dịch toàn cầu. Việc đóng cửa gần như toàn bộ nền kinh tế thế giới đã gây ra sự sụp đổ về nhu cầu ở phạm vi toàn cầu chưa từng thấy trong lịch sử. Vào tháng 4, mức sụt giảm có thể lên đến 20 triệu thùng/ngày hoặc nhiều hơn, tương đương với khoảng 20% tổng cầu của thế giới.

Ngay cả khi nhu cầu giảm mạnh, dầu vẫn được hút ra khỏi giếng; nếu không được chuyển đến khách hàng thì phải được đưa đi nơi khác, điều đó có nghĩa là lượng dầu dư thừa sẽ được đưa vào kho dự trữ, chủ yếu là bể chứa ở khắp thế giới. Dựa trên thông số theo từng quốc gia, IHS Markit tính toán rằng kho chứa dầu thế giới sẽ được đổ đầy vào cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Khi điều này xảy ra, sẽ có hai hậu quả: giá dầu sẽ tụt dốc và nhà sản xuất sẽ đóng cửa các giếng dầu bởi họ không thể vứt bỏ số dầu đã khai thác.

Do tính chất của các mỏ dầu ở mỗi nước nên Nga và Saudi Arabia có khả năng sản xuất dầu với chi phí rẻ hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Ở những nước có chi phí khai thác dầu đắt hơn, khi giá mỗi thùng dầu bán được thấp hơn chi phí vận hành các giếng dầu, thì một công ty không thể tiếp tục khai thác mà không chịu lỗ trên mỗi thùng dầu. Vào thời điểm đó, công ty sẽ tạm thời đóng cửa giếng dầu. Trong số đó, dầu đá phiến của Mỹ sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất.

Kết quả là nhiều khả năng Mỹ sẽ phải từ bỏ thị phần trên thị trường toàn cầu vào tay nước khác. Theo Igor Sechin, CEO của Rosneft (tập đoàn sản xuất 40% sản lượng dầu ở Nga) và là người phản đối thoả thuận OPEC+ năm 2016: “Nếu bạn từ bỏ thị phần, thì bạn sẽ không bao giờ lấy lại được”. (Đối với một số người ở Moskva, đây là điều đáng mừng, vì họ coi sự phát triển của ngành khai thác dầu đá phiến của Mỹ đồng nghĩa với việc trao cho nước này quyền tự do áp đặt các lệnh trừng phạt đối với lĩnh vực năng lượng của Nga, như những lệnh trừng phạt được đưa ra vào tháng 12/2019 đã khiến việc xây dựng đường ống dẫn dầu Dòng chảy phương Bắc 2 từ Nga sang Đức tạm ngừng ngay trước khi nó được hoàn thành).

Các doanh nghiệp sản xuất dầu đá phiến của Mỹ đang phải chịu áp lực. Những công ty này đã cắt giảm ngân sách, đồng thời giảm hoặc dừng cả việc khoan dầu. (Với dầu đá phiến, các nhà sản xuất phải khoan những giếng dầu mới để duy trì sản lượng). Theo ước tính của IHS Markit, sản lượng của Mỹ có thể giảm gần 3 triệu thùng/ngày vào cuối năm nay. Nếu điều đó xảy ra, Mỹ sẽ vẫn là một nước khai thác dầu lớn, nhưng vẫn còn kém xa Nga và Saudi Arabia và lượng nhập khẩu sẽ tăng. Theo phân tích của IHS Markit, xét đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng dầu đá phiến đối với nền kinh tế Mỹ, thiệt hại về kinh tế đối với nước này sẽ ở mức cao, tổng thiệt hại có thể lên đến 2,5 triệu việc làm.

Một thị trường bị quá tải

Liệu có cách nào để ổn định thị trường toàn cầu hay không? Việc kết thúc cuộc chiến thị phần sẽ làm giảm thặng dư nguồn cung chảy vào thị trường, giảm bớt một phần áp lực nào đó và có tác động tích cực đối với tâm lý thị trường. Đó là một trong những yếu tố để định giá. Điều này sẽ chỉ giải quyết một phần của vấn đề dư thừa nguồn cung, nhưng là một phần có vai trò quan trọng.

Điều quan trọng là cách thức đạt được sự cân bằng đó. Saudi Arabia có một nền tảng đặc biệt để thúc đẩy một giải pháp giải như thế, bởi nước này là chủ tịch của G20 trong năm nay, một diễn đàn của các nền kinh tế lớn trên thế giới nhằm giải quyết và tìm ra phương sách giải quyết các vấn đề kinh tế quốc tế. Trong cuộc khủng hoảng 2008-2009, G20 có chức năng như một ban giám đốc điều hành nền kinh tế thế giới. Nhưng đó là một kỷ nguyên mang tính hợp tác nhiều hơn.

Mỹ có những hạn chế nhất định trong khả năng hành động. Hiện nay, các thành viên quốc hội nước này, những người thường ủng hộ các thoả thuận vũ khí với Riyadh, muốn gắn toàn bộ mối quan hệ Mỹ-Saudi Arabia với chính sách dầu lửa quốc tế: 13 Thượng nghị sỹ đảng Cộng hoà của các bang sản xuất dầu đã viết thư cho Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman bày tỏ sự bất bình đối với cái mà họ gọi là chính sách của Saudi Arabia nhằm “giảm giá dầu thô và tăng năng suất khai thác”; 6 nghị sỹ trong số đó, bao gồm chủ tịch Ủy ban quân lực Thượng viện, sau đó đã đưa ra một lá thư thẳng thắn hơn, cho rằng quan hệ quốc phòng Mỹ-Saudi Arabia sẽ khó có thể duy trì nếu trình trạng hỗn loạn và khó khăn trên chủ ý nhắm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trực tiếp nhắc đến cơ hội duy nhất để Saudi Arabia “xoa dịu các thị trường năng lượng và tài chính toàn cầu”.

Trong nội bộ nước Mỹ, chính phủ chỉ có một bộ công cụ hạn chế. Không giống với Riyadh và Moskva, Washington không thể áp đặt hạn mức sản xuất đối với các công ty khai thác dầu. Nước này cũng không thể lựa chọn đưa gần 700.000 thùng dầu mỗi ngày vào kho dự trữ xăng dầu chiến lược, đồng thời Mỹ sẽ cần quốc hội phê chuẩn để cấp ngân sách cho việc đó. Gói kích thích kinh tế trị giá 2.000 tỷ USD được đưa ra mới đây không bao gồm khoản ngân sách 3 tỷ USD cần chi cho việc này. (Nhiều khả năng, 3 tỷ USD đó sẽ là một khoản đầu tư rất tốt cho chính phủ, có khả năng nhân đôi giá trị khi giá dầu phục hồi trong vài năm tới).

Thẩm quyền điều tiết sản lượng dầu thuộc về các bang, đáng chú ý nhất là Ủy ban Đường sắt Texas, mặc dù có tên như vậy nhưng cơ quan này lại kiểm soát sản lượng dầu của bang - chiếm 40% tổng sản lượng của nước Mỹ. Ủy ban này có thẩm quyền cắt giảm sản lượng khai thác từ các giếng dầu căn cứ vào lý do phòng chống lãng phí, nhưng lần gần đây nhất cơ quan này sử dụng thẩm quyền đó là cách đây nửa thế kỷ. Hiện nay, bất kỳ một nỗ lực nào cho cái gọi là “phân bổ sản lượng theo tỷ lệ” có thể sẽ được một số doanh nghiệp ủng hộ trong khi những doanh nghiệp khác lại phản đối. Bên ngoài nước Mỹ, điều đó sẽ được hiểu là một tín hiệu rằng các nước khác cũng nên thực hiện việc cắt giảm sản lượng.

Trong bối cảnh phần lớn nền kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn, cuộc khủng hoảng dầu mỏ sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những tuần tới, đồng thời, người ta sẽ cảm nhận được thiệt hại không chỉ trong ngành công nghiệp này. Khi giá giảm và các kho dự trữ đầy lên, hoạt động sản xuất trên thế giới sẽ sụt giảm nghiêm trọng. Một phần có lẽ là hậu quả của dịch COVID-19 và tình trạng gián đoạn hoạt động sản xuất ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Một phần là do quyết định của các nước, bất chấp việc chúng ta đang sống trong một nền chính trị thế giới đầy hỗn loạn. Tuy nhiên, phần lớn sự sụt giảm là do một thị trường chịu tổn thất nặng nề do dịch COVID-19 và tình trạng đóng cửa của nền kinh tế thế giới.

