Việt Nam phản đối hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, đặc biệt là việc công bố thành lập cái gọi là huyện Tây Sa và Nam Sa để "quản lý" quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng-Trường Sa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng-Trường Sa. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020
Việt Nam phản đối Trung Quốc ngang ngược trên biển Đông
Việt Nam phản đối hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, đặc biệt là việc công bố thành lập cái gọi là huyện Tây Sa và Nam Sa để "quản lý" quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Đăng trong:
Hoàng - Trường Sa,
Hoàng-Trường Sa,
Tin video,
Tranh chấp Biển Đông,
Video,
Việt - Trung
Trung Quốc “tung đòn” nguy hiểm trong âm mưu độc chiếm Biển Đông
Trung Quốc đang áp dụng cùng lúc ba mũi giáp công, trong đó chiêu nguy hiểm nhất là hợp lý hoá bằng pháp lý để âm mưu độc chiếm Biển Đông.
Nghe:
Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 18/4 ngang ngược tuyên bố chính phủ nước này đã phê chuẩn thành lập "thành phố Tam Sa" ở Biển Đông, bao gồm "quận Tây Sa" (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) và “quận Nam Sa” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Một ngày sau đó, Trung Quốc tiếp tục công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể ở Biển Đông, bao gồm 25 đảo, đá và 55 thực thể địa lý dưới đáy biển.
Trước đó, đầu tháng 4, Trung Quốc đã đưa tàu hải cảnh, tàu dân quân biển là lực lượng vũ trang trá hình hoạt động xua đuổi các ngư dân Việt Nam đánh cá trong đặc quyền kinh tế của mình, điển hình nhất là 2/4 vừa rồi đã đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi, bắt 8 ngư dân.
Báo Giao thông đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Công an) về những diễn biến phức tạp trên Biển Đông.
Ba mũi giáp công để âm mưu độc chiếm Biển Đông
Ngày 19/4, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc ngày 18/4/2020 thông báo thành lập “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” tại “thành phố Tam Sa” trên Biển Đông. Ông có bình luận gì về động thái của Trung Quốc lần này?
Mặt trận về pháp lý là một mũi giáp công trong âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Năm 2012, khi Việt Nam công bố Luật Biển, họ phản ứng bằng cách thành lập TP Tam Sa. Tam Sa bao gồm 1 vùng rất lớn cả Trường Sa, Hoàng Sa, 1 phần đơn vị của Hải Nam (Trung Quốc).
Lần này, Trung Quốc tinh vi hơn, tách thành đơn vị hành chính riêng, Hoàng Sa riêng, Trường Sa riêng. Tức Trung Quốc đã hợp thức hoá về pháp lý tại Trung Quốc đơn vị hành chính này.
Hành động phục vụ âm mưu độc chiếm Biển Đông lần này của Trung Quốc có khác trước không, thưa ông?
Âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc là không thay đổi, chỉ là mỗi thời kỳ lãnh đạo lại có cách hoạt động, phương thức, quy mô và tính chất khác nhau. Dưới thời Tập Cận Bình, âm mưu độc chiếm Biển Đông được thể hiện và hành động quyết liệt hơn, đặc biệt là từ năm 2019 đến nay.
Trung Quốc thường song song 3 mũi giáp công trong tham vọng độc chiếm trên Biển Đông: trên thực địa, trên biển và tuyên truyền. Đầu năm nay, Trung Quốc tăng cường cả ba mũi giáp công này.
Cụ thể, từ đầu năm đến nay, Trung Quốc tăng cường hoạt động thực địa trên Biển Đông, đưa tàu hải cảnh, tàu dân quân biển là lực lượng vũ trang trá hình hoạt động xua đuổi các ngư dân Việt Nam đánh cá trong đặc quyền kinh tế của mình. Điển hình nhất là ngày 2/4 vừa rồi, đã đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi.
Trên mặt trận tuyên truyền, sau khi đâm chìm tàu cá Việt Nam ngày 2/4, thì từ ngày 3/4, phát thanh, truyền hình, báo chí Trung Quốc có hàng trăm bài “đổi trắng thay đen”, vu cáo 1 cách trắng trợn, lố bịch rằng: Có hàng trăm tàu cá Việt Nam đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, việc xô xát ngày 2/4 là “giọt nước tràn ly” vì Trung Quốc đã nhẫn nhịn bao lâu rồi.
Và trên mặt trận hợp pháp hoá bằng pháp lý, chính là việc công bố thành lập "quận Tây Sa", "quận Nam Sa".
Việc Trung Quốc tuyên bố thành lập hai quận để quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như vùng biển xung quanh có bất kỳ giá trị nào về mặt pháp lý hay không, thưa ông?
Đây chỉ là hành động đơn phương từ phía Trung Quốc và hoàn toàn không có giá trị pháp lý vì không phù hợp với luật pháp quốc tế và không được các quốc gia liên quan công nhận.
Việt Nam rất nhiều lần khẳng định chủ quyền lâu đời và không thể tranh cãi với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được chứng minh bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý. Mới đây nhất, trong công hàm gửi lên Liên hiệp quốc ngày 30/3, chính phủ Việt Nam đã tái khẳng định điều này.
Theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982, công ước lớn nhất về luật biển mà Trung Quốc cũng là thành viên, các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng. Những thực thể ở Trường Sa, đều thuộc dạng này. Do đó, Trung Quốc không thể tự cho mình quyền quản lý những khu vực đó.
Trung Quốc là bậc thầy về lợi dụng thời cơ
Vậy Trung Quốc sẽ đạt được gì từ việc thành lập "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa", trong khi việc này không có giá trị pháp lý về quốc tế, thưa ông?
Trong 3 mũi giáp công như tôi nói ở trên, thì hợp thức hoá về pháp lý là bước đi cực kỳ nguy hiểm.
Vì trên thực địa, khi Trung Quốc kéo tàu đến Biển Đông, Việt Nam và các nước phản đối là họ rút. Trên truyền thông, Trung Quốc đổi trắng thay đen nhưng ngay cả người dân Trung Quốc, nhiều người cũng không nghe, không tin.
Nhưng về pháp lý, khi đã có quyết định của Quốc hội, của Chính phủ Trung Quốc, thì sẽ không dễ dàng huỷ bỏ như kiểu rút tàu về trên thực địa được.
Với Việt Nam và quốc tế, công bố này của Trung Quốc không có giá trị, nhưng lại có giá trị pháp lý ở Trung Quốc, được Trung Quốc công nhận. Điều đó dẫn tới khi ta thực hiện các quyền lợi hợp pháp trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ tuyên bố đây là hành động xâm lược, và vẫn có thể kích động người dân Trung Quốc đứng về cơ sở pháp lý nguỵ tạo này.
Vì vậy, đây là bước đi leo thang cực kỳ nguy hiểm trên Biển Đông, rất thâm độc.
Trong lúc cả thế giới đang tập trung phòng chống dịch Covid-19, thì Trung Quốc lại có những hành động gây hấn trên Biển Đông. Điều này có vẻ phi logic, thưa ông?
Trung Quốc là bậc thầy về lợi dụng thời cơ. Ở Biển Đông, Trung Quốc chỉ sợ Mỹ, sau đó đến châu Âu vì các nước châu Âu là đối tác kinh tế của họ.
Lợi dụng thời điểm cả Mỹ và châu Âu đều đang rối ren với dịch bệnh Covid-19, Trung Quốc đã dồn dập gây hấn Biển Đông cả trên 3 phương diện tuyên truyền, thực địa và hợp thức hoá pháp lý.
Chưa kể, đây là giai đoạn kinh tế Trung Quốc đang sa sút vì Covid-19, người dân bất bình. Mỗi khi có vấn đề nội bộ, Tập Cận Bình luôn tìm cách đẩy dư luận hướng ra bên ngoài, mà gây hấn trên Biển Đông là một giải pháp.
Phương án khởi kiện chưa phải lúc
Nhưng vẫn có ý kiến cho rằng, phản ứng của Việt Nam cần mạnh mẽ hơn, cần phải đưa vụ việc ra kiện tại một toà án quốc tế?
Tất nhiên trên mạng, có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tôi muốn lưu ý mọi người rằng cái đánh giá phản ứng của Việt Nam như thế nào phải căn cứ vào tình hình tình huống chính trị cụ thể, căn cứ vào trạng thái mối quan hệ hiện nay của Việt Nam với Trung Quốc nói riêng và với cộng đồng quốc tế nói chung, căn cứ vào 1 vấn đề rộng hơn là quan hệ Trung - Mỹ...
Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển thông thường thế giới cũng phải qua 2 giai đoạn, giai đoạn 1 đấu tranh bằng con đường thương lượng, song phương, đa phương bằng biện pháp hoà bình, trao đi đổi lại qua hàng trăm cuộc họp, lật đi lật lại các luật pháp quốc tế. Biện pháp này, Liên hiệp quốc khuyến khích và chúng ta đang làm theo.
Nếu làm theo phương án này mãi mà không thành công thì khởi kiện thông qua tổ chức tài phán quốc tế, như kiện toà công ký quốc tế, toà công lý về luật biển...
Chúng ta sẽ không từ bỏ 1 biện pháp nào cả, kể cả kiện không được thì đánh nhau, chúng ta cũng sẵn sàng. Người Việt Nam ta nhân hậu và yêu hoà bình, nhưng khi họ dồn chúng ta vào chân tường, chĩa súng vào chúng ta, chúng ta không thể đứng nghiêm chịu chết được. Nhưng chúng ta không muốn điều này xảy ra.
Còn bây giờ đang trong giai đoạn tận dụng tối đa đàm phán song phương, biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cái gì còn tác dụng thì chúng ta khai thác. Hiện theo tôi, phương án khởi kiện chưa phải lúc.
Nguồn: https://www.baogiaothong.vn/trung-quoc-tung-don-nguy-hiem-trong-am-muu-doc-chiem-bien-dong-d462523.html
0
Nghe:
Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 18/4 ngang ngược tuyên bố chính phủ nước này đã phê chuẩn thành lập "thành phố Tam Sa" ở Biển Đông, bao gồm "quận Tây Sa" (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) và “quận Nam Sa” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Một ngày sau đó, Trung Quốc tiếp tục công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể ở Biển Đông, bao gồm 25 đảo, đá và 55 thực thể địa lý dưới đáy biển.
Trước đó, đầu tháng 4, Trung Quốc đã đưa tàu hải cảnh, tàu dân quân biển là lực lượng vũ trang trá hình hoạt động xua đuổi các ngư dân Việt Nam đánh cá trong đặc quyền kinh tế của mình, điển hình nhất là 2/4 vừa rồi đã đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi, bắt 8 ngư dân.
Báo Giao thông đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Công an) về những diễn biến phức tạp trên Biển Đông.
Ba mũi giáp công để âm mưu độc chiếm Biển Đông
Ngày 19/4, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc ngày 18/4/2020 thông báo thành lập “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” tại “thành phố Tam Sa” trên Biển Đông. Ông có bình luận gì về động thái của Trung Quốc lần này?
Mặt trận về pháp lý là một mũi giáp công trong âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Năm 2012, khi Việt Nam công bố Luật Biển, họ phản ứng bằng cách thành lập TP Tam Sa. Tam Sa bao gồm 1 vùng rất lớn cả Trường Sa, Hoàng Sa, 1 phần đơn vị của Hải Nam (Trung Quốc).
Lần này, Trung Quốc tinh vi hơn, tách thành đơn vị hành chính riêng, Hoàng Sa riêng, Trường Sa riêng. Tức Trung Quốc đã hợp thức hoá về pháp lý tại Trung Quốc đơn vị hành chính này.
Hành động phục vụ âm mưu độc chiếm Biển Đông lần này của Trung Quốc có khác trước không, thưa ông?
Âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc là không thay đổi, chỉ là mỗi thời kỳ lãnh đạo lại có cách hoạt động, phương thức, quy mô và tính chất khác nhau. Dưới thời Tập Cận Bình, âm mưu độc chiếm Biển Đông được thể hiện và hành động quyết liệt hơn, đặc biệt là từ năm 2019 đến nay.
Trung Quốc thường song song 3 mũi giáp công trong tham vọng độc chiếm trên Biển Đông: trên thực địa, trên biển và tuyên truyền. Đầu năm nay, Trung Quốc tăng cường cả ba mũi giáp công này.
Cụ thể, từ đầu năm đến nay, Trung Quốc tăng cường hoạt động thực địa trên Biển Đông, đưa tàu hải cảnh, tàu dân quân biển là lực lượng vũ trang trá hình hoạt động xua đuổi các ngư dân Việt Nam đánh cá trong đặc quyền kinh tế của mình. Điển hình nhất là ngày 2/4 vừa rồi, đã đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi.
Trên mặt trận tuyên truyền, sau khi đâm chìm tàu cá Việt Nam ngày 2/4, thì từ ngày 3/4, phát thanh, truyền hình, báo chí Trung Quốc có hàng trăm bài “đổi trắng thay đen”, vu cáo 1 cách trắng trợn, lố bịch rằng: Có hàng trăm tàu cá Việt Nam đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, việc xô xát ngày 2/4 là “giọt nước tràn ly” vì Trung Quốc đã nhẫn nhịn bao lâu rồi.
Và trên mặt trận hợp pháp hoá bằng pháp lý, chính là việc công bố thành lập "quận Tây Sa", "quận Nam Sa".
Việc Trung Quốc tuyên bố thành lập hai quận để quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như vùng biển xung quanh có bất kỳ giá trị nào về mặt pháp lý hay không, thưa ông?
Đây chỉ là hành động đơn phương từ phía Trung Quốc và hoàn toàn không có giá trị pháp lý vì không phù hợp với luật pháp quốc tế và không được các quốc gia liên quan công nhận.
Việt Nam rất nhiều lần khẳng định chủ quyền lâu đời và không thể tranh cãi với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được chứng minh bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý. Mới đây nhất, trong công hàm gửi lên Liên hiệp quốc ngày 30/3, chính phủ Việt Nam đã tái khẳng định điều này.
Theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982, công ước lớn nhất về luật biển mà Trung Quốc cũng là thành viên, các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng. Những thực thể ở Trường Sa, đều thuộc dạng này. Do đó, Trung Quốc không thể tự cho mình quyền quản lý những khu vực đó.
Trung Quốc là bậc thầy về lợi dụng thời cơ
Vậy Trung Quốc sẽ đạt được gì từ việc thành lập "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa", trong khi việc này không có giá trị pháp lý về quốc tế, thưa ông?
Trong 3 mũi giáp công như tôi nói ở trên, thì hợp thức hoá về pháp lý là bước đi cực kỳ nguy hiểm.
Vì trên thực địa, khi Trung Quốc kéo tàu đến Biển Đông, Việt Nam và các nước phản đối là họ rút. Trên truyền thông, Trung Quốc đổi trắng thay đen nhưng ngay cả người dân Trung Quốc, nhiều người cũng không nghe, không tin.
Nhưng về pháp lý, khi đã có quyết định của Quốc hội, của Chính phủ Trung Quốc, thì sẽ không dễ dàng huỷ bỏ như kiểu rút tàu về trên thực địa được.
Với Việt Nam và quốc tế, công bố này của Trung Quốc không có giá trị, nhưng lại có giá trị pháp lý ở Trung Quốc, được Trung Quốc công nhận. Điều đó dẫn tới khi ta thực hiện các quyền lợi hợp pháp trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ tuyên bố đây là hành động xâm lược, và vẫn có thể kích động người dân Trung Quốc đứng về cơ sở pháp lý nguỵ tạo này.
Vì vậy, đây là bước đi leo thang cực kỳ nguy hiểm trên Biển Đông, rất thâm độc.
Trong lúc cả thế giới đang tập trung phòng chống dịch Covid-19, thì Trung Quốc lại có những hành động gây hấn trên Biển Đông. Điều này có vẻ phi logic, thưa ông?
Trung Quốc là bậc thầy về lợi dụng thời cơ. Ở Biển Đông, Trung Quốc chỉ sợ Mỹ, sau đó đến châu Âu vì các nước châu Âu là đối tác kinh tế của họ.
Lợi dụng thời điểm cả Mỹ và châu Âu đều đang rối ren với dịch bệnh Covid-19, Trung Quốc đã dồn dập gây hấn Biển Đông cả trên 3 phương diện tuyên truyền, thực địa và hợp thức hoá pháp lý.
Chưa kể, đây là giai đoạn kinh tế Trung Quốc đang sa sút vì Covid-19, người dân bất bình. Mỗi khi có vấn đề nội bộ, Tập Cận Bình luôn tìm cách đẩy dư luận hướng ra bên ngoài, mà gây hấn trên Biển Đông là một giải pháp.
Phương án khởi kiện chưa phải lúc
Nhưng vẫn có ý kiến cho rằng, phản ứng của Việt Nam cần mạnh mẽ hơn, cần phải đưa vụ việc ra kiện tại một toà án quốc tế?
Tất nhiên trên mạng, có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tôi muốn lưu ý mọi người rằng cái đánh giá phản ứng của Việt Nam như thế nào phải căn cứ vào tình hình tình huống chính trị cụ thể, căn cứ vào trạng thái mối quan hệ hiện nay của Việt Nam với Trung Quốc nói riêng và với cộng đồng quốc tế nói chung, căn cứ vào 1 vấn đề rộng hơn là quan hệ Trung - Mỹ...
Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển thông thường thế giới cũng phải qua 2 giai đoạn, giai đoạn 1 đấu tranh bằng con đường thương lượng, song phương, đa phương bằng biện pháp hoà bình, trao đi đổi lại qua hàng trăm cuộc họp, lật đi lật lại các luật pháp quốc tế. Biện pháp này, Liên hiệp quốc khuyến khích và chúng ta đang làm theo.
Nếu làm theo phương án này mãi mà không thành công thì khởi kiện thông qua tổ chức tài phán quốc tế, như kiện toà công ký quốc tế, toà công lý về luật biển...
Chúng ta sẽ không từ bỏ 1 biện pháp nào cả, kể cả kiện không được thì đánh nhau, chúng ta cũng sẵn sàng. Người Việt Nam ta nhân hậu và yêu hoà bình, nhưng khi họ dồn chúng ta vào chân tường, chĩa súng vào chúng ta, chúng ta không thể đứng nghiêm chịu chết được. Nhưng chúng ta không muốn điều này xảy ra.
Còn bây giờ đang trong giai đoạn tận dụng tối đa đàm phán song phương, biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cái gì còn tác dụng thì chúng ta khai thác. Hiện theo tôi, phương án khởi kiện chưa phải lúc.
Nguồn: https://www.baogiaothong.vn/trung-quoc-tung-don-nguy-hiem-trong-am-muu-doc-chiem-bien-dong-d462523.html
Đăng trong:
Biển Đông,
Bình luận,
Hoàng Sa,
Hoàng-Trường Sa,
Quốc phòng,
Tranh chấp Biển Đông,
Trường Sa,
Việt - Trung
Video: Phản đối Trung Quốc ngang ngược trên biển Đông
Việt Nam phản đối hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, đặc biệt là việc công bố thành lập cái gọi là huyện Tây Sa và Nam Sa để "quản lý" quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Nguồn:
1. https://www.youtube.com/watch?v=tUauyJJHZhY
2. https://www.facebook.com/Thugianv/videos/229262324950355
Đăng trong:
Hoàng-Trường Sa,
Tin video,
Tranh chấp Biển Đông,
Video,
Việt - Trung
Việt Nam lên tiếng trước phát ngôn đe dọa của Trung Quốc về Biển Đông
"Việt Nam cũng đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc" về Biển Đông, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng cho biết.
Chiều nay, 23.4, tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao (tổ chức bằng hình thức trực tuyến), Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng đã trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam trước Công hàm ngày 17.4 của Trung Quốc, và phát ngôn của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng vào các buổi họp báo 20.4 và 21.4.
