Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng - Trường Sa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng - Trường Sa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2021

Việt Nam tăng cường phòng thủ chống Trung Quốc ở Trường Sa

(SCMP - 22.2.2021) Báo cáo của một tổ chức nghiên cứu chính sách có trụ sở tại Washington cho biết Việt Nam đã xây dựng hệ thống phòng thủ ở quần đảo Trường Sa trong hai năm qua để “đảm bảo có thể giáng đòn vào các cơ sở của Trung Quốc” tại quần đảo tranh chấp này.
0

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

Toan tính sai lầm của Trung Quốc ở Biển Đông thời COVID-19

Đại dịch COVID-19 là cơ hội cho nỗ lực của Trung Quốc nhằm kéo các nước Đông Nam Á lại gần hơn về phía mình. Vì vậy, trong việc xử lý xung đột ở Biển Đông, hành động cho để nhận và một cử chỉ hào phóng nào đó có thể là cách thức hữu hiệu để Bắc Kinh giành được lòng tin và sự tôn trọng từ các nước láng giềng nhỏ hơn.


Đối với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang phải vật lộn với dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona gây ra (COVID-19), việc Trung Quốc hứa hẹn cung cấp 100 triệu khẩu trang và 10 triệu bộ quần áo bảo hộ, cùng với các trang thiết bị y tế hết sức cần thiết khác, là một điều may mắn bất ngờ. Việc cung cấp những trang thiết bị này, qua kênh viện trợ và kênh thương mại, đã được Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cam kết tại Hội nghị trực tuyến đặc biệt mới đây giữa ASEAN và 3 đối tác khu vực – Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một động thái khác đáng hoan nghênh là việc Trung Quốc cam kết xây dựng cơ sở phục hồi sau COVID-19 với số vốn ban đầu trị giá 5 tỷ USD theo đề xuất của Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) do nước này dẫn dắt.

Tuy nhiên, cũng có những động thái không được hoan nghênh như việc các tàu cá Trung Quốc, được các tàu của lực lượng Cảnh sát biển nước này hộ tống, đã đi vào vùng biển xung quanh quần đảo Natuna của Indonesia hồi tháng 2 vừa qua, và việc một tàu khảo sát của Trung Quốc, được nhiều tàu khác hộ tống, mới đây đã đi vào vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, gần Việt Nam, Brunei và Malaysia. Ngoài ra, đầu tháng 4, một tàu cá của Việt Nam đã bị đâm chìm ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp sau khi va chạm với một tàu Hải cảnh Trung Quốc, với việc hai bên cùng cáo buộc đối phương đâm vào tàu của mình.

Việt Nam, Brunei và Malaysia cùng với nước thân hữu trong khối ASEAN là Philippines đã có những tuyên bố chủ quyền cạnh tranh với Trung Quốc đối với các cấu trúc địa hình khác nhau ở vùng biển đông đúc và giàu tài nguyên này. Trung Quốc và Indonesia không có các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ chồng lấn, nhưng Bắc Kinh khẳng định vùng biển xung quanh quần đảo Natuna là khu vực đánh cá truyền thống của Trung Quốc và ngư dân của họ có quyền đánh cá ở đó, cho dù khu vực này nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia.

Việc Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông vào thời điểm các nước trong khu vực đang phải vật lộn với đại dịch và dễ bị tổn thương chắc chắn sẽ khiến ASEAN lo ngại, cho dù họ đang hào hứng tiếp nhận sự giúp đỡ y tế từ người láng giềng khổng lồ này.

Trong khi các nước khác vẫn đang trong vòng vây đại dịch, tình hình dịch bệnh tại Trung Quốc đã thuyên giảm và nền kinh tế nước này đã bắt đầu bước vào tiến trình tái khởi động. Đây là thời điểm thuận lợi để Trung Quốc nắm lấy cơ hội mà đại dịch mang lại nhằm cải thiện quan hệ với khu vực Đông Nam Á vốn đang trong trạng thái căng thẳng do những tranh chấp lãnh thổ những năm gần đây, như họ đã làm trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998. Tuy nhiên, những hành động gây sức ép cùng những tuyên bố chủ quyền trên biển vào thời điểm này đã làm cho những nỗ lực của Bắc Kinh trở nên vô ích.

Giành được thiện cảm trong khủng hoảng

Trong những năm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á đã bị hủy hoại bởi những tranh chấp lãnh thổ giữa họ ở Biển Đông. Điều này bắt đầu vào năm 1995, khi Philippines phát hiện ra rằng Hải quân Trung Quốc đã và đang xây dựng các cấu trúc cố định trên Đá Vành Khăn (Mischief Reef), một đảo san hô vòng cách hòn đảo Palawan của Philippines 217 km. Đảo san hô này đều được Trung Quốc, Philippines, Việt Nam và Đài Loan tuyên bố chủ quyền.