Daniel Yergin là phó chủ tịch của IHS Markit. Bài viết được đăng trên tạp chí Foreign Affairs
0

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

Mỹ điều hai tàu chiến ra Biển Đông, nghi áp sát nơi tàu Hải Dương địa chất 8 hoạt động

(21/04/2020)- Hải quân Mỹ ngày 21-4 xác nhận điều hai tàu chiến ra Biển Đông, trong khi ba nguồn tin của Reuters nói các tàu này hoạt động gần khu vực diễn ra sự "đối đầu" giữa Trung Quốc và Malaysia.


ộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ ngày 21-4 thông báo tàu USS America đang tiến hành các hoạt động bay ở Biển Đông - Ảnh: Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương

Hồi tuần trước, tàu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa chất 8 đã bị phát hiện tiến hành khảo sát gần khu vực tàu thăm dò do công ty dầu mỏ quốc doanh của Malaysia Petronas đang hoạt động.

Đây là đợt khảo sát giống với những gì Trung Quốc đã làm ở vùng biển Việt Nam hồi năm 2019.

Vụ khảo sát gần Petronas trên đã khiến Mỹ lên tiếng, kêu gọi Trung Quốc ngừng "thái độ bắt nạt" trên các vùng biển tranh chấp, cho rằng Bắc Kinh đã hành động khiêu khích nhắm vào các hoạt động dầu khí xa bờ nơi đây.

Trong động thái mới nhất, bà Nicole Schwegman, phát ngôn viên Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ, ngày 21-4 cho biết tàu tấn công đổ bộ USS America và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đã được triển khai ở Biển Đông.

"Thông qua sự hiện diện liên tục ở Biển Đông, chúng tôi đang nỗ lực… thúc đẩy tự do hàng hải và hàng không, và nguyên tắc quốc tế vốn làm nền tảng an ninh và thịnh vượng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Mỹ ủng hộ các nỗ lực của đồng minh và đối tác trong việc quyết định lợi ích kinh tế của riêng mình", bà Schwegnan viết trong một tuyên bố bằng email gửi Reuters.

Chuẩn đô đốc Fred Kacher, chỉ huy nhóm tác chiến viễn chinh USS America, nói với Reuters rằng lực lượng của ông đã liên lạc với hải quân Trung Quốc ở Biển Đông trong tuần này.

Ông Kacher nói: "Mọi tương tác của chúng tôi tiếp tục được thực hiện an toàn và chuyên nghiệp với Trung Quốc".

Chuẩn đô đốc này không nói chính xác vị trí các tàu Mỹ đang hoạt động, nhưng các nguồn tin an ninh cho rằng tàu Mỹ đang gần khu vực Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc và tàu khoan West Capella của Petronas (Malaysia). Reuters cho biết các nguồn tin này từ chối nêu tên do không được phép phát biểu trước báo chí.

Trong thời gian qua, tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 đã quay lại Biển Đông và được cho xảy ra tình trạng đối đầu với Malaysia.

Tuy nhiên khi Reuters hỏi về vụ "đối đầu" ấy, Trung Quốc đã bác bỏ thông tin, khẳng định tàu Hải Dương Địa chất 8 đang "tiến hành các hoạt động bình thường".

Một bản fax từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc trả lời Hãng tin Reuters viết: "Cái gọi là ‘đối đầu’ trên biển mà các anh đề cập không hề diễn ra".

Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Malaysia lẫn Petronas đều chưa có phản hồi các câu hỏi liên quan.

Nguồn: Tuổi Trẻ
0

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

Đại dịch COVID-19 đã làm thay đổi vĩnh viễn tất cả chúng ta

Rồi đây, khi vượt qua dịch COVID-19 hay phải chung sống với nạn dịch này, mỗi người trong chúng ta dù địa vị, tuổi tác, trình độ, giới tính, màu da, dân tộc có thể khác nhau nhưng chắc sẽ chung một suy nghĩ, đánh giá, thậm chí đến nhận thức rằng: COVID-19 làm THAY ĐỔI tất cả.


Khác với những gì trước đó, có những thứ sẽ mất đi, nhưng có những điều sẽ sinh ra trong và sau dịch, để cân đong sự được mất là khó, càng không khả thi khi lượng hóa những biến chuyển này. Khi diễn biến dịch còn phức tạp, những đánh giá, dự báo thay vì hàng năm, hàng tháng, thì có đến hàng ngày, hàng giờ.

Do vậy, nói gì, viết gì cho thời gian tới, có thể còn sớm, nhưng biên lại những gì đang diễn ra từ trạng thái tâm lý của người trong cuộc lúc này cũng chính là cách ta suy nghĩ về nó – về thứ đang làm thay đổi thế giới.

Những con số ca bệnh mới, số người chết, số người được chữa khỏi, tâm dịch, khu vực cách ly, Fo, F1, F2, dương tính, âm tính… không chỉ là những thống kê đơn thuần của ngành y tế, chính quyền, được cập nhật, còn là thông tin quan tâm đến độ từ người bán rau, bán hoa, bác đạp xích lô, chị nhặt ve chai… đến những người chủ doanh nghiệp, từ những công nhân cặm cụi, miệt mài trong các dây chuyền sản xuất tưởng chỉ biết đưa cái này vào, lấy cái kia ra… đến các công chức bàn giấy đều thạo tin về COVID-19.

Toang rồi… cư dân mạng bất kể ngày đêm tương tác với nhau, thật, giả lẫn lộn, bình luận, trạng thái, chia sẻ, bày tỏ thái độ về nhân vật, diễn biến dịch…hầu hết như những người chứng kiến tận mắt, đến tận nơi.

Sang trang mới, đúng là sang trang mới với học sinh và không chỉ là học sinh còn là giáo viên, nhà trường, phương pháp dạy học, cách thức học, còn là gia đình với môi trường tưởng chừng như trên giấy nay đã thành thực tế gia đình chính là trường học. Từ tin nghỉ học tuần này, nghỉ học đến tuần sau, đến lúc ít quan tâm đến ngày nào đến trường mà bao giờ kết thúc năm học, thi kiểu gì… như là bài toán mà đáp số đang còn nhiều nghiệm.

Với lúc đầu khi dịch đến tưởng chừng những ngành du lịch, dịch vụ, hàng không… bị ảnh hưởng trực tiếp, các tập đoàn, doanh nghiệp lớn kiến nghị các chính sách tháo gỡ khó khăn giảm, miễn, giãn thuế… các gói hỗ trợ tưởng chừng dành cho ngành mình. Đến nay, hình như sự quan tâm lại từ những điều hết sức bình dị, đời thường như người hướng dẫn viên mai chưa biết làm gì, bác bán vé số chiều nay sẽ ăn gì, anh chạy xe ôm tối nay sẽ ngủ ở đâu,… những mảnh đời, cảnh đời thời COVID-19, sự khó khăn dường như đang đi vào và đi ra từ chính những ngõ, hẻm.

Tâm lý xã hội ngờ vực, hoang mang, tự tin, hi vọng, với diễn biến xúc cảm phụ thuộc vào tình hình dịch COVID-19.

Những cử chỉ gần gũi thân thương, giao tiếp đã có từ ngàn đời, gấm vào máu, như là thành trì tưởng chừng chỉ có thể chia cắt bởi cái chết như cái ôm, nụ hôn, cái bắt tay đến nay đã chuyển thành những ánh mắt thay điều muốn nói, giãn cách xã hội, giữ khoảng cách 2 mét như một đơn vị tính hữu hình mà vô hình, không chỉ là mệnh lệnh hành chính, có những lúc nó xuất hiện như là bản năng. Liệu COVID-19 có thể hình thành một phương thức giao tiếp mới hay hơn nữa là văn hóa giao tiếp mới hay không ? chưa có câu trả lời chắc chắn, phải chăng phụ thuộc vào thời gian dịch?

Đến cả số phận, nghi thức thiêng liêng của mỗi con người thường chỉ được một lần là sự sinh ra, hôn nhân, cái chết, nay thời COVID-19 đều khác. Chưa bao giờ sự chứng kiến thời khắc thiêng liêng đó của mỗi đời người lại thay đổi đến như thế. Thay vì sự loan báo, chia sẻ đến nhiều người bằng phương thức trực tiếp có từ lâu đời hàng ngàn năm và lâu hơn thế nữa, chưa thể biết chính xác được, mà nay, có nơi nếu hôn nhân phải đến không dừng được thì chỉ có vài người thân chứng kiến, hay những đám tang ngoài người nằm trong hòm và nhân viên tang lễ là trực tiếp, không có cả người thân bên cạnh, còn lại người dự được chia sẻ, tương tác qua các công cụ của mạng xã hội.