Theo đó, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng cho biết, như đã nêu tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao ngày 9.4, việc Việt Nam gửi công hàm tại Liên Hợp Quốc là việc bình thường, thể hiện lập trường và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.
"Trước việc Trung Quốc lưu hành một số công hàm nêu các yêu sách chủ quyền phi lý đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không phù hợp với luật pháp quốc tế; cùng các yêu sách biển ở Biển Đông, trái với quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982 (UNLCOS), Việt Nam đã lưu hành công hàm tại Liên Hợp Quốc để bác bỏ các yêu sách này, như đã được nêu trong nhiều văn bản của Liên Hợp Quốc và các cơ quan quốc tế liên quan", ông Ngô Toàn Thắng nhấn mạnh.
"Việt Nam cũng đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc", ông Thắng nói thêm.
Trước đó, ngày 10.4, Việt Nam lưu hành công hàm để khẳng định lập trường về vấn đề Biển Đông với các nước liên quan khác. Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng một lần nữa nhắc lại việc Việt Nam đã nhiều lần khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, phù hợp với quy định và luật pháp quốc tế.
Là quốc gia ven biển, Việt Nam được hưởng đầy đủ các vùng biển tại Biển Đông được xác lập trên cơ sở UNCLOS. Mọi yêu sách biển trái với UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam, là không có giá trị, theo ông Thắng.
Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng nhắc lại quan điểm của Việt Nam: tất cả các quốc gia có nghĩa vụ và lợi ích chung trong việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bao gồm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia, không sử dụng hoặc đe đọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế để chống lại toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
"Trên tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng giải quyết tranh chấp với các quốc gia liên quan thông qua đàm phán cũng như các biện pháp hòa bình khác, kể cả các biện pháp quy định tại UNCLOS", ông Thắng nhấn mạnh.
Trước đó, tại buổi họp báo ngày 20.4, khi được hỏi về phản ứng trước việc Việt Nam phản đối chính quyền Trung Quốc lập 2 quận để quản lý quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã có những luận điệu ngang ngược, đe dọa đối với Việt Nam.
Theo đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp tục luận điệu sai trái về chủ quyền với cái gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa", cho rằng Việt Nam đã xâm phạm chủ quyền và lợi ích của nước này tại Biển Đông, thậm chí đe dọa Trung Quốc sẽ "sử dụng các biện pháp cần thiết" để bảo vệ quyền và lợi ích của Trung Quốc.
Nguồn: Thanh Niên
0
Chiều nay, 23.4, tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao (tổ chức bằng hình thức trực tuyến), Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng đã trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam trước Công hàm ngày 17.4 của Trung Quốc, và phát ngôn của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng vào các buổi họp báo 20.4 và 21.4.
Theo đó, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng cho biết, như đã nêu tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao ngày 9.4, việc Việt Nam gửi công hàm tại Liên Hợp Quốc là việc bình thường, thể hiện lập trường và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.
"Trước việc Trung Quốc lưu hành một số công hàm nêu các yêu sách chủ quyền phi lý đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không phù hợp với luật pháp quốc tế; cùng các yêu sách biển ở Biển Đông, trái với quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982 (UNLCOS), Việt Nam đã lưu hành công hàm tại Liên Hợp Quốc để bác bỏ các yêu sách này, như đã được nêu trong nhiều văn bản của Liên Hợp Quốc và các cơ quan quốc tế liên quan", ông Ngô Toàn Thắng nhấn mạnh.
"Việt Nam cũng đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc", ông Thắng nói thêm.
Trước đó, ngày 10.4, Việt Nam lưu hành công hàm để khẳng định lập trường về vấn đề Biển Đông với các nước liên quan khác. Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng một lần nữa nhắc lại việc Việt Nam đã nhiều lần khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, phù hợp với quy định và luật pháp quốc tế.
Là quốc gia ven biển, Việt Nam được hưởng đầy đủ các vùng biển tại Biển Đông được xác lập trên cơ sở UNCLOS. Mọi yêu sách biển trái với UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam, là không có giá trị, theo ông Thắng.
Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng nhắc lại quan điểm của Việt Nam: tất cả các quốc gia có nghĩa vụ và lợi ích chung trong việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bao gồm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia, không sử dụng hoặc đe đọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế để chống lại toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
"Trên tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng giải quyết tranh chấp với các quốc gia liên quan thông qua đàm phán cũng như các biện pháp hòa bình khác, kể cả các biện pháp quy định tại UNCLOS", ông Thắng nhấn mạnh.
Trước đó, tại buổi họp báo ngày 20.4, khi được hỏi về phản ứng trước việc Việt Nam phản đối chính quyền Trung Quốc lập 2 quận để quản lý quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã có những luận điệu ngang ngược, đe dọa đối với Việt Nam.
Theo đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp tục luận điệu sai trái về chủ quyền với cái gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa", cho rằng Việt Nam đã xâm phạm chủ quyền và lợi ích của nước này tại Biển Đông, thậm chí đe dọa Trung Quốc sẽ "sử dụng các biện pháp cần thiết" để bảo vệ quyền và lợi ích của Trung Quốc.
Nguồn: Thanh Niên
Đăng trong:
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Quốc phòng,
Thời sự Việt Nam,
Việt - Trung
Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020
Trung Quốc sẽ trắng tay vì muốn độc chiếm biển Đông
(20/04/2020)- Trung Quốc hiện đang muốn lợi dụng tình hình phức tạp của đại dịch COVID-19 để đẩy nhanh kế hoạch độc chiếm biển Đông.
Tờ South China Morning Post ngày 18-4 đưa tin chính quyền Trung Quốc (TQ) đã bất ngờ thông báo thành lập cái gọi là hai huyện đảo Tây Sa và Nam Sa trực thuộc TP tam Sa để quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam (VN). Phía VN đã không ngừng phản đối các động thái vi phạm pháp luật mà TQ đã thực hiện suốt thời gian qua.
Sẽ còn gia tăng hành động phi pháp
Bình luận về động thái của Bắc Kinh, TS Nguyễn Thành Trung, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS), cho rằng TQ muốn gửi đi thông điệp là họ sẽ không bao giờ từ bỏ các yêu sách về chủ quyền ở khu vực biển Đông. “Rõ ràng Bắc Kinh có những bước đi cụ thể để hiện thực hóa ý đồ từ chiếm giữ bất hợp pháp thành một lãnh thổ dưới quyền kiểm soát hành chính” - ông Trung nói.
TQ đã và đang dần biến khu vực (mà TQ gọi là) TP Tam Sa thành những khu vực có người cư trú lâu dài với khoảng 1.800 người. Việc TQ vô lý thành lập hai quận mới để chính thức hóa quan điểm của họ là các thực thể mà TQ đang chiếm giữ có khả năng duy trì sự sống cho người cư ngụ.
GS Ngô Vĩnh Long, chuyên gia quan hệ quốc tế tại ĐH Maine (Mỹ), nhận định hành động lần này nằm trong chuỗi sự kiện mà Bắc Kinh đã tính toán từ trước. Mục đích của TQ là tiếp tục khẳng định chủ quyền theo yêu sách đường chín đoạn (hay đường lưỡi bò), bất chấp Tòa Trọng tài đã bác bỏ vào năm 2016.
Trong khi đó, chuyên gia quốc phòng Collin Koh thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore) thì cho rằng: “Rõ ràng là TQ đang tìm kiếm thêm lợi ích trên biển Đông trước khi Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) được ban hành. Ngay cả nếu COC không được thông qua, TQ khi đó cũng đã có một thế đứng vững chắc hơn rất nhiều trên biển Đông.
Lợi bất cập hại
Dù thừa nhận rằng mọi hành động của TQ đều có toan tính trước nhưng giới quan sát cũng đồng thuận rằng dịch COVID-19 tạo ra một khoảng trống để Bắc Kinh lợi dụng gây hấn ở biển Đông. Thêm vào đó, đại dịch gây ra một cuộc khủng hoảng tại TQ. Vậy nên “chuyển lửa ra biển Đông” cũng là một kế sách, tuy không còn mới nhưng là dễ hiểu với TQ.
Mặt khác, việc leo thang căng thẳng ở biển Đông cũng là giải pháp để TQ gây áp lực trên bàn đàm phán COC. Song song đó, các thông tin về việc thiết lập các cơ quan hành chính trên sẽ được TQ dùng để tuyên truyền, tạo cớ nhằm gây bất an cho lực lượng chấp pháp, ngư dân, tàu thuyền các nước qua lại biển Đông. Đầu tháng 4-2020, tàu hải cảnh của TQ đã đâm chìm tàu cá của VN, tạo ra sự bức xúc lớn không chỉ từ VN mà còn trong cộng đồng quốc tế. Việc lập ra các quận đảo có thể là bước đầu để TQ đẩy mạnh các hoạt động bắt nạt tương tự.
TQ chắc chắn sẽ tăng cường nguồn lực để quản lý hai huyện đảo mới thành lập, biến các đơn vị hành chính này thành “vùng đệm ở tuyến đầu” để giải quyết bất kỳ vấn đề nào phát sinh ở các khu vực xung quanh. Ngoài ra, hai huyện đảo sẽ giúp TQ rộng đường phối hợp và liên lạc với các lực lượng đang đồn trú trái phép trên hai quần đảo của VN.
KANG LIN, Phó Giám đốc chương trình Nghiên cứu biển Đông thuộc Viện Nghiên cứu quốc gia TQ (CNI)
Tuy nhiên, TQ có thể phải trả giá đắt hơn họ nghĩ. Chuỗi hành vi của TQ trên biển, đi cùng với những bê bối liên quan dịch COVID-19 (xuất phát từ TQ) khiến niềm tin của cộng đồng quốc tế với chính quyền Bắc Kinh suy giảm trầm trọng. Không thiếu các chỉ trích “thừa nước đục thả câu” nhắm vào lãnh đạo TQ suốt thời gian qua. Việc lập ra các quận đảo đi cùng các hành vi bắt nạt sẽ là “cọng rơm cuối làm gãy lưng con lạc đà”, khiến các nước phản ứng mạnh.
Đầu tiên sẽ là các nước trong khu vực. VN, trong vai trò chủ tịch ASEAN năm 2020 (và có thể kéo dài sang năm 2021 vì ảnh hưởng của dịch) và thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, chắc chắn sẽ có những bước đi ngoại giao quan trọng. Các nước ASEAN, trước các mối đe dọa an ninh do TQ tạo ra, chắc chắn sẽ không ngồi yên. Các “liên minh mềm”, ví dụ hợp tác về pháp lý, kinh tế, ngoại giao để đối trọng các hành xử sai trái của TQ là điều hoàn toàn khả dĩ và đang được kỳ vọng rộng rãi.
Một “nước Mỹ trên hết” ở xa khó chống lại TQ. Tuy nhiên, các sáng kiến về an ninh - quốc phòng, kinh tế với sự tham gia của các nước khu vực do Mỹ hậu thuẫn chắc chắn sẽ khiến TQ phải dè chừng.
Biển Đông là tuyến hàng hải vô cùng quan trọng, gắn liền lợi ích toàn cầu. Một khi niềm tin của các nước vào TQ suy giảm thì bằng nhiều cách khác nhau, họ sẽ có phản ứng tiêu cực với Bắc Kinh. Điển hình là việc cắt giảm đầu tư, chuyển hướng giao thương - hợp tác, lên án làm suy yếu hình ảnh “cường quốc có trách nhiệm và ảnh hưởng” mà TQ đang cố gắng theo đuổi. Mất niềm tin dễ dẫn đến việc TQ trắng tay và điều đó có vẻ không còn xa khi TQ vẫn hành xử phi pháp như lâu nay.
Biển Đông: Cách ứng phó Trung Quốc ‘xâm lấn vùng xám’
Trước một loạt hoạt động đơn phương gây rối của đội ngũ phức hợp các tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu khảo sát hải dương Trung Quốc (TQ), biển Đông dường như đã chuyển sang giai đoạn 3 của chiến lược “xâm lấn vùng xám” mà TQ đã triển khai nhất quán từ năm 2009.
Hai giai đoạn đầu là xây dựng lực lượng (2009-2014) và cải tạo thực địa (2015-2018). Trong đó, TQ gây áp lực đơn lẻ với từng nước và chỉ tập trung ở khu vực trung tâm biển Đông. Ở giai đoạn 3, TQ lại tăng cường tần suất và mở rộng quy mô của các hoạt động xâm lấn cùng lúc sang cả năm khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ), còn gọi là “vành đai EEZ”, của các nước láng giềng Đông Nam Á.
Đây cũng là “giai đoạn nước rút” của chính phủ TQ trước thời hạn kết thúc đàm phán Bộ quy tắc ứng xử biển Đông (COC) với ASEAN vào năm 2021. Thêm vào đó, đại dịch COVID-19 bùng nổ đã gián tiếp tạo nên các “khoảng trống quyền lực” trên biển Đông do hầu hết các nước đều đang tập trung chống dịch. Đây là hai nguyên nhân khiến TQ đẩy nhanh các hoạt động đơn phương phi pháp với tâm thế “thừa nước đục thả câu”.
Dĩ nhiên tư duy “nước rút” sẽ tạo nên điểm yếu, đó là nóng vội, từ đó gây nên những tính toán nhầm lẫn. Sự kiện tàu khảo sát HYDZ-8 đi dọc theo EEZ của Việt Nam (VN) để đến hoạt động ở khu vực EEZ của Indonesia, Malaysia và Brunei lúc này sẽ như một giọt nước tràn ly. Nó gián tiếp thúc đẩy các nước láng giềng Đông Nam Á thấy rõ đã đến lúc “tối lửa tắt đèn có nhau” - một kịch bản sẽ khiến TQ thêm khó khăn trên bàn đàm phán COC nói riêng và mặt trận pháp lý nói chung.
Hơn nữa, với các nền tảng hợp tác an ninh biển đã ký kết với Philippines (tháng 5-2018), Indonesia (tháng 6-2019), Malaysia (tháng 8-2019)... VN dường như đang kiện toàn mạng lưới liên lạc và hợp tác chấp pháp trên biển của riêng các nước ASEAN. Cùng với vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN trong năm 2020, VN hoàn toàn có đủ cơ sở tiến hành ba biện pháp như sau:
Thứ nhất, phối hợp với các nước thiết lập hồ sơ những vụ vi phạm của các tàu khảo sát hải dương, tàu chấp pháp và dân quân biển TQ trên các vùng biển liên quan đến “vành đai EEZ” của các nước ASEAN trên biển Đông. Song song đó, VN đẩy mạnh cùng các nước lưu hành công hàm phản đối các vi phạm của TQ trên Liên Hiệp Quốc.
Thứ hai, phát triển các sáng kiến về tuần tra chung trên biển Đông giữa lực lượng cảnh sát biển các nước ASEAN (như Malaysia, Philippines, Indonesia...) và cân nhắc sự tham gia mở rộng của các cường quốc bên ngoài dưới sự điều phối của ASEAN.
Thứ ba, củng cố và tăng cường hợp tác khai thác dầu khí và tài nguyên khác với các nước trong và ngoài khu vực (như Nga, Ấn Độ, Mỹ, Nhật…) ở các “vành đai EEZ” để gia tăng hiện diện lợi ích kinh tế của các cường quốc, từ đó nâng cao thế đối trọng và phản ứng quốc tế với các hành vi TQ xâm phạm “vành đai EEZ” này.
Với gói giải pháp trên, TQ càng xâm lấn trên biển Đông thì áp lực trên cả mặt trận tâm lý, pháp lý và truyền thông cho chính họ sẽ ngày càng lớn. TQ muốn duy trì phương châm “cường quốc có trách nhiệm” thì trước nhất phải ngừng ngay các hoạt động phi pháp để xây dựng lại từ đầu hình ảnh đó ở biển Đông.
ThS LỤC MINH TUẤN, nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS) ĐH KHXH&NV TP.HCM
Theo PLO
Đăng trong:
Biển Đông,
Bình luận,
Hoàng-Trường Sa,
Quốc phòng,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt - Trung,
Việt-Trung
Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020
Facebook xoá Trường Sa, Hoàng Sa khỏi bản đồ Việt Nam
(16/04/2020)- Trong phần thiết lập chạy quảng cáo của Facebook, hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa bị xoá khỏi bản đồ Việt Nam và gộp vào đường biên giới Trung Quốc.
Tối 15/4, người dùng mạng xã hội phát hiện Facebook dùng bản đồ mô tả sai về chủ quyền của hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Cụ thể, trong phần tạo quảng cáo, nếu xác định khu vực là Việt Nam, sẽ không có hai quần đảo này trên bản đồ. Nhưng khi xác định khu vực Trung Quốc, hai quần đảo lại xuất hiện.
Ông Lê Quang Tự Do, Cục phó Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ Thông tin Truyền thông) cho biết Cục đã yêu cầu Facebook sửa. "Họ đã kiểm tra và thông báo đây là lỗi khi cập nhật bản đồ", ông Tự Do nói.
Người dùng mạng xã hội Việt Nam đang kêu gọi Facebook chỉnh sửa lại thông tin chính xác. Nhiều người đã vào phần nhận xét ứng dụng trong App Store và cửa hàng CH Play để phản hồi. Cộng đồng mạng đang kêu gọi nhau vào "vote" 1 sao cho Facebook.
"Facebook đang sử dụng bản đồ Openstreetmap do bên thứ ba phát triển. Đây là bản đồ mở, có thể chỉnh sửa thông tin theo mã nguồn. Bản đồ hiện tại được chỉnh sửa 4 ngày trước bởi tài khoản tên Kalc", tài khoản Cường Nguyễn bình luận.
Ngay sau đó, một người dùng khác đã vào bản đồ, "đưa" Trường Sa, Hoàng Sa về lại chủ quyền của Việt Nam, theo công ước quốc tế. Tuy nhiên, đến sáng 16/4, phần này lại bị sửa lại. Hai quần đảo không còn xuất hiện khi xác định khu vực là Việt Nam.
Chiều 16/4, đại diện Facebook cho biết đã nhận được thông tin về việc ghi sai bản đồ Trường Sa, Hoàng Sa vào lãnh thổ Trung Quốc. "Chúng tôi đã được thông báo về một lỗi kỹ thuật liên quan đến bản dùng trong các công cụ chọn mục tiêu quảng cáo tại Việt Nam. Vấn đề này đã được khắc phục. Chúng tôi rất xin lỗi vì bất kỳ sự nhầm lẫn nào đã gây ra", người phát ngôn của Facebook nói.
Tuy nhiên, bản cập nhật của Facebook chỉ không làm nổi bật đường biên giới của các quốc gia. Khi chọn xác định khu vực Việt Nam hay Trung Quốc đều không thấy hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Người phát ngôn của mạng xã hội này nói: "Facebook giữ quan điểm trung lập tại những khu vực tranh chấp lãnh thổ hoặc các vùng địa lý nhạy cảm khác".
Bản cập nhật của Facebook thêm dòng mô tả về việc không nêu nổi bật đường biên giới của quốc gia trên bản đồ, nhưng vẫn không hiện Hoàng Sa, Trường Sa khi chọn Việt Nam.
Trước đó vào tháng 7/2018, Facebook cũng gặp lỗi tương tự khi xác định sai lệch chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam. Đại diện mạng xã hội này thừa nhận đây là lỗi kỹ thuật và sửa lại bản đồ.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo, giám sát chặt chẽ việc xử lý của Facebook, kiên quyết không để xảy ra các trường hợp tương tự.
Theo VnExpress
0
Tối 15/4, người dùng mạng xã hội phát hiện Facebook dùng bản đồ mô tả sai về chủ quyền của hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Cụ thể, trong phần tạo quảng cáo, nếu xác định khu vực là Việt Nam, sẽ không có hai quần đảo này trên bản đồ. Nhưng khi xác định khu vực Trung Quốc, hai quần đảo lại xuất hiện.
