Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tranh chấp Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tranh chấp Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 7 tháng 3, 2021

Quân đội Mỹ chuẩn bị gì cho chiến tranh với Trung Quốc?

TTO - Xung đột quân sự Mỹ - Trung là điều không ai mong đợi, nhưng các nhà hoạch định chính sách quân sự của cả hai nước không thể ngồi yên và cầu nguyện cho điều tốt nhất.

Thủy quân lục chiến Mỹ tập trận ở Chonburi, Thái Lan vào tháng 2-2020 - Ảnh: AP


0

Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021

Điều gì có thể dẫn tới chiến tranh Mỹ – Trung?

Điều gì có thể dẫn tới chiến tranh Mỹ – Trung?

(Project Syndicate) Khi Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị gần đây kêu gọi cài đặt lại quan hệ song phương với Hoa Kỳ, một phát ngôn viên của Nhà Trắng đã trả lời rằng Hoa Kỳ coi quan hệ Mỹ – Trung là một trong những cuộc cạnh tranh mạnh mẽ đòi hỏi vị thế của sức mạnh. Rõ ràng là chính quyền của Tổng thống Joe Biden đã không đảo ngược các chính sách của Trump đối với Trung Quốc.
0

Mỹ sẽ triển khai tên lửa chống Trung Quốc dọc theo chuỗi đảo thứ nhất

Mỹ sẽ triển khai tên lửa chống Trung Quốc dọc theo chuỗi đảo thứ nhất

(Nikkei Asia) Mỹ sẽ tăng cường khả năng răn đe bằng vũ khí thông thường chống lại Trung Quốc bằng cách thiết lập một mạng lưới tên lửa tấn công chính xác dọc theo cái gọi là “chuỗi đảo thứ nhất” như một phần của khoản chi 27,4 tỷ USD sẽ được xem xét cho chiến trường Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trong sáu năm tới.
0

Điều gì ở biển Đông khiến Trung Quốc cuồng vọng? (Mp3)

Tranh chấp Biển Đông luôn là chủ đề nóng không chỉ đối với các quốc gia có chủ quyền tại đây mà đã trở thành vấn đề quốc tế. Trong khi Biển Đông được xem là con đường sinh mệnh của nền kinh tế và giúp Trung Quốc thực hiện tham vọng bá chủ toàn cầu, nó còn đóng vai trò thương mại, địa chiến lược quan trọng đối với các nước khu vực và thế giới
0

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2021

Bộ Ngoại giao nói về thông tin Trung Quốc xây căn cứ tên lửa thứ 2 gần biên giới Việt Nam

(Thanh Niên - 25/02/2021) Sau thông tin về việc Trung Quốc xây căn cứ tên lửa đất đối không ở tỉnh Quảng Tây, cách biên giới Việt Nam 20 km, Bộ Ngoại giao đã lên tiếng về thông tin Trung Quốc xây căn cứ tên lửa thứ 2 tại Vân Nam.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tại buổi họp báo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tại buổi họp báo
0

Biển Đông: Bắc Kinh huy động oanh tạc cơ ‘‘hiện đại nhất’’ tập trận

Oanh tạc cơ Trung Quốc H-6G

(RFI) -Giới chuyên gia quân sự Trung Quốc cho biết Bắc Kinh vừa có đợt tập trận tấn công tàu chiến trên biển, với các oanh tạc cơ « hiện đại nhất », để sẵn sàng đối phó với Hải Quân Mỹ, Pháp, cũng như các lực lượng nước ngoài khác tại Biển Đông.
0

Việt Nam muốn gì từ Mỹ trong giải quyết tranh chấp Biển Đông?

(The Diplomat - 04/01/2021) Mặc dù luôn tìm kiếm sự cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, dường như Việt Nam đang mong muốn có quan hệ an ninh vững chắc hơn với Washington.
0

Pháp liên tiếp điều chiến hạm đến Biển Đông, bất chấp phản ứng của Trung Quốc

Chiến hạm Tonnerre của Pháp

(RFI) - Chỉ vài ngày sau khi Bộ Quân Lực Pháp xác nhận đã cho tàu ngầm đi qua Biển Đông, hôm 18/02/2021 vừa qua, hai chiến hạm Pháp đã ra khơi trực chỉ châu Á trong một chiến dịch kéo dài 5 tháng, sẽ đi ngang Biển Đông, ghé thăm nhiều cảng Đông Nam Á và đặc biệt là tham gia một cuộc tập trận chung với hai đồng minh Mỹ và Nhật ở vùng biển Nhật Bản.
0

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2021

Việt Nam tăng cường phòng thủ chống Trung Quốc ở Trường Sa

(SCMP - 22.2.2021) Báo cáo của một tổ chức nghiên cứu chính sách có trụ sở tại Washington cho biết Việt Nam đã xây dựng hệ thống phòng thủ ở quần đảo Trường Sa trong hai năm qua để “đảm bảo có thể giáng đòn vào các cơ sở của Trung Quốc” tại quần đảo tranh chấp này.
0

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2020

Mỹ gửi công hàm lên LHQ phản đối Trung Quốc ở Biển Đông


Đại sứ Mỹ tại LHQ gửi công hàm cho Tổng thư ký Antonio Guterres, khẳng định yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông "không phù hợp với luật pháp quốc tế".

"Hôm nay, Mỹ phản đối các yêu sách hàng hải phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông tại Liên Hợp Quốc. Chúng tôi coi những yêu sách này là bất hợp pháp và nguy hiểm. Các quốc gia thành viên phải đoàn kết để duy trì luật pháp quốc tế và tự do trên biển", Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo ngày 2/6 viết trên Twitter.


Công hàm do Mỹ gửi lên LHQ để phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông

Ông đăng kèm công hàm do Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc Kelly Craft gửi lên Tổng thư ký Antonio Guterres, nói về công hàm số CML/14/2019 Trung Quốc gửi cho Liên Hợp Quốc ngày 12/12/2019 để phản đối đệ trình của Malaysia lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) cùng ngày.

"Mỹ xác định các yêu sách hàng hải này không phù hợp với luật pháp quốc tế theo Công ước về Luật Biển 1982", công hàm có đoạn viết. Mỹ yêu cầu Liên Hợp Quốc gửi công hàm phản đối này đến tất cả thành viên, đồng thời đăng tải trên trang web của văn phòng pháp chế.

Trong công hàm ngày 12/12/2019, Trung Quốc cho biết nước này "có chủ quyền" với quần đảo ở Biển Đông, "bao gồm quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa". Trung Quốc cũng nhắc đến "quyền lịch sử" ở Biển Đông.

Quần đảo Nam Sa và Tây Sa là cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 30/3, Việt Nam gửi công hàm lên LHQ, phản đối công hàm nói trên của Trung Quốc, khẳng định yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông.
0

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

Trung Quốc lập ADIZ ở Biển Đông: Việt Nam cẩn thận

Trung Quốc đã lên kế hoạch cho Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) Biển Đông bao gồm các đảo Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 2010 và chỉ chờ giải quyết xong các vấn đề về kỹ thuật, chính trị và ngoại giao để tuyên bố với thế giới, nguồn tin từ Quân giải phóng nhân dân PLA cho biết.

Theo các chuyên gia, nếu Trung Quốc tuyên bố ADIZ, các nước (trong đó có Việt Nam) sẽ buộc phải lựa chọn, không chỉ là chơi với ai giữa Mỹ hay Trung Quốc, mà còn là giải quyết mâu thuẫn mối quan hệ kinh tế giữa các nươc này với Trung Quốc cùng với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia của chính mình.

Lộ tin Trung Quốc đã lập xong kế hoạch ADIZ ở Biển Đông từ lâu

Bắc Kinh đã lên kế hoạch cho Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông kể từ năm 2010. Cũng trong năm đó, Trung Quốc cho biết họ đang xem xét việc đưa ra các biện pháp kiểm soát không phận tương tự trên Biển Đông, một động thái bị chỉ trích rộng rãi trên toàn thế giới. Bài phân tích của tác giả Minnie Chan đăng trên tờ Bưu điện Nam Hoa Buổi sáng ngày 31/5 cho biết.

ADIZ dự kiến bao gồm các chuỗi đảo Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa (của Việt Nam), theo một nguồn tin từ Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Nguồn tin cho SCMP biết thêm rằng chính quyền Trung Quốc đang chờ thời điểm thích hợp để công bố về kế hoạch này.

Trong khi Bắc Kinh có thể giữ kín về vấn đề này, Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết vào ngày 4 tháng 5 rằng họ đã biết về các kế hoạch của Trung Quốc Đại lục.

Một Vùng nhận dạng phòng không là không phận trên một khu vực không thể tranh cãi về đất hoặc nước, trong đó việc giám sát và kiểm soát máy bay ra vào được thực hiện vì lợi ích của an ninh quốc gia. Vùng nhận dạng phòng không không đồng nghĩa với không phận nhưng được coi như khu vực song hành với an ninh quốc phòng. Trong khi nhiều quốc gia có ADIZ, khái niệm này không được xác định hoặc quy định bởi bất kỳ điều ước hoặc cơ quan quốc tế nào.

Giới quan sát quân sự cho biết thông báo về ADIZ tiếp theo của Trung Quốc sẽ làm gia tăng căng thẳng với Hoa Kỳ và có thể gây ra tổn hại không thể khắc phục đối với mối quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Lu Li-Shih, cựu giảng viên của Học viện Hải quân Đài Loan tại Cao Hùng, nói rằng việc xây dựng và phát triển các đảo nhân tạo - đặc biệt là các đường băng và hệ thống radar được xây dựng trên các rạn san hô đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn - đã diễn ra trong nhiều năm qua là một phần trong kế hoạch ADIZ của Bắc Kinh.

“Hình ảnh vệ tinh gần đây cho thấy Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã triển khai máy bay cảnh báo sớm KJ-500 và máy bay tuần tra chống ngầm KQ-200 tại đá Chữ Thập”, ông nói, đề cập đến những bức ảnh được chụp bởi ImageSat International của Israel và Sáng kiến ​​minh bạch hàng hải châu Á tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS).

Chuyên gia này cũng nói rõ ràng rằng các cơ sở có điều hòa không khí đang được xây dựng trên rạn san hô, cho thấy máy bay chiến đấu - cần được bảo vệ khỏi nhiệt độ cao, độ ẩm và độ mặn trong khu vực - cũng sẽ sớm được triển khai ở đó.

“Sau khi các tiêm kích chiến đấu PLA đến, chúng có thể tham gia cùng các máy bay cảnh báo sớm và máy bay chống ngầm để thực hiện hoạt động tuần tra trên ADIZ”, Lu Li-Shih nhận xét.

Ông Li Jie, một chuyên gia Hải quân làm việc tại Bắc Kinh và là sĩ quan cấp cao đã nghỉ hưu của PLA, nói rằng các nước thường chờ đợi để công bố thành lập ADIZ cho đến khi họ có thiết bị phát hiện cần thiết, cũng như đủ khả năng chiến đấu và cơ sở hạ tầng khác để quản lý nó.

“Nhưng nếu có thời cơ, Bắc Kinh có thể đưa ra thông báo sớm hơn”, sĩ quan cao cấp đã về hưu của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc nói.

“Bắc Kinh đã tuyên bố về ADIZ ở Biển Hoa Đông ngay cả khi PLA chưa có khả năng phát hiện, theo dõi và trục xuất máy bay nước ngoài xâm nhập”, ông Li Jie khẳng định.