Hằng đêm, cũng có những người tâm sự với bạn COVID-19, hỏi bạn sinh ra từ đâu, bạn oán thoán, giận dữ gì mà muốn tìm đến không từ một ai, một quốc gia nào… những câu hỏi, sẻ chia được tâm sự như hỏi chính mình, hỏi về những ứng xử của con người với tự nhiên với đất mẹ, những câu hỏi mà sự trả lời không dừng ở một khoảng thời gian, một thế hệ hay một quốc gia.

Thế giới đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, có những quốc gia như Việt Nam đã từng sống trong trạng thái xã hội thời chiến, thấm thía những giá trị, nâng niu từng giây phút của hòa bình. Nay vì COVID-19, “Chống dịch như chống giặc” có nơi không khí của “thời chiến” như trở về mặc dù không bom rơi, đạn nổ. Sự dò xét, cảnh giác…ánh mắt…cử chỉ…xuất hiện từ những con ngõ đến những đô thị lớn, âu cũng là trạng thái bắt buộc, cần có!

Cũng như trong những lúc khó khăn, thử thách, chính là mảnh đất nảy sinh sự lạc quan, niềm tin. Những bài hát, vần thơ… trước đây phải hàng ngày, hàng tháng thậm chí còn nhiều hơn thế mới ra đời, lan tỏa, nay tính bằng giờ, bằng phút. Những câu chuyện, bộ phim thường chạy trước và sau thực tế cuộc sống, nay như muốn song song với sau. Phải chăng COVID-19 đã hối thúc và làm nên được điều này? Không biết rồi sau khi đánh giá lại các nhà lý luận có thể đúc rút một bước chuyển mới, một giai đoạn mới của văn học, nghệ thuật thời COVID-19 hay hậu COVID-19.

Hình ảnh những người chiến sỹ áo trắng, chiến sỹ áo xanh…được khắc họa như những người ở tuyến đầu với những phẩm chất vốn có được hiện hữu, rõ nét hơn trong “cuộc chiến chống dịch COVID-19”. Những tấm gương, những lời ngợi ca, sự hy sinh vừa trực tiếp, vừa thầm lặng của các anh, các chị đang lan tỏa, tiếp thêm sức mạnh, thắp sáng niềm tin cho toàn xã hội, từng nhà, từng người.

Như đã thành truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc ta lúc khó khăn, khi hoạn nạn “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, “lá lành đùm lá rách”. Những câu chuyện chia ngọt, sẻ bùi, tấm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào… những sáng kiến hữu ích đầy nhân văn như cây ATM gạo… đã ra đời từ thực tế cuộc sống mùa dịch COVID-19, không cần đề tài nghiên cứu, hay mệnh lệnh chỉ đạo mà xuất phát từ tấm lòng và không chỉ vì tấm lòng.
Còn nhiều câu chuyện, mà như đồng bào nói là kể từ ngày này, sang ngày khác, đêm này sang đêm khác cũng không hết được về tình cảnh do COVID-19 làm thay đổi chúng ta. Nhưng phải kể, phải nói, phải ngợi ca có những người lãnh đạo xả thân ngày đêm, không có Tết cổ truyền dân tộc, những chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, hay cả những đắn đo, cân nhắc…những hình ảnh vội vàng nhưng rất thời sự về khoảng khắc quyết định khi bước vào những giai đoạn cam go của chiến dịch, cuộc chiến.

Hình như từ sự tạm dừng lại, chậm lại của hầu hết các quan hệ xã hội… bởi dịch COVID-19, nay chúng ta đang dần chuyển trạng thái dần thích nghi, điều chỉnh, thậm chí tiếp tục một số quan hệ không thể dừng mãi được. Liệu đấy là do thời gian hay do quy luật? hay chuyển chiến thuật từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.

Khi bắt đầu dịch, có lúc đến 80-90% thông tin, thời lượng trên báo, truyền hình, mạng xã hội về chống dịch COVID-19, có người băn khoăn vì sự ngập tràn thông tin, nhất là những cảnh báo, bình luận thiếu cơ sở, gây sự hoang mang, hay tập trung hướng nhìn, dư luận vào một phía, một vế, tất cả cho tiền tuyến phòng, chống dịch, rất ít tiếng nói, câu chuyện và sự chuẩn bị cho hậu phương, sự tái thiết, nhưng rồi thời gian, đến nay đã khác.

Lịch sử nhân loại chứng kiến những cuộc chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai…cướp đi sinh mạng hàng triệu người, làm suy tàn cả nền văn minh, hay xóa cả một dân tộc. Nhưng cũng qua những biến chuyển này, lịch sử cũng sang trang mới, có những quốc gia trở lên hùng cường, hay sản sinh ra những thế hệ mới khác trước.

Đúng là chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai có thể xuất phát từ chủ quan, khách quan, từ con người hay tự nhiên, nhưng đều có nguồn gốc từ sự ứng xử, sự mất cân bằng và là điều không ai mong muốn, nhưng cũng chính nó vừa là thử thách, khó khăn song cũng là thời cơ và hình thành sự thay đổi mang tính bước ngoặt.

Theo dòng lịch sử nhân loại các cuộc cánh mạng công nghiệp với phạm vi ảnh hưởng làm biến chuyển thế giới. Từ những năm đầu của thế kỷ 21 cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được nhắc tới nhiều hơn, lúc đầu tưởng chỉ ở những nước phát triển, nhưng đến nay tầm vóc và sức ảnh hưởng đã đến mọi quốc gia không phân biệt mạnh, yếu, lớn nhỏ và nó đang trở lên mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn không chỉ ở phương diện quốc gia mà đã đến từng gia đình, cá nhân, dần thống trị ở hầu hết các quan hệ xã hội.
Và sự nhận biết sức mạnh này được thể hiện rõ qua dịch COVID-19, nhiều phương thức giao tiếp trực tiếp đã chuyển thành gián tiếp, mọi quy tắc, mọi nền kinh tế, mọi ngành nghề, thậm chí thách thức cả nội hàm của khái niệm “con người” mạng xã hội, các công cụ công nghệ thông minh, trí tuệ nhân tạo sẽ làm thay đổi chúng ta, tính riêng tư của mỗi cá nhân.

Có những kịch bản liên quan đến dịch COVID-19 đã được phác họa, theo khía cạnh thời gian như dịch kéo dài 3 tháng, 6 tháng hay đến hết năm 2020, theo ngành như tài chính, du lịch, giao thông… thậm chí khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang được dự báo, nhưng cũng có những kịch bản mang tính bao trùm như: sẽ đẩy lùi, ngăn chặn được dịch; sẽ kiểm soát, khống chế được dịch; dịch sẽ tự lui…

Viễn cảnh về kịch bản thứ nhất cuộc sống kinh tế xã hội sẽ hồi sinh, tái thiết, có thể có những thay đổi nhưng không lớn. Kịch bản thứ hai mang lại bức tranh về những thay đổi tự thân mang tính toàn diện của xã hội từ việc chăm sóc sức khỏe, vệ sinh cá nhân… sẽ có vắc xin phòng dịch, đến việc đi lại, giao tiếp…từ thiết kế không gian sống, không gian công cộng và những tiêu chuẩn về giao thông, đô thị, kiến trúc sẽ thay đổi, đến cả thời trang, thậm chí khẩu trang có thể là bộ phận không thiếu được của trang phục như quần, áo hiện nay…

Còn chỉ khi xuất hiện bởi sự can thiệp của một đấng siêu nhiên, hoặc tự bản thân virus Corona nhận thấy đã hoàn thành sứ mệnh tự rút trong một buổi sáng đẹp trời khi bình minh vừa lên thay thế bóng đêm, trong tiếng gió xào xạc còn lẫn mùi hương, líu lo tiếng chim hót là kịch bản thứ ba chắc chỉ xuất hiện trong giấc mơ hoặc những bộ phim.

Phải chăng ngay từ bây giờ, trong dịch ta phải chuẩn bị cuộc sống sau dịch, thậm chí chung sống cùng với dịch… như cha ông ta chuẩn bị lực lượng, cử người đi đào tạo nước ngoài… từ lúc chiến tranh vẫn còn căng thẳng để lúc hòa bình dựng xây đất nước, hay thân cây phải chuẩn bị mạch nguồn dinh dưỡng, từ lúc nhánh, cành sắp rơi để đâm chồi, nảy lộc trong thời gian tới.