Ông Lê Quang Tự Do, Cục phó Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ Thông tin Truyền thông) cho biết Cục đã yêu cầu Facebook sửa. "Họ đã kiểm tra và thông báo đây là lỗi khi cập nhật bản đồ", ông Tự Do nói.
Người dùng mạng xã hội Việt Nam đang kêu gọi Facebook chỉnh sửa lại thông tin chính xác. Nhiều người đã vào phần nhận xét ứng dụng trong App Store và cửa hàng CH Play để phản hồi. Cộng đồng mạng đang kêu gọi nhau vào "vote" 1 sao cho Facebook.
"Facebook đang sử dụng bản đồ Openstreetmap do bên thứ ba phát triển. Đây là bản đồ mở, có thể chỉnh sửa thông tin theo mã nguồn. Bản đồ hiện tại được chỉnh sửa 4 ngày trước bởi tài khoản tên Kalc", tài khoản Cường Nguyễn bình luận.
Ngay sau đó, một người dùng khác đã vào bản đồ, "đưa" Trường Sa, Hoàng Sa về lại chủ quyền của Việt Nam, theo công ước quốc tế. Tuy nhiên, đến sáng 16/4, phần này lại bị sửa lại. Hai quần đảo không còn xuất hiện khi xác định khu vực là Việt Nam.
Chiều 16/4, đại diện Facebook cho biết đã nhận được thông tin về việc ghi sai bản đồ Trường Sa, Hoàng Sa vào lãnh thổ Trung Quốc. "Chúng tôi đã được thông báo về một lỗi kỹ thuật liên quan đến bản dùng trong các công cụ chọn mục tiêu quảng cáo tại Việt Nam. Vấn đề này đã được khắc phục. Chúng tôi rất xin lỗi vì bất kỳ sự nhầm lẫn nào đã gây ra", người phát ngôn của Facebook nói.
Tuy nhiên, bản cập nhật của Facebook chỉ không làm nổi bật đường biên giới của các quốc gia. Khi chọn xác định khu vực Việt Nam hay Trung Quốc đều không thấy hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Người phát ngôn của mạng xã hội này nói: "Facebook giữ quan điểm trung lập tại những khu vực tranh chấp lãnh thổ hoặc các vùng địa lý nhạy cảm khác".
Bản cập nhật của Facebook thêm dòng mô tả về việc không nêu nổi bật đường biên giới của quốc gia trên bản đồ, nhưng vẫn không hiện Hoàng Sa, Trường Sa khi chọn Việt Nam.
Trước đó vào tháng 7/2018, Facebook cũng gặp lỗi tương tự khi xác định sai lệch chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam. Đại diện mạng xã hội này thừa nhận đây là lỗi kỹ thuật và sửa lại bản đồ.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo, giám sát chặt chẽ việc xử lý của Facebook, kiên quyết không để xảy ra các trường hợp tương tự.
Theo VnExpress
Thứ Năm, 26 tháng 3, 2020
Việt Nam phản đối trạm nghiên cứu Trung Quốc ở Trường Sa
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam, khi được hỏi về hai trạm nghiên cứu Trung Quốc vừa triển khai ở Trường Sa.
"Mọi hoạt động tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa phải được sự cho phép của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực cũng như nỗ lực của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)", bà Lê Thị Thu Hằng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, nói trong họp báo trực tuyến ngày 26/3.
Bà Hằng trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam đối với việc Trung Quốc triển khai hai trạm nghiên cứu trên đá Chữ Thập và đá Subi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Hôm 20/3, Xinhua đưa tin Trung Quốc đưa vào hoạt động hai trạm nghiên cứu mới mang tên Yongshu và Zhubi tại cái gọi là quần đảo Nam Sa, là tên Bắc Kinh gọi quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hai trạm này thuộc Trung tâm Nghiên cứu về Đảo và Đá thuộc Viện Khoa học Trung Quốc (CAS), có các phòng thí nghiệm để hỗ trợ nghiên cứu về sinh thái, địa chất và môi trường.
"Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế", bà Hằng nói.
Nhắc đến việc Đài Loan diễn tập bắn đạn thật quanh đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa hôm 24/3, người phát ngôn cho biết đây là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo này, đe dọa hòa bình, ổn định, an toàn, an ninh hàng hải, gây căng thẳng và làm phức tạp tình hình ở Biển Đông.
"Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Đài Loan không được tiến hành hoạt động diễn tập trái phép nêu trên cũng như lặp lại vi phạm trong tương lai", bà Hằng nói.
Ba Bình là đảo có diện tích tự nhiên lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Đài Loan chiếm trái phép hòn đảo và triển khai một đơn vị cảnh sát biển đồn trú ở đây, đồng thời thường xuyên tiến hành các cuộc diễn tập bắn đạn thật phi pháp.
Việt Anh/ VnExpress
0
"Mọi hoạt động tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa phải được sự cho phép của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực cũng như nỗ lực của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)", bà Lê Thị Thu Hằng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, nói trong họp báo trực tuyến ngày 26/3.
Bà Hằng trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam đối với việc Trung Quốc triển khai hai trạm nghiên cứu trên đá Chữ Thập và đá Subi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Hôm 20/3, Xinhua đưa tin Trung Quốc đưa vào hoạt động hai trạm nghiên cứu mới mang tên Yongshu và Zhubi tại cái gọi là quần đảo Nam Sa, là tên Bắc Kinh gọi quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hai trạm này thuộc Trung tâm Nghiên cứu về Đảo và Đá thuộc Viện Khoa học Trung Quốc (CAS), có các phòng thí nghiệm để hỗ trợ nghiên cứu về sinh thái, địa chất và môi trường.
"Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế", bà Hằng nói.
Nhắc đến việc Đài Loan diễn tập bắn đạn thật quanh đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa hôm 24/3, người phát ngôn cho biết đây là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo này, đe dọa hòa bình, ổn định, an toàn, an ninh hàng hải, gây căng thẳng và làm phức tạp tình hình ở Biển Đông.
"Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Đài Loan không được tiến hành hoạt động diễn tập trái phép nêu trên cũng như lặp lại vi phạm trong tương lai", bà Hằng nói.
Ba Bình là đảo có diện tích tự nhiên lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Đài Loan chiếm trái phép hòn đảo và triển khai một đơn vị cảnh sát biển đồn trú ở đây, đồng thời thường xuyên tiến hành các cuộc diễn tập bắn đạn thật phi pháp.
Việt Anh/ VnExpress
Thứ Hai, 23 tháng 3, 2020
Trung Quốc ngang nhiên khánh thành 2 trạm nghiên cứu mới ở Trường Sa
Trong lúc thế giới chạy đua kiểm soát đại dịch virus corona, Trung Quốc đã đưa vào hoạt động hai trạm nghiên cứu trên Đá Subi và Đá Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Hai cơ sở nghiên cứu này, đặt dưới sự quản lý của Trung tâm Nghiên cứu Tổng hợp Đảo và Đá thuộc Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS), bao gồm nhiều labo về sinh thái học, địa chất học và môi trường, theo Tân Hoa Xã.
Trong bản tin hôm 20/3, Tân Hoa Xã nói hai trạm nghiên cứu mới đi vào hoạt động có thể hỗ trợ các nhà khoa học điều tra thực địa, lấy mẫu và nghiên cứu khoa học tại "Nam Sa", cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Một nhà nghiên cứu Trung Quốc được dẫn lời trong bản tin cho biết "cơ sở nghiên cứu tổng hợp về rạn san hô và biển sâu" nay đã được thiết lập với hai trạm nghiên cứu mới cùng một trung tâm nghiên cứu được xây dựng trước đó trên Đá Vành Khăn ở Trường Sa.
Đá Vành Khăn, Đá Chữ Thập và Đá Subi là 3 trong 7 thực thể bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp ở Trường Sa của Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Bắc Kinh đã bồi lấp, xây đảo nhân tạo và quân sự hóa biến các thực thể này thành tiền đồn ở Biển Đông.
Với việc xây dựng các trạm nghiên cứu, CAS có kế hoạch "thúc đẩy năng lực khai phá và cung cấp các sản phẩm về khoa học và công nghệ biển để đáp ứng nhu cầu của cả Trung Quốc và các nước ven biển Đông", theo Tân Hoa Xã.
Các cơ sở này cũng sẽ góp phần "cải thiện năng lực quan sát thực địa và thí nghiệm về sinh thái học, địa chất học, môi trường, vật liệu và tối ưu hóa năng lượng từ biển trong môi trường biển nhiệt đới".
Collin Koh, một trong những chuyên gia về an ninh biển hàng đầu khu vực, nói việc Trung Quốc khánh thành hai trạm nghiên cứu mới vào lúc này là một diễn biến nghiêm trọng.
"Một số người có thể nghĩ rằng dịch virus corona đang diễn ra sẽ khiến Bắc Kinh không thể để mắt đến các điểm nóng trên biển này", ông Koh, nhà nghiên cứu tại Trường Quan hệ Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, nói với báo Inquirer.
"Sự thật là tình hình hoàn toàn ngược lại. PLA (Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc) được động viên để duy trì sự sẵn sàng chiến đấu bất chấp virus corona".
"Sử dụng cái mà họ gọi là sáng kiến 'khoa học phục vụ dân sinh' để khẳng định yêu sách là cách họ thường làm và cũng là cách mà tất cả chúng ta thường không để ý", ông nói.
"Tuy nhiên cùng lúc, những hệ quả mang tính chiến lược sinh ra từ đó cũng quan trọng không kém".
Ông Koh tin rằng Trung Quốc sẽ duy trì sự nhất quán trong hoạt động của họ tại vùng biển tranh chấp. Tuy nhiên, vì dịch bệnh đang lây lan trên toàn cầu, hành động của họ có thể không được chú ý.
Theo Zing News
Đăng trong:
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
ZiPictures,
Znews
Thứ Hai, 5 tháng 8, 2019
Việt Nam quyết không để Trung Quốc đặt chân vào Bãi Tư Chính
Căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gia tăng khi Trung Quốc ngang nhiên đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa ở phía Nam Biển Đông của Việt Nam. Dư luận nhiều quốc gia đánh giá đây là sự vu phạm rất nghiêm trọng. Việt Nam chắc chắn sẽ không để Trung Quốc tiến vào Bãi Tư Chính.
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt- Trung
Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2019
Biển Đông: Vì sao Việt Nam không kiện TQ ra toàn án quốc tế?
Vì sao Việt Nam không kiện Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biển Đông? Phân tích của nhà báo người Mỹ gốc Việt Đỗ Dzũng, cộng tác viên báo Người Việt, STBN.
Nguồn: Nua Vong Trai Dat TV
Đăng trong:
Bã Tư Chính,
Hoàng-Trường Sa,
Tin video,
Tranh chấp Biển Đông,
Video,
Việt- Trung
Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019
Gia hạn hoạt động giàn khoan ở Bãi Tư Chính, Việt Nam tiếp tục cứng rắn trước Trung Quốc
Việt Nam vừa ra thông báo rộng rãi về việc gia hạn thời gian hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 tại Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, phía tây bắc Bãi Tư Chính, một động thái được cho là “bất tuân” tiếp theo của Hà Nội sau khi khước từ yêu cầu của Bắc Kinh hồi tháng 6 là rút lại giàn khoan này, dẫn đến việc Bắc Kinh thực hiện lời đe dọa “hành động mạnh” bằng việc đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đến khu vực, theo tiết lộ của một chuyên gia nghiên cứu với VOA.
Trong khi các dữ liệu theo dõi cho thấy tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động gần khu vực Bãi Tư Chính ở Biển Đông bất chấp phản đối từ phía Việt Nam và chỉ trích của Mỹ, một số nguồn tin cho hay Bắc Kinh đã yêu cầu Hà Nội rút giàn khoan ở khu vực này đi và đổi lại, Trung Quốc sẽ rút các tàu của họ. Nhưng Việt Nam bác bỏ đề nghị này.
Trao đổi với VOA hôm 25/7, TS. Hà Hoàng Hợp xác nhận thông tin về những đòi hỏi của Trung Quốc hồi tháng 6.
“Đúng là họ có trao đổi với một số nơi ở Việt Nam điều kiện như thế”, TS. Hà Hoàng Hợp khẳng định với VOA. “Họ đòi Việt Nam phải bắt công ty Nhật và công ty Nga phải rút khỏi chỗ đấy. Nếu không rút thì họ sẽ có hành động mạnh”.
Trung Quốc đã thực hiện lời đe dọa bằng cách đưa con tàu dài 88 met, rộng 20,4 met, với tổng trọng tải 6.918 tấn đến “thăm dò” trong khu vực gần Bãi Tư Chính kể từ ngày 3/7. Vụ việc đã đẩy căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc lên đến đỉnh điểm kể từ sau vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.
Thông báo của Tổng Công ty Bảo đảm An toàn Hàng hải miền Nam, thuộc Bộ Giao thông Vận tải, được truyền thông Việt Nam trích dẫn ngày 25/7 cho biết hoạt động khoan của khu vực Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn do công ty Rosneft Việt Nam B.V. (công ty con của Công ty Rosneft của Nga) “dự kiến kéo dài đến hết ngày 15/9/2019”.
Trang Twitter IndoPacific_SCS_Info, nơi thường xuyên cập nhật tin tức về Biển Đông, nói rằng hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 lẽ ra chấm dứt vào ngày 30/7 theo như kế hoạch ban đầu, nhưng “Việt Nam không lùi bước”.
Theo phân tích của TS. Hà Hoàng Hợp, động thái thông báo gia hạn từ phía Việt Nam là “có và không” liên quan đến căng thẳng ở Bãi Tư Chính.
TS. Hà Hoàng Hợp nói việc gia hạn là do các công ty khai thác dầu khí của Nga, Nhật thực hiện và Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam ra thông báo là để tàu bè đi lại có thể tránh xa khu vực này.
“Hợp đồng ban đầu nói có khả năng [hoạt động khai thác] kéo dài 60-90 ngày. Mà bắt đầu khoan từ ngày 29/6 tới giờ chưa được một tháng, thì phải khoan thêm thì mới đạt kết quả về mặt kỹ thuật”, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói với VOA.
Còn yếu tố “có liên quan”, theo ông, là vì Trung Quốc đã từng yêu cầu Việt Nam rút giàn khoan này đi nhưng phía Việt Nam khước từ.
Theo chuyên gia của Viện Nghiên Đông Nam Á ISEAS, động thái thông báo gia hạn hoạt động từ phía Việt Nam tái khẳng định một lần nữa rằng đòi hỏi của Bắc Kinh là “không hợp lý”.
“Người Nga đã khai thác ở chỗ đó từ năm 2013, sau khi mua lại cổ phần từ công ty BP của Anh quốc và một cố phần nhỏ của công ty Conoco Philips. Từ đó đến giờ họ làm rất tốt, và ai cũng khẳng định khu vực đó là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không tranh cãi được”.
Trong một diễn tiến cùng ngày 25/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng lặp lại lần thứ 3 rằng Việt Nam “kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền” và đã trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc về hoạt động của Hải Dương Địa Chất 8. Đây được xem là phản ứng mạnh nhất từ trước đến nay từ phía Việt Nam liên quan đến những vụ xung đột căng thẳng với Trung Quốc trên Biển Đông.
Theo VOA
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt-Trung
Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019
Bộ Ngoại giao nói về khu vực bãi Tư Chính, giàn khoan DK1 đang bị Trung Quốc xâm phạm
Nói về vị trí lô dầu khí 06-1 tại bãi Tư Chính và giàn khoan DK1 mà Việt Nam đang khai thác nhưng bị nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Lô 06-1 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc là vụ việc nghiêm trọng”.
Nghe:
Chiều 25/7, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, báo giới bày tỏ sự quan tâm đặc biệt tới diễn biến căng thẳng trên Biển Đông và hành động gây hấn của Trung Quốc tại khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam.
Theo đó, hàng loạt câu hỏi liên quan đến vụ việc được đặt ra: Vị trí hiện tại của nhóm tàu Hải Dương 8 Trung Quốc là ở đâu? Cho đến thời điểm này Việt Nam đã làm gì để giải quyết xung đột? Trong trường hợp những nỗ lực ngoại giao và biện pháp Việt Nam đã làm trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả thì bước tiếp theo Việt Nam sẽ làm gì để giải quyết bất đồng?
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh vụ việc nghiêm trọng này đã được đề cập trong các phát biểu trước đây. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán như đã được xác lập tại Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
“Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối phía Trung Quốc, yêu cầu các tàu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.” - bà Lê Thị Thu Hằng nêu rõ quan điểm.
Cũng theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, các lực lượng chức năng Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp đúng pháp luật, duy trì hòa bình ổn định, đảm bảo tự do hàng không, hàng hải, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế.
“Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên vì hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.” - bà Hằng nhấn mạnh.
Lô 06-1 Việt Nam đang khai thác, nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. (ảnh: PVN)
Trước đề nghị xác định vị trí lô 06-1 gần bãi Tư Chính và giàn khoan DK1 mà Việt Nam đang khai thác nhưng bị nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc gây hấn, Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Lô 06-1 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”.
Châu Như Quỳnh/ Dân Trí
0
Nghe:
Chiều 25/7, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, báo giới bày tỏ sự quan tâm đặc biệt tới diễn biến căng thẳng trên Biển Đông và hành động gây hấn của Trung Quốc tại khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam.
Theo đó, hàng loạt câu hỏi liên quan đến vụ việc được đặt ra: Vị trí hiện tại của nhóm tàu Hải Dương 8 Trung Quốc là ở đâu? Cho đến thời điểm này Việt Nam đã làm gì để giải quyết xung đột? Trong trường hợp những nỗ lực ngoại giao và biện pháp Việt Nam đã làm trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả thì bước tiếp theo Việt Nam sẽ làm gì để giải quyết bất đồng?
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh vụ việc nghiêm trọng này đã được đề cập trong các phát biểu trước đây. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán như đã được xác lập tại Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
“Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối phía Trung Quốc, yêu cầu các tàu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.” - bà Lê Thị Thu Hằng nêu rõ quan điểm.
Cũng theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, các lực lượng chức năng Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp đúng pháp luật, duy trì hòa bình ổn định, đảm bảo tự do hàng không, hàng hải, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế.
“Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên vì hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.” - bà Hằng nhấn mạnh.
Lô 06-1 Việt Nam đang khai thác, nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. (ảnh: PVN)
Trước đề nghị xác định vị trí lô 06-1 gần bãi Tư Chính và giàn khoan DK1 mà Việt Nam đang khai thác nhưng bị nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc gây hấn, Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Lô 06-1 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”.
Châu Như Quỳnh/ Dân Trí
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt-Trung
Vì sao Trung Quốc gây hấn tại bãi Tư Chính của Việt Nam?
Đây là nhận định được GS. TS. Luật sư Nguyễn Bá Diến, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Khoa học Biển và Hải đảo, đưa ra trong bối cảnh, trong những tuần qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.
Tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc đang có những hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Ảnh: SCMP.
Nghe:
Phép thử cho tham vọng lâu dài
Theo Giáo sư Diến, vấn đề Biển Đông cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông đã được Trung Quốc lên chiến lược và “lập trình” từ rất lâu và được phôi thai ngay từ khi thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949) với tham vọng vươn lên làm bá chủ thế giới.