Vì sao Trung Quốc hoãn công bố ADIZ?

Một nguồn tin quân sự khác của Trung Quốc, người đề nghị giấu tên vì tính nhạy cảm của vấn đề, nói rằng cũng như công tác chuẩn bị, Bắc Kinh nhận thức rằng Biển Đông lớn hơn Biển Hoa Đông rất nhiều và do đó sẽ cần nguồn lực lớn hơn để tuần tra.

Theo chuyên gia Hải quân Li Jie, Bắc Kinh đã ngần ngại trong việc tuyên bố ADIZ ở Biển Đông do một số cân nhắc về kỹ thuật, chính trị và ngoại giao.

“Nhưng vấn đề thực tế nhất là PLA trước đây không có khả năng giao tranh máy bay chiến đấu để trục xuất máy bay nước ngoài xâm nhập ở Biển Đông, nơi có diện tích gấp nhiều lần Biển Hoa Đông và chi phí phải trả để hỗ trợ ADIZ sẽ rất lớn”, nguồn tin cho biết.

Vào năm 2010, chính quyền Trung Quốc đã nói với phái đoàn Nhật Bản khi đó đến thăm Bắc Kinh rằng họ đang xem xét việc thành lập ADIZ trên Biển Hoa Đông. Theo báo cáo năm 2017 của CSIS, Bắc Kinh cho biết vấn đề này cần được thảo luận khi kế hoạch của họ chồng chéo với khu vực phòng không Nhật Bản.

Tin tức này đã gây phẫn nộ đối với Tokyo, khiến Nhật Bản phản ứng bằng cách thành lập một ADIZ cho riêng mình, bao gồm Quần đảo Senkaku - được biết đến với tên Quần đảo Điếu Ngư trong tiếng Quan Thoại.

Căng thẳng giữa Tokyo và Bắc Kinh leo thang sau khi Tokyo mua Senkaku từ một chủ sở hữu tư nhân vào tháng 9 năm 2012, khiến Bắc Kinh công bố ADIZ vào tháng 11 năm sau.

“Trung Quốc tuyên bố thành lập ADIZ đầu tiên sớm hơn dự định vì cần phải khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư”, ông Li nói.

Nhưng động thái này đã gặp phải phản ứng dữ dội, từ cả Nhật Bản và Hoa Kỳ cũng như nhiều nước trong khu vực.

Trong khi quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã được cải thiện trong những năm gần đây, căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington vẫn đang gia tăng đều đặn, với việc hai bên đụng độ trên nhiều mặt trận - từ thương mại và công nghệ, đến các vấn đề quân sự và tư tưởng.

Mối quan hệ của hai bên còn chịu áp lực lớn hơn nữa do hậu quả của đại dịch Covid-19, khi các quan chức cấp cao đưa ra các cáo buộc và chỉ trích lẫn nhau về cách xử lý khủng hoảng và nguồn gốc của coronavirus.

Tháng trước, các máy bay quân sự của Mỹ, bao gồm các máy bay trinh sát EP-3E và RC-135U, đã thực hiện ít nhất 9 cuộc tập trận và hoạt động tuần tra trên Biển Đông, theo trang web theo dõi hàng không Aircraft Spots.

Trung Quốc đã tìm cách xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với các nước láng giềng Đông Nam Á trong những năm gần đây, nhưng Drew Thompson, một nghiên cứu viên cao cấp của Trường Chính sách công Lee Kuan Yew, Đại học Quốc gia Singapore, cho rằng sẽ chỉ có hại cho Trung Quốc nếu nước này tuyên bố Biển Đông là ADIZ thứ hai.

“Tuyên bố như vậy sẽ làm tổn hại nghiêm trọng mối quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á, thống nhất với nhau trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc, bao gồm việc cải tạo đất và quân sự hóa các đảo”, ông nói.

Nếu Trung Quốc tuyên bố ADIZ, các nước sẽ buộc phải lựa chọn, không phải giữa Mỹ và Trung Quốc, mà là giữa mối quan hệ kinh tế của họ với Trung Quốc và chủ quyền quốc gia của chính họ.

Việt Nam nêu lo ngại về diễn biến phức tạp ở Biển Đông gần đây

Trước đó, ngày 29/5, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, Thứ trưởng Lê Hoài Trung đã tham dự Hội nghị trực tuyến với người đồng cấp Trung Quốc La Chiếu Huy nhằm trao đổi về các vấn đề quan hệ song phương, diễn biến phức tạp trên Biển Đông thời gian gần đây cũng như chiến lược phát triển quan hệ giữa Hà Nội – Bắc Kinh hậu Covid-19.

Đáng chú ý, tại Hội nghị lần này, hai thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc nhất trí tiếp tục trao đổi về phối hợp trong công tác quản lý biên giới trên đất liền và tổ chức hoạt động kỷ niệm 20 năm ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc và 10 năm triển khai 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền. Hai nước thống nhất tiến hành kiểm tra liên hợp biên giới theo quy định của Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Nghị định thư phân giới cắm mốc vào thời điểm thích hợp.


Lê Hoài Trung

Đối với tình hình căng thẳng trên vùng biển có tranh chấp thời gian gần đây giữa hai nước, Thứ trưởng Lê Hoài Trung cũng đã có trao đổi thẳng thắn với ông La Chiếu Huy.

Hai bên nhất trí cần tiếp tục phát huy vai trò của các cơ chế đàm phán hiện nay đạt kết quả thực chất. Thứ trưởng Lê Hoài Trung nêu những lo ngại của Việt Nam trước các diễn biến phức tạp gần đây tại Biển Đông, nêu ý kiến về những quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm 1982.

Đồng chí Lê Hoài Trung đề nghị hai bên thúc đẩy hợp tác và giải quyết bất đồng theo tinh thần tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của nhau, thỏa thuận, nhận thức chung giữa hai bên và luật pháp quốc tế.

Việt Nam kiên quyết bác bỏ các yêu sách phi lý trên Biển Đông

Trước đó, như đã thông tin, trả lời cử tri về tình hình Biển Đông và những hành động của Việt Nam ứng phó với diễn biến phức tạp trên Biển Đông, tại công văn số 580,581 Bộ Ngoại giao nêu rõ, mặc dù đã có nhiều biện pháp phản đối ngoại giao, Bộ nhận định vấn đề Biển Đông đang ngày càng diễn biến phức tạp và khó lường.

Cụ thể, từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10 năm 2019, “dưới danh nghĩa khảo sát khoa học”, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, vốn được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.

Theo Bộ Ngoại giao, trước những diễn biến phức tạp vừa quan trên Biển Đông, công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo liên tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Mặc dù vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quán triệt tinh thần kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với các vùng biển của Việt Nam.

“Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta ở vùng biển này ngày càng trở nên cấp thiết, luôn là ưu tiên hàng đầu trong xây dựng chính sách đối ngoại cũng như trong quá trình xử lý các vấn đề của đất nước”, Bộ Ngoại giao nhấn mạnh.

Bộ Ngoại giao cho biết Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, về cả an ninh - quốc phòng, chính trị - ngoại giao, kinh tế - xã hội… nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

Việt Nam cũng thực hiện các hoạt động hợp tác thăm dò khai thác dầu khí của các doanh nghiệp, đảm bảo hoạt động đánh bắt bình thường của ngư dân diễn ra trên các vùng biển thuộc Việt Nam.

Để phản đối các hành vi vi phạm chủ quyền cũng như lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan đã đấu tranh ngoại giao ở nhiều cấp, thông qua các kênh khác nhau bằng nhiều hình thức.

Việt Nam cũng tăng cường tiếp xúc, đối thoại, trao đổi, trao công hàm, giao thiệp phản đối. Các hoạt động này được tiến hành trong các dịp tiếp xúc và chuyến thăm cấp cao, hội đàm song phương, trao đổi bên lề các hội nghị quốc tế và diễn đàn đa phương hoặc trong khuôn khổ các cơ chế đàm phán về vẩn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc.

Việt Nam kiên quyết bác bỏ các yêu sách phi lý và hoạt động vi phạm của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này, không tiếp diễn hành động làm phức tạp tình hình, xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam, đặc biệt là hoạt động quân sự hóa, cản trở các hoạt động phát triển kinh tế biển của Việt Nam.

“Lập trường và chính nghĩa của ta được nhiều nước trong và ngoài khu vực ủng hộ, ghi nhận. Đồng thời, nhiều nước cũng có tiếng nói mạnh mẽ phê phán các hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của ta”, Bộ Ngoại giao nêu rõ.

Trong một diễn biến liên quan, ngày 31/5, quyền Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Indonesia Teuku Faizasyah xác nhận, nước này đã chính thức gửi công hàm lên Liên hợp quốc (LHQ) bác bỏ yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông.

Theo đó, bản đồ Đường chín đoạn (đường lưỡi bò) hàm ý yêu sách quyền lịch sử của Trung Quốc tại Biển Đông không có cơ sở pháp lý quốc tế và điều này cũng có nghĩa là đã vi phạm Công ước về Luật Biển quốc tế 1982 (UNCLOS).

Indonesia tuyên bố, Chính phủ Indonesia không ủng hộ các yêu sách trái với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982 mà phía Trung Quốc đưa ra. Lập trường nhất quán của Indonesia là bác bỏ các yêu sách phi lý của Trung Quốc tại Biển Đông.

Đường lưỡi bò hay đường chín đoạn mà Trung Quốc đưa ra trong yêu sách bao gồm hầu hết các khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bất chấp sự phản đối của nhiều bên, đầu năm 2020, Trung Quốc đã tuyên bố thành lập hai đơn vị hành chính để quản lý các đảo tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông. Điều này đã bị Việt Nam, Indonesia, Philippines, Hoa Kỳ cùng nhiều quốc gia lên án mạnh mẽ.


Nguồn: https://vn.sputniknews.com/vietnam/202006019098699-trung-quoc-lap-adiZ-o-bien-dong-viet-nam-can-than/
0

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

Toan tính sai lầm của Trung Quốc ở Biển Đông thời COVID-19

Đại dịch COVID-19 là cơ hội cho nỗ lực của Trung Quốc nhằm kéo các nước Đông Nam Á lại gần hơn về phía mình. Vì vậy, trong việc xử lý xung đột ở Biển Đông, hành động cho để nhận và một cử chỉ hào phóng nào đó có thể là cách thức hữu hiệu để Bắc Kinh giành được lòng tin và sự tôn trọng từ các nước láng giềng nhỏ hơn.


Đối với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang phải vật lộn với dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona gây ra (COVID-19), việc Trung Quốc hứa hẹn cung cấp 100 triệu khẩu trang và 10 triệu bộ quần áo bảo hộ, cùng với các trang thiết bị y tế hết sức cần thiết khác, là một điều may mắn bất ngờ. Việc cung cấp những trang thiết bị này, qua kênh viện trợ và kênh thương mại, đã được Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cam kết tại Hội nghị trực tuyến đặc biệt mới đây giữa ASEAN và 3 đối tác khu vực – Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một động thái khác đáng hoan nghênh là việc Trung Quốc cam kết xây dựng cơ sở phục hồi sau COVID-19 với số vốn ban đầu trị giá 5 tỷ USD theo đề xuất của Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) do nước này dẫn dắt.