Có nhiều điều sẽ thay đổi hoặc không, như linh tính sự thay đổi về kinh tế với phương thức của nó, văn hóa, gia đình với những giá trị cũ được làm mới lại, hay môi trưởng, tự nhiên sự ứng xử sẽ không chỉ còn trên giấy, nhận thức mà sẽ là hành động thiết thực, cụ thể trên toàn diện các cấp độ từ con người đến quốc gia, khu vực. Những điều bình dị nhất, tự nhiên nhất, gần gũi nhất, con người nhất mà bấy lâu nay cuộc sống cuốn đi, mờ đi, nay trong dịch đang hiện lên như bản năng gốc, giá trị cốt lõi và còn có thể có những thay đổi nữa, có sự mất đi và sự sinh thành.

Liệu đây có là khoảng thời gian chúng ta chậm lại, dừng lại, tự nhìn lại chính chúng ta, cách chúng ta ứng xử với nhau với tự nhiên môi trường?

Liệu đây có phải là cơ hội để chúng ta thay đổi hay thực sự bắt buộc phải đổi thay?

Chắc chắn còn nhiều câu hỏi nữa trong mùa dịch COVID-19.

Nhận thức là một quá trình, với thời điểm này những gì viết lên, nói lên, chưa thể mang tính đúc rút vì còn sớm, có thể có cái đúng, có cái chưa đúng, nhưng chắc chắn sẽ có sự THAY ĐỔI của xã hội, gia đình, cá nhân bởi dịch COVID-19, bởi chính chúng ta, không chỉ bởi chúng ta, mà còn có tính quy luật của tự nhiên, yếu tố khách quan của lịch sử.

Theo NGUYỄN THANH SƠN / VIETTIMES
0

Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2020

Trung Quốc dùng mọi thủ đoạn để nắm lấy quyền lực ở Liên Hiệp Quốc


Thứ trưởng nông nghiệp Trung Quốc Khuất Đông Ngọc (Qu Dongyu) trở thành tổng giám đốc Tổ chức Lương Nông Quốc tế Liên Hiệp Quốc (FAO) với nhiệm kỳ 4 năm, phát biểu tại hội nghị ngày 22/06/2020. Ảnh do FAO cung cấp. © FAO

Thực trạng Tổ chức Y tế Thế giới thân Bắc Kinh, mà đại dịch virus corona đã chứng tỏ, chỉ là ví dụ mới nhất cho thấy ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Có đến 4/15 cơ quan Liên Hiệp Quốc hiện do người Trung Quốc đứng đầu : FAO, UNIDO, ITU, ICAO. Bắc Kinh chi ra trên 200 triệu euro để giành cho được chiếc ghế ở FAO.

Đại dịch do con virus xuất phát từ Vũ Hán gây ra luôn là chủ đề bao trùm của các tuần báo Pháp. « Virus corona : Khẩn cấp xã hội » - tựa chính của Courrier International. Hàng triệu người thất nghiệp trên thế giới, kinh tế ngưng đọng, nhiều lãnh vực suy sụp… Đại dịch Covid-19 làm tăng thêm bất bình đẳng, gây phẫn nộ cho những người trắng tay.

Le Point điều tra về cú sốc kinh tế mang tính lịch sử, chạy tựa « Cuộc khủng hoảng thế kỷ ». Sau hơn ba tuần phong tỏa, người Pháp tự hỏi đến bao giờ cơn ác mộng virus corona mới kết thúc - L’Obs phỏng vấn các chuyên gia và đề ra « Ba kịch bản ra khỏi khủng hoảng ». Hồ sơ của L’Express dành cho « Macron, năm zéro ». Sau đại dịch, mọi thứ sẽ không còn như xưa… nhưng với cùng một nguyên thủ. Cuộc khủng hoảng buộc nước Pháp phải thay đổi các giá trị cũng như phương pháp hành động.

Virus corona tung hoành khắp nơi, đánh bạt mọi thời sự quốc tế

Tại Ý, quốc gia châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề nhất, L’Express đến với « Những người hùng ở bệnh viện Bergamo », từ nhiều tuần qua vẫn là tâm bão. Nằm cách Milano 60 km, tỉnh Bergamo đến cuối tháng Ba có đến gần 9.000 người dương tính và trên 2.000 trường hợp tử vong.

Với 900 giường bệnh trong đó có 80 giường chăm sóc đặc biệt, bãi đáp trực thăng 24/24 và 4.000 mét vuông dành cho cấp cứu, bệnh viện công hiện đại khai trương năm 2012 tưởng chừng sẽ đứng vững trước mọi cú sốc. Tuy nhiên bỗng chốc có hàng trăm bệnh nhân nhập viện, tất cả đều bị khó thở. Chỉ trong vòng một tháng, từ zéro ca đã lên đến 6.000 ca ! Bệnh viện phải cho các bệnh nhân khác chuyển viện để dành riêng cho Covid-19, đào tạo khẩn cấp kỹ thuật sử dụng máy trợ thở cho nhân viên y tế chăm sóc các bệnh nhân nặng.

Hồ sơ của Courrier International lướt qua tình hình xã hội tại nhiều nước trên thế giới. Tại miền nam nước Ý, quả bom xã hội có nguy cơ bùng nổ vì nhiều người lao động không có hợp đồng, bỗng chốc mất việc và không được trợ cấp. Ở Nigeria, người dân sợ rằng sẽ chết đói trước khi bị con virus từ Vũ Hán giết chết. Từ Liban cho đến Libya, các cuộc biểu tình tiếp tục diễn ra bất chấp lệnh giới nghiêm, tại Mêhicô những người bán hàng rong, giúp việc nhà, người làm công nhật vẫn cố làm việc bằng mọi giá. Tại Irak, Syria, Liban mà dịch Covid-19 từ Iran lan đến, chính quyền không dám công bố con số nạn nhân thực sự vì sợ dân chúng sẽ nổi dậy chống Teheran.

Cây bút Patrick Besson trên Le Point đặt dấu hỏi, những ngôi sao vẫn chiếm trang nhất các báo trước đây đâu cả rồi ? Các tập đoàn tội phạm Mêhicô, thảm kịch Syria luôn được nhắc đến hàng ngày từ nhiều năm qua, những chiến binh Kurdistan, khủng hoảng Venezuela rồi những đợt bắn hỏa tiễn của Bắc Triều Tiên…Tất cả đều đồng loạt biến mất trên truyền thông, nhường chỗ cho con virus siêu nhỏ từ Vũ Hán.

Nhà bình luận Bernard-Henri Lévy nhắc nhở « Ký ức bị quên lãng của virus corona ». Mùa hè 1968, một con virus vô danh từ Trung Quốc lan tràn trên thế giới làm ít nhất 1 triệu người chết trong đó 50.000 người tại Mỹ và 30.000 người tại Pháp. Dịch « cúm Hồng Kông » này ít ai còn nhớ đến ngoài các nhân viên y tế thời đó. Trước nữa, năm 1957-1958, xảy ra nạn dịch « cúm châu Á », xuất phát từ Quý Châu (Guizhou) và Vân Nam (Yunnan) làm tổng cộng 2 triệu người thiệt mạng, đa số nạn nhân có bệnh nền là tiểu đường và bệnh tim.

Tổng giám đốc WHO : « Thế giới phải biết ơn Trung Quốc » !

Về địa chính trị, đại dịch corona hiện nay chứng tỏ hiệu quả của việc Bắc Kinh sắp đặt những con cờ của mình trên trường quốc tế. Le Point phân tích « Trung Quốc đã nắm lấy quyền lực ở Liên Hiệp Quốc như thế nào ».

Ngày 29/01/2020, vào lúc thế giới bắt đầu nhận ra tầm cỡ của đại dịch với mức độ sát hại khủng khiếp của con virus từ Vũ Hán, tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ông Tedros Adhanom Ghebreyesus lại tuyên bố « Trung Quốc xứng đáng được chúng ta biết ơn và trân trọng ».

Chuyên gia François Godement, cố vấn về châu Á của Viện Montaigne, Paris nhận xét : « Tổng giám đốc WHO thường xuyên bênh vực Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng này, chưa bao giờ có một lời nào chỉ trích Bắc Kinh. Ông ta không bao giờ đặt dấu hỏi về các con số mà Trung Quốc đưa ra, và một số tuyên bố của ông rõ ràng không thể chấp nhận được ».