Để đạt được tham vọng này, Trung Quốc phải trở thành cường quốc biển, phải độc chiếm và thống trị Biển Đông - kho tài nguyên thiên nhiên (hải sản và khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt, băng cháy) giàu có và tuyến hàng hải quan trọng nhất của thế giới. Vì vậy, ngay trong tuyên bố của mình năm 1958, khi ban hành Luật về Lãnh hải, Trung Quốc đã ngang nhiên tuyên bố “Trung Quốc có chủ quyền đối với Tây Sa và Nam Sa” (trên thực tế là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Trong các tài liệu nghiên cứu của Trung Quốc, ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, đều khẳng định, Biển Đông là “bể cá vàng” là “con đường sinh mệnh” là “yết hầu” của Trung Quốc. Đặc biệt là sau báo cáo của Ủy ban Kế hoạch Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc từ năm 1969 dự báo Biển Đông là một nơi giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc bệt là dầu mỏ và khí đốt, Trung Quốc bắt đầu “để mắt” đến Biển Đông.
Đến năm 1992, Trung Quốc ngang ngược ký hợp đồng thăm dò dầu khí trên bãi Tư Chính của Việt Nam với một công ty tư nhân của Mỹ tên là công ty Crestone. Hợp đồng phi pháp này đã bị Việt Nam và cả Bộ ngoại giao Hoa Kỳ phản đối. Đến năm 2009, Trung Quốc chính thức đệ trình lên Liên Hợp Quốc yêu sách “đường lưỡi bò” phi pháp, “nuốt trọn” gần như toàn bộ Biển Đông, vi phạm các chuẩn tắc cơ bản Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc mà Trung Quốc đã cam kết.
Trung Quốc muốn “giải cơn khát năng lượng ngày càng tăng với cấp số nhân” và đảm bảo về mặt an ninh năng lượng để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế rất mạnh với tham vọng vươn lên siêu cường và “Cảnh sát trưởng thế giới”. Các chuyên gia và nhà cầm quyền Trung Quốc từ lâu đã dự báo về sự “khát năng lượng” của nước này. Hiện nay, Trung Quốc đang nhập khẩu tới gần 60% dầu mỏ, đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 66,6% và đến năm 2040 sẽ là 75%.
Hơn thế nữa, khoảng hơn 7 năm nay, xung đột tại khu vực Trung Đông-Bắc Phi mà gần đây nhất là những diễn biến căng thẳng giữa Mỹ và Iran, nơi lượng dầu mỏ của Trung Quốc chủ yếu được nhập về qua eo biển Hormuz, khiến Trung Quốc cảm thấy bất an. Nếu căng thẳng leo thang, Iran hoàn toàn có thể tính đến phương án phong tỏa eo biển này. Điều này khiến Trung Quốc gặp muôn vàn khó khăn khi chính các chuyên gia của nước này ước tính, tổng dự trữ dầu mỏ của Trung Quốc không vượt quá 10-15 ngày.
Cũng theo Giáo sư Diến, hành vi của Trung Quốc ở bãi Tư Chính chính là cách để nước này “thử phản ứng” của Việt Nam như đã từng xảy ra khi nước này kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam hồi năm 2014. Trung Quốc cũng muốn thông qua hành động này để “nắn gân” Mỹ trong bối cảnh hai bên vẫn đang có tranh chấp về thương mại.
Trong khi đó, theo Giáo sư Diến, soi chiếu từ vị trí địa lý để xem xét trên khía cạnh pháp lý, đặc biệt là chiểu theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) – bản “Hiến pháp về Đại dương” và Phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, được thành lập theo UNCLOS 1982 – bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hành động pháp lý- “nỏ thần” thời hiện đại của Việt Nam
Giáo sư Diến giải thích, bãi Tư Chính (mà Trung Quốc gọi là bãi Vạn An Bắc) nằm cách bờ biển Vũng Tàu 160 hải lý và cách bờ biển Đảo Hải Nam của Trung Quốc hơn 600 hải lý. Trong khi đó, theo UNCLOS, một quốc gia ngoài vùng nội thủy và lãnh hải thì từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven bờ được quyền có vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200 hải lý và có vùng thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý và tối đa là không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đằng sau 2.500m nước một khoảng cách là 100 hải lý.
Như vậy, vùng thềm lục địa của Trung Quốc không thể kéo dài đến bãi Tư Chính. Không thể nói bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc. Trong khi đó, cũng chiểu theo UNCLOS, bãi Tư Chính nằm trong phạm vi 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, cũng đã bác bỏ yêu sách phi lý đường lưỡi bò của Trung Quốc, đồng thời nêu rõ các thực thể ở ngoài khơi Biển Đông, bao gồm một số thực thể ở Trường Sa chỉ có thể có lãnh hải 12 hải lý; không một thực thể nào có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (theo Khoản 3 Điều 121 UNCLOS).
Từ lâu, Việt Nam cũng đã thực hiện quyền chủ quyền đối với bãi Tư Chính. Ngay từ năm 1971, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã cho tiến hành phân lô đấu thầu thăm dò khai thác. Năm 1988, Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng đã phân lô và mời các nhà thầu nước ngoài đến thăm dò, khai thác dầu khí tại đây.
Đến năm 1994, Việt Nam cũng đã ký hợp đồng với một công ty năng lượng lớn của Mỹ là ExxonMobil để khai thác lô dầu khí ở bãi Thanh Long cùng nằm trong phạm vi bãi Tư Chính. Từ năm 1989 cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập Cụm Kinh tế, Khoa học và Dịch vụ có các trạm, nhà chòi, giàn khoan và đèn biển để tạo thuận tiện và hỗ trợ cho giao thông hàng hải, đánh bắt hải sản, nghiên cứu khoa học và các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đã thực hiện quyền chủ quyền đối với bãi Tư Chính hoàn toàn phù hợp với pháp luật cũng như theo đúng UNCLOS.
Khu vực nhà giàn DK1, trong đó có Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam.
Theo Giáo sư Diến: “Hành vi của Trung Quốc là đi ngược lại hoàn toàn phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông- nơi Trung Quốc từng thực hiện chính sách 3 không: “Không thừa nhận thẩm quyền, không tham gia tố tụng và không chấp nhận phán quyết” nhằm vô hiệu hóa trên thực địa phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, được thành lập theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc. Điều này cho thấy Trung Quốc sẵn sàng dẫm đạp lên các nguyên tắc cơ bản nhất của luật pháp quốc tế và cho thấy sự ngang ngược và nguy hiểm của những âm mưu và các hành vi này”.Trong khi đó, trong những ngày qua, các tàu Hải cảnh của Trung Quốc đã có những hành vi đe dọa sử dụng vũ lực đối với các tàu của Việt Nam ở bãi Tư Chính. Các cơ quan chức năng Việt Nam đã sử dụng mọi biện pháp để yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành động của mình. Trên thực địa, các lực lượng chấp pháp Việt Nam cũng đã dùng các phương tiện, thiết bị, kể cả loa phát bằng tiếng Việt, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh để tuyên bố hành động của Trung Quốc là vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam nhưng vẫn bị phía Trung Quốc trắng trợn phớt lờ.
Để đối phó với những hành động sai trái của Trung Quốc, Giáo sư Diến cho rằng, Việt Nam cần ưu tiên giải quyết tranh chấp trên Biển Đông dựa trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật, dựa trên các cơ sơ pháp lý bao gồm Hiến chương Liên Hợp Quốc, UNCLOS, thỏa thuận giữa ASEAN với Trung Quốc và nhận thức chung của lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Giáo sư Diến khẳng định: “Các biện pháp pháp lý là giải pháp căn cơ, bền vững và lâu dài, văn minh, phù hợp với sự thật khách quan, phù hợp với xu thế chung của nhân loại và nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Đây cũng là giải pháp ưu việt nhất, tối ưu nhất, là “bảo kiếm”, là “nỏ thần” của Việt Nam thời hiện đại. Việc chậm trễ sử dụng các biện pháp pháp lý có thể khiến chúng ta phải trả giá nặng nề hơn”.
Theo Hương Giang-Trần Khánh/ VOV.vn
0
Tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 của Trung Quốc đang có những hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Ảnh: SCMP.
Nghe:
Phép thử cho tham vọng lâu dài
Theo Giáo sư Diến, vấn đề Biển Đông cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông đã được Trung Quốc lên chiến lược và “lập trình” từ rất lâu và được phôi thai ngay từ khi thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949) với tham vọng vươn lên làm bá chủ thế giới.
Để đạt được tham vọng này, Trung Quốc phải trở thành cường quốc biển, phải độc chiếm và thống trị Biển Đông - kho tài nguyên thiên nhiên (hải sản và khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt, băng cháy) giàu có và tuyến hàng hải quan trọng nhất của thế giới. Vì vậy, ngay trong tuyên bố của mình năm 1958, khi ban hành Luật về Lãnh hải, Trung Quốc đã ngang nhiên tuyên bố “Trung Quốc có chủ quyền đối với Tây Sa và Nam Sa” (trên thực tế là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Trong các tài liệu nghiên cứu của Trung Quốc, ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, đều khẳng định, Biển Đông là “bể cá vàng” là “con đường sinh mệnh” là “yết hầu” của Trung Quốc. Đặc biệt là sau báo cáo của Ủy ban Kế hoạch Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc từ năm 1969 dự báo Biển Đông là một nơi giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc bệt là dầu mỏ và khí đốt, Trung Quốc bắt đầu “để mắt” đến Biển Đông.
Đến năm 1992, Trung Quốc ngang ngược ký hợp đồng thăm dò dầu khí trên bãi Tư Chính của Việt Nam với một công ty tư nhân của Mỹ tên là công ty Crestone. Hợp đồng phi pháp này đã bị Việt Nam và cả Bộ ngoại giao Hoa Kỳ phản đối. Đến năm 2009, Trung Quốc chính thức đệ trình lên Liên Hợp Quốc yêu sách “đường lưỡi bò” phi pháp, “nuốt trọn” gần như toàn bộ Biển Đông, vi phạm các chuẩn tắc cơ bản Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc mà Trung Quốc đã cam kết.
Trung Quốc muốn “giải cơn khát năng lượng ngày càng tăng với cấp số nhân” và đảm bảo về mặt an ninh năng lượng để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế rất mạnh với tham vọng vươn lên siêu cường và “Cảnh sát trưởng thế giới”. Các chuyên gia và nhà cầm quyền Trung Quốc từ lâu đã dự báo về sự “khát năng lượng” của nước này. Hiện nay, Trung Quốc đang nhập khẩu tới gần 60% dầu mỏ, đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 66,6% và đến năm 2040 sẽ là 75%.
Hơn thế nữa, khoảng hơn 7 năm nay, xung đột tại khu vực Trung Đông-Bắc Phi mà gần đây nhất là những diễn biến căng thẳng giữa Mỹ và Iran, nơi lượng dầu mỏ của Trung Quốc chủ yếu được nhập về qua eo biển Hormuz, khiến Trung Quốc cảm thấy bất an. Nếu căng thẳng leo thang, Iran hoàn toàn có thể tính đến phương án phong tỏa eo biển này. Điều này khiến Trung Quốc gặp muôn vàn khó khăn khi chính các chuyên gia của nước này ước tính, tổng dự trữ dầu mỏ của Trung Quốc không vượt quá 10-15 ngày.
Cũng theo Giáo sư Diến, hành vi của Trung Quốc ở bãi Tư Chính chính là cách để nước này “thử phản ứng” của Việt Nam như đã từng xảy ra khi nước này kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam hồi năm 2014. Trung Quốc cũng muốn thông qua hành động này để “nắn gân” Mỹ trong bối cảnh hai bên vẫn đang có tranh chấp về thương mại.
Trong khi đó, theo Giáo sư Diến, soi chiếu từ vị trí địa lý để xem xét trên khía cạnh pháp lý, đặc biệt là chiểu theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) – bản “Hiến pháp về Đại dương” và Phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, được thành lập theo UNCLOS 1982 – bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hành động pháp lý- “nỏ thần” thời hiện đại của Việt Nam
Giáo sư Diến giải thích, bãi Tư Chính (mà Trung Quốc gọi là bãi Vạn An Bắc) nằm cách bờ biển Vũng Tàu 160 hải lý và cách bờ biển Đảo Hải Nam của Trung Quốc hơn 600 hải lý. Trong khi đó, theo UNCLOS, một quốc gia ngoài vùng nội thủy và lãnh hải thì từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven bờ được quyền có vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200 hải lý và có vùng thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý và tối đa là không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đằng sau 2.500m nước một khoảng cách là 100 hải lý.
Như vậy, vùng thềm lục địa của Trung Quốc không thể kéo dài đến bãi Tư Chính. Không thể nói bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc. Trong khi đó, cũng chiểu theo UNCLOS, bãi Tư Chính nằm trong phạm vi 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, cũng đã bác bỏ yêu sách phi lý đường lưỡi bò của Trung Quốc, đồng thời nêu rõ các thực thể ở ngoài khơi Biển Đông, bao gồm một số thực thể ở Trường Sa chỉ có thể có lãnh hải 12 hải lý; không một thực thể nào có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (theo Khoản 3 Điều 121 UNCLOS).
Từ lâu, Việt Nam cũng đã thực hiện quyền chủ quyền đối với bãi Tư Chính. Ngay từ năm 1971, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã cho tiến hành phân lô đấu thầu thăm dò khai thác. Năm 1988, Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng đã phân lô và mời các nhà thầu nước ngoài đến thăm dò, khai thác dầu khí tại đây.
Đến năm 1994, Việt Nam cũng đã ký hợp đồng với một công ty năng lượng lớn của Mỹ là ExxonMobil để khai thác lô dầu khí ở bãi Thanh Long cùng nằm trong phạm vi bãi Tư Chính. Từ năm 1989 cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập Cụm Kinh tế, Khoa học và Dịch vụ có các trạm, nhà chòi, giàn khoan và đèn biển để tạo thuận tiện và hỗ trợ cho giao thông hàng hải, đánh bắt hải sản, nghiên cứu khoa học và các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí. Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đã thực hiện quyền chủ quyền đối với bãi Tư Chính hoàn toàn phù hợp với pháp luật cũng như theo đúng UNCLOS.
Khu vực nhà giàn DK1, trong đó có Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam.
Theo Giáo sư Diến: “Hành vi của Trung Quốc là đi ngược lại hoàn toàn phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông- nơi Trung Quốc từng thực hiện chính sách 3 không: “Không thừa nhận thẩm quyền, không tham gia tố tụng và không chấp nhận phán quyết” nhằm vô hiệu hóa trên thực địa phán quyết Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/7/2016, được thành lập theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc. Điều này cho thấy Trung Quốc sẵn sàng dẫm đạp lên các nguyên tắc cơ bản nhất của luật pháp quốc tế và cho thấy sự ngang ngược và nguy hiểm của những âm mưu và các hành vi này”.Trong khi đó, trong những ngày qua, các tàu Hải cảnh của Trung Quốc đã có những hành vi đe dọa sử dụng vũ lực đối với các tàu của Việt Nam ở bãi Tư Chính. Các cơ quan chức năng Việt Nam đã sử dụng mọi biện pháp để yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành động của mình. Trên thực địa, các lực lượng chấp pháp Việt Nam cũng đã dùng các phương tiện, thiết bị, kể cả loa phát bằng tiếng Việt, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh để tuyên bố hành động của Trung Quốc là vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam nhưng vẫn bị phía Trung Quốc trắng trợn phớt lờ.
Để đối phó với những hành động sai trái của Trung Quốc, Giáo sư Diến cho rằng, Việt Nam cần ưu tiên giải quyết tranh chấp trên Biển Đông dựa trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật, dựa trên các cơ sơ pháp lý bao gồm Hiến chương Liên Hợp Quốc, UNCLOS, thỏa thuận giữa ASEAN với Trung Quốc và nhận thức chung của lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Giáo sư Diến khẳng định: “Các biện pháp pháp lý là giải pháp căn cơ, bền vững và lâu dài, văn minh, phù hợp với sự thật khách quan, phù hợp với xu thế chung của nhân loại và nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Đây cũng là giải pháp ưu việt nhất, tối ưu nhất, là “bảo kiếm”, là “nỏ thần” của Việt Nam thời hiện đại. Việc chậm trễ sử dụng các biện pháp pháp lý có thể khiến chúng ta phải trả giá nặng nề hơn”.
Theo Hương Giang-Trần Khánh/ VOV.vn
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt-Trung
Ba việc “rất quan trọng” Việt Nam phải làm để đấu tranh với Trung Quốc
Đại sứ Phạm Quang Vinh - nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam - đã nhấn mạnh như vậy trong cuộc trao đổi với PV Dân trí về việc nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng biển phía nam của Việt Nam (bãi Tư Chính) và bối cảnh Bắc Kinh “phớt lờ” yêu cầu của chúng ta về chấm dứt các hành vi vi phạm.
Nghe:
- Phóng viên: Thưa Đại sứ, những ngày qua Trung Quốc gia tăng hoạt động phi pháp, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, đặc biệt tại bãi Tư Chính. Xin Đại sứ cho biết những ảnh hưởng của tình hình này tới cục diện Biển Đông và quan hệ hai nước?
- Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chúng ta phải khẳng định rất rõ ràng rằng, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982. Các tàu của Trung Quốc đã xâm phạm vào vùng biển hợp pháp của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, và là điều không thể chấp nhận được.
Việt Nam chủ trương hòa bình, hòa hiếu, mong muốn vun đắp quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình. Do đó, chúng ta cần phải nói rõ với Trung Quốc về những vi phạm đó, Việt Nam không thể chấp nhận và vận động để công luận lên tiếng phản bác những hành động phi pháp này.
Mặt khác, Trung Quốc thường viện dẫn, thậm chí sử dụng vị thế, sức mạnh, để áp đặt yêu sách “đường lưỡi bò” phi lí của mình. Đây là điều trái với luật pháp quốc tế và bị thế giới bác bỏ.
- Trung Quốc tiếp tục đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” và cố tình bành trướng nhằm độc chiếm Biển Đông. Nhiều ý kiến cho rằng những hành động gây hấn của Trung Quốc là để tạo áp lực “bắt buộc” các nước phải công nhận “đường lưỡi bò” phi pháp. Đại sứ có bình luận gì?
- Câu chuyện cần nhấn mạnh ở đây là luật pháp quốc tế và luật pháp quốc tế phải được tuân thủ, dù đó là ai. “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc không chỉ trái với luật pháp quốc tế, mà còn làm phức tạp thêm tình hình, vì nó xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, mưu toan biến những vùng biển hợp pháp của nước khác thành khu vực của Trung Quốc hay khu vực có tranh chấp.
Hơn nữa, chính “đường lưỡi bò” phi lí và chính sách áp đặt bằng sức mạnh nêu trên đã làm gia tăng căng thẳng, mở rộng tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình, an ninh, tự do hàng hải trên Biển Đông, tới việc hợp tác, xây dựng lòng tin ở khu vực. Đây là điều không ai có thể chấp nhận. Dư luận thế giới, các nước trong và ngoài khu vực, cộng đồng quốc tế đều phản bác, không chấp nhận yêu sách phi lý này của Trung Quốc.
Đại sứ Phạm Quang Vinh trao đổi với PV Dân trí về việc nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng biển phía nam của Việt Nam
Cũng phải nhấn mạnh rằng, Phán quyết của Tòa án quốc tế ngày 12/7/2016, nhất là phần đã tuyên về áp dụng Công ước Luật biển là một phần của luật pháp quốc tế và sẽ mãi giữ nguyên giá trị pháp lý, trong đó khẳng định Công ước Luật biển không chấp nhận “các yêu sách lịch sử” và hoàn toàn bác bỏ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Biển đông là khu vực địa chiến lược, rất quan trọng về giao thông hàng hải, hàng không và thông thương thương mại, kinh tế quốc tế. Do đó, tất cả các nước đều có lợi ích và cần nỗ lực đóng góp vào việc duy trì trật tự, hòa bình, an ninh hàng hải ở Biển Đông.
- Năm 2014, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 tới vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Lần này, Trung Quốc điều nhóm tàu đi sâu vào thềm lục địa và xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những vi phạm trắng trợn của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng cả về tính chất và mức độ, thưa Đại sứ?