Trung Quốc nói rằng họ xây dựng các cấu trúc này làm nơi cư trú cho các ngư dân, nhưng trên thực tế đó là hành động chiếm đóng đảo san hô này. ASEAN nhận được nhiều lời cảnh báo tới mức các ngoại trưởng trong khối đã phải họp tại Singapore để đưa ra tuyên bố chung bày tỏ lo ngại sâu sắc trước diễn biến tình hình và kêu gọi sớm đưa ra giải pháp.

Tuy nhiên, đến cuối những năm 1990, mọi việc giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ASEAN đã thay đổi. Yếu tố làm thay đổi cuộc chơi là cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Việc đồng tiền các nước trong khu vực, trong đó có Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Singapore, thay nhau mất giá đã dẫn đến suy thoái kinh tế trên toàn khu vực.

Trong lúc các cường quốc phương Tây như Mỹ còn chậm chạp trong việc dang tay giúp đỡ, Bắc Kinh đã làm được một số việc và giành được thiện cảm của các quốc gia chịu tác động của khủng hoảng. Thứ nhất, Bắc Kinh đã không phá giá đồng nhân dân tệ cho dù điều này có thể giúp bảo vệ tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu từ Trung Quốc so với hàng xuất khẩu từ các nước chịu tác động của khủng hoảng, bởi vậy tránh gây thêm sức ép cho những nền kinh tế này. Thứ hai, Trung Quốc đã viện trợ 4 tỷ USD cho các nước trong khu vực thông qua Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) – tổ chức này đã cung cấp các khoản vay để ổn định các nền kinh tế gặp khó khăn – và thông qua các kênh song phương.

Đồng thời, theo các nhà phân tích, trong cuộc khủng hoảng tài chính này, Trung Quốc cũng có cách tiếp cận linh hoạt, bớt hung hăng đối với những tranh chấp ở Biển Đông. Trong khi trước đó Bắc Kinh từ chối tiến hành các cuộc đàm phán bất chấp lời kêu gọi từ các nước ASEAN, thì vào năm 1999 Trung Quốc đã bắt đầu đối thoại với ASEAN về vấn đề Biển Đông. Kết quả của những cuộc đàm phán này là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 không mang tính ràng buộc. Tuyên bố này đặt ra các tiêu chuẩn về hành vi ứng xử để duy trì hòa bình ở những vùng biển tranh chấp. Đây cũng là khúc dạo đầu cho Bộ quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc pháp lý để giải quyết các tranh chấp.

Trong bầu không khí nồng ấm hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc và ASEAN cũng đã bắt đầu tiến hành các cuộc đàm phán vào năm 2000 về một thỏa thuận thương mại tự do, nhất trí về thỏa thuận khung vào năm 2002. Năm 2003, hai bên cũng đã bước vào mối quan hệ đối tác chiến lược. Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một thập kỷ quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN trở nên gần gũi hơn bao giờ hết trong khi những tranh chấp lãnh thổ được xếp lại và hai bên thăm dò khả năng cùng phát triển các khu vực tranh chấp. Điều này diễn ra vào thời điểm Mỹ đang bận rộn với cuộc chiến chống khủng bố ở Iraq, Afghanistan và ít can dự hơn vào khu vực Đông Nam Á.

Những tranh chấp quay trở lại

Tuy nhiên, những tranh chấp ở Biển Đông đã quay trở lại. Năm 2009, Malaysia và Việt Nam cùng đệ trình lên Liên hợp quốc kiến nghị về việc mở rộng thềm lục địa của họ theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Trung Quốc đã bác bỏ kiến nghị này với lập luận rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hòn đảo Biển Đông và các vùng biển gần kề khi đưa ra tấm bản đồ “đường 9 đoạn” đáng hổ thẹn bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông.

Căng thẳng gia tăng đã dẫn tới những xung đột như cuộc đối đầu năm 2012 giữa tàu giám sát của Trung Quốc và Hải quân Philippines ở bãi cạn Scarborough và cuộc đối đầu năm 2014 giữa các tàu của Việt Nam và Trung Quốc ở vùng biển ngoài khơi bờ biển Việt Nam sau khi Trung Quốc triển khai một giàn khoan dầu ở khu vực này.

Về kinh tế, Trung Quốc đã cạnh tranh với một số nước thành viên ASEAN về đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, Thỏa thuận thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc dường như đem lại cho Trung Quốc nhiều lợi ích hơn so với một số nước thành viên ASEAN, khiến những nước này không hài lòng.

Việc Trung Quốc xây dựng các hòn đảo nhân tạo trên các bãi đá và đảo san hô cũng như đặt các cơ sở quân sự trên những hòn đảo này đã làm gia tăng căng thẳng. Mặc dù các bên tuyên bố chủ quyền khác như Việt Nam và Philippines cũng tiến hành cải tạo và quân sự hóa các đảo mà họ chiếm giữ, nhưng quy mô và mức độ cải tạo và quân sự hóa của Trung Quốc lớn hơn rất nhiều, gây lo ngại không chỉ cho các nước thành viên ASEAN mà còn cho các cường quốc khác như Mỹ và Nhật Bản.