WHO tiếp tục lặp lại các lời lẽ của Bắc Kinh, rằng không có bằng chứng nào cho thấy virus lây từ người sang người, và mãi đến ngày 11/3 mới chịu tuyên bố đại dịch. Một nhà ngoại giao phương Tây thông thạo hồ sơ cho biết rõ ràng Trung Quốc đã gây áp lực do sẽ bất lợi cho mình, trong khi rất nhiều chuyên gia và tổ chức đã báo động về một thực tế khác hẳn. Vấn đề là một số nước trong đó có Pháp, dựa vào các thông cáo của WHO nên đã chậm trễ trong việc đối phó.

Bắc Kinh dùng mọi thủ đoạn để nắm lấy quyền lực tại Liên Hiệp Quốc

Thực trạng Tổ chức Y tế Thế giới thân Bắc Kinh chỉ là ví dụ mới nhất cho ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Có đến 4/15 cơ quan Liên Hiệp Quốc do người Trung Quốc đứng đầu : Tổ chức Lương Nông Quốc tế (FAO), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO), Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO). Một nhà ngoại giao Pháp cảnh báo : « Trung Quốc đang nắm lấy quyền lực tại Liên Hiệp Quốc. Xu hướng này càng mạnh hơn khi Hoa Kỳ của Donald Trump đang muốn rút lui ».

Cựu đại diện Pháp tại Liên Hiệp Quốc, Michel Duclos nhận xét, vào đầu những năm 2000 Trung Quốc chừng mực hơn. Tại Hội Đồng Bảo An, họ đứng phía sau Nga và chỉ lên tiếng khi nào lợi ích trực tiếp như Tây Tạng, Đài Loan bị đe dọa. Nhưng dần dần Bắc Kinh nhận ra nên đầu tư vào những chức vụ chủ chốt ở Liên Hiệp Quốc.

Biểu tượng rõ nhất là thắng lợi gây ngạc nhiên của ứng cử viên Khuất Đông Ngọc (Qu Dongyu) của Trung Quốc cho chức tổng giám đốc FAO, tháng 6/2019. Thứ trưởng Nông nghiệp Trung Quốc vượt qua ứng cử viên người Pháp Catherine Geslain-Lanéelle của châu Âu và Davit Kirvalidze (Gruzia, được Hoa Kỳ ủng hộ). Đại sứ Pháp tại Trung Quốc lúc đó tố cáo : « Tất cả mọi người đều biết nhờ đâu người của Trung Quốc được bầu, mặc dù thua kém ứng viên Pháp về mọi mặt ».

Bốn tháng trước đó, Bắc Kinh không ngần ngại xóa món nợ 78 triệu đô la cho Cameroun để ứng viên Médi Moungui của nước này rút lui. Richard Gowan, thuộc International Crisis Group cho biết : « Bắc Kinh gây áp lực trực tiếp với các nước châu Phi vốn ở thế yếu ». Tổng cộng, Trung Quốc đã chi ra trên 200 triệu euro để giành cho được chiếc ghế ở FAO.

Trước đó năm 2015, Bắc Kinh cấp 2 tỉ đô la trong 10 năm cho quỹ vì hòa bình và phát triển. Động thái vừa giúp đánh bóng hình ảnh Trung Quốc vừa gây ảnh hưởng lên tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres, hướng về các lợi ích của Bắc Kinh. Chủ nghĩa đa phương phiên bản Trung Quốc chỉ nhằm thống trị, « trên thực tế, đó là song phương được nhân lên nhiều lần » - theo Jean-Maurice Ripert, cựu đại diện Pháp tại Liên Hiệp Quốc cuối những năm 2000.

Vô hiệu hóa các tổ chức quốc tế

Đối với Bắc Kinh, Liên Hiệp Quốc chỉ là phương tiện. Trung Quốc cũng không ngần ngại đưa ra những sáng kiến cạnh tranh như nhóm BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi), Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á, Con đường tơ lụa mới…Những dự án « quốc tế » mà Bắc Kinh là trung tâm, nhằm vô hiệu hóa Liên Hiệp Quốc một cách có phương pháp.

Các cán bộ Trung Quốc làm áp lực tại các ủy ban trực thuộc trong bất kỳ văn bản nào để đưa vào các quan điểm của đảng. Các từ ngữ của Tập Cận Bình « đôi bên cùng có lợi », « cộng đồng nhân loại cùng chung vận mệnh» xuất hiện nhan nhản trong nghị quyết về Afghanistan, về giải trừ vũ khí trên không gian hay phát triển kinh tế xã hội ở châu Phi.

Không chỉ lạm dụng quyền phủ quyết, Bắc Kinh còn lập ra những liên minh nhằm ngăn chận những nghị quyết mình không ưa. Để phản đối việc mở rộng Hội Đồng Bảo An, có thể có lợi cho đối thủ Nhật Bản, Trung Quốc thẳng thừng đe dọa Jamaica, do đại diện nước này phụ trách việc chuẩn bị cải cách. Richard Gowan cho biết người của Trung Quốc đến thẳng Kingston (thủ đô Jamaica) dọa sẽ trừng phạt kinh tế nếu không rút lui.

Một lãnh vực được Bắc Kinh đặc biệt chú ý là nhân quyền, họ muốn vào Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc để bảo đảm vô hiệu hóa cơ quan này. Từ khi Hoa Kỳ rút ra năm 2018, Bắc Kinh tha hồ làm mưa làm gió, đứng đầu một khối các nước độc tài (Cuba, Iran, Venezuela, Syria…). Nếu không đủ số phiếu để chận một văn bản, họ dùng thủ đoạn để ngăn các nhà ly khai phát biểu.

Quay lại với WHO - dưới sức ép của Bắc Kinh đã buộc Đài Bắc phải đứng ngoài - nếu tổ chức này chịu nghe lời cảnh báo từ ba tuần trước đó của Đài Loan về nguy cơ virus corona lây từ người sang người, thì đại dịch đã có thể ngăn chận được ngay từ đầu. Nay Trung Quốc dùng mọi cách để chối bỏ trách nhiệm, « gắp lửa bỏ tay người ».

Nobel văn chương 2010 : Đại dịch sẽ không gây hậu quả lớn nếu không xuất phát từ Trung Quốc

Giải Nobel văn chương người Pêru, Mario Vargas Llosa sau bài viết trên nhật báo tiếng Tây Ban Nha El Pais - nhấn mạnh rằng con virus corona xuất xứ từ Trung Quốc - thì tất cả các tác phẩm của ông đều biến mất trên các trang web thương mại ở Hoa lục !

Trả lời phỏng vấn tuần báo Le Point, nhà văn nhận định « Virus corona làm hài lòng tất cả những kẻ thù của tự do ». Theo nhà văn, đại dịch là cái cớ lý tưởng để các Nhà nước độc tài hạn chế quyền tự do của người dân. Trung Quốc phải chịu trách nhiệm vì đã đàn áp các bác sĩ cảnh báo, làm chậm trễ nhiều tuần lễ khiến nạn dịch hoành hành, gây thảm họa cho toàn thế giới. Thật phi lý nếu coi Trung Quốc là hình mẫu, vì chỉ là một chế độ độc tài có mở cửa về kinh tế.

Còn trên L’Express, Mario Vargas Llosa cho rằng « Sự mọi rợ nguyên thủy luôn sẵn sàng tái sinh dưới lớp áo con người hiện đại ». Tuy vậy hậu quả từ đại dịch sẽ bớt nặng nề hơn nếu không xuất phát từ Trung Quốc. Cũng như thảm họa Tchernobyl, đến nay vẫn không thể nào biết được những gì đã thực sự diễn ra vào ngày 26/04/1986 tại Ukraina thuộc Liên Xô cũ, vì ngay cả những tài liệu trình lên cấp cao cũng giả tạo. Trong một đất nước tự do với nền báo chí đa dạng, sẽ không bao giờ có sự mù mờ này.

Nhà văn thấy rằng một trong những mặt tích cực của virus corona là khiến người dân các nước dân chủ nhận ra giá trị của nhân quyền, các quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận…được thụ hưởng lâu nay.

Các bác sĩ Cuba, nô lệ thời hiện đại

Từ châu Mỹ la-tinh, các nhân viên y tế Cuba đến hỗ trợ các nước đang quá tải vì dịch Covid-19. Nhưng theo L’Express, hậu trường của sự kiện này chẳng có gì đáng ca ngợi.