- Chúng ta không nên võ đoán, nhưng có một điểm cần lưu ý là Trung Quốc đã nhiều lần vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm vùng biển các nước. Một khi có vi phạm đối với chủ quyền biển đảo của mình thì chắc chắn chúng ta phải bảo vệ, lên tiếng với Trung Quốc, với khu vực và cộng đồng quốc tế.
Tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 19/7 là rất xác đáng, thể hiện rõ chính nghĩa, chủ trương hòa bình, kiên quyết bảo vệ các vùng biển hợp pháp của mình, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với việc luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.
Hành động của Trung Quốc xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, mưu toan biến những vùng biển hợp pháp của nước khác thành khu vực của Trung Quốc hay khu vực có tranh chấp
Mặt khác, như trên đã nhấn mạnh, Biển Đông không chỉ là lợi ích của các nước trong khu vực mà còn là lợi ích của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông đòi hỏi các nước đều phải có trách nhiệm, có tiếng nói.
Thời gian qua, Việt Nam đã triển khai rất phù hợp, khéo léo và kiên quyết, tổng hợp các biện pháp, thể hiện được sự chính nghĩa, chủ trương hòa bình, hòa hiếu và nhấn mạnh luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển.
- Trên thực tế, Bắc Kinh “phớt lờ” quan điểm và thiện chí của chúng ta về hòa bình, hòa hiếu. Đông đảo nhân dân Việt Nam đang kỳ vọng về những hành động mạnh mẽ để yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoàn toàn những hoạt động phi pháp. Theo Đại sứ, Việt Nam cần phải làm gì?
- Chúng ta cần phải đặt lại câu hỏi mà báo nêu trên, cái chính, đó là làm sao vừa giữ hòa bình, vừa bảo đảm chủ quyền biển đảo hợp pháp của mình. Có nhiều việc phải làm, nhưng có ba việc rất quan trọng cần làm trong bối cảnh hiện nay.
Một là, Việt Nam phải kiên trì đối thoại với Trung Quốc, nói rõ chủ trương hòa bình, quan hệ, nhưng chúng ta cũng cần phản bác và nói rõ vi phạm, yêu cầu Trung Quốc tôn trọng các vùng biển hợp pháp của Việt Nam. Hai là, công luận, áp lực của quốc tế là rất quan trọng, vì vậy chúng ta cần phải tiếp tục thông tin, vận động công luận, cả với khu vực và thế giới, phản đối những hành vi vi phạm của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế. Ba là, lực lượng chức năng của Việt Nam phải tiếp tục hiện diện và thực thi pháp luật trên biển.
Trung Quốc cũng phải thể hiện trách nhiệm, cũng là vì chính lợi ích, vị thế, môi trường cho phát triển của mình, thì Trung Quốc phải tôn trọng, tuân thủ luật pháp quốc tế, xây dựng lòng tin và xây dựng môi trường láng giềng hòa bình - thân thiện trong khu vực một cách thực chất và hiệu quả.
- Mới đây lực lượng Tuần duyên Mỹ khẳng định cam kết hợp tác chặt chẽ với Cảnh sát biển Việt Nam đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông trong bối cảnh Trung Quốc tăng hiện diện quân sự, đồng thời sẽ có những động thái cụ thể nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm của Trung Quốc. Đại sứ đánh giá như thế nào về sự hợp tác này?
- Ở đây có hai việc cần phân biệt rất rõ: Một là, hợp tác chung, vì hoà bình, ổn định ở khu vực, ta đã làm với nhiều nước, cả với ASEAN, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ... Hai là, ta nhất quán chủ trương không đi với nước này để chống lại nước khác.
Chính sách quốc phòng an ninh của chúng ta là hoà bình, tự vệ và bảo vệ tổ quốc. Ta đã tranh thủ nhiều nước để xây dựng năng lực của mình bao gồm cả về năng lực an ninh hàng hải, chấp pháp trên biển. Ta cũng tham gia các hoạt động hợp tác của ASEAN ở khu vực.
ASEAN, các nước trong và ngoài khu vực đã có nhiều hình thức và đang đẩy mạnh các lĩnh vực hợp tác trên biển, nhằm tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin, ứng phó với các thách thức, nhất là an ninh phi truyền thống như tìm kiếm cứu nạn, ứng phó thiên tiên, chống cướp biển hay các loại tội phạm khác.
Biển Đông không chỉ là lợi ích của các nước trong khu vực mà còn là lợi ích của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông đòi hỏi các nước đều phải có trách nhiệm, có tiếng nói.
Cần nhấn mạnh thêm ở đây là các nước cần nỗ lực, hợp tác đóng góp vào duy trì và bảo đảm trật tự, hoà bình, an ninh trên biển, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.
- Xin trân trọng cảm ơn Đại sứ!
Theo Dân Trí
0
Nghe:
- Phóng viên: Thưa Đại sứ, những ngày qua Trung Quốc gia tăng hoạt động phi pháp, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, đặc biệt tại bãi Tư Chính. Xin Đại sứ cho biết những ảnh hưởng của tình hình này tới cục diện Biển Đông và quan hệ hai nước?
- Đại sứ Phạm Quang Vinh: Chúng ta phải khẳng định rất rõ ràng rằng, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982. Các tàu của Trung Quốc đã xâm phạm vào vùng biển hợp pháp của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, và là điều không thể chấp nhận được.
Việt Nam chủ trương hòa bình, hòa hiếu, mong muốn vun đắp quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình. Do đó, chúng ta cần phải nói rõ với Trung Quốc về những vi phạm đó, Việt Nam không thể chấp nhận và vận động để công luận lên tiếng phản bác những hành động phi pháp này.
Mặt khác, Trung Quốc thường viện dẫn, thậm chí sử dụng vị thế, sức mạnh, để áp đặt yêu sách “đường lưỡi bò” phi lí của mình. Đây là điều trái với luật pháp quốc tế và bị thế giới bác bỏ.
- Trung Quốc tiếp tục đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” và cố tình bành trướng nhằm độc chiếm Biển Đông. Nhiều ý kiến cho rằng những hành động gây hấn của Trung Quốc là để tạo áp lực “bắt buộc” các nước phải công nhận “đường lưỡi bò” phi pháp. Đại sứ có bình luận gì?
- Câu chuyện cần nhấn mạnh ở đây là luật pháp quốc tế và luật pháp quốc tế phải được tuân thủ, dù đó là ai. “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc không chỉ trái với luật pháp quốc tế, mà còn làm phức tạp thêm tình hình, vì nó xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, mưu toan biến những vùng biển hợp pháp của nước khác thành khu vực của Trung Quốc hay khu vực có tranh chấp.
Hơn nữa, chính “đường lưỡi bò” phi lí và chính sách áp đặt bằng sức mạnh nêu trên đã làm gia tăng căng thẳng, mở rộng tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình, an ninh, tự do hàng hải trên Biển Đông, tới việc hợp tác, xây dựng lòng tin ở khu vực. Đây là điều không ai có thể chấp nhận. Dư luận thế giới, các nước trong và ngoài khu vực, cộng đồng quốc tế đều phản bác, không chấp nhận yêu sách phi lý này của Trung Quốc.
Đại sứ Phạm Quang Vinh trao đổi với PV Dân trí về việc nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng biển phía nam của Việt Nam
Cũng phải nhấn mạnh rằng, Phán quyết của Tòa án quốc tế ngày 12/7/2016, nhất là phần đã tuyên về áp dụng Công ước Luật biển là một phần của luật pháp quốc tế và sẽ mãi giữ nguyên giá trị pháp lý, trong đó khẳng định Công ước Luật biển không chấp nhận “các yêu sách lịch sử” và hoàn toàn bác bỏ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Biển đông là khu vực địa chiến lược, rất quan trọng về giao thông hàng hải, hàng không và thông thương thương mại, kinh tế quốc tế. Do đó, tất cả các nước đều có lợi ích và cần nỗ lực đóng góp vào việc duy trì trật tự, hòa bình, an ninh hàng hải ở Biển Đông.
- Năm 2014, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 tới vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Lần này, Trung Quốc điều nhóm tàu đi sâu vào thềm lục địa và xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những vi phạm trắng trợn của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng cả về tính chất và mức độ, thưa Đại sứ?
- Chúng ta không nên võ đoán, nhưng có một điểm cần lưu ý là Trung Quốc đã nhiều lần vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm vùng biển các nước. Một khi có vi phạm đối với chủ quyền biển đảo của mình thì chắc chắn chúng ta phải bảo vệ, lên tiếng với Trung Quốc, với khu vực và cộng đồng quốc tế.
Tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 19/7 là rất xác đáng, thể hiện rõ chính nghĩa, chủ trương hòa bình, kiên quyết bảo vệ các vùng biển hợp pháp của mình, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với việc luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.
Hành động của Trung Quốc xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước, mưu toan biến những vùng biển hợp pháp của nước khác thành khu vực của Trung Quốc hay khu vực có tranh chấp
Mặt khác, như trên đã nhấn mạnh, Biển Đông không chỉ là lợi ích của các nước trong khu vực mà còn là lợi ích của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông đòi hỏi các nước đều phải có trách nhiệm, có tiếng nói.
Thời gian qua, Việt Nam đã triển khai rất phù hợp, khéo léo và kiên quyết, tổng hợp các biện pháp, thể hiện được sự chính nghĩa, chủ trương hòa bình, hòa hiếu và nhấn mạnh luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển.
- Trên thực tế, Bắc Kinh “phớt lờ” quan điểm và thiện chí của chúng ta về hòa bình, hòa hiếu. Đông đảo nhân dân Việt Nam đang kỳ vọng về những hành động mạnh mẽ để yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoàn toàn những hoạt động phi pháp. Theo Đại sứ, Việt Nam cần phải làm gì?
- Chúng ta cần phải đặt lại câu hỏi mà báo nêu trên, cái chính, đó là làm sao vừa giữ hòa bình, vừa bảo đảm chủ quyền biển đảo hợp pháp của mình. Có nhiều việc phải làm, nhưng có ba việc rất quan trọng cần làm trong bối cảnh hiện nay.
Một là, Việt Nam phải kiên trì đối thoại với Trung Quốc, nói rõ chủ trương hòa bình, quan hệ, nhưng chúng ta cũng cần phản bác và nói rõ vi phạm, yêu cầu Trung Quốc tôn trọng các vùng biển hợp pháp của Việt Nam. Hai là, công luận, áp lực của quốc tế là rất quan trọng, vì vậy chúng ta cần phải tiếp tục thông tin, vận động công luận, cả với khu vực và thế giới, phản đối những hành vi vi phạm của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế. Ba là, lực lượng chức năng của Việt Nam phải tiếp tục hiện diện và thực thi pháp luật trên biển.
Trung Quốc cũng phải thể hiện trách nhiệm, cũng là vì chính lợi ích, vị thế, môi trường cho phát triển của mình, thì Trung Quốc phải tôn trọng, tuân thủ luật pháp quốc tế, xây dựng lòng tin và xây dựng môi trường láng giềng hòa bình - thân thiện trong khu vực một cách thực chất và hiệu quả.
- Mới đây lực lượng Tuần duyên Mỹ khẳng định cam kết hợp tác chặt chẽ với Cảnh sát biển Việt Nam đảm bảo tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông trong bối cảnh Trung Quốc tăng hiện diện quân sự, đồng thời sẽ có những động thái cụ thể nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm của Trung Quốc. Đại sứ đánh giá như thế nào về sự hợp tác này?
- Ở đây có hai việc cần phân biệt rất rõ: Một là, hợp tác chung, vì hoà bình, ổn định ở khu vực, ta đã làm với nhiều nước, cả với ASEAN, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ... Hai là, ta nhất quán chủ trương không đi với nước này để chống lại nước khác.
Chính sách quốc phòng an ninh của chúng ta là hoà bình, tự vệ và bảo vệ tổ quốc. Ta đã tranh thủ nhiều nước để xây dựng năng lực của mình bao gồm cả về năng lực an ninh hàng hải, chấp pháp trên biển. Ta cũng tham gia các hoạt động hợp tác của ASEAN ở khu vực.
ASEAN, các nước trong và ngoài khu vực đã có nhiều hình thức và đang đẩy mạnh các lĩnh vực hợp tác trên biển, nhằm tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin, ứng phó với các thách thức, nhất là an ninh phi truyền thống như tìm kiếm cứu nạn, ứng phó thiên tiên, chống cướp biển hay các loại tội phạm khác.
Biển Đông không chỉ là lợi ích của các nước trong khu vực mà còn là lợi ích của tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, để bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông đòi hỏi các nước đều phải có trách nhiệm, có tiếng nói.
Cần nhấn mạnh thêm ở đây là các nước cần nỗ lực, hợp tác đóng góp vào duy trì và bảo đảm trật tự, hoà bình, an ninh trên biển, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.
- Xin trân trọng cảm ơn Đại sứ!
Theo Dân Trí
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt-Trung
Thứ Tư, 24 tháng 7, 2019
Đô đốc Mỹ kêu gọi quốc tế chống hành động của Trung Quốc ở Biển Đông
Hoa Kỳ cho rằng quốc tế cần chung sức « chống lại những hành động gây hấn» của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo báo chí Philipines, trong một hội nghị qua hệ thống viễn thông hôm qua, 23/07/2019, tư lệnh lực lượng tuần duyên Mỹ, đô đốc Karl Schultz kêu gọi các nước đồng minh, cũng như các đối tác của Mỹ trong vùng, cùng lên án những hành động hung hãn nhằm củng cố đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Nghe:
Đô đốc Schultz nhấn mạnh đến việc hải cảnh Trung Quốc đã huy động đông đảo tầu tuần tra, được tầu của hải quân nước này yểm trợ, tại những hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh chiếm giữ và tại phần lớn vùng Biển Đông.
Hành động gây hấn mới nhất của tầu hải cảnh Trung Quốc là sách nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, theo lời tố cáo của Hà Nội. Đô đốc Schultz nhấn mạnh Tuần duyên Mỹ « hợp tác chặt chẽ với Việt Nam. Phía Việt Nam đã nhiều lần hoàn thành chức năng bảo vệ tự do hàng hải ». Theo ông Schultz, việc lực lượng tuần duyên Mỹ có mặt ở Biển Đông là nhằm mục đích tái lập và tăng cường luật pháp quốc tế ở khu vực này.
Trong khi đó, tổng thống Duterte tỏ ra bị khuất phục trước Trung Quốc ở Biển Đông. Phát biểu trước Quốc Hội Philippines hôm 22/07, ông tuyên bố rằng việc quân đội Trung Quốc hiện diện ở Biển Đông chứng tỏ rằng Bắc Kinh « đã chiếm hữu » và « kiểm soát » toàn bộ con đường hàng hải chiến lược và giầu tài nguyên. Tổng thống Duterte biện minh rằng ông không muốn thách thức và xung đột với Trung Quốc.
Tuy nhiên, thẩm phán Antonio Carpio của Tòa Án Tối Cao Philippines chỉ trích tổng thống Duterte đã nhầm khi nói rằng Trung Quốc « sở hữu » Biển Đông, vì Bắc Kinh chỉ chiếm 7 đảo nhân tạo, tương đương với 10% tổng diện tích Biển Đông.
Dường như lập trường nhún nhường của tổng thống Duterte tiếp tục được người phát ngôn Salvador Panelo bảo vệ khi bác bỏ phát biểu của thẩm phán Carpio trong buổi họp báo ngày 23/07. Ông nhấn mạnh : « Khi người ta có một căn cứ quân sự, thể hiện rằng họ có thể kiểm soát toàn bộ khu vực, điều đó có nghĩa là họ đã chiếm giữ khu vực đó» .
Theo RFI
0
Nghe:
Đô đốc Schultz nhấn mạnh đến việc hải cảnh Trung Quốc đã huy động đông đảo tầu tuần tra, được tầu của hải quân nước này yểm trợ, tại những hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh chiếm giữ và tại phần lớn vùng Biển Đông.
Hành động gây hấn mới nhất của tầu hải cảnh Trung Quốc là sách nhiễu hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, theo lời tố cáo của Hà Nội. Đô đốc Schultz nhấn mạnh Tuần duyên Mỹ « hợp tác chặt chẽ với Việt Nam. Phía Việt Nam đã nhiều lần hoàn thành chức năng bảo vệ tự do hàng hải ». Theo ông Schultz, việc lực lượng tuần duyên Mỹ có mặt ở Biển Đông là nhằm mục đích tái lập và tăng cường luật pháp quốc tế ở khu vực này.
Trong khi đó, tổng thống Duterte tỏ ra bị khuất phục trước Trung Quốc ở Biển Đông. Phát biểu trước Quốc Hội Philippines hôm 22/07, ông tuyên bố rằng việc quân đội Trung Quốc hiện diện ở Biển Đông chứng tỏ rằng Bắc Kinh « đã chiếm hữu » và « kiểm soát » toàn bộ con đường hàng hải chiến lược và giầu tài nguyên. Tổng thống Duterte biện minh rằng ông không muốn thách thức và xung đột với Trung Quốc.
Tuy nhiên, thẩm phán Antonio Carpio của Tòa Án Tối Cao Philippines chỉ trích tổng thống Duterte đã nhầm khi nói rằng Trung Quốc « sở hữu » Biển Đông, vì Bắc Kinh chỉ chiếm 7 đảo nhân tạo, tương đương với 10% tổng diện tích Biển Đông.
Dường như lập trường nhún nhường của tổng thống Duterte tiếp tục được người phát ngôn Salvador Panelo bảo vệ khi bác bỏ phát biểu của thẩm phán Carpio trong buổi họp báo ngày 23/07. Ông nhấn mạnh : « Khi người ta có một căn cứ quân sự, thể hiện rằng họ có thể kiểm soát toàn bộ khu vực, điều đó có nghĩa là họ đã chiếm giữ khu vực đó» .
Theo RFI
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt-Trung
Báo Nga: Việt Nam hành động rất khôn ngoan
Người Việt Nam một lần nữa thể hiện kỹ năng duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các cường quốc.
Nghe:
Đối đầu giữa các tàu Việt Nam và Trung Quốc lại xảy ra ở Biển Đông. Chiếc tàu thăm dò Haiyang Dizhi 8 với “sự hộ tống” của các tàu hải cảnh Trung Quốc trong 12 ngày đã thực hiện cuộc khảo sát địa chất tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ở vùng biển phía tây đảo Trường Sa.
Để phản ứng lại hành động của Haiyang Dizhi 8 (Hải Dương 8), Việt Nam đã cử 9 tàu cảnh sát biển đi theo sát tàu Trung Quốc. Ngoài ra, một tàu hải cảnh Trung Quốc đã điều động “một cách thức đe dọa” đối với các tàu thuyền Việt Nam phục vụ giàn khoan Hakuryu-5 của Nhật do công ty Rosneft của Nga thuê khoan ở lô 06.1.
Người Việt Nam một lần nữa thể hiện kỹ năng duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các cường quốc (Ảnh: TTXVN)
Phản ứng của dư luận quốc tế
Cơ quan ngoại giao của cả Việt Nam và Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố về vụ việc này. Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng tuyên bố, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc kêu gọi Hà Nội tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Trung Quốc "và không thực hiện bất kỳ hành động nào có thể làm phức tạp thêm tình hình".
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đưa ra đánh giá của họ. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus nói rằng, việc Trung Quốc "có hành vi gây hấn lặp đi lặp lại nhằm vào các cơ sở dầu khí ngoài khơi của nước tuyên bố chủ quyền khác trên Biển Đông là sự đe dọa an ninh năng lượng trong khu vực, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường năng lượng tự do và cởi mở ở Ấn Độ-Thái Bình Dương". Bà Ortagus kêu gọi Trung Quốc kiềm chế để không thực hiện những hoạt động khiêu khích và gây bất ổn.