Tuy nhiên, cũng có những động thái không được hoan nghênh như việc các tàu cá Trung Quốc, được các tàu của lực lượng Cảnh sát biển nước này hộ tống, đã đi vào vùng biển xung quanh quần đảo Natuna của Indonesia hồi tháng 2 vừa qua, và việc một tàu khảo sát của Trung Quốc, được nhiều tàu khác hộ tống, mới đây đã đi vào vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, gần Việt Nam, Brunei và Malaysia. Ngoài ra, đầu tháng 4, một tàu cá của Việt Nam đã bị đâm chìm ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp sau khi va chạm với một tàu Hải cảnh Trung Quốc, với việc hai bên cùng cáo buộc đối phương đâm vào tàu của mình.

Việt Nam, Brunei và Malaysia cùng với nước thân hữu trong khối ASEAN là Philippines đã có những tuyên bố chủ quyền cạnh tranh với Trung Quốc đối với các cấu trúc địa hình khác nhau ở vùng biển đông đúc và giàu tài nguyên này. Trung Quốc và Indonesia không có các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ chồng lấn, nhưng Bắc Kinh khẳng định vùng biển xung quanh quần đảo Natuna là khu vực đánh cá truyền thống của Trung Quốc và ngư dân của họ có quyền đánh cá ở đó, cho dù khu vực này nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia.

Việc Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông vào thời điểm các nước trong khu vực đang phải vật lộn với đại dịch và dễ bị tổn thương chắc chắn sẽ khiến ASEAN lo ngại, cho dù họ đang hào hứng tiếp nhận sự giúp đỡ y tế từ người láng giềng khổng lồ này.

Trong khi các nước khác vẫn đang trong vòng vây đại dịch, tình hình dịch bệnh tại Trung Quốc đã thuyên giảm và nền kinh tế nước này đã bắt đầu bước vào tiến trình tái khởi động. Đây là thời điểm thuận lợi để Trung Quốc nắm lấy cơ hội mà đại dịch mang lại nhằm cải thiện quan hệ với khu vực Đông Nam Á vốn đang trong trạng thái căng thẳng do những tranh chấp lãnh thổ những năm gần đây, như họ đã làm trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998. Tuy nhiên, những hành động gây sức ép cùng những tuyên bố chủ quyền trên biển vào thời điểm này đã làm cho những nỗ lực của Bắc Kinh trở nên vô ích.

Giành được thiện cảm trong khủng hoảng

Trong những năm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á đã bị hủy hoại bởi những tranh chấp lãnh thổ giữa họ ở Biển Đông. Điều này bắt đầu vào năm 1995, khi Philippines phát hiện ra rằng Hải quân Trung Quốc đã và đang xây dựng các cấu trúc cố định trên Đá Vành Khăn (Mischief Reef), một đảo san hô vòng cách hòn đảo Palawan của Philippines 217 km. Đảo san hô này đều được Trung Quốc, Philippines, Việt Nam và Đài Loan tuyên bố chủ quyền.

Trung Quốc nói rằng họ xây dựng các cấu trúc này làm nơi cư trú cho các ngư dân, nhưng trên thực tế đó là hành động chiếm đóng đảo san hô này. ASEAN nhận được nhiều lời cảnh báo tới mức các ngoại trưởng trong khối đã phải họp tại Singapore để đưa ra tuyên bố chung bày tỏ lo ngại sâu sắc trước diễn biến tình hình và kêu gọi sớm đưa ra giải pháp.

Tuy nhiên, đến cuối những năm 1990, mọi việc giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ASEAN đã thay đổi. Yếu tố làm thay đổi cuộc chơi là cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Việc đồng tiền các nước trong khu vực, trong đó có Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Singapore, thay nhau mất giá đã dẫn đến suy thoái kinh tế trên toàn khu vực.

Trong lúc các cường quốc phương Tây như Mỹ còn chậm chạp trong việc dang tay giúp đỡ, Bắc Kinh đã làm được một số việc và giành được thiện cảm của các quốc gia chịu tác động của khủng hoảng. Thứ nhất, Bắc Kinh đã không phá giá đồng nhân dân tệ cho dù điều này có thể giúp bảo vệ tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu từ Trung Quốc so với hàng xuất khẩu từ các nước chịu tác động của khủng hoảng, bởi vậy tránh gây thêm sức ép cho những nền kinh tế này. Thứ hai, Trung Quốc đã viện trợ 4 tỷ USD cho các nước trong khu vực thông qua Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) – tổ chức này đã cung cấp các khoản vay để ổn định các nền kinh tế gặp khó khăn – và thông qua các kênh song phương.

Đồng thời, theo các nhà phân tích, trong cuộc khủng hoảng tài chính này, Trung Quốc cũng có cách tiếp cận linh hoạt, bớt hung hăng đối với những tranh chấp ở Biển Đông. Trong khi trước đó Bắc Kinh từ chối tiến hành các cuộc đàm phán bất chấp lời kêu gọi từ các nước ASEAN, thì vào năm 1999 Trung Quốc đã bắt đầu đối thoại với ASEAN về vấn đề Biển Đông. Kết quả của những cuộc đàm phán này là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 không mang tính ràng buộc. Tuyên bố này đặt ra các tiêu chuẩn về hành vi ứng xử để duy trì hòa bình ở những vùng biển tranh chấp. Đây cũng là khúc dạo đầu cho Bộ quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc pháp lý để giải quyết các tranh chấp.

Trong bầu không khí nồng ấm hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc và ASEAN cũng đã bắt đầu tiến hành các cuộc đàm phán vào năm 2000 về một thỏa thuận thương mại tự do, nhất trí về thỏa thuận khung vào năm 2002. Năm 2003, hai bên cũng đã bước vào mối quan hệ đối tác chiến lược. Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một thập kỷ quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN trở nên gần gũi hơn bao giờ hết trong khi những tranh chấp lãnh thổ được xếp lại và hai bên thăm dò khả năng cùng phát triển các khu vực tranh chấp. Điều này diễn ra vào thời điểm Mỹ đang bận rộn với cuộc chiến chống khủng bố ở Iraq, Afghanistan và ít can dự hơn vào khu vực Đông Nam Á.

Những tranh chấp quay trở lại

Tuy nhiên, những tranh chấp ở Biển Đông đã quay trở lại. Năm 2009, Malaysia và Việt Nam cùng đệ trình lên Liên hợp quốc kiến nghị về việc mở rộng thềm lục địa của họ theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Trung Quốc đã bác bỏ kiến nghị này với lập luận rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hòn đảo Biển Đông và các vùng biển gần kề khi đưa ra tấm bản đồ “đường 9 đoạn” đáng hổ thẹn bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông.

Căng thẳng gia tăng đã dẫn tới những xung đột như cuộc đối đầu năm 2012 giữa tàu giám sát của Trung Quốc và Hải quân Philippines ở bãi cạn Scarborough và cuộc đối đầu năm 2014 giữa các tàu của Việt Nam và Trung Quốc ở vùng biển ngoài khơi bờ biển Việt Nam sau khi Trung Quốc triển khai một giàn khoan dầu ở khu vực này.

Về kinh tế, Trung Quốc đã cạnh tranh với một số nước thành viên ASEAN về đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, Thỏa thuận thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc dường như đem lại cho Trung Quốc nhiều lợi ích hơn so với một số nước thành viên ASEAN, khiến những nước này không hài lòng.

Việc Trung Quốc xây dựng các hòn đảo nhân tạo trên các bãi đá và đảo san hô cũng như đặt các cơ sở quân sự trên những hòn đảo này đã làm gia tăng căng thẳng. Mặc dù các bên tuyên bố chủ quyền khác như Việt Nam và Philippines cũng tiến hành cải tạo và quân sự hóa các đảo mà họ chiếm giữ, nhưng quy mô và mức độ cải tạo và quân sự hóa của Trung Quốc lớn hơn rất nhiều, gây lo ngại không chỉ cho các nước thành viên ASEAN mà còn cho các cường quốc khác như Mỹ và Nhật Bản.

Tuy nhiên, sau khi Tòa Trọng tài đưa ra phán quyết năm 2016 bác bỏ những tuyên bố chủ quyền lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông, và khi tình trạng đối địch giữa Trung Quốc và Mỹ gia tăng dưới thời Tổng thống Donald Trump, Bắc Kinh đã tìm cách đàm phán về COC với ASEAN, điều mà họ đã trì hoãn trong nhiều năm. Hai bên đã đạt được một số tiến bộ với việc nhất trí về bản dự thảo vào năm 2019.

Việc Trung Quốc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong khu vực những năm gần đây thông qua sáng kiến “Vành đai và Con đường” cũng đã góp phần cải thiện quan hệ kinh tế giữa hai bên. Giờ đây, với sự bùng phát của dịch COVID-19, Trung Quốc một lần nữa có cơ hội để cải thiện quan hệ và gia tăng ảnh hưởng đối với khu vực Đông Nam Á, như họ đã làm trong năm 1997.

Trung Quốc đã cam kết cung cấp trang thiết bị y tế và cử các chuyên gia y tế đến một số nước ASEAN. Tuy nhiên, Bắc Kinh có thể làm nhiều hơn thế. Mặc dù cũng phải vật lộn với dịch bệnh trong nước vẫn chưa đạt đỉnh nhưng Mỹ, đối thủ của Trung Quốc trong khu vực, vẫn đang trợ giúp cho khu vực Đông Nam Á cả về chuyên gia lẫn tài chính. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ, có văn phòng ở 6/10 nước ASEAN, đang hỗ trợ và tư vấn các nước về cách thức đối phó với đại dịch.

Mỹ cũng đã cam kết viện trợ 18,3 triệu USD cho các nước ASEAN để giúp các nước này chuẩn bị các phòng thí nghiệm có thể tiến hành xét nghiệm trên quy mô lớn, tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin về nguy cơ dịch bệnh, thực hiện các kế hoạch đối phó với tình huống khẩn cấp liên quan đến sức khỏe cộng đồng tại các điểm kiểm soát biên giới, đào tạo và trang bị lực lượng phản ứng nhanh trong điều tra và truy vết tiếp xúc, cùng nhiều hoạt động khác.

Phó giáo sư Lý Minh Giang thuộc Trường nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Đại học công nghệ Nanyang, Singapore cho rằng Trung Quốc có thể trợ giúp về kỹ thuật và công nghệ cũng như tài chính. Nước này cũng có thể giúp xây dựng các cơ sở y tế như các bệnh viện dã chiến đã được triển khai nhanh chóng ở thành phố Vũ Hán, tâm dịch của Trung Quốc trong thời gian vừa qua.

Mặc dù đại dịch cũng đem lại cơ hội để Trung Quốc khẳng định tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình, nhưng hành động này sẽ là phản tác dụng sau những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm kéo khu vực này đến gần quỹ đạo của mình hơn. Ngày càng có nhiều người ở châu Á lo ngại việc Trung Quốc có thể tận dụng thời điểm dịch bệnh đang tác động đến các lực lượng tiền tuyến của Mỹ trong khu vực để đẩy nhanh những tham vọng của mình ở Đông Nam Á. Tàu sân bay Theodore Roosevelt của Mỹ, được triển khai ở Thái Bình Dương, đã bị dịch bệnh tấn công, với hàng trăm ca nhiễm trong đoàn thủy thủ 5.000 người.

Ông Lye Liang Fook, chuyên gia Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore cho rằng nếu Trung Quốc muốn gây ảnh hưởng đối với Đông Nam Á thay vì chỉ chi phối khu vực này thông qua sức mạnh tuyệt đối của mình, thì họ cần phải nhạy cảm hơn với những lo ngại và lợi ích của các nước trong khu vực.