Tuy nhiên, sau khi Tòa Trọng tài đưa ra phán quyết năm 2016 bác bỏ những tuyên bố chủ quyền lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông, và khi tình trạng đối địch giữa Trung Quốc và Mỹ gia tăng dưới thời Tổng thống Donald Trump, Bắc Kinh đã tìm cách đàm phán về COC với ASEAN, điều mà họ đã trì hoãn trong nhiều năm. Hai bên đã đạt được một số tiến bộ với việc nhất trí về bản dự thảo vào năm 2019.

Việc Trung Quốc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong khu vực những năm gần đây thông qua sáng kiến “Vành đai và Con đường” cũng đã góp phần cải thiện quan hệ kinh tế giữa hai bên. Giờ đây, với sự bùng phát của dịch COVID-19, Trung Quốc một lần nữa có cơ hội để cải thiện quan hệ và gia tăng ảnh hưởng đối với khu vực Đông Nam Á, như họ đã làm trong năm 1997.

Trung Quốc đã cam kết cung cấp trang thiết bị y tế và cử các chuyên gia y tế đến một số nước ASEAN. Tuy nhiên, Bắc Kinh có thể làm nhiều hơn thế. Mặc dù cũng phải vật lộn với dịch bệnh trong nước vẫn chưa đạt đỉnh nhưng Mỹ, đối thủ của Trung Quốc trong khu vực, vẫn đang trợ giúp cho khu vực Đông Nam Á cả về chuyên gia lẫn tài chính. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ, có văn phòng ở 6/10 nước ASEAN, đang hỗ trợ và tư vấn các nước về cách thức đối phó với đại dịch.

Mỹ cũng đã cam kết viện trợ 18,3 triệu USD cho các nước ASEAN để giúp các nước này chuẩn bị các phòng thí nghiệm có thể tiến hành xét nghiệm trên quy mô lớn, tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin về nguy cơ dịch bệnh, thực hiện các kế hoạch đối phó với tình huống khẩn cấp liên quan đến sức khỏe cộng đồng tại các điểm kiểm soát biên giới, đào tạo và trang bị lực lượng phản ứng nhanh trong điều tra và truy vết tiếp xúc, cùng nhiều hoạt động khác.

Phó giáo sư Lý Minh Giang thuộc Trường nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Đại học công nghệ Nanyang, Singapore cho rằng Trung Quốc có thể trợ giúp về kỹ thuật và công nghệ cũng như tài chính. Nước này cũng có thể giúp xây dựng các cơ sở y tế như các bệnh viện dã chiến đã được triển khai nhanh chóng ở thành phố Vũ Hán, tâm dịch của Trung Quốc trong thời gian vừa qua.

Mặc dù đại dịch cũng đem lại cơ hội để Trung Quốc khẳng định tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình, nhưng hành động này sẽ là phản tác dụng sau những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm kéo khu vực này đến gần quỹ đạo của mình hơn. Ngày càng có nhiều người ở châu Á lo ngại việc Trung Quốc có thể tận dụng thời điểm dịch bệnh đang tác động đến các lực lượng tiền tuyến của Mỹ trong khu vực để đẩy nhanh những tham vọng của mình ở Đông Nam Á. Tàu sân bay Theodore Roosevelt của Mỹ, được triển khai ở Thái Bình Dương, đã bị dịch bệnh tấn công, với hàng trăm ca nhiễm trong đoàn thủy thủ 5.000 người.

Ông Lye Liang Fook, chuyên gia Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore cho rằng nếu Trung Quốc muốn gây ảnh hưởng đối với Đông Nam Á thay vì chỉ chi phối khu vực này thông qua sức mạnh tuyệt đối của mình, thì họ cần phải nhạy cảm hơn với những lo ngại và lợi ích của các nước trong khu vực.

Trong việc xử lý xung đột ở Biển Đông, hành động cho để nhận và một cử chỉ hào phóng nào đó có thể là cách thức hữu hiệu để Bắc Kinh giành được lòng tin và sự tôn trọng từ các nước láng giềng nhỏ hơn. Do đó, thay vì tranh giành với ngư dân của khu vực trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, hay đuổi các ngư dân nước ngoài ở các vùng biển tranh chấp và thanh minh cho những hành động như vậy bằng lập luận rằng đây là những vùng biển đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc (chúng cũng là những vùng đánh cá truyền thống của các ngư dân ở các nước xung quanh những vùng biển này), Bắc Kinh có thể bắt đầu bằng việc thăm dò khả năng ký kết các thỏa thuận đánh cá với các nước ASEAN.

Kể từ thời điểm có được một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc – chứ không phải một bộ quy tắc ứng xử không mang tính ràng buộc được Bắc Kinh ủng hộ – có tính bao trùm nhằm duy trì các vùng biển mở đến khi đạt được mục tiêu duy trì ổn định và hòa bình ở Biển Đông sẽ là một chặng đường dài.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Âm mưu dùng 'Tứ Sa' để thay thế đường lưỡi bò của Trung Quốc

Với chiến lược "Tứ Sa", Trung Quốc âm mưu yêu sách vùng biển còn lớn hơn cả khu vực giới hạn trong "đường lưỡi bò", nhưng cả hai đều không có cơ sở pháp lý và cố ý nhập nhằng.