Chính sách khôn ngoan của Ban Lãnh đạo Việt Nam
Các phương tiện truyền thông nước ngoài đều ghi nhận rằng, Việt Nam thể hiện sự kiềm chế khác thường khi đối phó với cuộc đối đầu này và nhắc nhở về những sự kiện bi thảm năm 2014 khi Trung Quốc đã đưa giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam.
“Đây là một sự thay đổi trong chính sách của Việt Nam, - chuyên viên Dmitry Mosyakov lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và châu Đại dương của Viện Nghiên cứu phương Đông (thuộc Viện Hàn lâm khoa học LB Nga) nhận xét. - Việt Nam hiểu rằng, những lời phát biểu chống Trung Quốc sẽ tiếp tay cho Hoa Kỳ, mà Washington coi Hà Nội là đồng minh chính của họ chống lại Trung Quốc ở Đông Nam Á. Người Mỹ muốn cho mọi người thấy: hãy xem, Trung Quốc lại vi phạm, lại khiêu khích.
Nhưng Việt Nam không muốn xung đột với Trung Quốc - đối tác thương mại chính của họ. Hà Nội cũng hiểu rằng, cuộc xung đột như vậy sẽ tác động tiêu cực đến mối quan hệ Nga-Trung. Bây giờ lợi ích quốc gia của Việt Nam là không phá hỏng quan hệ với Trung Quốc, với Nga và không hoàn toàn chạy theo Mỹ.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam không muốn thổi phồng một vụ bê bối quốc tế, mà chủ trương giải quyết xung đột ở cấp đảng, trong các cuộc đàm phán khép kín và nửa kín, để giải thích với Trung Quốc về những hành vi sai trái của họ, điều này sẽ hiệu quả hơn nhiều. Trong tình hình hiện nay, khi cuộc chiến thương mại với Mỹ đang gia tăng, Trung Quốc cần đến các đồng minh, cần đến sự hỗ trợ chứ không phải sự đối đầu. Bây giờ trong ban lãnh đạo Việt Nam các lực lượng thân Việt Nam chứ không phải thân Mỹ hoặc thân Trung Quốc đang giành phần thắng”.
Người Việt Nam một lần nữa thể hiện kỹ năng duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các cường quốc, hành động rất khôn ngoan trong quá trình giải quyết xung đột chính trị phức tạp, chuyên gia Nga kết luận./.
Theo Sputnik/VOV
0
Nghe:
Đối đầu giữa các tàu Việt Nam và Trung Quốc lại xảy ra ở Biển Đông. Chiếc tàu thăm dò Haiyang Dizhi 8 với “sự hộ tống” của các tàu hải cảnh Trung Quốc trong 12 ngày đã thực hiện cuộc khảo sát địa chất tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ở vùng biển phía tây đảo Trường Sa.
Để phản ứng lại hành động của Haiyang Dizhi 8 (Hải Dương 8), Việt Nam đã cử 9 tàu cảnh sát biển đi theo sát tàu Trung Quốc. Ngoài ra, một tàu hải cảnh Trung Quốc đã điều động “một cách thức đe dọa” đối với các tàu thuyền Việt Nam phục vụ giàn khoan Hakuryu-5 của Nhật do công ty Rosneft của Nga thuê khoan ở lô 06.1.
Người Việt Nam một lần nữa thể hiện kỹ năng duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các cường quốc (Ảnh: TTXVN)
Phản ứng của dư luận quốc tế
Cơ quan ngoại giao của cả Việt Nam và Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố về vụ việc này. Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng tuyên bố, đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc kêu gọi Hà Nội tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Trung Quốc "và không thực hiện bất kỳ hành động nào có thể làm phức tạp thêm tình hình".
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đưa ra đánh giá của họ. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus nói rằng, việc Trung Quốc "có hành vi gây hấn lặp đi lặp lại nhằm vào các cơ sở dầu khí ngoài khơi của nước tuyên bố chủ quyền khác trên Biển Đông là sự đe dọa an ninh năng lượng trong khu vực, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường năng lượng tự do và cởi mở ở Ấn Độ-Thái Bình Dương". Bà Ortagus kêu gọi Trung Quốc kiềm chế để không thực hiện những hoạt động khiêu khích và gây bất ổn.
Chính sách khôn ngoan của Ban Lãnh đạo Việt Nam
Các phương tiện truyền thông nước ngoài đều ghi nhận rằng, Việt Nam thể hiện sự kiềm chế khác thường khi đối phó với cuộc đối đầu này và nhắc nhở về những sự kiện bi thảm năm 2014 khi Trung Quốc đã đưa giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam.
“Đây là một sự thay đổi trong chính sách của Việt Nam, - chuyên viên Dmitry Mosyakov lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và châu Đại dương của Viện Nghiên cứu phương Đông (thuộc Viện Hàn lâm khoa học LB Nga) nhận xét. - Việt Nam hiểu rằng, những lời phát biểu chống Trung Quốc sẽ tiếp tay cho Hoa Kỳ, mà Washington coi Hà Nội là đồng minh chính của họ chống lại Trung Quốc ở Đông Nam Á. Người Mỹ muốn cho mọi người thấy: hãy xem, Trung Quốc lại vi phạm, lại khiêu khích.
Nhưng Việt Nam không muốn xung đột với Trung Quốc - đối tác thương mại chính của họ. Hà Nội cũng hiểu rằng, cuộc xung đột như vậy sẽ tác động tiêu cực đến mối quan hệ Nga-Trung. Bây giờ lợi ích quốc gia của Việt Nam là không phá hỏng quan hệ với Trung Quốc, với Nga và không hoàn toàn chạy theo Mỹ.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam không muốn thổi phồng một vụ bê bối quốc tế, mà chủ trương giải quyết xung đột ở cấp đảng, trong các cuộc đàm phán khép kín và nửa kín, để giải thích với Trung Quốc về những hành vi sai trái của họ, điều này sẽ hiệu quả hơn nhiều. Trong tình hình hiện nay, khi cuộc chiến thương mại với Mỹ đang gia tăng, Trung Quốc cần đến các đồng minh, cần đến sự hỗ trợ chứ không phải sự đối đầu. Bây giờ trong ban lãnh đạo Việt Nam các lực lượng thân Việt Nam chứ không phải thân Mỹ hoặc thân Trung Quốc đang giành phần thắng”.
Người Việt Nam một lần nữa thể hiện kỹ năng duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các cường quốc, hành động rất khôn ngoan trong quá trình giải quyết xung đột chính trị phức tạp, chuyên gia Nga kết luận./.
Theo Sputnik/VOV
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt-Trung
Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019
Trung Quốc đưa tiêm kích Su-35S ra diễn tập ở Biển Đông
Phi đội Su-35S Trung Quốc diễn tập tác chiến biển trong bối cảnh nước này bị quan chức Mỹ chỉ trích phô trương sức mạnh trên Biển Đông.
Tạp chí PLA Pictorial của quân đội Trung Quốc hôm nay cho biết lữ đoàn tiêm kích Su-35S đóng tại tỉnh Quảng Đông, đông nam nước này đã tham gia đợt diễn tập trên Biển Đông nhằm thử nghiệm khả năng tác chiến trên biển.
Lữ đoàn không quân tham gia diễn tập đang vận hành toàn bộ 24 tiêm kích Su-35S của Trung Quốc, thuộc biên chế Chiến khu Nam Bộ (phụ trách Biển Đông). Đợt diễn tập gồm các nội dung tấn công mục tiêu bằng biên đội ba tiêm kích, cơ động và khai hỏa hiệp đồng, cũng như hoạt động bay đêm. Tuy nhiên, quân đội Trung Quốc không cho biết chi tiết về địa điểm và thời gian diễn tập.
Thông tin được đưa ra trong bối cảnh đô đốc Philip Davidson, chỉ huy Bộ tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của hải quân Mỹ, tuần trước lên tiếng chỉ trích hành động khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông như bồi đắp, quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông và dùng lực lượng quân sự theo dõi tàu, máy bay Mỹ cùng đối tác hoạt động trong khu vực.
Mỹ và Trung Quốc đang tranh cãi về việc tăng cường hiện diện quân sự ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trung Quốc liên tục phản đối các chuyến tuần tra duy trì tự do hàng hải của tàu chiến Mỹ ở Biển Đông, trong khi Washington và các nước Đông Nam Á bày tỏ lo ngại về hoạt động quân sự hóa các đảo nhân tạo bị Bắc Kinh chiếm đóng trái phép.
Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 20/7 ra thông cáo thể hiện quan ngại trước thông tin Bắc Kinh có hành vi can thiệp hoạt động khai thác dầu khí trong khu vực, bao gồm hoạt động thăm dò và khai thác lâu nay của Việt Nam. Mỹ nhấn mạnh "hành động lặp đi lặp lại" của Trung Quốc nhằm vào hoạt động phát triển dầu khí ngoài khơi "đe dọa an ninh năng lượng khu vực, đồng thời làm suy yếu thị trường năng lượng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở".
Theo SCMP
0
Tạp chí PLA Pictorial của quân đội Trung Quốc hôm nay cho biết lữ đoàn tiêm kích Su-35S đóng tại tỉnh Quảng Đông, đông nam nước này đã tham gia đợt diễn tập trên Biển Đông nhằm thử nghiệm khả năng tác chiến trên biển.
Lữ đoàn không quân tham gia diễn tập đang vận hành toàn bộ 24 tiêm kích Su-35S của Trung Quốc, thuộc biên chế Chiến khu Nam Bộ (phụ trách Biển Đông). Đợt diễn tập gồm các nội dung tấn công mục tiêu bằng biên đội ba tiêm kích, cơ động và khai hỏa hiệp đồng, cũng như hoạt động bay đêm. Tuy nhiên, quân đội Trung Quốc không cho biết chi tiết về địa điểm và thời gian diễn tập.
Thông tin được đưa ra trong bối cảnh đô đốc Philip Davidson, chỉ huy Bộ tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của hải quân Mỹ, tuần trước lên tiếng chỉ trích hành động khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông như bồi đắp, quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông và dùng lực lượng quân sự theo dõi tàu, máy bay Mỹ cùng đối tác hoạt động trong khu vực.
Mỹ và Trung Quốc đang tranh cãi về việc tăng cường hiện diện quân sự ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trung Quốc liên tục phản đối các chuyến tuần tra duy trì tự do hàng hải của tàu chiến Mỹ ở Biển Đông, trong khi Washington và các nước Đông Nam Á bày tỏ lo ngại về hoạt động quân sự hóa các đảo nhân tạo bị Bắc Kinh chiếm đóng trái phép.
Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 20/7 ra thông cáo thể hiện quan ngại trước thông tin Bắc Kinh có hành vi can thiệp hoạt động khai thác dầu khí trong khu vực, bao gồm hoạt động thăm dò và khai thác lâu nay của Việt Nam. Mỹ nhấn mạnh "hành động lặp đi lặp lại" của Trung Quốc nhằm vào hoạt động phát triển dầu khí ngoài khơi "đe dọa an ninh năng lượng khu vực, đồng thời làm suy yếu thị trường năng lượng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở".
Theo SCMP
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt-Trung
Ông Duterte: Trung Quốc muốn đánh cá ở đây, ai cản nổi ông ấy?
Hôm 22-7 Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cho biết không có cách nào để ngăn Trung Quốc đánh bắt cá trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nước ông.
Nhà lãnh đạo Philippines cho biết thêm các cuộc đàm phán ngoại giao với Trung Quốc giúp ngư dân Philippines quay trở lại khu vực đánh cá mà trước đó các lực lượng Trung Quốc yêu cầu họ rời đi.
Cách tiếp cận tránh đối đầu với Bắc Kinh liên quan tới tranh chấp lãnh hải của ông Duterte bị các nhà phê bình chỉ trích. Nhà lãnh đạo Philippines cũng không phản ứng khi Trung Quốc từ chối tuân thủ phán quyết của toà trọng tài quốc tế về yêu sách lãnh thổ của nước này ở biển Đông. Bắc Kinh không công nhận phán quyết từ năm 2016.
Trung Quốc còn vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi chặn họ tiếp cận bãi cạn Scarborough.
Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một quốc gia là một dải nước kéo dài 370 km, nơi quốc gia đó được độc quyền đánh bắt cá và khai thác tài nguyên như khí đốt và dầu dưới đáy biển dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS).
Nhiều người không hài lòng với các chính sách của Duterte
Trong bải phát biểu thường niên hôm 22-7, ông Duterte yêu cầu Quốc hội khôi phục hình phạt tử hình đối với tội phạm ma túy và cướp bóc kinh tế. Nhà lãnh đạo Philippines cho biết mối đe dọa ma túy mà ông mô tả là "quái vật của xã hội" sẽ không thể bị loại bỏ nếu không bài trừ tham nhũng.
Kể từ khi nhậm chức hồi tháng 6-2016, ông Duterte, 74 tuổi, đã phát động cuộc chiến chống ma tuý đẫm máu. Ước tính hơn 6.600 người thiệt mạng trong các vụ trấn áp của cảnh sát nhưng các tổ chức nhân quyền nói rằng con số này trên thực tế cao hơn nhiều.
Hôm 22-7, khoảng 5.200 người biểu tình tập trung bên ngoài Hạ viện Philippines để yêu cẩu ông Duterte từ chức. Quân đội và cảnh sát được đặt trong tình trạng báo động trong khi chính quyền thiết lập vùng cấm bay gần khu vực này để đảm bảo an toàn.
Theo Sputniknews
0
"Khi ông Tập (Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình) nói "Tôi sẽ đánh bắt cá", ai có thể ngăn được ông ấy? Nếu tôi gửi lực lượng thủy quân lục chiến đuổi ngư dân Trung Quốc, tôi đảm bảo không còn ai trong số họ trở về" – ông Duterte phát biểu trước Quốc hội hôm 22-7.
Nhà lãnh đạo Philippines cho biết thêm các cuộc đàm phán ngoại giao với Trung Quốc giúp ngư dân Philippines quay trở lại khu vực đánh cá mà trước đó các lực lượng Trung Quốc yêu cầu họ rời đi.
Cách tiếp cận tránh đối đầu với Bắc Kinh liên quan tới tranh chấp lãnh hải của ông Duterte bị các nhà phê bình chỉ trích. Nhà lãnh đạo Philippines cũng không phản ứng khi Trung Quốc từ chối tuân thủ phán quyết của toà trọng tài quốc tế về yêu sách lãnh thổ của nước này ở biển Đông. Bắc Kinh không công nhận phán quyết từ năm 2016.
Trung Quốc còn vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi chặn họ tiếp cận bãi cạn Scarborough.
Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một quốc gia là một dải nước kéo dài 370 km, nơi quốc gia đó được độc quyền đánh bắt cá và khai thác tài nguyên như khí đốt và dầu dưới đáy biển dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS).
Nhiều người không hài lòng với các chính sách của Duterte
Trong bải phát biểu thường niên hôm 22-7, ông Duterte yêu cầu Quốc hội khôi phục hình phạt tử hình đối với tội phạm ma túy và cướp bóc kinh tế. Nhà lãnh đạo Philippines cho biết mối đe dọa ma túy mà ông mô tả là "quái vật của xã hội" sẽ không thể bị loại bỏ nếu không bài trừ tham nhũng.
Kể từ khi nhậm chức hồi tháng 6-2016, ông Duterte, 74 tuổi, đã phát động cuộc chiến chống ma tuý đẫm máu. Ước tính hơn 6.600 người thiệt mạng trong các vụ trấn áp của cảnh sát nhưng các tổ chức nhân quyền nói rằng con số này trên thực tế cao hơn nhiều.
Hôm 22-7, khoảng 5.200 người biểu tình tập trung bên ngoài Hạ viện Philippines để yêu cẩu ông Duterte từ chức. Quân đội và cảnh sát được đặt trong tình trạng báo động trong khi chính quyền thiết lập vùng cấm bay gần khu vực này để đảm bảo an toàn.
Theo Sputniknews
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tranh chấp Biển Đông
Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019
Việt Nam và Biển Đông: Luôn sẵn sàng cho chiến tranh để bảo vệ hòa bình
Nếu chúng ta không sợ chiến tranh và chuẩn bị kỹ cho chiến tranh thì chúng ta sẽ có hòa bình. Còn nếu chúng ta sợ hãi thì lập tức chiến tranh sẽ đến, chúng ta mất hòa bình và mất cả chủ quyền lãnh thổ.
Nghe:
Lược ghi góc nhìn của ông Nguyễn Trường Giang – Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Brunei, nguyên Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao – trong bài phát biểu tại CLB Cafe Số gần đây.
I. Mưu đồ chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông
Thứ nhất, lợi ích của Biển Đông là về vấn đề kinh tế, đầu bảng là tài nguyên dầu khí, sau đó là băng cháy. Khu vực Đông Nam Á có lượng băng cháy cực lớn. Đây là nguồn năng lượng của tương lai, có thể sử dụng trong nhiều thế kỷ, theo tính toán sơ bộ là khoảng 800 năm tới.
Việt Nam là một trong những quốc gia sở hữu lượng băng cháy tương đối lớn. Chúng ta có khoảng 2.400 tỷ mét khối băng cháy, là quốc gia có thứ hạng ở Châu Á về loại tài nguyên này. Đây là nguồn năng lượng tuyệt vời. Do đó, Trung Quốc nhìn vào nguồn băng cháy như một loại tài nguyên thay thế cho dầu khí đang dần trở nên cạn kiệt.
Thứ hai, Biển Đông được xác định là một trong 4 khu vực đánh cá chủ yếu của ngư dân Trung Quốc.
Thứ ba, Biển Đông cũng được xác định là con đường sinh mệnh của nền kinh tế Trung Quốc. Trong số 27 tuyến vận tải của Trung Quốc, 17 trong số đó nằm ở Biển Đông. Biển Đông giúp kết nối Trung Quốc với 125 nước và vận chuyển 3/4 lượng dầu nhập khẩu vào nước này.
Về an ninh quốc phòng, đây là một bức trường thành tự nhiên trên biển. Biển Đông như một vành đai quân sự, phòng thủ, là rào cản an ninh để ngăn chặn những rủi ro và uy hiếp từ bên ngoài.
Về mặt địa chiến lược, Trung Quốc xác định Biển Đông như sân sau, nơi tập dượt của hải quân Trung Quốc để tiến ra thế giới bên ngoài.
Biển Hoa Đông ở phía đông Trung Quốc quá nông, lại có một đối thủ khó nhằn là Nhật Bản án ngữ phía ngoài. Còn đối với Biển Đông, vùng biển này rộng 3,4 triệu km2, độ sâu trung bình là 1.400 mét và có rất nhiều rãnh sâu. Đây là địa điểm tuyệt vời cho sự hoạt động của các loại tàu ngầm.
Muốn thành bá chủ toàn cầu, Trung Quốc phải trở thành cường quốc trên biển. Điều này chỉ có thể thực hiện được ở Biển Đông, vùng biển mà xung quanh đó toàn các quốc gia nhỏ bé. Về mặt địa chiến lược, đây là cửa ngõ duy nhất, là bàn đạp để Trung Quốc đi ra thế giới bên ngoài. Do vậy, trong cái nhìn đại chiến lược của người Trung Quốc, Biển Đông có lợi ích sống còn.
Trung Quốc sắp đặt Biển Đông trong chiến lược an ninh – phát triển như thế nào?
Từ các văn kiện Đại hội Đảng, chương trình nghị sự của chính phủ và thông tin chính thức từ phía Trung Quốc, nước này xác định Biển Đông là một phần quan trọng, cũng là điểm khởi đầu cho con đường tơ lụa trên biển. Con đường này là trọng tâm của sáng kiến Vành đai – Con đường. Sáng kiến này là một phần của giấc mơ chấn hưng Trung Quốc.
Biển Đông là một phần của chiến lược biến Trung Quốc thành một cường quốc biển. Một quốc gia muốn tiến vào vị trí trung tâm quyền lực chính trị của thế giới thì không thể không trở thành một cường quốc biển.