Trong việc xử lý xung đột ở Biển Đông, hành động cho để nhận và một cử chỉ hào phóng nào đó có thể là cách thức hữu hiệu để Bắc Kinh giành được lòng tin và sự tôn trọng từ các nước láng giềng nhỏ hơn. Do đó, thay vì tranh giành với ngư dân của khu vực trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, hay đuổi các ngư dân nước ngoài ở các vùng biển tranh chấp và thanh minh cho những hành động như vậy bằng lập luận rằng đây là những vùng biển đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc (chúng cũng là những vùng đánh cá truyền thống của các ngư dân ở các nước xung quanh những vùng biển này), Bắc Kinh có thể bắt đầu bằng việc thăm dò khả năng ký kết các thỏa thuận đánh cá với các nước ASEAN.

Kể từ thời điểm có được một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc – chứ không phải một bộ quy tắc ứng xử không mang tính ràng buộc được Bắc Kinh ủng hộ – có tính bao trùm nhằm duy trì các vùng biển mở đến khi đạt được mục tiêu duy trì ổn định và hòa bình ở Biển Đông sẽ là một chặng đường dài.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

Trung Quốc gia tăng hành vi sai trái “chưa từng có” ở Biển Đông

Trung Quốc đang lợi dụng dịch bệnh Covid-19 để đẩy mạnh một loạt các hành vi sai trái ở mức độ “chưa từng có tiền lệ” trên Biển Đông.

Đây là nhận định được bà Sumathy Permal, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hàng hải eo biển Malacca, Malaysia đưa ra tại Hội thảo trực tuyến về vấn đề Biển Đông có chủ đề “Đi qua những vùng biển tranh chấp” diễn ra ngày 15/5 vừa qua.


Bà Sumathy Permal, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hàng hải eo biển Malacca, Malaysia tại Hội thảo.

Những hành vi gây hấn nguy hiểm

Theo nữ chuyên gia người Malaysia, từ đầu năm 2020, Biển Đông đã trở thành “điểm nóng” chứng kiến những hành vi khiêu khích và gây hấn của Trung Quốc nhằm vào các quốc gia trong khu vực. Trung Quốc đã triển khai số lượng lớn tàu tới các Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước và có những hành vi khiêu khích và quấy rối nguy hiểm.

Bà Sumathy Permal cũng cho biết, Trung Quốc cũng đã lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp tại các nước trong khu vực để tiếp tục có những hành động leo thang căng thẳng khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại mà điển hình là vụ tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá QNg 90617 TS của Việt Nam với 8 ngư dân trên tàu ngày 2/4.

Đáng chú ý, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc có hành vi hết sức nguy hiểm và đáng lên án như trên. Gần một năm trước đó, hồi tháng 6/2019, tàu cá mang số hiệu F/B GIMVER1 của Philippines với 22 ngư dân trên tàu cũng đã bị tàu Trung Quốc đâm chìm ở gần bãi Cỏ Rong trên Biển Đông.


Trung Quốc liên tục triển khai tàu thực hiện hành vi khiêu khích nguy hiểm trên Biển Đông. Ảnh: AP

“Những hành vi gây hấn nói trên cùng với việc Trung Quốc từ nhiều năm qua liên tục cải tạo phi pháp các bãi đá ở Biển Đông và xây dựng các công trình trái phép trên đó, đồng thời ngang nhiên tuyên bố thành lập cái gọi là "khu Nam Sa” và "khu Tây Sa” trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam được cho là những bước đi đầy toan tính của Trung Quốc nhằm hiện thực hoá tham vọng độc chiếm Biển Đông của nước này thông qua chiến lược Biển xanh 2020, bà Sumathy Permal nhấn mạnh.

Vị nữ chuyên gia này nêu rõ, một trong những chiến thuật chính mà Trung Quốc thường xuyên sử dụng trong suốt hơn 10 năm qua là triển khai các nhóm tàu hỗn hợp gồm các tàu cá, tàu hải cảnh và hải giám tới vùng biển của các quốc gia trong khu vực nhằm thực hiện hành vi khai thác trái phép, quấy rối thậm chí gây hấn và tấn công tàu các nước khác.

Đáng lo ngại hơn, hành vi này của Trung Quốc không những duy trì liên tục trong suốt nhiều năm qua mà còn tăng cường cả về tần suất, mức độ và số lượng tàu tham gia và đã đạt ngưỡng “chưa từng có tiền lệ” trong khoảng đầu năm 2020 và dự kiến sẽ tăng mạnh trong thời gian tới khi Trung Quốc đã “rảnh tay” hơn trong việc đối phó với Covid-19.


Cùng với việc ngang nhiên tuyên bố thành lập cái gọi là "khu Nam Sa” và "khu Tây Sa” trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam, Trung Quốc cũng đã công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể mới ở Biển Đông. Ảnh:
AFP

Duy trì biện pháp pháp lý và ngoại giao

Trước những diễn biến phức tạp và khó lường trên Biển Đông trong thời gian qua, bà Sumathy Permal cho rằng, điều quan trọng nhất hiện nay là các quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam, Philippines và Malaysia – vốn chịu nhiều tác động nhất từ các hành vi sai trái của Trung Quốc – cần tiếp tục duy trì các biện pháp pháp lý và ngoại giao cứng rắn hơn nữa nhằm đối phó với Trung Quốc.

Cụ thể, các nước trong khu vực đã nhất trí về một khuôn khổ pháp lý trong việc bảo vệ các tài nguyên, khoáng sản ở Biển Đông nhằm ngăn chặn những hành vi khai thác trái phép của Trung Quốc cũng như không để Trung Quốc tiếp tục có những động thái gây rối, cản trở hoạt động khai thái, đánh bắt cá và thăm dò dầu khí hợp pháp của các nước trong khu vực cùng các đối tác khác. Ngoài ra, một số quốc gia trong khu vực, dù không có tranh chấp trực tiếp ở Biển Đông như Indonesia cũng tham gia đề xuất các giải pháp và khuôn khổ pháp lý và ngoại giao để giải quyết căng thẳng ở Biển Đông.

Hiện đã có ít nhất 3 cơ chế và khuôn khổ pháp lý và ngoại giao khác nhau có sự tham gia của cả các nước có tranh chấp như Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam và các nước không có tranh chấp ở Biển Đông như Mỹ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhằm giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay.

Tuy nhiên, bà Sumathy Permal cho rằng, các khuôn khổ pháp lý và ngoại giao nói trên dù khá đầy đủ và đồng bộ nhưng vẫn chưa đủ sức buộc Trung Quốc từ bỏ tham vọng sai trái của mình. Trên thực tế, dù nhiều lần tuyên bố tôn trọng các thoả thuận hợp tác, đối thoại và tránh có các hoạt động làm leo thang căng thẳng ở Biển Đông, Trung Quốc vẫn liên tục khiến các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại về những hành vi gây hấn khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.

Điều này cho thấy, các khuôn khổ pháp lý và ngoại giao này vẫn chưa đủ tính ràng buộc pháp lý cần thiết để buộc Trung Quốc chấm dứt những hành động sai trái của mình. Tương tự như vậy, Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) dù đã được Trung Quốc và ASEAN thông qua năm 2012 và được coi là một văn kiện quan trọng trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông vẫn chưa thể phát huy hết tác dụng bởi cũng không mang tính ràng buộc.

Trong khi đó, việc đẩy nhanh tiến trình đàm phán thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (COC) – với tính ràng buộc pháp lý cao – được kỳ vọng sẽ ngăn ngừa căng thẳng tại những khu vực tranh chấp ở Biển Đông lại đang gặp rào cản lớn cũng do đại dịch Covid-19 khiến các cuộc đàm phán về COC không thể diễn ra trực tiếp theo lộ trình đã được các bên nhất trí thông qua.

“Tôi vẫn cho rằng, việc tiếp tục thúc đẩy tiến trình đàm phán COC trong thời gian tới [khi dịch Covid-19 qua đi-PV] là rất quan trọng. Tuy nhiên, kết quả đàm phán có thể sẽ rất khác biệt so với trước đây nếu xét đến những gì đang diễn ra trên thực địa để đảm bảo rằng sự thành công trong việc thông qua COC là một kết quả xứng đáng với những nỗ lực và quyết tâm chính trị của các nước tham gia đàm phán”, bà Sumathy Permal nêu rõ./.

Nguồn: https://vov.vn/chinh-tri/trung-quoc-gia-tang-hanh-vi-sai-trai-chua-tung-co-o-bien-dong-1050966.vov
0

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2020

Mỹ tung chiến thuật ‘khó dự đoán’ ở Biển Đông

Hai máy bay ném bom chiến lược siêu thanh B-1B Lancer đã thực hiện nhiệm vụ ở Biển Đông vào ngày 29.4. Đây là một phần trong chiến thuật “khó dự đoán” của quân đội Mỹ.


Hai máy bay ném bom B-1B tiếp cận máy bay tiếp nhiêu liệu KC-135 khi thực hiện nhiệm vụ ở Biển Đông ngày 29.4


Hai máy bay ném bom B-1B cất cánh từ căn cứ không quân Ellsworth, bang South Dakota (Mỹ), thực hiện nhiệm vụ trên Biển Đông rồi quay trở lại căn cứ, theo trang Pacific Air Forces ngày 30.4. Chuyến bay này kéo dài 32 giờ.

Hồi tuần rồi, một máy bay ném bom B-1B hôm 22.4 đã thực hiện chuyến bay kéo dài 29 giờ tới khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để bay diễn tập cùng 6 máy bay chiến đấu F-16 (Mỹ) và các chiến đấu cơ F-2, F-15 của Nhật Bản ở ngoài khơi Nhật Bản rồi quay trở lại căn cứ.

"Đây là nhiệm vụ nhằm đảm bảo cam kết với đồng minh và ngăn chặn đối thủ, cùng lúc thực hiện mô hình triển khai lực lượng linh động", ông Lincoln Coleman, chỉ huy Phi đội ném bom thứ 37, cho biết.

Chiến thuật mới của Mỹ

Trả lời phỏng vấn đài CNN, ông Timothy Heath, chuyên gia quốc phòng của tổ chức nghiên cứu chính sách Rand Corp (Mỹ), cho biết các nhiệm vụ liên tiếp và bất ngờ là một phần chiến thuật "không thể đoán trước được hoạt động" của Lầu Năm Góc hay còn gọi là mô hình triển khai lực lượng linh động. Mục tiêu của chiến thuật mới là không để cho đối thủ dự đoán được việc triển khai lực lượng cố định hoặc luân phiên.

Ông Heath chỉ ra một động thái tương tự hôm 17.4, khi đó Không quân Mỹ bất ngờ rút các máy bay ném bom B-1, B-2 và B-52 khỏi đảo Guam ở Thái Bình dương. Động thái này chấm dứt chương trình Máy bay ném bom hiện diện thường trực ở Guam.

Tuy nhiên, năm ngày sau đó, máy bay ném bom B-1B bất ngờ quay trở lại Thái Bình Dương, diễn tập với chiến đấu cơ Nhật Bản ngoài khơi bờ biển Nhật Bản. "Như vậy, dù máy bay ném bom không còn hiện diện ở Guam nhưng luôn sẵn sàng xuất kích. Tương tự, các lực lượng của Mỹ cũng có khả năng thực hiện những nhiệm vụ liên tiếp và bất ngờ ở Biển Đông, không giống mô hình trước đây vốn có thể dự đoán được", chuyên gia Heath nói.