Trung Quốc đã công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể mới ở Biển Đông. Ảnh: AFP.


Trong bài viết được đăng trên chuyên trang Maritime Issues hồi cuối tháng 4, phó giáo sư - tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Anh đưa ra lời cảnh báo nghiêm khắc.

"Trong khi cộng đồng quốc tế có thể chọn cách cười nhạo những yêu sách vô căn cứ của Trung Quốc hoặc theo dõi và lên tiếng chống lại những nỗ lực của họ nhằm viết lại luật quốc tế, thì những nước im lặng sẽ phải đối mặt với hậu quả hiển nhiên là một trật tự thế giới mới chỉ có lợi cho một nước và gây bất lợi cho tất cả".

"Yêu sách vô căn cứ" mà vị chuyên gia hàng đầu Việt Nam về luật biển, nguyên phó viện trưởng Viện Biển Đông thuộc Học viện Ngoại giao, nhắc đến là cái mà Trung Quốc gọi là "Nam Hải chư đảo", hay "Tứ Sa", đề cập đến các đảo, đá và thực thể khác ở Biển Đông.

Trong động thái mà bà Lan Anh cho là có liên quan đến yêu sách này, Trung Quốc hôm 19/4 đã công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể ở Biển Đông.

Vị chuyên gia cho rằng dù chưa rõ Trung Quốc sẽ gộp 80 thực thể mà họ nói là mới phát hiện này vào Hoàng Sa hay Trường Sa, điều "tương đối chắc chắn" là Trung Quốc xem chúng thuộc "Nam Hải chư đảo" và vì vậy có thể tạo ra quyền và lợi ích trên biển.

Chiêu sách mới "Tứ Sa"


Lập luận "Tứ Sa" được đề cập một cách không chính thức vào tháng 8/2017 bởi Mã Tân Dân, người khi đó là vụ phó Vụ Điều ước và Luật pháp thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc, trong một cuộc họp kín với các quan chức Mỹ ở Boston, để khẳng định chủ quyền ở Biển Đông.

"Tứ Sa" bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (Bắc Kinh gọi tương ứng là Tây Sa và Nam Sa), bãi ngầm Macclesfield và bãi cạn Scarborough mà Bắc Kinh gộp chung gọi là "quần đảo Trung Sa", cùng nhóm đảo Pratas mà Bắc Kinh gọi là "quần đảo Đông Sa".

Trước đó, Trung Quốc đưa ra yêu sách "đường chín đoạn" hay "đường lưỡi bò" để tuyên bố chủ quyền đối với khoảng 80% diện tích Biển Đông, bao gồm các nhóm thực thể nói trên và vùng biển lân cận.


Trung Quốc âm mưu dùng "Tứ Sa" để tạo lớp vỏ mới cho "đường lưỡi bò". Đồ họa: Washington Beacon.

Tuy nhiên, cái gọi là "đường lưỡi bò" đã bị tòa trọng tài quốc tế bác bỏ vào năm 2016, khiến Trung Quốc, dù tuyên bố không thừa nhận phán quyết, vẫn cần phải xây dựng yêu sách và lập luận mới.

"Ngay cả các luật sư quốc tế Trung Quốc cũng biết rằng đường lưỡi bò không có cơ sở trong luật quốc tế", tiến sĩ Zachary Abuza, nhà nghiên cứu về chính trị và an ninh Đông Nam Á tại Đại học Chiến tranh Quốc gia ở Washington D.C., nói với Zing.

"Vì vậy, nếu họ là luật sư thông minh, họ sẽ cố thuyết phục thân chủ của mình áp dụng chiến lược có căn cứ pháp luật hơn một chút".

Chiến lược đó chính là "Tứ Sa", dù nguồn gốc của cách tiếp cận này không phải mới.

Trên thực tế, "Tứ Sa" là cách diễn đạt nôm na cho cái mà Trung Quốc từ lâu đã gọi là "Nam Hải chư đảo", tức "các đảo ở Nam Hải", theo cách nước này gọi Biển Đông.

Trong công hàm gửi Tổng thư ký LHQ hôm 17/4, Trung Quốc lấy lý lẽ "dựa trên UNCLOS" để đòi các quyền và lợi ích với "Nam Hải chư đảo", cũng như các quyền và lợi ích ở Biển Đông dựa trên các tập quán lịch sử và luật pháp quốc tế, theo bà Lan Anh.

Dùng "Tứ Sa" để có vẻ phù hợp với UNCLOS


Vị chuyên gia luật biển cho rằng Trung Quốc đưa ra "Tứ Sa" để những yêu sách của họ về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đối với "Nam Hải chư đảo" có vẻ "phù hợp hơn" với ngôn ngữ của Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) 1982, tránh sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế.