Chính giới Trung Quốc đã lồng ghép vấn đề Biển Đông vào mục tiêu trăm năm, coi đó là việc triển khai thực hiện giấc mộng Trung Hoa. Nước này thậm chí còn đưa vấn đề chủ quyền và lợi ích trên biển thành một trong những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, tương tự như vấn đề Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng. Tần suất Trung Quốc đưa ra lời khẳng định các đảo ở Biển Đông thuộc về mình từ ngàn đời đang không ngừng tăng lên.
Nguyên thủ các quốc gia trên thế giới thường ít nói về vấn đề chủ quyền. Thay vào đó, họ thường để cho những cơ quan có thẩm quyền lên tiếng. Tuy nhiên, liên tiếp trong năm 2016, Chủ tịch Trung Quốc đã 3 lần phát biểu câu chuyện này ở nước ngoài, điều trước đây chưa từng có đã thể hiện sự quan tâm đến mức tối đa của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông.
Bên cạnh đó, cơ quan truyền thông nhà nước Trung Quốc liên tục khẳng định rằng nước này không có gene xâm lược, không xâm phạm vào lợi ích của các nước khác, thế nhưng Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lợi của mình.
Năm 2021, Trung Quốc sẽ diễn ra sự kiện kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng. Cùng với các sự kiện lớn này, Trung Quốc sẽ tiến hành nhiều hành động lớn, tình hình Biển Đông vì thế cũng sẽ liên quan đến câu chuyện này.
Trung Quốc không đem lợi ích cốt lõi ra trao đổi, không có chuyện nhân nhượng, thỏa thuận và từ bỏ tham vọng Biển Đông. Đây là một thông điệp rất rõ ràng.
Chủ tịch Trung Quốc từng có một câu nói mà chúng ta cần phải lưu ý: “Quân đội Trung Quốc triệu tập là có, đến là có thể đánh và đánh là có thể thắng, để bảo vệ chủ quyền và các quyền liên quan ở Biển Đông”.
Vậy vài chục năm nữa Biển Đông sẽ như thế nào? Biển Đông đại khái sẽ thế này, lúc nóng, lúc lạnh, lúc căng thẳng lúc hòa hoãn. Tất nhiên, chúng ta cần có những nhìn nhận đúng đắn, có những động thái kiên quyết đối với vấn đề này.
Truyền thông Trung Quốc
Báo chí Trung Quốc nói, những nước như Việt Nam, Phillipines, Brunei, Malaysia… là những kẻ đang cướp đảo, cướp biển, cuớp tài nguyên của Trung Quốc, do đó chúng ta phải thu hồi. Điều này được thực hiện bằng chiến lược ngoại giao đi trước, hải quân đi sau, văn công vũ vệ (tiến công bằng văn, bảo vệ bằng vũ lực).
Có những tờ báo liệt kê 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc phải đánh, một trong số đó là cuộc chiến trên Biển Đông để thu hồi những đảo bị các nước chiếm đóng trái phép. Truyền thông Trung Quốc là một dấu hiệu giúp Việt Nam có thể dự báo trước.
Trung Quốc đang làm gì từ năm 1949 đến nay?
1. Đưa ra các yêu sách chủ quyền và yêu sách trên biển.
2. Thực hiện những biện pháp hành chính. Thể hiện Biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa trên bản đồ, đặt tên cho các đảo, quy thuộc sát nhập Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển vào lãnh thổ Trung Quốc và các đơn vị hành chính thuộc Trung Quốc.
3. Áp đặt nội luật của Trung Quốc vào khu vực Biển Đông, coi Biển Đông thành khu vực của mình.
4. Các hoạt động kiểm soát, khống chế và làm chủ Biển Đông trên thực địa. Bao gồm việc từng bước thay đổi nguyên trạng của Biển Đông, tạo ra một cục diện quân sự thuận lợi cho Trung Quốc, dần dần khống chế, kiểm soát Biển Đông, tiến tới mục tiêu lâu dài là độc chiếm toàn diện Biển Đông.
5. Sử dụng vũ lực. Từ năm 1956 đến nay, tất cả các bước tiến của Trung Quốc trên Biển Đông đều là nhờ vũ lực. Trung Quốc liệu có tiếp tục sử dụng vũ lực nữa hay không? Nếu không trả lời được câu hỏi này thì cực kỳ nguy hiểm.
II. Không gian sinh tồn của dân tộc đang bị thách thức
Đầu tiên, cần phải nhận diện được thách thức của mình. Người Việt Nam có một điểm yếu, đó là có thể nhận diện được tất cả mọi thứ, trừ bản thân mình. Nếu chúng ta không sợ chiến tranh và chuẩn bị kỹ cho chiến tranh thì chúng ta sẽ có hòa bình. Còn nếu chúng ta sợ hãi thì lập tức chiến tranh sẽ đến, chúng ta mất hòa bình và mất cả chủ quyền lãnh thổ. Đây là vấn đề căn bản của mọi binh pháp trên thế giới.
Qua bức tranh thực trạng Biển Đông như tôi đã nói, có thể thấy mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, tức là chiếm toàn bộ các đảo trong vùng biển này (bao gồm 4 quần đảo Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa theo cách gọi của Trung Quốc).
Trung Quốc cũng muốn chiếm chủ quyền với khoảng 80% diện tích Biển Đông và toàn bộ tài nguyên trong khu vực biển này. Bên cạnh đó là quyền kiểm soát với vùng trời, vùng biển và đáy biển. Điều này mang đến thách thức nghiêm trọng đối với chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Trong 6 thập kỷ qua, có thể thấy rõ các biện pháp và kế sách mà Trung Quốc đã áp dụng để triển khai mục tiêu này. Nước này đã dùng đến mọi biện pháp, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao cho đến tâm lý và cả thông tin tuyên truyền.
Do vậy, có thể thấy thông tin tuyên truyền là một trong những mặt trận rất quan trọng. Có những thời điểm, mặt trận tuyên truyền còn quan trọng hơn cả mặt trận quân sự, ngoại giao hay pháp lý.
Các kế sách của Trung Quốc trên Biển Đông
Người Trung Quốc ngày nay học tập nhiều từ binh pháp Tôn Tử, nhưng cũng có rất nhiều cải tiến đối với loại binh pháp này. Người Trung Quốc biến các loại mưu kế trở thành một bộ môn khoa học và đưa vào các nội hàm mới cho những mưu kế này.
Các ví dụ có thể kể đến là kế sách “tằm ăn dâu”, “biến không thành có”, “gác tranh chấp cùng khai thác”, “cây gậy và củ cà rốt”,…
Trong đó, một trong những kế sách thâm độc nhất của Trung Quốc là chiến thuật “vùng xám”, tức dân sự hoá các hoạt động quân sự và bán quân sự, không sử dụng hải quân cũng như các hoạt động có cường độ quá mạnh hay vượt qua một giới hạn đỏ nào đó. Mục đích của điều này là không để tạo ra những phản ứng quá quyết liệt từ các nước khác.
Nhìn vào quá khứ, dự đoán tương lai
Trong bức tranh về thực trạng ở Biển Đông, chúng ta có thể dựa vào những gì đã xảy ra trong quá khứ để nhìn nhận và dự đoán tương lai.
Về trung hạn, Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục đưa dàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam. Khả năng thứ 2 là Trung Quốc sẽ tạo ra một vùng nhận diện phòng không trên Biển Đông. Trung Quốc cũng có thể sẽ tiến hành chiếm giữ một số bãi đá ngầm mà chưa có quốc gia nào chiếm đóng.
Dù rất hãn hữu, thế nhưng không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ đánh chiếm Trường Sa. Tuy nhiên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ có một thời cơ thích hợp. Người Trung Quốc thường chỉ hành động khi có thiên thời, địa lợi, nhân hòa và tính toán được rất kỹ cái giá phải trả. Đây chính là điểm để Việt Nam hoạch định các kế sách đối phó.
Nếu Việt Nam có thể làm cho Trung Quốc không có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa hoặc trong trường hợp có chiến tranh, nước này sẽ phải trả một cái giá rất đắt thì họ sẽ không dám đánh chiếm Trường Sa nữa.
Trong 2 năm tới trước Đại hội, việc quân sự hoá Biển Đông sẽ được Trung Quốc thực hiện ráo riết hơn. Trung Quốc có thể đưa những lực lượng quân sự đông hơn ra chiếm đóng tại Trường Sa. Nước này cũng có thể vẽ ra lãnh hải của những hòn đảo mà hiện tại họ đang chiếm đóng, cũng như vùng nội thuỷ của các đảo này. Đây là những cảnh báo mà chúng ta cần phải lưu ý.
Trung Quốc sẽ sớm thông qua Luật An toàn giao thông hàng hải sửa đổi. Từ dự thảo của bộ luật này, có thể thấy Trung Quốc có khả năng dựa vào đây để lập các vùng an toàn hàng hải trên biển. Điều gì sẽ xảy ra nếu vùng an toàn bao chùm lên các nhà giàn DK1 của Việt Nam. Bên cạnh đó, tàu thuyền sẽ phải xin phép khi tiến vào vùng biển Trường Sa. Điều này cũng có nghĩa là các đảo của Việt Nam sẽ bị phong toả.
Năm 2016, 2017, trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc đưa ra một dự báo cho thấy, Trung Quốc có thể đưa những nhà máy điện hạt nhân nổi ra Biển Đông.
Nếu như các nhà máy điện hạt nhân nổi được triển khai tại Biển Đông, nó sẽ mang lại rất nhiều thách thức về chủ quyền, môi trường, kinh tế, tài nguyên và đối với mạng sống của hàng trăm triệu người…
Đánh giá về tình hình hiện nay, có thể thấy vấn đề Biển Đông đang ngày càng phức tạp và diễn biến khó lường. Chủ quyền biển đảo Việt Nam đang bị thách thức nghiêm trọng và thách thức này sẽ còn nghiêm trọng hơn nữa trong tương lai.
Các thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt là về chủ quyền, kinh tế biển, an ninh quốc phòng, môi trường phát triển và thách thức đối với không gian sinh tồn của dân tộc. Cuối thế kỷ 21, Việt Nam sẽ có quy mô dân số khoảng 140 triệu người. Lúc này chúng ta cần phải tiến ra biển, biển là niềm hy vọng và là không gian sinh tồn của những thế hệ sau này.
Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với một kiểu xâm lược như vậy: tiến dần dần. Vì thế, tôi muốn nhấn mạnh về thách thức không gian sinh tồn của dân tộc .
Cuối thế kỷ này dân số nước ta lên khoảng 140 triệu người, con cháu chúng ta sống ở đâu nếu không tiến ra biển. Lúc đấy là chúng ta cần có thành phố biển, có làng mạc biển, có nông nghiệp biển, có công nghiệp biển, có cảng biển, có sân bay trên biển. Biển là niềm hi vọng, là không gian sinh tồn của những thế hệ sau này.
Và tôi muốn nhấn mạnh điểm này: không gian sinh tồn của dân tộc mình đang bị thách thức.
III. Chúng ta có thể giữ được Biển Đông một cách hòa bình
Câu hỏi tiếp theo là: Sau khi biết tình hình thực trạng rồi, Việt Nam làm gì để bảo vệ chủ quyền Biển Đông? Tôi chỉ nêu một vài điểm vì có hàng nghìn đầu việc. Nhưng trước hết, chúng ta phải khẳng định chắc chắn 100%, chúng ta có thể giữ được Biển Đông, và có thể giữ được một cách hòa bình.
Tôi xin thưa, Biển Đông không chỉ có thách thức, nó còn là cơ hội tuyệt vời cho chúng ta.
Việt Nam sở hữu những vũ khí, những giá trị vô cùng quan trọng, trong đó có danh tiếng của mình. Danh tiếng của Việt Nam tương đương với 50 sư đoàn tinh nhuệ nhất trên thế giới.
Trong cuộc chiến tranh Iraq, Mỹ mất 12 nhân mạng là do tai nạn trực thăng, còn không thì chẳng mất người nào hết. Trong cuộc chiến ở Iraq, thông tin truyền thông đóng vai trò căn bản, 90% thắng lợi của Mỹ là cuộc chiến tranh truyền thông trước khi diễn ra.
Vào giờ chuẩn bị khởi động chiến tranh, Tổng thống G. Bush (cha) xuất hiện trên truyền hình và kêu gọi Iraq suy nghĩ. Saddam Hussein cũng xuất hiện trên truyền hình truyền đi một thông điệp: thua cũng đánh.
Tư lệnh của một quân đội 1,5 triệu người được trang bị những vũ khí hiện đại nhất mà chưa vào trận đã nhắc đến thua. Vậy nên, có những đoàn quân 300 nghìn người không bắn một phát súng. Như vậy làm sao lại không thua. Đó là do phát ngôn của Saddam Hussein.
Sức mạnh tinh thần mới là nguồn sức mạnh của chúng ta, của dân tộc Việt Nam. Không phải tàu chiến, tàu ngầm, thông tin truyền thông mới là nguồn sức mạnh của chúng ta. Chúng ta đang sở hữu một vũ khí quan trọng như thế thì chúng ta nên sử dụng như thế nào?
Việt Nam cần làm gì để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông?
Nếu chúng ta đặt ra câu hỏi này, chúng ta đã trả lời được 50%. Nếu chúng ta tự hỏi làm thế nào để cho đất nước Việt Nam trở nên hùng cường, thì chúng ta đã đặt chân lên con đường đi đến hùng cường và thịnh vượng.
Vấn đề truyền thông rất quan trọng. Sự an toàn biển đảo tỷ lệ thuận với sự quan tâm của dân chúng về vấn đề Biển Đông.
Có mấy việc phải làm, tôi xin nêu ngắn gọn:
– Nhận diện rõ thách thức với chủ quyền biển đảo.
– Củng cố ý chí quyết tâm.
– Huy động sức mạnh tổng lực của quốc gia.
– Phát huy được sức mạnh của thời đại.
– Xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Thông tin truyền thông cần làm gì?
Thông tin truyền thông đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Thông tin truyền thông là một bộ phận cấu thành của cuộc chiến này, quan trọng không kém gì chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp lý. Bây giờ, thậm chí, nó quan trọng hơn cả quân sự, ngoại giao pháp lý.
Lúc này là thời điểm rất quan trọng để xác định chúng ta giữ được biển hay không. Chúng ta chọn hướng nào? Chúng ta có lựa chọn khác với ông cha mình hay không? Như vậy chúng ta phải coi thông tin truyền thông là một mặt trận.
Thông tin truyền thông không chỉ đưa tin, bình luận, nâng cao nhận thức, không chỉ có tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn phải thêm cả công tác dự báo.
Những việc thông tin truyền thông cần làm bao gồm nêu cao chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền trên biển; góp phần huy động sức mạnh tổng lực quốc gia; phát huy sức mạnh của thời đại; góp phần xây dựng nước Việt Nam hùng cường.
Xin giải thích rõ những vấn đề trên như sau:
1. Nêu cao chính nghĩa.
Nêu cao chính nghĩa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thông tin truyền thông. Muốn nêu cao chính nghĩa phải làm hai việc.
Thứ nhất, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa và Hoàng Sa; bác bỏ được yêu sách đường lưỡi bò, bác bỏ cái gọi là chủ quyền lâu đời của Trung Quốc đối với Trường Sa, Hoàng Sa.
Để nêu được chính nghĩa phải đưa ra được các chứng cứ pháp lý và lịch sử xác thực và thuyết phục các cơ quan tài phán quốc tế. Truyền thông báo chí phải kết hợp với các chuyên gia trong nước, quốc tế.
2. Huy động sức mạnh tổng lực quốc gia.
Củng cố ý chí quyết tâm bảo vệ đến cùng biển đảo bằng bất cứ giá nào. Thông tin truyền thông phải biến nó thành ý chí của toàn bộ dân tộc, của cả hệ thống chính trị và của tất cả mọi người dân Việt Nam.
Cần nâng cao nhận thức của người dân về biển đảo. Nhận diện rõ thách thức với chủ quyền biển đảo. Đánh giá Trung Quốc thế nào? Hiện nay, thế giới nhận định về Trung Quốc như con hổ mới trỗi dậy, dữ dằn về quân sự, chính trị, kinh tế. Họ là một con hổ đói: Đói không gian sinh tồn, đói tài nguyên thiên nhiên, đói quyền lực chính trị. Tuy nhiên, con hổ đó có nhiều bệnh về chính trị, văn hóa, dân tộc, sắc tộc, môi trường…
Truyền thông cần đề cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự tôn dân tộc, phẩm cách quốc gia. Đặc biệt, củng cố đại đoàn kết dân tộc, xây dựng sức mạnh toàn dân. Đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên đồng thuận dân tộc: đồng thuận về nhận thức, ý chí, hành động. Củng cố niềm tin: niềm tin phải có cơ sở, dựa trên điểm mạnh và yếu của Việt Nam và đối thủ, đồng thời tin vào khả năng của chúng ta.
3. Truyền thông phải lan tỏa giấc mơ về đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Trong vòng 15 năm nữa chúng ta có thể trở thành cường quốc tập trung với 5 tiêu chí: Quân sự, Kinh tế, Văn hóa – Giáo dục, Khoa học – Công nghệ, Chính trị. Hiện nay, chúng ta đang thiếu hai thứ: Một là minh triết, hai là kế hoạch (giấc mơ).
Truyền thông, tuyên truyền cần nhanh chóng và kịp thời; khách quan và chính xác; hay và hấp dẫn.
Tôi phải nhấn mạnh lại một lần nữa: Không phải tàu chiến, tàu ngầm, thông tin truyền thông mới là nguồn sức mạnh của chúng ta. Sức mạnh tinh thần mới là nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam trước bất kỳ kẻ xâm lược nào.
Theo VIETNAMNET
Link MP3: https://drive.google.com/file/d/1LulYslvLT8JpQt6MJQ3EB52sl8se8OOZ/view
0
Nghe:
Lược ghi góc nhìn của ông Nguyễn Trường Giang – Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Brunei, nguyên Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao – trong bài phát biểu tại CLB Cafe Số gần đây.
I. Mưu đồ chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông
Thứ nhất, lợi ích của Biển Đông là về vấn đề kinh tế, đầu bảng là tài nguyên dầu khí, sau đó là băng cháy. Khu vực Đông Nam Á có lượng băng cháy cực lớn. Đây là nguồn năng lượng của tương lai, có thể sử dụng trong nhiều thế kỷ, theo tính toán sơ bộ là khoảng 800 năm tới.
Việt Nam là một trong những quốc gia sở hữu lượng băng cháy tương đối lớn. Chúng ta có khoảng 2.400 tỷ mét khối băng cháy, là quốc gia có thứ hạng ở Châu Á về loại tài nguyên này. Đây là nguồn năng lượng tuyệt vời. Do đó, Trung Quốc nhìn vào nguồn băng cháy như một loại tài nguyên thay thế cho dầu khí đang dần trở nên cạn kiệt.
Thứ hai, Biển Đông được xác định là một trong 4 khu vực đánh cá chủ yếu của ngư dân Trung Quốc.
Thứ ba, Biển Đông cũng được xác định là con đường sinh mệnh của nền kinh tế Trung Quốc. Trong số 27 tuyến vận tải của Trung Quốc, 17 trong số đó nằm ở Biển Đông. Biển Đông giúp kết nối Trung Quốc với 125 nước và vận chuyển 3/4 lượng dầu nhập khẩu vào nước này.
Về an ninh quốc phòng, đây là một bức trường thành tự nhiên trên biển. Biển Đông như một vành đai quân sự, phòng thủ, là rào cản an ninh để ngăn chặn những rủi ro và uy hiếp từ bên ngoài.