Hai máy bay ném bom B-1B cất cánh từ căn cứ không quân Ellsworth, bang South Dakota (Mỹ) ngày 28.

Nhà phân tích Carl Schuster, cựu đại tá Hải quân Mỹ, cho biết chiến thuật “khó dự đoán” cũng thể hiện rõ khi tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Barry hôm 28.4 bất ngờ thực hiện nhiệm vụ tuần tra đảm bảo tự do hàng hải gần các đảo bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp ở quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố đã triển khai lực lượng để cảnh báo và xua đuổi khu trục hạm Mỹ USS Barry khỏi vùng biển gần Hoàng Sa ngày 28.4. Tuy nhiên, ngay ngày hôm sau (tức 29.4), Trung Quốc chắc chắn rất bất ngờ khi hai máy bay ném bom chiến lược B-1B xuất hiện ở Biển Đông và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill thì tuần tra gần Trường Sa, theo ông Schuster.

Điều này cho thấy sự thay đổi chiến thuật của Mỹ, với những cuộc tuần tra đảm bảo tự do hàng hải được thực hiện liên tiếp ở Biển Đông. Trước đây, những cuộc tuần tra như thế này thường xảy ra cách nhau vài tuần hoặc hơn.

Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo hôm 23.4 đã lên án Trung Quốc lợi dụng thế giới tập trung ứng phó đại dịch Covid-19 để tiếp tục thực hiện hành vi khiêu khích ở Biển Đông.

Ông Pompeo đã chỉ rõ những hành động phi pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông trong tháng 4, bao gồm: thành lập hai đơn vị hành chính cấp quận - huyện bất hợp pháp để kiểm soát quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam; xây trạm nghiên cứu trên Đá Chữ Thập và Đá Xu Bi ở Trường Sa; điều đội tàu dọa dẫm và ngăn chặn láng giềng thăm dò, khai thác tài nguyên ngoài khơi.

Nguồn: https://thanhnien.vn/the-gioi/my-tung-chien-thuat-kho-du-doan-o-bien-dong-1218145.html
0

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2020

COVID 19 – Nhân tố tiềm tàng làm thay đổi cuộc chơi ở Biển Đông

Vai trò “nhân tố tiềm tàng làm thay đổi cuộc chơi trên toàn cầu” của đại dịch viêm đường hô hấp cấp do virus corona chủng mới (COVID-19) có thể sẽ được bộc lộ một cách đầy đủ tại Biển Đông.


Bài viết của tác giả James Patterson, nhà báo tại Thời báo kinh doanh quốc tế (IBTimes). Bài viết được đăng trên báo IBTimes.


Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động tại tuyến hàng hải quốc tế trong bối cảnh Bộ Quốc Phòng Mỹ phải vật lộn với 1.500 ca được xác định là nhiễm virus SARS-CoV-2 trong lực lượng quân đội của họ.

Đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát tại thành phố Vũ Hán của Trung Quốc và lên tới đỉnh điểm hồi tháng 2/2020 vừa qua, được coi là dịch bệnh nghiêm trọng nhất.

Mặc dù đang phải nỗ lực để ngăn chặn làn sóng bùng phát COVID-19 lần thứ hai, song Trung Quốc cũng đang dần trở lại nhịp sống bình thường thông qua việc phô trương sức mạnh quân sự.

Trong khi đó, Mỹ đang ở vào thời kỳ đỉnh dịch COVID-19 với số lượng người nhiễm và tử vong cao ngất. Có thể nói, SARS-CoV-2 đã gây cản trở cho bất kỳ hoạt động quân sự nào của Mỹ ở Biển Đông.

Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt của Mỹ, gần đây đã tới thăm Việt Nam, hiện neo đậu tại đảo Guam sau khi có báo cáo cho biết trên con tàu này có hơn 170 ca nhiễm COVID-19. Mọi việc trở nên xấu đi sau khi thuyền trưởng của con tàu này là ông Brett Crozier bị sa thải vì ông đã viết một bức thư thúc giục hải quân Mỹ tăng cường các biện pháp kiểm soát đợt bùng phát dịch COVID-19 trên tàu. Bức thư đã bị rò rỉ cho giới truyền thông.

Một tàu sân bay khác của Hải quân Mỹ đang neo đậu tại vùng biển châu Á là tàu USS Ronald Reagan. Tuần trước, một quan chức quốc phòng Mỹ nói với hãng tin CNN rằng trên con tàu này có “rất nhiều” ca dương tính với SARS-CoV-2. Con tàu này hiện neo đậu tại Yokosuka (Nhật Bản) để bảo dưỡng. Các ca dương tính COVID-19 khác trong lực lượng quân đội Mỹ được cho là ở một căn cứ Hải quân tại Sasebo (Nhật Bản) và tại Hàn Quốc.

Một số nhà phân tích, chẳng hạn như Carl Schuster – một thuyền trưởng đã nghỉ hưu của lực lượng hải quân Mỹ và là cựu giám đốc phụ trách các chiến dịch tại Trung tâm Tình báo Liên quân của Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương Mỹ – cho rằng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) có thể sẽ tận dụng lợi thế trong lúc Mỹ đang phải tập trung sự chú ý cho một vấn đề nghiêm trọng khác. Ông nói:
“Tôi cho rằng Trung Quốc đang lợi dụng việc hải quân Mỹ phải đối mặt với những thách thức từ SARS-CoV-2 để tăng cường vị thế ở Biển Đông bằng cách hiện diện và hoạt động tùy thích”.

Vụ một tàu thuộc lực lượng Bảo vệ Bờ biển của Trung Quốc mới đây đâm chìm một tàu cá của Việt Nam chỉ càng củng cố lập luận rằng mục tiêu của Trung Quốc là giành lợi thế ở Biển Đông. Siêu cường thứ 2 thế giới này tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết diện tích Biển Đông và tỏ ra coi thường những lời phản đối của quốc tế và khu vực.

Sự phản kháng của các nước láng giềng cũng không phải là thách thức đối với lực lượng quân sự quy mô lớn của Trung Quốc, vì vậy, khu vực này phụ thuộc vào sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ với hy vọng sự hiện diện đó sẽ làm đối trọng với Trung Quốc.

Tuy nhiên, do sự bùng phát của đại dịch COVID-19, hiện giờ Mỹ dường như bị “trói tay” phần nào, ngoài việc lên tiếng chỉ trích chính phủ Trung Quốc đang tăng cường đưa ra những “tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp” ở Biển Đông.

Nữ phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus cho biết Mỹ “quan ngại sâu sắc” về việc tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Việt Nam, khiến 8 ngư dân Việt Nam bị hất khỏi tàu khi con tàu này chìm.

Bà nhấn mạnh: “Vụ việc này là sự kiện mới nhất trong một loạt hành động lâu nay của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) nhằm khẳng định các tuyên bố hàng hải bất hợp pháp của họ và gây bất lợi cho các nước láng giềng Đông Nam Á ở Biển Đông”.

Bà cho rằng Trung Quốc nên “tập trung vào việc tiếp tục hỗ trợ cộng đồng quốc tế trong nỗ lực chống đại dịch toàn cầu này và ngừng lợi dụng sự sao nhãng hay tình trạng dễ bị tổn thương của các quốc gia khác để thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền phi pháp tại Biển Đông”.

Tuyên bố của bà Ortagus cũng chỉ ra rằng kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát, Bắc Kinh đã lợi dụng tình hình để công bố 2 trạm nghiên cứu mới mà nước này thiết lập tại các căn cứ quân sự ở Đá Chữ Thập và Đá Subi, đồng thời đưa một máy bay quân sự đặc biệt ra Đá Chữ Thập.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

Lợi dụng dịch bệnh để quấy rối trên Biển Đông: Nước cờ sai của Trung Quốc

Bắc Kinh đã sai lầm khi liên tục thực hiện các hành vi khiêu khích trên Biển Đông vì cho rằng các bên liên quan sẽ phản ứng yếu ớt trong bối cảnh bận đối phó với đại dịch khởi nguồn từ Trung Quốc.

Tàu đổ bộ tấn công USS America, với khả năng triển khai tiêm kích tàng hình F-35, dẫn đầu nhóm tàu chiến Mỹ - Úc trong cuộc tập trận chung phía nam Biển Đông - Ảnh: US NAVY


Trung Quốc đã cho thấy họ sẽ không bao giờ từ bỏ các yêu sách chủ quyền vô lý trên Biển Đông, bất chấp đã bị cộng đồng quốc tế nhiều lần bác bỏ. Giới chuyên gia nhận định kể cả khi không có đại dịch COVID-19, Bắc Kinh vẫn sẽ bắt nạt ngư dân nước khác và quấy rối các hoạt động khai thác dầu khí trong khu vực.

"Trung Quốc đang tận dụng triệt để đại dịch với niềm tin là những gì họ đang làm sẽ không vấp phải sự phản đối nào hoặc phản đối yếu ớt từ các bên ở Biển Đông", chuyên gia Collin Koh đặt vấn đề và cho rằng Bắc Kinh đã đánh giá thấp phản ứng của các nước.


Việc khảo sát và đặt tên cho các thực thể địa lý dưới đáy biển với danh nghĩa nghiên cứu khoa học sẽ không bao giờ có thể trở thành cơ sở cho các yêu sách đối với vùng biển hoặc tài nguyên ở đó

___Jay Batongbacal (giám đốc Viện Các vấn đề hàng hải và Luật biển của Philippines nói về việc Trung Quốc tự tiện đặt tên cho hơn 80 thực thể địa lý ở Biển Đông)___

Gặp phản ứng mạnh

Hôm 24-4, USS Barry - tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường của hải quân Mỹ - đã băng ngang qua eo biển hẹp nằm giữa Đài Loan và Trung Quốc đại lục để tiến về phía nam (hướng đi vào Biển Đông), đánh dấu lần thứ hai trong vòng chưa đầy 1 tháng tàu chiến Mỹ đi qua khu vực này.

Đây có thể xem là một thông điệp mà Mỹ muốn gửi đến Trung Quốc rằng kể cả khi bị đại dịch hoành hành, sức mạnh quân sự và sự hiện diện của Washington tại khu vực sẽ không thay đổi.

Nói như một nhà quan sát, trong lúc Trung Quốc liên tục xâm phạm chủ quyền của nước khác trên Biển Đông, Mỹ vừa cho Trung Quốc biết cảm giác tương tự. Bắc Kinh xem Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể tách rời nhưng qua hàng chục năm vẫn chưa thể thống nhất được hòn đảo này.

Trong lúc đó tại phía nam Biển Đông, 3 tàu chiến của Mỹ và 1 tàu khu trục Úc đã tham gia một cuộc tập trận chung tại khu vực không xa nơi tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc khảo sát bất hợp pháp ở vùng biển Malaysia.

Không rõ cuộc tập trận này có được lên kế hoạch từ trước hay không, nhưng động thái của Mỹ cùng đồng minh là câu trả lời cho việc Trung Quốc lợi dụng COVID-19 dùng tàu sân bay để "diễu võ giương oai" trên Biển Đông.

Theo chuyên gia Koh, ngay cả khi tàu sân bay Mỹ không hoạt động, Washington vẫn còn nhiều tàu chiến khác sẵn sàng tiến vào khu vực và chứng minh sự hiện diện trên Biển Đông.

Trên mặt trận ngoại giao, không chỉ đối mặt với các tuyên bố phản đối liên tiếp của Việt Nam, Trung Quốc còn hứng làn sóng chỉ trích và quan ngại mạnh mẽ từ Mỹ, Nhật Bản, Úc, Philippines.