Thay vì tuyên bố "chủ quyền lịch sử" đối với vùng biển nằm trong "đường lưỡi bò", Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc mà họ xem là đảo.

"Trung Quốc đang cố giảm bớt vai trò của 'đường lưỡi bò' vì đó là sự xấu hổ và không nước nào chấp nhận yêu sách đó", James Kraska, giáo sư về luật biển quốc tế tại Đại học Hải chiến Mỹ, trả lời Zing.

"Họ chuyển hướng sang 'Tứ Sa' vì nó có thể giúp họ yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý xung quanh các nhóm đảo này".

Về bản chất, hai yêu sách này chỉ là "bình mới rượu cũ". Thông qua việc kết luận rằng các nhóm đảo thuộc "Tứ Sa" có đầy đủ các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán rộng đến 200 hải lý, Trung Quốc vẫn đang yêu sách các vùng biển mà ghép lại sẽ có phạm vi gần như không khác biệt, thậm chí còn rộng hơn, so với vùng biển bên trong "đường lưỡi bò", theo các chuyên gia.

"Tôi nghĩ việc Trung Quốc đề cập đến 'Tứ Sa' chỉ là cách để chuyển hướng chú ý vốn tập trung vào 'đường lưỡi bò' mà thôi. 'Đường lưỡi bò' vẫn nằm đó", Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng cấp cao tại RAND Corporation, tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách có trụ sở tại California, nói với Zing.

"Đó là cách để Trung Quốc nói họ có chủ quyền với 90% diện tích Biển Đông, bao gồm các cấu trúc và vùng biển trong giới hạn họ tự đặt ra".

Xét trên góc độ luật pháp quốc tế, yêu sách "Tứ Sa" cũng là một phiên bản mơ hồ, không có cơ sở pháp lý, giống như yêu sách "đường lưỡi bò". Hay nói cách khác, Trung Quốc vẫn dựa trên việc diễn giải tùy tiện luật pháp quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu kiểm soát toàn bộ các cấu trúc và vùng biển ở Biển Đông.

Xét trên góc độ luật pháp quốc tế, yêu sách "Tứ Sa" cũng là một phiên bản mơ hồ, không có cơ sở pháp lý, giống như yêu sách "đường lưỡi bò".


Đá Chữ Thập, một thực thể thuộc quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp. Ảnh: AP.

Không có đường cơ sở với các điểm và cấu trúc của "Tứ Sa"


Nội hàm của Tứ Sa bao gồm yêu sách về chủ quyền với các nhóm đảo và yêu sách về các vùng biển.

Đối với yêu sách vùng biển, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục thiết lập đường cơ sở bao quanh các cấu trúc thuộc các nhóm đảo, như đã làm với Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm đóng). Từ đường cơ sở đó, Trung Quốc sẽ yêu sách vùng lãnh hải lịch sử và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, cũng như không loại trừ yêu sách thềm lục địa, cho cả 4 nhóm đảo.

Theo các chuyên gia, các quy định trong UNCLOS mà Trung Quốc là thành viên không cho phép Trung Quốc thiết lập đường cơ sở đối với bất cứ nhóm đảo nào thuộc "Tứ Sa", dù là đường cơ sở quần đảo hay đường cơ sở thẳng.

Việc không nêu rõ phạm vi từng nhóm đảo thuộc "Tứ Sa" được cho là để ngỏ cho khả năng Trung Quốc tùy tiện sáp nhập các cấu trúc mới vào các nhóm đảo này.

Ngoài ra, phán quyết của tòa quốc tế năm 2016 cũng bác bỏ khả năng vẽ đường cơ sở thẳng đối với Trường Sa, cũng như khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng của các cấu trúc thuộc Trường Sa và Scarborough.

Những kết luận này cũng sẽ áp dụng với các nhóm đảo còn lại trong "Tứ Sa".

Đối với yêu sách về chủ quyền các nhóm đảo, việc không nêu rõ phạm vi từng nhóm đảo thuộc "Tứ Sa" được cho là để ngỏ cho khả năng Trung Quốc tùy tiện sáp nhập các cấu trúc mới vào các nhóm đảo này, cho dù đó là cấu trúc chìm hay nửa nổi nửa chìm.

Với nhận định đó, việc Trung Quốc công bố "danh xưng tiêu chuẩn, như một cách khẳng định chủ quyền, đối với 80 cấu trúc "mới phát hiện" ở Biển Đông, bao gồm 55 thực thể địa lý dưới đáy biển, gây ra những quan ngại về dã tâm của Bắc Kinh.

Các nhà nghiên cứu tại Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao, đã xác định vị trí các cấu trúc với tọa độ được Trung Quốc công bố.

Đáng chú ý là 55 thực thể địa lý dưới đáy biển đều nằm trong vùng 200 hải lý của Việt Nam và nằm ngoài khá xa vùng 12 hải lý của bất cứ cấu trúc nổi nào mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, theo bà Lan Anh.