Từ ngày 22/3, Cuba gởi 37 bác sĩ và 15 y tá đến làm việc tại vùng Lombardia của Ý, và gần đây Paris cũng đã chấp nhận để các bác sĩ Cuba tăng cường cho bốn đảo thuộc lãnh thổ hải ngoại của Pháp. Đây là một thắng lợi ngoại giao của La Habana.

Tuy nhiên theo đơn kiện của Prisoners Defenders có trụ sở tại Madrid, sau khi đến nước ngoài là trưởng phái đoàn thu lại hộ chiếu của các bác sĩ, lương của họ bị chính phủ giữ lại 90%. Họ không được mang theo gia đình, không được mang theo bằng cấp bác sĩ trong hành lý, và những ai « đào ngũ » có thể lãnh án từ 3 đến 8 năm tù.

Vì sao Mỹ thiệt hại nặng nhưng ông Trump lại được thêm tín nhiệm ?

Nhìn sang nước Mỹ, L’Obs ghi nhận một nghịch lý, tỉ lệ tín nhiệm của Donald Trump vẫn lên cao tuy lâu nay tổng thống không coi nạn dịch virus corona là nghiêm trọng, làm ngơ trước những cảnh báo.

Bảy ngày trước khi ông Trump tuyên thệ nhậm chức vào tháng Giêng 2017, ê-kíp Nhà Trắng của Obama đã có báo cáo về « kịch bản ác mộng » của một đại dịch. Đến năm 2019, kịch bản « Crimson Contagion » dự báo nếu đại dịch xảy ra, từ 54.000 đến nửa triệu người Mỹ có thể thiệt mạng, và khiến nền kinh tế bị thiệt hai từ 413 đến 3.790 tỉ đô la.

Tuy nhiên đội ngũ Nhà Trắng bị thay đổi thường xuyên, và người chịu trách nhiệm về nguy cơ dịch tễ đã rời bỏ công việc trong chính quyền Trump. Bản thân ông Trump cũng không quan tâm đến những báo cáo loại này. Đến ngày 31/01/2020, khi quyết định đóng cửa biên giới với những người từ Trung Quốc đến nhưng không phải là công dân Mỹ, thì đã quá muộn : trước đó một tháng, 300.000 người từ Trung Quốc đã nhập cảnh vào Hoa Kỳ.

Hậu quả tai hại nay đã rõ, nhưng vì sao tỉ lệ tín nhiệm của ông Trump đã không bị sụt giảm mà còn tăng lên 4 điểm ? Theo giáo sư Dan Wood, đối với tổng thống « không giống ai » này « một bộ phận cử tri yêu mến ông, một bộ phận khác ghét cay ghét đắng, và ai cũng khư khư ý kiến. Chỉ có một số rất nhỏ người trung dung, và như vậy không nên chờ đợi những thay đổi lớn trong các cuộc thăm dò ».

Brexit, nạn nhân của virus corona

Còn tại châu Âu, « Brexit là nạn nhân gián tiếp của virus corona », theo L’Express. Cuộc khủng hoảng dịch tễ cho thấy Anh quốc lệ thuộc nhiều vào châu Âu trong những lãnh vực chủ chốt, và như vậy, Luân Đôn cùng với Bruxelles nên tạm hoãn vụ ly dị, vì lợi ích của cả đôi bên.

Những đoàn xe tải vẫn nối nhau ở Calais để đưa sang Anh thực phẩm tươi, dược phẩm, khẩu trang…Dù Brexit hay không, nước Anh không còn là một hòn đảo tách biệt với châu lục. Đại dịch tấn công như vũ bão, và đến phiên vị thủ tướng chủ trương « miễn dịch cộng đồng » - để cho 250.000 người chết nhằm bảo vệ hoạt động kinh tế - phải nhập viện ở khoa hồi sức tích cực ! Đồng nhiệm châu Âu Michel Barnier thì tiếp tục chống chọi với con virus.

Boris Johnson hoặc người kế nhiệm của ông sẽ phải quyết định việc ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu trước ngày 30/6. Tối Chủ nhật 5/4, chỉ có một bà cụ 93 tuổi là tìm được những từ ngữ đúng đắn để cổ vũ đồng bào mình trong đại dịch : đó là Nữ hoàng.
0

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2020

Việt Nam quyết không để Trung Quốc chiếm Biển Đông


(11/04/2020)- Trung Quốc lợi dụng Covid-19 gây căng thẳng ở Biển Đông: Liệu Việt Nam, Philippines và Malaysia có cùng nhau đoàn kết chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông?

Vụ đâm chìm tàu cá Việt Nam chỉ là để Trung Quốc phô trương cơ bắp, thị uy sức mạnh và khẳng định quyền bá chủ ở Biển Đông trong khi cả thế giới đang vật lộn chống lại đại dịch Covid-19.

Nhiều chuyên gia quốc tế nhận định, Trung Quốc đang lợi dụng đại dịch Covid-19 để làm căng thẳng tình hình ở Biển Đông, bác bỏ yêu sách chủ quyền của các quốc gia láng giềng nhỏ hơn trong Đông Nam Á trên tuyến hàng hải thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa Bắc Kinh và các nước trong khu vực.

Về diễn biến mới trên Biển Đông, theo GS. Carl Thayer và PGS. Batongbacal, với những động thái trong thời gian qua, Việt Nam đang đi đúng hướng và thậm chí có thể thắng nếu gửi đơn kiện Trung Quốc. Nhưng để chắc chắn thành công, Việt Nam cần có một chiến lược sâu rộng, kết hợp với sự ủng hộ từ các nhân tố khác. Theo đó, Việt Nam phải tiếp tục phản đối bất kỳ hành động trái với luật pháp quốc tế của Trung Quốc khi Bắc Kinh có những hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Trung Quốc muốn thị uy sức mạnh khi đánh chìm tàu cá Việt Nam?

Asia Times mới đây có bài phân tích của tác giả Richard Javad Heydarian (Giáo sư chính trị tại Đại học hàng đầu Philippines De La Salle - học giả nghiên cứu uy tín về Biển Đông) liên quan đến việc chính quyền Bắc Kinh tranh thủ chớp lấy cơ hội khi cả thế giới đang dồn sự chú ý đến coronavirus để “khẳng định chủ quyền lịch sử”, uy vũ sức mạnh và quyền bá chủ ở các vùng biển tranh chấp trên Biển Đông.

Khi các quốc gia Đông Nam Á đang vật lộn quay cuồng chống lại dịch bệnh Covid-19, đồng thời, nhóm tàu chiến và căn cứ quân sự của Hải quân Hoa Kỳ cũng đang ở trong thế yếu trước nguy cơ bùng phát và lây lan virus corona, đe dọa tính mạng nhiều người, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng của các bên thì Trung Quốc lại đang dùng mọi cách tận dụng cuộc khủng hoảng “dịch bệnh chết chóc” như thứ cơ hội chiến lược nhằm khẳng định quyền kiểm soát ở Biển Đông.

Với việc không một quân nhân nào của lực lượng Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) hay những đơn vị hữu quan khác được phát hiện nhiễm SARS-CoV-2, cường quốc châu Á này đang ngày càng “phô trương cơ bắp” thông qua loạt cuộc tập trận lớn của Quân đội, Hải quân, Không quân PLA nhằm củng cố quyền kiểm soát những thực thể tranh chấp trên Biển Đông. Theo Asia Times, mục đích mà Trung Quốc muốn hướng đến là rất đa dạng và khó lường, điển hình như gần đây nhất, Bắc Kinh muốn giám sát chiến lược Biển Đông và “đánh phủ đầu” yêu sách chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á nhỏ và yếu thế hơn.

Ngày 2 tháng 4, một tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi, Việt Nam bị phía Trung Quốc đâm chìm ở Hoàng Sa. Tàu cá mang số hiệu QNg-90617 TS, công suất 420 CV do ngư dân Trần Hồng Thọ (sinh năm 1987 ở thôn Phú Quý, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn) làm chủ phương tiện đăng ký hành nghề lặn. Tàu cá này xuất bến tại Trạm kiểm soát Biên phòng Sa Kỳ vào ngày 20 tháng 3 để ra vùng biển quần đảo Hoàng Sa hành nghề, trên tàu có 8 lao động.