Âm mưu quấy rối xuyên suốt

Ý đồ "đục nước béo cò" của Trung Quốc đến giờ đã thể hiện rõ trên Biển Đông. Trên mặt giấy tờ, Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố thành lập hai đơn vị hành chính để quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, đồng thời gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc vu cáo Việt Nam "chiếm đóng trái phép các đảo thuộc Trung Quốc".

Các động thái trên giấy tờ lẫn ngoài thực địa diễn ra một cách dồn dập và gói gọn trong vòng 3 tuần đầu của tháng 4, khiến nhiều người tin rằng Trung Quốc đang lợi dụng tình cảnh các nước bận đối phó với dịch bệnh để thúc đẩy yêu sách trên Biển Đông.

Nhưng theo giới quan sát, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc thực hiện các hành vi khiêu khích và đe dọa nước khác như vậy trên Biển Đông. Ông Gregory B. Poling - giám đốc Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (Mỹ) - khẳng định Trung Quốc sẽ không vì đại dịch mà từ bỏ kế hoạch quấy rối dài hạn trên Biển Đông, theo Đài NPR của Mỹ.

"Các hành vi của Bắc Kinh mà chúng ta đang thấy trên Biển Đông đã từng diễn ra trước đó và chắc chắn sẽ lặp lại trong tương lai" - vị chuyên gia Mỹ nhận định.

Rõ ràng là sau khi hoàn tất việc bồi đắp trái phép các đảo nhân tạo, tức tăng cường hiện diện thường xuyên trên Biển Đông, Bắc Kinh bắt đầu lập kế hoạch dài hơi để củng cố yêu sách chủ quyền vô lý và liên tục bổ sung các "chiêu thức" mới qua từng năm.

Chẳng hạn, Trung Quốc ban đầu sử dụng tàu hải cảnh để đe dọa tàu cá nước khác thì hiện tại đã chuyển sang kết hợp tàu hải cảnh và tàu khảo sát để cản trở các hoạt động khai thác dầu khí của quốc gia khác trên Biển Đông.

Những hành động có chủ ý, có tính toán như vậy chỉ tạo ra thêm căng thẳng với các nước ASEAN và làm dấy lên sự nghi ngờ về cái gọi là sự chân thành của Trung Quốc trong việc đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Nguồn: https://tuoitre.vn/loi-dung-dich-benh-de-quay-roi-tren-bien-dong-nuoc-co-sai-cua-trung-quoc-20200426115346598.htm
0

Chuyên gia Việt Nam bác bỏ luận cứ Trung Quốc về công hàm Phạm Văn Đồng

Phạm Văn Đồng là Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1976, và là Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 1976

Trung Quốc tới nay vẫn sử dụng thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, nói đây là chứng cứ Việt Nam từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.

Vậy đánh giá mới nhất của các chuyên gia Việt Nam là thế nào?

Hôm 17/4/2020, bản công hàm từ năm 1958 do người đứng đầu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi cho người đồng cấp Chu Ân Lai của phía Trung Quốc đã được Bắc Kinh viện dẫn trong một công hàm (CML/42/2020) gửi lên Liên Hợp quốc, cùng lúc Bắc Kinh có các cáo buộc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, xâm chiếm biển, đảo của Trung Quốc.

'Bước leo thang, tuyên chiến'?

Bình luận về động thái này, Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao, nguyên Phó Vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, hiện là Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật & Phát triển, từ Hà Nội nói:

"Trước hết, đây là một bước leo thang mới của Trung Quốc trong việc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông của họ đã thể hiện rất rõ.

"Ngay tuyên bố của Trung Quốc cho rằng Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là thuộc về của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam rút khỏi và họ tuyên bố rằng Việt Nam đã chiếm những đảo và thực thể mà Việt Nam hiện nay Việt Nam đang chấn giữ một cách hợp pháp, thì họ bảo rằng đó là những vị trí mà Việt Nam đã xâm lược, cũng như đã chiếm giữ bất hợp pháp.

"Thì đây theo tôi gần như một tuyên bố có thể nói là tuyên chiến rồi, đồng thời họ nói là họ sẽ bảo vệ lợi ích ở những vùng biển này, cũng như ở các đảo này, bằng mọi phương tiện và một cách kiên quyết, thì giới chuyên gia đã bình luận đây là một lời đe dọa về dùng vũ lực rồi, không phải là bình thường nữa."


Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh năm 1965

'Nằm trong nghị trình'

Liên quan đến việc Trung Quốc công bố, viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Hoàng Ngọc Giao bình luận:

"Theo tôi, tới lúc này, đây là câu chuyện có thể sẽ nằm trong nghị trình của một phiên giải quyết tranh chấp xét xử tại một cơ quan tài phán quốc tế rằng là công hàm này có giá trị pháp lý như thế nào, đến đâu.

"Trung Quốc đã dám công bố viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng, thì họ có dám ra trước cơ quan tài phán quốc tế để tranh luận, tranh lý với Việt Nam về giá trị của công hàm này và rộng hơn là tranh luận đi đến phán xử, phán quyết về ai mới là người có chủ quyền thực sự ở Hoàng Sa, Trường Sa hay không?

"Vì lúc đó phía Việt Nam trong hồ sơ khởi kiện cũng phải chuẩn bị cho kỹ, riêng cá nhân tôi với tư cách chuyên gia, tôi đồng tình với nhiều quan điểm cho rằng công văn, công hàm Phạm Văn Đồng này không có giá trị pháp lý nào cả.

"Bởi vì căn cứ vào Hiệp định Geneva năm 1954 về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam, chia đất nước Việt Nam thành hai miền, chính trong Hiệp định đó đã quy định rất rõ Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc phía Nam của vĩ tuyến 17, và như vậy trực thuộc sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa.

Đánh đổi chính trị?
Theo chuyên gia luật học này, công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về Hoàng Sa, Trường Sa và có thể được vô hiệu hóa, nhưng đánh đổi lại nhà nước Viện Nam hiện nay phải có sự đánh đổi chính trị, hay thay đổi về quan niệm và nhìn nhận lịch sử với một nhà nước đã bị đánh sập 45 năm trước ở miền Nam Việt Nam, ông Hoàng Ngọc Giao nói tiếp:

"Thế thì từ trước đến nay, chính quyền ở Bắc Việt Nam và kể cả chính quyền Việt Nam bây giờ, trong các giới học thuật, đặc biệt học thuật về luật quốc tế, người ta vì những mục đích chính trị, cho nên người ta không chấp nhận Việt Nam Cộng Hòa như là một chủ thể độc lập của Công pháp Quốc tế.

"Và vì thế cho nên điều này cuối cùng xảy ra công hàm 'bất lợi', thì bây giờ nhà nước, chính phủ Việt Nam hiện nay mới bắt đầu nhận thấy một điều là nếu như mình phủ nhận sự tồn tại của một chính phủ, của một nhà nước chính danh, phù hợp pháp luật quốc tế, đó là Việt Nam Cộng Hòa, thì nó lại gây hại cho câu chuyện đấu tranh bảo vệ chủ quyền."

"Do vậy hiện nay, quan điểm chính thức của những người lãnh đạo Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chắc chắn không thể phủ nhận vai trò chính danh của nhà nước Việt Nam Cộng hòa, tức là miền Nam Việt Nam trước đây, trước 30/4/1975 và điều này chỉ có lợi cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và nó làm vô hiệu hóa Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958.


Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng năm 1956

"Tất nhiên bên cạnh việc công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị ở chỗ là anh không thể công nhận cái gì mà anh không có được, thì ở đây còn một ý nữa đó là công hàm này, như nhiều chuyên gia đã nói, đó là ở cấp Thủ tướng, không phải ở cấp đại diện quốc gia là một nguyên thủ quốc gia và chưa được Quốc hội phê chuẩn.

"Bởi vì những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ quốc gia bao giờ cũng phải có sự phê chuẩn của Quốc hội, và vì thế cho nên về giá trị pháp lý của nó, thì nó cũng không có giá trị pháp lý ở chỗ đó nữa.

"Điểm thứ ba nữa là Công hàm Phạm Văn Đồng nó phản ánh như một động thái chính trị phe nhóm với nhau. Cùng là phe cộng sản, thời đó Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam để đánh Mỹ.

"Thế thì nó có thể hiểu như là một tuyên bố chính trị, một động thái chính trị giữa hai bên, chứ không thể coi nó có giá trị pháp lý gì hết."

Khó khăn pháp lý?

Hôm 23/4, trả lời câu hỏi của khán, thính giả gửi cho một chương trình bình luận trực tuyến của BBC News Tiếng Việt hỏi rằng công hàm Phạm Văn Đồng 1958 gây khó khăn pháp lý gì cho cuộc đấu tranh về chủ quyền quốc gia và biển đảo của Việt Nam hiện nay, từ Đại học George Mason, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia chính trị học và bang giao quốc tế nói:

"Thực sự thì Trung Quốc đang bám vào cái đó và bảo rằng ở Việt Nam đã công nhận những điều khoản của họ rồi.

"Nhưng ngược lại chúng ta thấy có một số sự kiện cho thấy là Việt Nam cũng tương đối thay đổi. Ngày xưa, khi ông Nguyễn Tấn Dũng còn làm Thủ tướng chính phủ Việt Nam, thì ông cũng đã nói rõ rằng vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa là dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

"Thường thường, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam gọi đó là chính quyền 'ngụy quyền' và không có giá trị, thẩm quyền gì cả, nhưng bây giờ Việt Nam chứng nhận là có, như vậy có nghĩa là bảo rằng nếu là do Việt Nam Cộng hòa quản lý, thì công hàm Phạm Văn Đồng tự nó không có hiệu quả gì cả.

"Bởi vì theo quan niệm gọi là chuyển quyền từ chính phủ này sang chính phủ khác, thì chính phủ miền Bắc, khi lãnh thêm miền Nam vào miền Bắc, thì lãnh thêm cả những tiêu sản và tích sản, những quyền lợi và nghĩa vụ.

"Nếu theo quan điểm của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, thì miền Bắc chỉ thừa hưởng của miền Nam Cộng hòa, do đó họ không chịu trách nhiệm, bởi vì đã không có nghĩa vụ thì miền Bắc không có nghĩa vụ.

"Đặc biệt là bây giờ trong Liên Hợp quốc, chúng ta thấy có văn bản rõ rệt vào tháng Giêng năm 1974, thì xảy ra vụ đó, thì ông Ngoại trưởng của Việt Nam Cộng hòa là ông Vương Văn Bắc đã viết văn thư cho ông Tổng Thư ký Liên Hợp quốc và yêu cầu đưa vấn đề này ra Hội đồng Bảo an và Việt Nam Cộng hòa đã lên án Trung Quốc là xâm lấn Việt Nam.

"Thành ra những văn bản đó là những văn bản đã có ở trong Liên Hợp quốc rồi và theo luật pháp quốc tế thì nó cũng đúng.
"Cho nên đã có những động thái đó, còn bây giờ chúng ta chưa thấy tiếp tục từ hồi ông Nguyễn Tấn Dũng nói câu đó, thì sau này chúng ta chưa thấy gì cả."

'Không có nhượng chủ quyền'

Từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, sử gia và nhà nghiên cứu Trung Quốc học bình luận:

"Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ủng hộ vấn đề là xung quanh các nước, hay xung quanh các đảo thì được 12 hải lý, thế thôi, chứ không phải chấp nhận là Trung Quốc có chủ quyền ở Hoàng Sa.