Vị trí 80 cấu trúc ở Biển Đông mà Trung Quốc mới công bố tên gọi: màu đỏ là các cấu trúc mà Trung Quốc gọi là đảo, còn màu xanh là các cấu trúc chìm dưới mực nước biển. Đồ họa: Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao/từ Maritime Issues.


"Quỹ đạo mới nhất của các yêu sách, trong đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc chìm dưới nước và các quyền lợi trên biển từ 4 nhóm đảo xa xôi ở Biển Đông, thách thức các quy tắc cơ bản của luật pháp quốc tế", chuyên gia luật biển viết trên Maritime Issues.

Đặt trong bối cảnh diễn dịch yêu sách "Tứ Sa", bà Lan Anh cho rằng việc tuyên bố chủ quyền đối với 55 thực thể này "có thể báo hiệu rằng Trung Quốc đã tích lũy đủ sức mạnh và sự tự tin để chống lại luật pháp quốc tế, đồng thời tự đặt ra luật của riêng họ".

"'Tứ Sa' là một lăng kính mà qua đó các yêu sách dài hạn đầy tham vọng của Trung Quốc đối với Biển Đông được phơi bày hoàn toàn", bà viết.

"Bất kể bao nhiêu 'Sa', có thể là 2 'Sa' phổ biến như Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc 3 như tên của thành phố 'Tam Sa' chỉ ra, hoặc 4 bao gồm cả Pratas và Macclesfield, tham vọng lâu dài của Trung Quốc là tối đa hóa các yêu sách chủ quyền trên biển".

Bộ Ngoại giao phản đối Trung Quốc ngang nhiên đặt “danh xưng tiêu chuẩn” cho 80 thực thể ở Biển Đông


"Việt Nam nhiều lần khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phù hợp với luật phát quốc tế, đồng thời có quyền chủ quyền, quyền tài phán ở vùng biển như xác lập ở Công ước Luật biển UNCLOS năm 1982", Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng trả lời câu hỏi của Zing về vấn đề này tại họp báo thường kỳ chiều 23/4.


"Mọi hành vi xâm hại chủ quyền Việt Nam với Hoàng Sa, Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam với vùng biển của mình đều không có giá trị, không được công nhận và Việt Nam kiên quyết phản đối", ông Thắng nói thêm.


Nguồn: https://zingnews.vn/am-muu-dung-tu-sa-de-thay-the-duong-luoi-bo-cua-trung-quoc-post1080452.html
0

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

Việt Nam phản đối Trung Quốc ngang ngược trên biển Đông


Việt Nam phản đối hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, đặc biệt là việc công bố thành lập cái gọi là huyện Tây Sa và Nam Sa để "quản lý" quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
0

Thứ Hai, 13 tháng 4, 2020

Tiềm lực của Việt Nam để chống Trung Quốc ở Biển Đông


Biển Đông là một trong những trọng tâm thảo luận tại Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) diễn ra ngày 18/11/2019 tại Bangkok, Thái Lan. Trước những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Việt Nam hiện là nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc, khác với thái độ của một số nước ASEAN có tranh chấp.(Tạp chí phát lần đầu tiên ngày 18/11/2019)

Phần âm thanh:


Tránh và không thể đối đầu trực diện với Trung Quốc, Việt Nam « kiên quyết » nhưng « khôn khéo » trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Theo một số chuyên gia, Hà Nội đang khéo léo mở ba mặt trận chống Trung Quốc : tăng cường khả năng quân sự, đấu tranh về mặt ngoại giao và giảm phụ thuộc vào Bắc Kinh.

Để đối phó với những hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam đã chi 5,1 tỉ đô la cho lĩnh vực quốc phòng trong năm 2019, trong đó 32,5% dành cho việc mua trang thiết bị quân sự. Ngân sách quốc phòng của Việt Nam dự kiến tăng hàng năm khoảng 9,43% trong giai đoạn 2020-2024, để đạt đến 7,9 tỉ đô la vào năm 2024. Tuy nhiên, tương quan lực lượng rõ ràng thiên về Trung Quốc, với ngân sách quốc phòng lên đến 228 tỉ đô la.

Ngoài ra, số quân nhân giữa hai nước cũng chênh lệch : Việt Nam có khoảng 482.000 quân nhân thường trực, trong khi Trung Quốc có gần 2,3 triệu quân. Nhiều dự liệu khác cũng cho thấy sự chênh lệnh : Việt Nam có 2.575 xe tăng so với 13.050 xe của Trung Quốc ; 6 tầu ngầm so với 76 ; 64 tầu chiến các loại so với 714 tầu, trong đó Việt Nam không có tầu sân bay, tầu khu trục.

Vậy Việt Nam có chiến lược gì để có thể kiềm chế nước láng giềng khổng lồ, đặc biệt là ở Biển Đông ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon)

RFI : Xét về thực lực quân sự, Việt Nam không thể đối đầu trực diện với quân đội Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể làm được gì để hạn chế Trung Quốc tung hoành ?