Theo ghi nhận, khi bị tông chìm, có 3 tàu cá gồm tàu cá mang số hiệu QNg-90045 TS do ngư dân Đặng Tằm làm chủ phương tiện, tàu cá QNg-90399 TS do ngư dân Đặng Dũng làm chủ phương tiện và tàu cá QNg-90929 TS do ngư dân Nguyễn Thành Linh làm chủ phương tiện chạy đến để cứu hộ nhưng khi đến nơi thì không thấy phương tiện và ngư dân đi trên tàu cá QNg-90617 TS mà thấy một tàu sắt màu trắng của nước ngoài (Trung Quốc) đang xuất hiện tại đây. Ba tàu cá tiếp tục tìm kiếm nhưng không phát hiện được tàu cá QNg-90617 TS cùng các ngư dân bị nạn, nên ngư dân Đặng Tằm đã gọi điện thông báo sự việc đến cơ quan chức năng.

Trước đó, tối ngày 2 tháng 4, ông Phùng Bá Vương, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Châu (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) cũng xác nhận địa phương đã nhận tin báo của anh Nguyễn Thành Linh (chủ tàu QNg 90929) báo về phía tàu Trung Quốc đã trao trả 8 ngư dân trên tàu của anh Trần Hồng Thọ.

“Sau khi tàu của anh Thọ bị tông chìm, ba tàu của ngư dân đến cứu thì tàu Trung Quốc xua đuổi. Đến 8 giờ, tàu Trung Quốc bắt giữ trái pháp luật hai trong ba tàu đến cứu về đảo Phú Lâm. Họ giữ tại đây đến 16 giờ 30 mới trao trả 8 lao động trên tàu của anh Thọ và để hai tàu này đi”, ngư dân Nguyễn Thành Linh cho biết.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying) cáo buộc tàu đánh cá Việt Nam xâm nhập vào vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc và khẳng định chính tàu cá của Việt Nam đột ngột chuyển hướng và đâm mạnh vào ram Tàu Hải cảnh của Trung Quốc.

Bà Hoa Xuân Oánh cũng khẳng định Bắc Kinh chỉ muốn chia sẻ thực tiễn và kinh nghiệm phòng chống dịch Covid-19 của Trung Quốc với các quốc gia khác, và sẽ không biến dịch bệnh thành bất kỳ loại vũ khí hoặc công cụ địa chính trị nào.

“Chính tàu cá Việt Nam đâm vào Tàu Hải cảnh của chúng tôi và bị chìm - tất cả 8 thủy thủ đoàn đã được giải cứu”, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Trương Quân (Zhang Jun) bình luận về vụ việc này.

“Chúng tôi đã kêu gọi Việt Nam thực hiện nghiêm túc những biện pháp để tránh các sự cố tương tự xảy ra trong bối cảnh hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp ngày càng gia tăng thường xuyên ở vùng biển Hoàng Sa”, ông Trương Quân nói.

Học giả Philippines: Trung Quốc lợi dụng khủng hoảng coronavirus để dễ chiếm Biển Đông

Bình luận trên Asia Times, nhà nghiên cứu Biển Đông Richard Javad Heydarian cho biết, đại dịch coronavirus bắt nguồn từ Trung Quốc đang khiến nền kinh tế Philippines đối mặt với hàng loạt nguy cơ, thách thức, sự đình trệ và xu hướng suy thoái, cùng với những ảnh hưởng nghiêm trọng lên tình hình kinh doanh, sản xuất, đời sống xã hội nước này, càng làm tăng thêm sự tức giận và bất bình giữa những người dân Philippines cũng như giới quan chức. Tất cả đều cảm thấy Bắc Kinh đang thúc đẩy cuộc khủng hoảng để giành lấy quyền bá chủ trên các vùng biển và thực thể mà Manila tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.

“Có những lo ngại đồng thời rằng bệnh dịch coronavirus có thể làm suy yếu khả năng chiến đấu của Lực lượng Vũ trang Philippines (AFP) để bảo vệ đất nước chống lại các cuộc nổi dậy và các nhóm khủng bố ở các vùng cực nam và ngoại vi, cũng như bên ngoài Trung Quốc , phía nam Biển Hoa Đông và khu vực Tây Thái Bình Dương”, học giả Philippines bình luận.

“Trong khi Philippines đang vật lộn với tình hình Covid-19 diễn biến leo thang, Trung Quốc đồng thời đẩy mạnh quá trình quân sự hóa Đá Vành Khăn”, Asia Times cho biết.

Chưa hết, Trung Quốc cũng đang tăng cường sự hiện diện của mình xung quanh bãi cạn Scarborough, nằm cách các căn cứ quân sự Subic và Clark chiến lược của Philippines hơn 100 hải lý.

Mỹ, Philippines lên tiếng ủng hộ Việt Nam ở Biển Đông

Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, khẳng định rằng tàu Hải cảnh Trung Quốc đã có hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và đe dọa tính mạng cũng như làm tổn hại tài sản và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam.

“Hành động trên của tàu công vụ Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, gây thiệt hại về tài sản, đe doạ an toàn tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam, đi ngược lại nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc đối xử nhân đạo với ngư dân và Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp tình hình và không có lợi cho quan hệ hai nước cũng như việc duy trì hoà bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ.

Ngày 03/04/2020, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và trao công hàm phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu Hải cảnh Trung Quốc nêu trên, không để tái diễn những hành động tương tự, đồng thời bồi thường thoả đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt Nam.

Vụ việc đánh dấu lần thứ hai trong 12 tháng qua, lực lượng Hải giám, dân quân biển của Trung Quốc đã khiêu khích, đánh chìm tàu cá của những “đối thủ” quốc gia Đông Nam Á khác.

“Kinh nghiệm tương tự của chúng tôi đã cho thấy niềm tin vào tình bạn đã bị mất như thế nào qua vụ việc như vậy, và niềm tin đã được tạo ra nhiều thế nào bởi hành động nhân văn của Việt Nam trực tiếp cứu mạng sống của ngư dân Philippines của chúng tôi", tuyên bố của Bộ Ngoại giao Philippines nêu rõ.

Trong tuyên bố phát ngày 8/4, Bộ Ngoại giao Philippines nhấn mạnh rằng các ngư dân nước này cũng từng là nạn nhân của Trung Quốc và sẽ mãi ghi nhớ hành động nhân đạo của Việt Nam khi cứu vớt các ngư dân Philippines.

“Chúng tôi đã không ngừng và sẽ không ngừng cảm ơn Việt Nam về hành động đó. Và với suy nghĩ trên, chúng tôi đưa ra tuyên bố này để thể hiện tình đoàn kết”, Manila khẳng định.

Bộ Ngoại giao Philippines đồng thời cũng nhấn mạnh rằng các sự cố như vừa xảy ra với tàu cá Việt Nam khiến quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc bị xói mòn trong bối cảnh hai bên đang đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Cũng trong một động thái ủng hộ Việt Nam và chỉ trích “thói bắt nạt” của Bắc Kinh, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ngày 9/4 ra tuyên bố lên án hành động của Trung Quốc trong vụ đâm chìm tàu cá Việt Nam tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ở Biển Đông.

Theo đó, Bộ Quốc phòng Mỹ bày tỏ quan ngại sâu sắc trước thông tin về việc tàu cảnh sát biển Trung Quốc va chạm và đâm chìm một tàu cá của Việt Nam tại khu vực gần đảo Phú Lâm, Hoàng Sa.

“Hành vi của Trung Quốc trái ngược với tầm nhìn của Mỹ về một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở, trong đó tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều được bảo đảm chủ quyền, không bị ép buộc và có quyền phát triển kinh tế phù hợp với các quy tắc và chuẩn mực quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực nhằm đảm bảo tự do hàng hải và cơ hội kinh tế trong toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”, Lầu Năm Góc tuyên bố.

Đồng thời, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng nhấn mạnh đại dịch Covid-19 cho thấy rõ hơn tầm quan trọng của trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, vì điều đó tạo điều kiện cùng giải quyết mối đe dọa chung theo cách minh bạch, tập trung và hiệu quả.

Lầu Năm Góc cũng kêu gọi tất cả các bên kiềm chế những hành động gây mất ổn định khu vực, có thể làm chệch hướng nỗ lực toàn cầu tập trung đối phó với đại dịch, hoặc gây ra nguy cơ không cần thiết dẫn đến tổn thất về người và tài sản.

Việt Nam Philippines lẫn Malaysia sẽ cùng chống Trung Quốc ở Biển Đông?

Mặc dù vẫn còn đó những quan điểm khác biệt trong vấn đề Biển Đông, cả Việt Nam, Philippines lẫn Malaysia đều gắn kết nhau một cách tự nhiên trên góc độ đặt trọng tâm sâu sắc vào luật pháp quốc tế.