"Mà cũng giống như Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng vừa nói, vấn đề này không có động chạm gì đến vấn đề chủ quyền Hoàng Sa là của Việt Nam Cộng hòa ngày xưa.

"Ngoài ra, tôi cũng cho rằng việc này chỉ là một công thư của một Thủ tướng công nhận vấn đề ở trên biển, vấn đề 12 hải lý, thôi.

"Nhưng mà cái đó không được chính quyền Việt Nam, trong đó có Quốc hội, trong đó có Chủ tịch nước ủy quyền, do đó Trung Quốc không thể dùng công thư đó để nói rằng là Việt Nam đã nhường chủ quyền ở Hoàng Sa cho Trung Quốc."

Trong dịp này, theo dõi tình hình an ninh ở Biển Đông và khu vực, một số học giả, nhà quan sát đã chia sẻ ý kiến, bình luận của mình với BBC News Tiếng Việt.

Tiến sỹ Vũ Cao Phan, nguyên Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký Hội hữu nghị Việt - Trung, nhà nghiên cứu chính trị học thuộc Đại học Bình Dương, nêu nhận định:

"Năm ngoái Trung Quốc đến Tư Chính chủ yếu là để cản trở Việt Nam ở mỏ Sao Vàng- Đại Nguyệt.

"Họ thất bại vì cuối cùng, Việt Nam vẫn hạ đặt được chân đến giàn khoan ở đây.

"Trong công bố nghiên cứu mới "Vấn đề Biển Đông: Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hiện nay", tôi có viết rằng điều quan trọng là mặc dù mọi cản trở từ phía Trung Quốc, Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ở khu vực này".

"Năm nay Việt Nam tiếp tục đặt giàn khoan ở đây, Trung Quốc cũng biết vậy nên sẽ quyết tâm phá.

"Bởi vậy, dự báo của tôi là tình hình sẽ căng thẳng và các hoạt động của Trung Quốc (gồm cả xâu chuỗi từ việc đâm chìm tàu cá cho đến các động thái khác) là đòn ra tay trước."

Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-52424973
0

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

Gây hấn cỡ nào Trung Quốc cũng không chiếm được biển Đông

Chuyên gia đặt câu hỏi liệu Trung Quốc không biết luật hay đang cố tình lật ngược luật pháp quốc tế.


Bên trong một chiếc máy bay do thám P-8A Poseidon của Hải quân Mỹ đang giám sát hoạt động của Trung Quốc ở biển Đông năm 2018. Ảnh: NEW YORK TIMES

Một thực tế là dù đại dịch COVID-19 đang hoành hành nhưng Trung Quốc (TQ) thời gian gần đây chẳng những không giảm mà còn tăng cường các động thái ở biển Đông.

Từ tháng 1, khi dịch COVID-19 mới bùng phát, các tàu bảo vệ bờ biển và tàu bán quân sự hàng hải TQ đã đổ ra các vùng biển Đông tranh chấp.

Tháng rồi TQ mở hai trạm nghiên cứu trên các bãi đá Chữ Thập và đá Subi ở quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam).


Trung Quốc cải tạo trái phép ở đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, do máy bay giám sát P-8A Poseidon chụp lại. Ảnh: US NAVY

Cũng trong tháng trước Việt Nam đã gửi công hàm ngoại giao lên Liên Hiệp Quốc phản đối các tuyên bố chủ quyền ngang ngược của TQ ở biển Đông.

Đầu tháng này, một tàu tuần tra của TQ đã đâm chìm một tàu cá của VN. Tuần trước TQ đưa tàu khảo sát Hải Dương địa chất 8 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trước khi đến hoạt động gần tàu khoan dầu West Capella của Malaysia hiện tại. Theo dữ liệu ngày 23-4 của trang web Marine Traffic chuyên theo dõi hoạt động tàu thì tàu Hải Dương địa chất 8 vẫn còn gần vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia.


Tàu Hải Dương địa chất 8 hoạt động gần bờ biển Trung Quốc năm 2018. Ảnh: SCHOTTEL

Ngày 18-4, TQ ngang ngược thông báo thành lập cái gọi là "quận đảo" Tây Sa và “quận đảo” Nam Sa để “quản lý” quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam.

Mới nhất, ngày 19-4, trên trang web của mình, Bộ Nội chính TQ ngang ngược công bố cái gọi là “danh xưng tiêu chuẩn” (tên chính thức) cho 25 đảo, bãi đá và 55 thực thể địa lý dưới đáy biển Đông. Hãng tin Sputnik lưu ý TQ tuyên bố chủ quyền ở hàng chục thực thể địa lý trên biển Đông dù Việt Nam đã có động thái phản đối chỉ vài tuần trước đó.

Ý đồ đằng sau là gì?

Về việc TQ tăng cường các động thái ở biển Đông vừa qua và hiện tại, đặc biệt chuyện TQ lập cái gọi là hai “quận đảo” Tây Sa và Nam Sa, Giáo sư Kang Lin từ Đại học Hải Nam (TQ) cho rằng các bước đi này không có gì bất ngờ.

Ông Kang Lin có ý đổ lỗi cho quốc tế đã gây áp lực khiến TQ phải hành động như thế và đặc biệt nhấn mạnh đến việc tuần tra biển Đông thường xuyên của hải quân Mỹ.

Hạm đội Thái Bình Dương của hải quân Mỹ xác nhận số lần Mỹ thực hiện tuần tra ở biển Đông trong năm 2019 cao kỷ lục so với thời gian trước. Tuy nhiên, việc tuần tra này, theo phía Mỹ là hoàn toàn dựa vào luật pháp quốc tế và phù hợp với hành xử tự do hàng hải được các nước chấp thuận.


Hình ảnh hai tàu chiến Mỹ di chuyển trên biển Đông đến khu vực tàu Hải Dương địa chất 8 hoạt động được hải quân Mỹ đưa lên Twitter.

Nhà nghiên cứu Collin Koh tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S Rajaratnam thuộc Đại học kỹ thuật Namyang (Singapore) nhận định động thái lập cái gọi là hai “quận đảo” Nam Sa và Tây Sa cho thấy TQ nhiều khả năng sẽ còn xây dựng thêm hạ tầng và tăng cường hiện diện quân sự ở khu vực.

“Bước đi này đến trong lúc các bên đang trong quá trình đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử (trên biển Đông). Rõ ràng TQ đang cố gắng củng cố lợi thế của mình ở biển Đông trước khi bộ quy tắc được công bố chính thức. Thậm chí nếu cuối cùng không có bộ quy tắc nào trở thành hiện thực, TQ vẫn muốn mình có vị trí mạnh hơn nhiều ở biển Đông” - theo nhà nghiên cứu Collin Koh.

Quá trình đàm phán giữa TQ và ASEAN về Bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông vẫn đang diễn ra, dù bản dự thảo đã được công bố tháng 8-2018. Hai bên thống nhất sẽ hoàn tất vào năm sau.

Trung Quốc “đang cố gắng lật ngược luật pháp quốc tế”?

Các động thái ngang ngược của Trung Quốc đã gặp phản ứng và chỉ trích mạnh từ nhiều chuyên gia quốc tế.

Trao đổi với hãng tin AFP, nhà nghiên cứu Bill Hayton tại tổ chức phi chính phủ - phi lợi nhuận Chatham House (Anh - chuyên phân tích các vấn đề quốc tế) đặt câu hỏi liệu có phải TQ “đang cố gắng lật ngược luật pháp quốc tế”.

“Không nước nào có thể tuyên bố chủ quyền các thực thể dưới mặt nước trừ khi các thực thể này nằm trong khoảng cách 12 hải lý kể từ bờ biển của mình. TQ không biết điều này hay đang cố tình lật ngược luật pháp quốc tế? TQ đã phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) vốn nói rất rõ ràng cái gì các nước có thể và không thể tuyên bố là lãnh thổ của mình. TQ dường như đang đi ngược lại UNCLOS với việc khẳng định chủ quyền ở những nơi rất xa” - theo nhà phân tích Hayton.


Bên trong máy bay do thám P-8A Poseidon của hải quân Mỹ đang làm nhiệm vụ giám sát thực trạng Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa trái phép các đảo và bãi đá ở biển Đông năm 2018. Ảnh: NEW YORK TIMES

Theo chuyên gia Peter Jennings, cựu quan chức quốc phòng Úc, hiện là giám đốc điều hành Viện Chính sách Chiến lược Úc: “Đây rõ ràng là một chiến lược có tính toán của TQ nhằm tối đa hóa việc lợi dụng tình hình xao nhãng lúc này và việc giảm năng lực của Mỹ để gây áp lực lên các nước láng giềng”.

Còn theo Giáo sư Alexander Vuving tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-biển Đông (Mỹ), “có vẻ dù đang chiến đấu với dịch bệnh TQ vẫn đang nghĩ về các mục tiêu chiến lược của mình”. Ông cho rằng TQ “muốn tạo ra một điều bình thường mới trên biển Đông” và để làm điều này thì TQ đã ngày càng trở nên gây hấn hơn.

Trung Quốc không dễ thực hiện ý đồ

Nhiều nhà quan sát cho rằng dù có nỗ lực và tăng cường gây hấn thế nào thì Trung Quốc cũng không dễ thực hiện ý đồ, vì vẫn còn sự theo dõi, can thiệp và phản đối của các nước trong khu vực, của Mỹ, các đồng minh Mỹ, và cộng đồng thế giới.

Tại khu vực, ngày 23-4, Bộ Ngoại giao Malaysia đã ra tuyên bố liên quan việc tàu khảo sát Hải Dương địa chất 8 của TQ tiếp cận và quấy rối tàu thăm dò dầu West Capella. Theo Ngoại trưởng Malaysia Hishammuddin Hussein, “sự hiện diện của các tàu chiến và tàu lớn khác ở biển Đông có nguy cơ gây gia tăng căng thẳng, có thể dẫn tới hậu quả tính toán sai ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh, ổn định trong khu vực”.

Trước đó, ngày 22-4, Bộ Ngoại giao Philippines gửi công hàm đến Đại sứ quán TQ tại Manila phản đối việc TQ lập cái gọi là "quận đảo" Tây Sa và “quận đảo” Nam Sa. Bên cạnh công hàm trên, Manila cũng gửi một công hàm khác phản đối việc tàu TQ chĩa hệ thống điều khiển hỏa lực về phía tàu hải quân Philippines trong vùng biển Philippines.

Ngày 21-4, hải quân Mỹ thông báo đã đưa tàu tấn công đổ bộ USS America và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đến khu vực gần nơi tàu Hải Dương địa chất 8 hoạt động.

Một ngày sau, Bộ Quốc phòng Úc xác nhận tàu hộ vệ HMAS Parramatta của hải quân Hoàng gia Úc và tàu khu trục USS Barry của hải quân Mỹ cũng được điều đến khu vực. Ba tàu chiến Mỹ và một tàu chiến Úc đã thực hiện một cuộc tập trận hàng hải chung.


Bốn tàu chiến của Mỹ và Úc trong cuộc tập trận ngày 22-4 ở biển Đông. Ảnh: BỘ QUỐC PHÒNG ÚC

Phía Mỹ cho biết Washington mong muốn sự hiện diện của các tàu Mỹ ở khu vực sẽ "thúc đẩy tự do hàng hải, hàng không và các nguyên tắc quốc tế làm nền tảng an ninh và thịnh vượng cho khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương".