Laurent Gédéon : Trước tiên cần đặt câu hỏi là nếu trong trường hợp xảy ra xung đột giữa hai bên, thì sẽ là ở đâu ? Việc Việt Nam có đường biên giới trên bộ với Trung Quốc khiến người ta có thể hình dung đến khả năng xảy ra xung đột trên bộ. Nhưng trên thực tế, giả sử xảy ra xung đột, thì có lẽ sẽ diễn ra trên biển và có nhiều khả năng là trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nếu như căn cứ vào thực tế cuộc xung đột trên biển hiện nay, không chỉ ở Biển Đông nói chung, mà kể cả trong vùng biển của Việt Nam, và trong giả thuyết này, lực lượng hải quân Việt Nam sẽ giữ thế phòng thủ, chủ yếu chống lại hành động của quân đội Trung Quốc và sẽ tiến hành những hành động có chủ đích giúp họ giữ được lợi thế kỹ thuật, bất chấp bối cảnh bất cân xứng với đối thủ.

Chính vì thế, trong vài năm gần đây, Việt Nam đã mua nhiều trang thiết bị quân sự để cân bằng phương tiện. Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua nhiều lĩnh vực, như việc mua 6 tầu ngầm, dù chỉ mang tính chất tương đối, nhưng cũng giúp Hà Nội tăng khả năng răn đe so với lực lượng của Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam cũng triển khai nhiều phương tiện theo dõi quan trọng, trong đó có thiết bị bay không người lái, hệ thống radar thế hệ mới, các lực lượng tại chỗ và máy bay.

Quân đội Việt Nam có một bước phát triển hướng ngoại, thông qua chiến lược Chống tiếp cận/Chống xâm nhập (Anti-Access/Area Denial, A2/AD), một khái niệm chưa có trước đó ở Việt Nam. Chiến lược này nhằm bảo vệ những hòn đảo mà Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa và dọc bờ biển Việt Nam. Chiến lược này cũng góp phần vào việc tăng khả năng phòng thủ của Việt Nam, thông qua việc phát triển hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung, mà Hà Nội trang bị nhiều trong những năm gần đây.

Theo tôi, trong trường hợp xảy ra đối đầu trực tiếp với quân đội Trung Quốc, Việt Nam sẽ không giành được chiến thắng về mặt quân sự, dù quân đội Việt Nam có nhiều chiến lược. Nhưng Việt Nam có thể sẽ gây khó khăn cho Trung Quốc và sẽ khiến một cuộc tấn công của Trung Quốc trở nên kém hiệu quả hơn.

RFI : Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác quân sự với nước ngoài, liệu chiến lược này có nguy cơ trở thành con dao hai lưỡi không ?

Laurent Gédéon : Điều đáng lưu ý là Việt Nam thực hiện chiến lược ngoại giao vận động hành lang từ nhiều năm nay. Và rõ ràng là Hà Nội nhận thấy sự phát triển những mối quan hệ này như một yếu tố cân bằng, một cách bù vào mức độ chênh lệch với Trung Quốc.

Hà Nội tìm cách phát triển quan hệ, chí ít là về mặt quân sự, với nhiều đối tác như đối tác chiến lược với Nhật Bản. Một ví dụ khác là mối quan hệ với Hoa Kỳ đã được tăng cường hơn rất nhiều. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên nếu nhìn vào những điểm tương đồng về lợi ích giữa hai nước, khi mà cả hai đều lo ngại về ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Rõ ràng phía Mỹ sẽ tiếp tục và tăng cường sự năng động này trong tương lai, song song với việc số lượng trang thiết bị quân sự của Mỹ cung cấp cho Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ khi lệnh cấm vận được bãi bỏ năm 2016. Từ đó, Hà Nội đã mua nhiều máy bay không người lái, tầu tuần duyên và nhiều trang thiết bị khác. Ngoài ra, Việt Nam còn tăng cường hợp tác quân sự với nhiều nước khác, như Úc, Ấn Độ, cũng như nhiều nước châu Âu.

Về câu hỏi : Chiến lược này có phải là con dao hai lưỡi hay không ? Trong mọi trường hợp, đây là chiến lược cần được tiến hành một cách thận trọng bởi vì mục đích của Hà Nội là tăng cường khả năng quân sự nhưng không để bị phụ thuộc vào một hoặc nhiều đối tác. Ngoài ra, chiến lược này cũng không nên để Trung Quốc diễn giải như là một mối đe dọa. Vì vậy, Việt Nam tìm cách phát triển khả năng phòng thủ và điều chỉnh các tuyên bố trong giới hạn khuôn khổ đòi chủ quyền, như vẫn làm trong những thập niên qua, mà không bao gồm những khu vực không nằm trong những yêu sách trước đó.

Ngoài ra, về mặt thương mại, Hà Nội cũng phải tính đến việc Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trung Quốc cũng là nhà đầu tư trực tiếp lớn thứ 5 vào Việt Nam với số tiền gần 2,5 tỉ đô la trong năm 2018. Đó là một số yếu tố khiến chiến lược của Việt Nam khá là tế nhị. Chiến lược đó không phải là không áp dụng được nhưng cần được Hà Nội tiến hành một cách rất thận trọng và đó là điều mà Việt Nam đang làm một cách hiệu quả.