Về mặt địa chiến lược, Trung Quốc xác định Biển Đông như sân sau, nơi tập dượt của hải quân Trung Quốc để tiến ra thế giới bên ngoài.
Biển Hoa Đông ở phía đông Trung Quốc quá nông, lại có một đối thủ khó nhằn là Nhật Bản án ngữ phía ngoài. Còn đối với Biển Đông, vùng biển này rộng 3,4 triệu km2, độ sâu trung bình là 1.400 mét và có rất nhiều rãnh sâu. Đây là địa điểm tuyệt vời cho sự hoạt động của các loại tàu ngầm.
Muốn thành bá chủ toàn cầu, Trung Quốc phải trở thành cường quốc trên biển. Điều này chỉ có thể thực hiện được ở Biển Đông, vùng biển mà xung quanh đó toàn các quốc gia nhỏ bé. Về mặt địa chiến lược, đây là cửa ngõ duy nhất, là bàn đạp để Trung Quốc đi ra thế giới bên ngoài. Do vậy, trong cái nhìn đại chiến lược của người Trung Quốc, Biển Đông có lợi ích sống còn.
Trung Quốc sắp đặt Biển Đông trong chiến lược an ninh – phát triển như thế nào?
Từ các văn kiện Đại hội Đảng, chương trình nghị sự của chính phủ và thông tin chính thức từ phía Trung Quốc, nước này xác định Biển Đông là một phần quan trọng, cũng là điểm khởi đầu cho con đường tơ lụa trên biển. Con đường này là trọng tâm của sáng kiến Vành đai – Con đường. Sáng kiến này là một phần của giấc mơ chấn hưng Trung Quốc.
Biển Đông là một phần của chiến lược biến Trung Quốc thành một cường quốc biển. Một quốc gia muốn tiến vào vị trí trung tâm quyền lực chính trị của thế giới thì không thể không trở thành một cường quốc biển.
Chính giới Trung Quốc đã lồng ghép vấn đề Biển Đông vào mục tiêu trăm năm, coi đó là việc triển khai thực hiện giấc mộng Trung Hoa. Nước này thậm chí còn đưa vấn đề chủ quyền và lợi ích trên biển thành một trong những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, tương tự như vấn đề Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng. Tần suất Trung Quốc đưa ra lời khẳng định các đảo ở Biển Đông thuộc về mình từ ngàn đời đang không ngừng tăng lên.
Nguyên thủ các quốc gia trên thế giới thường ít nói về vấn đề chủ quyền. Thay vào đó, họ thường để cho những cơ quan có thẩm quyền lên tiếng. Tuy nhiên, liên tiếp trong năm 2016, Chủ tịch Trung Quốc đã 3 lần phát biểu câu chuyện này ở nước ngoài, điều trước đây chưa từng có đã thể hiện sự quan tâm đến mức tối đa của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông.
Bên cạnh đó, cơ quan truyền thông nhà nước Trung Quốc liên tục khẳng định rằng nước này không có gene xâm lược, không xâm phạm vào lợi ích của các nước khác, thế nhưng Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lợi của mình.
Năm 2021, Trung Quốc sẽ diễn ra sự kiện kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng. Cùng với các sự kiện lớn này, Trung Quốc sẽ tiến hành nhiều hành động lớn, tình hình Biển Đông vì thế cũng sẽ liên quan đến câu chuyện này.
Trung Quốc không đem lợi ích cốt lõi ra trao đổi, không có chuyện nhân nhượng, thỏa thuận và từ bỏ tham vọng Biển Đông. Đây là một thông điệp rất rõ ràng.
Chủ tịch Trung Quốc từng có một câu nói mà chúng ta cần phải lưu ý: “Quân đội Trung Quốc triệu tập là có, đến là có thể đánh và đánh là có thể thắng, để bảo vệ chủ quyền và các quyền liên quan ở Biển Đông”.
Vậy vài chục năm nữa Biển Đông sẽ như thế nào? Biển Đông đại khái sẽ thế này, lúc nóng, lúc lạnh, lúc căng thẳng lúc hòa hoãn. Tất nhiên, chúng ta cần có những nhìn nhận đúng đắn, có những động thái kiên quyết đối với vấn đề này.
Truyền thông Trung Quốc
Báo chí Trung Quốc nói, những nước như Việt Nam, Phillipines, Brunei, Malaysia… là những kẻ đang cướp đảo, cướp biển, cuớp tài nguyên của Trung Quốc, do đó chúng ta phải thu hồi. Điều này được thực hiện bằng chiến lược ngoại giao đi trước, hải quân đi sau, văn công vũ vệ (tiến công bằng văn, bảo vệ bằng vũ lực).
Có những tờ báo liệt kê 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc phải đánh, một trong số đó là cuộc chiến trên Biển Đông để thu hồi những đảo bị các nước chiếm đóng trái phép. Truyền thông Trung Quốc là một dấu hiệu giúp Việt Nam có thể dự báo trước.
Trung Quốc đang làm gì từ năm 1949 đến nay?
1. Đưa ra các yêu sách chủ quyền và yêu sách trên biển.
2. Thực hiện những biện pháp hành chính. Thể hiện Biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa trên bản đồ, đặt tên cho các đảo, quy thuộc sát nhập Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển vào lãnh thổ Trung Quốc và các đơn vị hành chính thuộc Trung Quốc.
3. Áp đặt nội luật của Trung Quốc vào khu vực Biển Đông, coi Biển Đông thành khu vực của mình.
4. Các hoạt động kiểm soát, khống chế và làm chủ Biển Đông trên thực địa. Bao gồm việc từng bước thay đổi nguyên trạng của Biển Đông, tạo ra một cục diện quân sự thuận lợi cho Trung Quốc, dần dần khống chế, kiểm soát Biển Đông, tiến tới mục tiêu lâu dài là độc chiếm toàn diện Biển Đông.
5. Sử dụng vũ lực. Từ năm 1956 đến nay, tất cả các bước tiến của Trung Quốc trên Biển Đông đều là nhờ vũ lực. Trung Quốc liệu có tiếp tục sử dụng vũ lực nữa hay không? Nếu không trả lời được câu hỏi này thì cực kỳ nguy hiểm.
II. Không gian sinh tồn của dân tộc đang bị thách thức
Đầu tiên, cần phải nhận diện được thách thức của mình. Người Việt Nam có một điểm yếu, đó là có thể nhận diện được tất cả mọi thứ, trừ bản thân mình. Nếu chúng ta không sợ chiến tranh và chuẩn bị kỹ cho chiến tranh thì chúng ta sẽ có hòa bình. Còn nếu chúng ta sợ hãi thì lập tức chiến tranh sẽ đến, chúng ta mất hòa bình và mất cả chủ quyền lãnh thổ. Đây là vấn đề căn bản của mọi binh pháp trên thế giới.
Qua bức tranh thực trạng Biển Đông như tôi đã nói, có thể thấy mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, tức là chiếm toàn bộ các đảo trong vùng biển này (bao gồm 4 quần đảo Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa theo cách gọi của Trung Quốc).
Trung Quốc cũng muốn chiếm chủ quyền với khoảng 80% diện tích Biển Đông và toàn bộ tài nguyên trong khu vực biển này. Bên cạnh đó là quyền kiểm soát với vùng trời, vùng biển và đáy biển. Điều này mang đến thách thức nghiêm trọng đối với chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Trong 6 thập kỷ qua, có thể thấy rõ các biện pháp và kế sách mà Trung Quốc đã áp dụng để triển khai mục tiêu này. Nước này đã dùng đến mọi biện pháp, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao cho đến tâm lý và cả thông tin tuyên truyền.
Do vậy, có thể thấy thông tin tuyên truyền là một trong những mặt trận rất quan trọng. Có những thời điểm, mặt trận tuyên truyền còn quan trọng hơn cả mặt trận quân sự, ngoại giao hay pháp lý.
Các kế sách của Trung Quốc trên Biển Đông
Người Trung Quốc ngày nay học tập nhiều từ binh pháp Tôn Tử, nhưng cũng có rất nhiều cải tiến đối với loại binh pháp này. Người Trung Quốc biến các loại mưu kế trở thành một bộ môn khoa học và đưa vào các nội hàm mới cho những mưu kế này.
Các ví dụ có thể kể đến là kế sách “tằm ăn dâu”, “biến không thành có”, “gác tranh chấp cùng khai thác”, “cây gậy và củ cà rốt”,…
Trong đó, một trong những kế sách thâm độc nhất của Trung Quốc là chiến thuật “vùng xám”, tức dân sự hoá các hoạt động quân sự và bán quân sự, không sử dụng hải quân cũng như các hoạt động có cường độ quá mạnh hay vượt qua một giới hạn đỏ nào đó. Mục đích của điều này là không để tạo ra những phản ứng quá quyết liệt từ các nước khác.
Nhìn vào quá khứ, dự đoán tương lai
Trong bức tranh về thực trạng ở Biển Đông, chúng ta có thể dựa vào những gì đã xảy ra trong quá khứ để nhìn nhận và dự đoán tương lai.
Về trung hạn, Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục đưa dàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam. Khả năng thứ 2 là Trung Quốc sẽ tạo ra một vùng nhận diện phòng không trên Biển Đông. Trung Quốc cũng có thể sẽ tiến hành chiếm giữ một số bãi đá ngầm mà chưa có quốc gia nào chiếm đóng.
Dù rất hãn hữu, thế nhưng không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ đánh chiếm Trường Sa. Tuy nhiên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ có một thời cơ thích hợp. Người Trung Quốc thường chỉ hành động khi có thiên thời, địa lợi, nhân hòa và tính toán được rất kỹ cái giá phải trả. Đây chính là điểm để Việt Nam hoạch định các kế sách đối phó.
Nếu Việt Nam có thể làm cho Trung Quốc không có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa hoặc trong trường hợp có chiến tranh, nước này sẽ phải trả một cái giá rất đắt thì họ sẽ không dám đánh chiếm Trường Sa nữa.
Trong 2 năm tới trước Đại hội, việc quân sự hoá Biển Đông sẽ được Trung Quốc thực hiện ráo riết hơn. Trung Quốc có thể đưa những lực lượng quân sự đông hơn ra chiếm đóng tại Trường Sa. Nước này cũng có thể vẽ ra lãnh hải của những hòn đảo mà hiện tại họ đang chiếm đóng, cũng như vùng nội thuỷ của các đảo này. Đây là những cảnh báo mà chúng ta cần phải lưu ý.
Trung Quốc sẽ sớm thông qua Luật An toàn giao thông hàng hải sửa đổi. Từ dự thảo của bộ luật này, có thể thấy Trung Quốc có khả năng dựa vào đây để lập các vùng an toàn hàng hải trên biển. Điều gì sẽ xảy ra nếu vùng an toàn bao chùm lên các nhà giàn DK1 của Việt Nam. Bên cạnh đó, tàu thuyền sẽ phải xin phép khi tiến vào vùng biển Trường Sa. Điều này cũng có nghĩa là các đảo của Việt Nam sẽ bị phong toả.
Năm 2016, 2017, trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc đưa ra một dự báo cho thấy, Trung Quốc có thể đưa những nhà máy điện hạt nhân nổi ra Biển Đông.
Nếu như các nhà máy điện hạt nhân nổi được triển khai tại Biển Đông, nó sẽ mang lại rất nhiều thách thức về chủ quyền, môi trường, kinh tế, tài nguyên và đối với mạng sống của hàng trăm triệu người…
Đánh giá về tình hình hiện nay, có thể thấy vấn đề Biển Đông đang ngày càng phức tạp và diễn biến khó lường. Chủ quyền biển đảo Việt Nam đang bị thách thức nghiêm trọng và thách thức này sẽ còn nghiêm trọng hơn nữa trong tương lai.
Các thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt là về chủ quyền, kinh tế biển, an ninh quốc phòng, môi trường phát triển và thách thức đối với không gian sinh tồn của dân tộc. Cuối thế kỷ 21, Việt Nam sẽ có quy mô dân số khoảng 140 triệu người. Lúc này chúng ta cần phải tiến ra biển, biển là niềm hy vọng và là không gian sinh tồn của những thế hệ sau này.
Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với một kiểu xâm lược như vậy: tiến dần dần. Vì thế, tôi muốn nhấn mạnh về thách thức không gian sinh tồn của dân tộc .
Cuối thế kỷ này dân số nước ta lên khoảng 140 triệu người, con cháu chúng ta sống ở đâu nếu không tiến ra biển. Lúc đấy là chúng ta cần có thành phố biển, có làng mạc biển, có nông nghiệp biển, có công nghiệp biển, có cảng biển, có sân bay trên biển. Biển là niềm hi vọng, là không gian sinh tồn của những thế hệ sau này.
Và tôi muốn nhấn mạnh điểm này: không gian sinh tồn của dân tộc mình đang bị thách thức.
III. Chúng ta có thể giữ được Biển Đông một cách hòa bình
Câu hỏi tiếp theo là: Sau khi biết tình hình thực trạng rồi, Việt Nam làm gì để bảo vệ chủ quyền Biển Đông? Tôi chỉ nêu một vài điểm vì có hàng nghìn đầu việc. Nhưng trước hết, chúng ta phải khẳng định chắc chắn 100%, chúng ta có thể giữ được Biển Đông, và có thể giữ được một cách hòa bình.
Tôi xin thưa, Biển Đông không chỉ có thách thức, nó còn là cơ hội tuyệt vời cho chúng ta.
Việt Nam sở hữu những vũ khí, những giá trị vô cùng quan trọng, trong đó có danh tiếng của mình. Danh tiếng của Việt Nam tương đương với 50 sư đoàn tinh nhuệ nhất trên thế giới.
Trong cuộc chiến tranh Iraq, Mỹ mất 12 nhân mạng là do tai nạn trực thăng, còn không thì chẳng mất người nào hết. Trong cuộc chiến ở Iraq, thông tin truyền thông đóng vai trò căn bản, 90% thắng lợi của Mỹ là cuộc chiến tranh truyền thông trước khi diễn ra.
Vào giờ chuẩn bị khởi động chiến tranh, Tổng thống G. Bush (cha) xuất hiện trên truyền hình và kêu gọi Iraq suy nghĩ. Saddam Hussein cũng xuất hiện trên truyền hình truyền đi một thông điệp: thua cũng đánh.
Tư lệnh của một quân đội 1,5 triệu người được trang bị những vũ khí hiện đại nhất mà chưa vào trận đã nhắc đến thua. Vậy nên, có những đoàn quân 300 nghìn người không bắn một phát súng. Như vậy làm sao lại không thua. Đó là do phát ngôn của Saddam Hussein.
Sức mạnh tinh thần mới là nguồn sức mạnh của chúng ta, của dân tộc Việt Nam. Không phải tàu chiến, tàu ngầm, thông tin truyền thông mới là nguồn sức mạnh của chúng ta. Chúng ta đang sở hữu một vũ khí quan trọng như thế thì chúng ta nên sử dụng như thế nào?
Việt Nam cần làm gì để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông?
Nếu chúng ta đặt ra câu hỏi này, chúng ta đã trả lời được 50%. Nếu chúng ta tự hỏi làm thế nào để cho đất nước Việt Nam trở nên hùng cường, thì chúng ta đã đặt chân lên con đường đi đến hùng cường và thịnh vượng.
Vấn đề truyền thông rất quan trọng. Sự an toàn biển đảo tỷ lệ thuận với sự quan tâm của dân chúng về vấn đề Biển Đông.
Có mấy việc phải làm, tôi xin nêu ngắn gọn:
– Nhận diện rõ thách thức với chủ quyền biển đảo.
– Củng cố ý chí quyết tâm.
– Huy động sức mạnh tổng lực của quốc gia.
– Phát huy được sức mạnh của thời đại.
– Xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Thông tin truyền thông cần làm gì?
Thông tin truyền thông đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Thông tin truyền thông là một bộ phận cấu thành của cuộc chiến này, quan trọng không kém gì chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp lý. Bây giờ, thậm chí, nó quan trọng hơn cả quân sự, ngoại giao pháp lý.
Lúc này là thời điểm rất quan trọng để xác định chúng ta giữ được biển hay không. Chúng ta chọn hướng nào? Chúng ta có lựa chọn khác với ông cha mình hay không? Như vậy chúng ta phải coi thông tin truyền thông là một mặt trận.
Thông tin truyền thông không chỉ đưa tin, bình luận, nâng cao nhận thức, không chỉ có tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn phải thêm cả công tác dự báo.
Những việc thông tin truyền thông cần làm bao gồm nêu cao chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền trên biển; góp phần huy động sức mạnh tổng lực quốc gia; phát huy sức mạnh của thời đại; góp phần xây dựng nước Việt Nam hùng cường.
Xin giải thích rõ những vấn đề trên như sau:
1. Nêu cao chính nghĩa.
Nêu cao chính nghĩa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thông tin truyền thông. Muốn nêu cao chính nghĩa phải làm hai việc.
Thứ nhất, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa và Hoàng Sa; bác bỏ được yêu sách đường lưỡi bò, bác bỏ cái gọi là chủ quyền lâu đời của Trung Quốc đối với Trường Sa, Hoàng Sa.
Để nêu được chính nghĩa phải đưa ra được các chứng cứ pháp lý và lịch sử xác thực và thuyết phục các cơ quan tài phán quốc tế. Truyền thông báo chí phải kết hợp với các chuyên gia trong nước, quốc tế.
2. Huy động sức mạnh tổng lực quốc gia.
Củng cố ý chí quyết tâm bảo vệ đến cùng biển đảo bằng bất cứ giá nào. Thông tin truyền thông phải biến nó thành ý chí của toàn bộ dân tộc, của cả hệ thống chính trị và của tất cả mọi người dân Việt Nam.
Cần nâng cao nhận thức của người dân về biển đảo. Nhận diện rõ thách thức với chủ quyền biển đảo. Đánh giá Trung Quốc thế nào? Hiện nay, thế giới nhận định về Trung Quốc như con hổ mới trỗi dậy, dữ dằn về quân sự, chính trị, kinh tế. Họ là một con hổ đói: Đói không gian sinh tồn, đói tài nguyên thiên nhiên, đói quyền lực chính trị. Tuy nhiên, con hổ đó có nhiều bệnh về chính trị, văn hóa, dân tộc, sắc tộc, môi trường…
Truyền thông cần đề cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự tôn dân tộc, phẩm cách quốc gia. Đặc biệt, củng cố đại đoàn kết dân tộc, xây dựng sức mạnh toàn dân. Đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên đồng thuận dân tộc: đồng thuận về nhận thức, ý chí, hành động. Củng cố niềm tin: niềm tin phải có cơ sở, dựa trên điểm mạnh và yếu của Việt Nam và đối thủ, đồng thời tin vào khả năng của chúng ta.
3. Truyền thông phải lan tỏa giấc mơ về đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Trong vòng 15 năm nữa chúng ta có thể trở thành cường quốc tập trung với 5 tiêu chí: Quân sự, Kinh tế, Văn hóa – Giáo dục, Khoa học – Công nghệ, Chính trị. Hiện nay, chúng ta đang thiếu hai thứ: Một là minh triết, hai là kế hoạch (giấc mơ).
Truyền thông, tuyên truyền cần nhanh chóng và kịp thời; khách quan và chính xác; hay và hấp dẫn.
Tôi phải nhấn mạnh lại một lần nữa: Không phải tàu chiến, tàu ngầm, thông tin truyền thông mới là nguồn sức mạnh của chúng ta. Sức mạnh tinh thần mới là nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam trước bất kỳ kẻ xâm lược nào.
Theo VIETNAMNET
Link MP3: https://drive.google.com/file/d/1LulYslvLT8JpQt6MJQ3EB52sl8se8OOZ/view
Đăng trong:
Biển Đảo Việt Nam,
Biển Đông,
Hoàng-Trường Sa,
Tài liệu,
Tranh chấp Biển Đông,
Việt-Trung
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)