Từ tuần trước Mỹ cáo buộc TQ đẩy mạnh hiện diện ở các vùng biển tranh chấp trong lúc các nước khác đang bận rộn chống dịch COVID-19 và kêu gọi TQ chấm dứt chiến thuật bắt nạt ở biển Đông.

Nguồn: https://plo.vn/quoc-te/chuyen-gia/gay-han-co-nao-trung-quoc-cung-khong-chiem-duoc-bien-dong-907987.html
0

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2020

Biển Đông: Ai sẽ liên minh và hậu thuẫn Việt Nam?


(BBC Tiếng Việt) - Việt Nam không nên liên minh quân sự với bất cứ nước mạnh nào kể cả Mỹ, và cũng không có nước nào có thể hậu thuẫn Việt Nam trong lúc này, ý kiến các học giả từ đại học Hoa Kỳ.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long, nhà nghiên cứu lịch sử và Trung Quốc học từ Đại học Maine nêu quan điểm:

"Tôi nghĩ Việt Nam không nên liên minh với một nước mạnh, nhất là liên minh với Mỹ. Tăng cường sự hợp tác về an ninh với Mỹ là tốt, nhưng mà liên minh sẽ cho Trung Quốc cái cớ để làm áp lực với Việt Nam đủ mọi việc.

"Chúng ta phải nên nghĩ rằng ngoài Biển Đông còn đất liền nữa, mà đất liền, vấn đề về quân sự, về kinh tế v.v… rất là lớn, Trung Quốc có cớ, thể lực để mà đánh Việt Nam theo kế gọng kìm.

"Việt Nam nên suy nghĩ chín chắn trong vấn đề có liên minh hay là không, nhưng mà tôi nghĩ củng cố an ninh của mình bằng cách tăng cường sự hợp tác với các nước trong khu vực và Mỹ hay Úc là vấn đề tốt thôi."


Tổng thống Pháp Emmanuel Macron chào đón ông Nguyễn Phú Trọng ở Paris tháng 3/2018

'Liên minh với ai, ai liên minh?'

Việt Nam cần làm gì nếu Trung Quốc có hành vi được cho là lấn tới, thậm chí có hành động quân sự với Trường Sa và trên Biển Đông như đã từng tiến hành các năm 1974, 1988 trước đây, Giáo sư Long bình luận tiếp:

"Việt Nam phải kêu gọi các nước vì an ninh chung, vấn đề liên minh là vấn đề xưa rồi, chẳng hạn như là Mỹ liên minh với Philippines hay là liên minh với Đài Loan, hay là với Hàn Quốc, đó là thời chiến tranh Lạnh.

"Bây giờ thời đó đã đi qua rồi, có thể trong tương lai xa sẽ trở lại, nhưng mà bây giờ đi đến vấn đề liên minh thì tôi nghĩ rất là nguy hiểm."

Từ Đại học George Mason, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, nhà nghiên cứu chính trị và bang giao quốc tế phát biểu:
"Việt Nam, liên minh quân sự với nước nào để chống Trung Quốc, thì giải pháp ấy là không thực tiễn.

"Việt Nam muốn liên minh thì liên minh với ai? Đông Nam Á, không ai muốn liên minh với Việt Nam cả. Những nước lớn như Ấn Độ thì cứ theo chính sách lờ mờ, trung lập, có thể hiện nay là hơi chống Trung Quốc một chút.

"Nhưng mà truyền thống của Ấn Độ là cứ đứng ngoài diễn thuyết về đạo lý cho người khác thôi, chứ không dính dáng vào.
"Nhật Bản, hiến pháp rất giới hạn việc đó. Thành ra những nước mà đáng có thể giúp cho Việt Nam ở trong vùng thì không có.

"Mỹ hiện nay là một đồng minh không khả tin, là bởi vì thứ nhất trong chính sách nội bộ đối với Trung Quốc thì đã chưa đồng nhất rồi.

"Mỹ luôn luôn tính toán. Liên minh thì phải có lợi cho Mỹ. Tức là hai bên cùng có lợi, tức là khi nào tích sản thì gọi là liên minh, còn nếu là tiêu sản, làm hại cho mình, thì không liên minh nữa.

"Vì thế, nếu Việt Nam dùng Mỹ để liên minh để chống Trung Quốc, thì Mỹ lại sợ rằng nếu trong trường hợp này Việt Nam gan lên, thì Mỹ lại tự nhiên phải đi vào đánh nhau với Trung Quốc, Mỹ sẽ không muốn phải vì Việt Nam mà chiến tranh với Trung Quốc.

"Cho nên tình hình hiện tại cho thấy giải pháp đó không thực tiễn. Việt Nam cũng không muốn và không ai muốn chuyện đó xảy ra trong lúc này."


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Tổng thống Mỹ Donald Trump ở Hà Nội tháng 11/2017

Từ tìm hiểu tương quan

Việt Nam cần phải làm gì, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nêu quan điểm:

"Trên thực tế, bất cứ luật pháp cũng phải hậu thuẫn được bằng sức mạnh, thành ra phải có một tương quan lực lượng tốt đẹp, thuận lợi nào thì mới có thể ngăn chặn được Trung Quốc.

"Về tương quan lực lượng, nước có thể đối trọng nhất với Trung Quốc là Mỹ và Mỹ hiện nay ở trong rắc rối đó.

"Thí dụ về mặt lý thuyết thôi, Mỹ thấy Việt Nam là quan trọng và Mỹ cũng cần đến cái đó, thì thực sự Việt Nam có thể vận dụng khối các quốc gia Đông Nam Á, với điều kiện là khối đó thuần nhất.

"Hai cái đó tương tác với nhau, nếu mà khối Đông Nam Á thuần nhất, cùng cố gắng chống Trung Quốc, thì lại giúp cho Mỹ can thiệp nhiều hơn và can dự nhiều hơn.

"Ngược lại, Mỹ càng can thiệp ít hơn, các quốc gia kia càng chia rẽ hơn, là vì họ phải tính rằng nếu Trung Quốc trở thành một lực lượng trội ở khu vực đó, nếu Mỹ mà không giúp họ, họ phải tìm cách thích ứng với một quốc gia lớn hơn mình.

"Thì đó là lý do hiện nay mà chúng ta thấy các quốc gia không có quyền lợi thiết thực về Biển Đông thì tìm cách "rón rén" đi dây, nếu Mỹ tiến thì tôi tiến theo, Mỹ lùi thì tôi phải tiếp ứng Trung Quốc.

"Thành ra chúng ta thấy hai yếu tố đáng để ý. Thứ nhất là sự đoàn kết Đông Nam Á và thứ hai, sự can dự của Mỹ. Hai cái có tác dụng hỗ tương với nhau.

"Và trong trường hợp Đông Nam Á, mà theo phương thức đồng thuận thì không bao giờ làm được cái gì lớn cả. Đồng thuận chỉ có tính cách mẫu số chung nhỏ nhất, cái mà ít người chống đối nó thôi. Còn vì thế phải có quyết liệt."


Việt Nam ngày càng mở cửa với thế giới

Đến chính sách, vận dụng

Việt Nam cần khéo léo tìm phương thức vận dụng để thu được lợi ích cho mình, GS Nguyễn Mạnh Hùng nói tiếp:
"Nếu muốn vận động cái đó thì dĩ nhiên phải vận động một khối nào đó nó trở thành một sự thúc đẩy, những nước quan trọng mà thúc đẩy.

"Thì những nước đó có quyền lợi chung, có thể nên vận dụng những nước có quyền lợi chung đó. Và một trong những nước rất quan trọng mà tôi nghĩ là khó lôi họ vào là Indonesia. Indonesia là nước rất mạnh, đông dân.

"Nếu họ có quan tâm đến thì tốt hơn, nhưng theo ước tính của tôi thì Indonesia có đường lối riêng của họ, khó đưa vào. Thì chỉ còn vài nước nhỏ thôi - Philippines, Malaysia, như Việt Nam, là những nước có quan hệ, trên lý thuyết, nên vận động những nước đó và nhất là vận động cả Singapore nữa.

"Thành ra, nếu có sự ủng hộ thêm của Singapore, sẽ tạo thêm uy tín, sức mạnh quốc tế - quyền lợi mềm của họ, nên vận động.

"Do đó, chúng ta thấy mỗi nước đều có quyền lợi riêng, cho nên về lý thuyết thì nên vận động, nhưng mà về thực tiễn, thì tôi thấy cuộc vận động đó rất là khó khăn," học giả từ Đại học George Mason, Hoa Kỳ nói với BBC News Tiếng Việt.

Ngồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-52405172
0

Việt Nam bác công hàm của Trung Quốc về Biển Đông

Việt Nam bác bỏ quan điểm sai trái về yêu sách chủ quyền Biển Đông Trung Quốc đưa ra trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc hôm 17/4.

"Việt Nam đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc", ông Ngô Toàn Thắng, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao, nói trong họp báo trực tuyến thường kỳ chiều 23/4.

Trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc ngày 17/4, Trung Quốc cho rằng cộng đồng quốc tế và cả chính phủ Việt Nam đã "công nhận chủ quyền" của Bắc Kinh với cái gọi là Tây Sa và Nam Sa. Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.


Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Ngô Toàn Thắng trong họp báo ngày 23/4. Ảnh: BNGVN.

Công hàm của Trung Quốc dẫn Công thư năm 1958, cho rằng "Chính phủ Việt Nam công nhận và ủng hộ tuyên bố của chính phủ Trung Quốc về lãnh hải mà Trung Quốc đưa ra ngày 4/9/1958". Theo đó, Trung Quốc đòi có "lãnh hải 12 hải lý, áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, gồm có Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc".

Hồi tháng 6/2014, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia lúc đó, khẳng định Việt Nam chưa bao giờ công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông Hải nhấn mạnh Công thư năm 1958 không đề cập vấn đề chủ quyền và Trung Quốc đã tìm cách diễn giải sai văn bản này.

Đề cập việc Trung Quốc ban hành cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể ở Biển Đông, phó phát ngôn Ngô Toàn Thắng cho biết Việt Nam coi mọi hành vi phương hại đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng biển của mình đều vô giá trị, không được công nhận và Việt Nam kiên quyết phản đối.

Bộ Dân chính và Bộ Tài nguyên Trung Quốc ngày 19/4 công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 25 đảo, rạn san hô và 55 thực thể địa lý dưới biển ở Biển Đông, đồng thời công bố tọa độ của chúng. Theo Greg Poling, chuyên gia tại Trung tâm Nghiên cứu và Chiến lược Quốc tế, một số "danh xưng" này được Trung Quốc ngang ngược đặt cho các thực thể thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Liên quan đến tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và các nước khác, phó phát ngôn cho hay ngày 10/4, Việt Nam đã lưu hành công hàm tại Liên Hợp Quốc để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, mọi yêu sách biển trái với quy định UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam là không có giá trị.

Việt Nam cho rằng tất cả các quốc gia có nghĩa vụ và lợi ích chung trong việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bao gồm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế để chống lại toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.

"Trên tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng giải quyết tranh chấp với các quốc gia liên quan thông qua đàm phán cũng như các biện pháp hòa bình khác, kể cả các biện pháp quy định tại UNCLOS", ông Thắng nói.

Nguồn: https://vnexpress.net/viet-nam-bac-cong-ham-cua-trung-quoc-ve-bien-dong-4089271.html
0