RFI : Việt Nam đề ra chính sách « Ba không » (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào ; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam ; không dựa vào nước này để chống nước kia), nhưng trước sự đe dọa của Trung Quốc, liệu Việt Nam có nên xem lại chính sách này không ?

Laurent Gédéon : Đây không phải là chính sách gần đây mà xuất hiện lần đầu tiên trong Sách Trắng Quốc Phòng năm 1998, sau đó thường xuyên được nhắc đến, vào năm 2004, 2009 và tiếp tục được nêu lên trong Luật Quốc Phòng mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.

Dù mang tính mệnh lệnh « Ba không » nhưng thực ra chính sách này không hoàn toàn bó buộc. Và Việt Nam đã khai thác khía cạnh này dưới góc độ « đối tác ». Có ba kiểu « đối tác », đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Cụ thể, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc ; quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Úc, Pháp và đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Đáng chú ý là không có bất kỳ đối tác nào trong số này mang tên « liên minh quân sự ».

Có thể thấy là Việt Nam tăng cường khả năng phòng thủ, cũng như hợp tác quân sự với nhiều cường quốc tham gia gìn giữ trật tự thế giới và đó là những lực lượng, với nhiều lý do khác nhau, tỏ ra ngờ vực Trung Quốc. Điều mà chúng ta có thể nói là Việt Nam vừa củng cố các phương tiện của mình, vừa phải làm việc trực tiếp với Bắc Kinh về các biện pháp xây dựng niềm tin nhằm ngăn cản Trung Quốc thống trị toàn bộ Biển Đông.

Nhưng Việt Nam cũng phải tự chuẩn bị trong trường hợp căng thẳng gia tăng. Và Hà Nội đang thực hiện điều này qua việc tăng cường quan hệ với các bên, trên thực tế, ít nhiều là những đối thủ của Bắc Kinh. Việt Nam phải tính đến việc bên cam kết mạnh nhất và có sức mạnh quân sự lớn nhất, đó là Mỹ và Hòa Kỳ lại có những mục tiêu riêng và những thách thức địa-chính trị riêng.

Và tình thế này cũng cần được cân nhắc với nhiều câu hỏi : Liệu Việt Nam có khả năng lấy lại các hòn đảo mà Hà Nội đòi chủ quyền mà không để xảy ra xung đột, mà cuộc xung đột đó lại do những nhân tố khác khởi xướng, ví dụ như Mỹ ? Liệu mâu thuẫn hiện nay giữa Bắc Kinh và Washington, nếu gia tăng thêm, có cho Việt Nam cơ hội không bị cuốn theo hay không ? Một câu hỏi khác cũng được đặt ra : Liệu những cam kết của Mỹ, trong trường hợp quan hệ với Bắc Kinh được cải thiện, có phải là « dấu chấm hết » cho những yêu sách và hy vọng của Việt Nam một ngày nào đó lấy lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường Sa ?

Có thể thấy chính sách « Ba không » không ngăn cản Việt Nam có những thỏa thuận quân sự, nhưng có vẻ không chắc cho Việt Nam bởi vì chính sách đó bị hạn chế trong những đòi hỏi chủ quyền. Có nghĩa là để lấy lại chủ quyền đối với một số hòn đảo, có thể sẽ xảy ra một cuộc xung đột vũ trang nhưng cuộc xung đột vũ trang đó sẽ kéo theo việc Việt Nam phải từ bỏ một nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của mình. Vì thế, cho đến nay, những vấn đề này được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời.

RFI : Biển Đông là một vấn đề căng thẳng trong thời gian gần đây, với sự hiện diện của tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc trong vòng nhiều tháng. Giả sử trong trường hợp xảy ra xung đột nhỏ, khẩn cấp, Việt Nam có khả năng giải quyết như thế nào ?

Laurent Gédéon : Trường hợp trên giống trường hợp Bắc Kinh điều giàn khoan đến ngoài khơi đảo Tri Tôn vào tháng 05/2014, có nghĩa là Trung Quốc dùng chính sách « sự đã rồi », nhưng không thiên về hướng đe dọa quân sự. Lần trước Việt Nam cũng đưa tầu ra bám sát và phản đối ngoại giao. Lần này, phía Việt Nam cũng kiên quyết về mặt chính trị, nhưng cũng không tìm cách dùng vũ lực đuổi tầu Trung Quốc.

Theo quan điểm của tôi, chiến lược này có lẽ là tốt nhất vì tránh được đối đầu trực diện, đẩy Việt Nam vào thế tấn công, không có lợi như thế phòng thủ. Và chiến lược này cũng cho phép Hà Nội duy trì được hình ảnh « kiềm chế, hợp pháp » trước hành động được coi là « xâm lược » của Bắc Kinh. Và hành động này mang tính tích cực trong bối cảnh hình ảnh của Trung Quốc đang bị xấu đi trên thế giới.

RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).
0