Sau sự kiện Trung Quốc sử dụng tuyên bố chủ quyền phi pháp ở Biển Đông để phản bác công hàm của hai nước Philippines và Malaysia, ngày 30/3, phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi công hàm bác bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp của Bắc Kinh.

“Luật lệ dựa trên luật pháp sẽ có lợi cho Việt Nam, Philippines và Malaysia hơn nhiều so với luật rừng, nơi kẻ mạnh săn đuổi và chiến thắng kẻ yếu”, đó là ý kiến khẳng đinh của PGS Jay Batongbacal - giám đốc Viện các vấn đề hàng hải và luật biển (Đại học Philippines) bình luận với Tuổi Trẻ cho hay.

Dù được ký ngày 30 tháng 3, đến ngày 7 tháng 4 thông tin về công hàm của Việt Nam mới được phổ biến. Đây cũng là quãng thời gian Bộ Ngoại giao Philippines ra tuyên bố bày tỏ quan ngại sâu sắc tới vụ việc tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Quảng Ngãi (Việt Nam) ở vùng nước gần Hoàng Sa ngày 2 tháng 4.

Theo GS Carl Thayer, lý do mà nội dung đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) rất khó được thông qua cũng là vì bản thân Bộ Quy tắc này không định nghĩa được khu vực hàng hải ở Biển Đông mà nó sẽ áp đặt tính ràng buộc, bởi ngay cả trong nội bộ ASEAN cũng chưa nhất trí về hiện trạng khu vực này.

Dẫn chứng về vấn đề này, GS Thayer cũng nhấn mạnh, trong công hàm ngày 12/12/2019, Malaysia liên tục khẳng định đó chỉ là bản đệ trình một phần, và nó "không ảnh hưởng tới việc phân định thềm lục địa" và "không ảnh hưởng tới lập trường của các nước liên quan tới tranh chấp lãnh thổ hoặc lãnh hải".

“Điều đó để ngỏ khả năng Malaysia, Philippines và Việt Nam có thể phân định khu vực chồng lấn để giải quyết tranh chấp. Philippines và Việt Nam hiện đang "cùng tông" đối với chuyện tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài (The Hague, Hà Lan) trong việc bác bỏ yêu sách của Trung Quốc. Một lập trường nhất trí của ba nước sẽ có ích cho việc cô lập Trung Quốc về chính trị nhưng không làm thay đổi hiện trạng trên thực địa”, GS Thayer nhận định.

Cũng đồng ý với quan điểm này, PGS Jay Batongbacal của Philippines cũng khẳng định, không phải Việt Nam, Philippines và Malaysia đang "đoàn kết" chống lại Trung Quốc nếu hiểu theo lẽ thông thường.

“Rõ ràng mỗi nước vẫn hành động độc lập với nhau và không nhất thiết nhất trí với từng chi tiết khi đưa ra một lập trường đơn nhất khi đối mặt với Trung Quốc”, - ông Batongbacal nhận định.

PGS Batongbacal không cho rằng động thái của các nước trong thời gian vừa qua là “đoàn kết” theo nghĩa ba nước này đã “nhất trí một cách có ý thức” để cất lên tiếng nói duy nhất, hoặc đưa ra một lập trường chung nhất trong các tranh chấp.

“Tôi nghĩ chúng ta chưa đến thời điểm cố ý và chủ động phối hợp cho các quyết định, chính sách và hành động về vấn đề này. Nhưng tôi cho rằng cái chúng ta đang chứng kiến là một sự nhất quán tự nhiên, hợp lôgic trong lập trường của mỗi bên, vốn dĩ đang là kỳ vọng vì tất cả đều cam kết với quy định pháp luật và đang đặt trọng tâm sâu sắc vào luật pháp quốc tế”, - PGS Batongbacal đưa ra quan điểm.

Theo ông Batongbacal, vì Việt Nam, Philippines hay Malaysia đều là các nước nhỏ, đang phát triển với sức mạnh quân sự và chính trị còn hạn chế hơn các nước lớn nên việc chú trọng luật quốc tế là tinh thần phù hợp. Việc tuân thủ luật pháp, bảo vệ và lên tiếng theo lẽ phải là điều kiện và nhu cầu hiển nhiên để đảm bảo lợi ích quốc gia.

“Đối với các nước này, tuân thủ luật pháp quốc tế đã được đồng thuận và áp dụng lên tất cả mọi người là yêu cầu cần thiết để họ đảm bảo sự độc lập và chủ quyền”, PGS Batongbacal nhấn mạnh.

Việt Nam không để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông: Cần cơ sở pháp lý

Liên quan đến công hàm mới nhất gửi Liên Hiệp Quốc, tại họp báo chiều ngày 9 tháng 4, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết việc lưu hành công hàm tại Liên Hiệp Quốc là điều bình thường, thể hiện lại lập trường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.

“Lập trường nhất quán của Việt Nam đã được thể hiện đầy đủ tại công hàm này”, bà Hằng nói.

Đồng thời đại diện Bộ Ngoại giao khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam là “giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, như đã được thể hiện trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982”, phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng tuyên bố.

Nhiều học giả quốc tế cũng nhận xét, công hàm ngày 30.3 của Việt Nam là động thái đúng đắn, phù hợp và cần thiết trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong vấn đề biển đảo.

GS Thayer nhấn mạnh, Việt Nam phải tiếp tục phản đối bất kỳ hành động nào của Bắc Kinh khi nước này có những hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Theo chuyên gia này, việc cung cấp “một dấu vết pháp lý trên giấy” là rất cần thiết để chứng minh tính nhất quán của Việt Nam trong lập trường về Biển Đông, đặc biệt là trong một thời gian dài.

Cả hai GS Thayer lẫn PGS Batongbacal đều cho rằng, với những động thái trong thời gian qua, Việt Nam đang đi đúng hướng và thậm chí có thể thắng nếu gửi đơn kiện Trung Quốc. Mặc dù vậy, để chắc chắn thành công, Việt Nam cần có một chiến lược sâu rộng, kết hợp với sự ủng hộ từ các nhân tố khác.

PGS Batongbacal nhận định, những vi phạm mới nhất của Trung Quốc như vụ đưa giàn khoan vào khu vực tranh chấp hàng hải, triển khai nghiên cứu khoa học trên biển ở vùng đặc quyền kinh tế của nước khác và mới đây nhất là đâm chìm tàu cá Việt Nam, tất cả đều có thể là cơ sở cho những đơn kiện trong tương lai.

Tuy vậy, cũng cần nói thêm rằng đơn kiện chỉ là một công cụ pháp lý. Biện pháp này phải được cân nhắc hết sức cẩn thận và phối hợp với những hành động ngoại giao và chính trị. Tất cả phải được tiến hành đồng thời và độc lập trong giai đoạn xét xử vụ kiện. Bên thưa kiện phải xem nó là một phần trong khuôn khổ một chiến lược rộng lớn hơn.

“Vì thế, bất kỳ động thái hay diễn biến nào trong vụ kiện cũng phải được phối hợp với chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng như chính sách ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc và các khía cạnh khác trong mối quan hệ song phương này", - PGS Batongbacal kết luận

Theo Sputnik News
0

Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2019

Mỹ gọi Trung Quốc "hành xử côn đồ", Bắc Kinh nói Washington "tư duy băng đảng"

Sau khi một quan chức Mỹ mô tả Bắc Kinh là "chế độ côn đồ", Trung Quốc đáp trả bằng cách cáo buộc Washington áp dụng "logic băng đảng xã hội đen".


Người phát ngôn Bộ ngoại giao Mỹ.
0

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2019

Hải cảnh Trung Quốc đe dọa Biển Đông

Trong số tàu hải cảnh hộ tống nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa VN, có một tàu vũ trang lớn.


Tàu CCG 3901 và tàu Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc hoạt động trái phép tại khu vực bãi Phúc Tần - Tư Chính
0

Quan hệ Việt Đức ấm lại? - RFA


Tân đại sứ Đức trình quốc thư cho ông chủ tịch Nguyễn Phú Trọng, Philippines cho đóng dấu bản đồ Biển Đông lên hộ chiếu khách TQ, TT Duterte sẽ nêu phán quyết của PCA ra với chủ tịch Tập Cận Bình
0

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2019

[TV 2] Kênh tin tức - Thời sự và âm nhạc ***


Video: Kênh tin tức, thời sự và âm nhạc. Cập nhật tự động,...
0