Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tài liệu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tài liệu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2020

COVID 19 – Nhân tố tiềm tàng làm thay đổi cuộc chơi ở Biển Đông

Vai trò “nhân tố tiềm tàng làm thay đổi cuộc chơi trên toàn cầu” của đại dịch viêm đường hô hấp cấp do virus corona chủng mới (COVID-19) có thể sẽ được bộc lộ một cách đầy đủ tại Biển Đông.


Bài viết của tác giả James Patterson, nhà báo tại Thời báo kinh doanh quốc tế (IBTimes). Bài viết được đăng trên báo IBTimes.


Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động tại tuyến hàng hải quốc tế trong bối cảnh Bộ Quốc Phòng Mỹ phải vật lộn với 1.500 ca được xác định là nhiễm virus SARS-CoV-2 trong lực lượng quân đội của họ.

Đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát tại thành phố Vũ Hán của Trung Quốc và lên tới đỉnh điểm hồi tháng 2/2020 vừa qua, được coi là dịch bệnh nghiêm trọng nhất.

Mặc dù đang phải nỗ lực để ngăn chặn làn sóng bùng phát COVID-19 lần thứ hai, song Trung Quốc cũng đang dần trở lại nhịp sống bình thường thông qua việc phô trương sức mạnh quân sự.

Trong khi đó, Mỹ đang ở vào thời kỳ đỉnh dịch COVID-19 với số lượng người nhiễm và tử vong cao ngất. Có thể nói, SARS-CoV-2 đã gây cản trở cho bất kỳ hoạt động quân sự nào của Mỹ ở Biển Đông.

Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt của Mỹ, gần đây đã tới thăm Việt Nam, hiện neo đậu tại đảo Guam sau khi có báo cáo cho biết trên con tàu này có hơn 170 ca nhiễm COVID-19. Mọi việc trở nên xấu đi sau khi thuyền trưởng của con tàu này là ông Brett Crozier bị sa thải vì ông đã viết một bức thư thúc giục hải quân Mỹ tăng cường các biện pháp kiểm soát đợt bùng phát dịch COVID-19 trên tàu. Bức thư đã bị rò rỉ cho giới truyền thông.

Một tàu sân bay khác của Hải quân Mỹ đang neo đậu tại vùng biển châu Á là tàu USS Ronald Reagan. Tuần trước, một quan chức quốc phòng Mỹ nói với hãng tin CNN rằng trên con tàu này có “rất nhiều” ca dương tính với SARS-CoV-2. Con tàu này hiện neo đậu tại Yokosuka (Nhật Bản) để bảo dưỡng. Các ca dương tính COVID-19 khác trong lực lượng quân đội Mỹ được cho là ở một căn cứ Hải quân tại Sasebo (Nhật Bản) và tại Hàn Quốc.

Một số nhà phân tích, chẳng hạn như Carl Schuster – một thuyền trưởng đã nghỉ hưu của lực lượng hải quân Mỹ và là cựu giám đốc phụ trách các chiến dịch tại Trung tâm Tình báo Liên quân của Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương Mỹ – cho rằng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) có thể sẽ tận dụng lợi thế trong lúc Mỹ đang phải tập trung sự chú ý cho một vấn đề nghiêm trọng khác. Ông nói:
“Tôi cho rằng Trung Quốc đang lợi dụng việc hải quân Mỹ phải đối mặt với những thách thức từ SARS-CoV-2 để tăng cường vị thế ở Biển Đông bằng cách hiện diện và hoạt động tùy thích”.

Vụ một tàu thuộc lực lượng Bảo vệ Bờ biển của Trung Quốc mới đây đâm chìm một tàu cá của Việt Nam chỉ càng củng cố lập luận rằng mục tiêu của Trung Quốc là giành lợi thế ở Biển Đông. Siêu cường thứ 2 thế giới này tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết diện tích Biển Đông và tỏ ra coi thường những lời phản đối của quốc tế và khu vực.

Sự phản kháng của các nước láng giềng cũng không phải là thách thức đối với lực lượng quân sự quy mô lớn của Trung Quốc, vì vậy, khu vực này phụ thuộc vào sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ với hy vọng sự hiện diện đó sẽ làm đối trọng với Trung Quốc.

Tuy nhiên, do sự bùng phát của đại dịch COVID-19, hiện giờ Mỹ dường như bị “trói tay” phần nào, ngoài việc lên tiếng chỉ trích chính phủ Trung Quốc đang tăng cường đưa ra những “tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp” ở Biển Đông.

Nữ phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus cho biết Mỹ “quan ngại sâu sắc” về việc tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Việt Nam, khiến 8 ngư dân Việt Nam bị hất khỏi tàu khi con tàu này chìm.

Bà nhấn mạnh: “Vụ việc này là sự kiện mới nhất trong một loạt hành động lâu nay của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) nhằm khẳng định các tuyên bố hàng hải bất hợp pháp của họ và gây bất lợi cho các nước láng giềng Đông Nam Á ở Biển Đông”.

Bà cho rằng Trung Quốc nên “tập trung vào việc tiếp tục hỗ trợ cộng đồng quốc tế trong nỗ lực chống đại dịch toàn cầu này và ngừng lợi dụng sự sao nhãng hay tình trạng dễ bị tổn thương của các quốc gia khác để thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền phi pháp tại Biển Đông”.

Tuyên bố của bà Ortagus cũng chỉ ra rằng kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát, Bắc Kinh đã lợi dụng tình hình để công bố 2 trạm nghiên cứu mới mà nước này thiết lập tại các căn cứ quân sự ở Đá Chữ Thập và Đá Subi, đồng thời đưa một máy bay quân sự đặc biệt ra Đá Chữ Thập.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

Chuyên gia Việt Nam bác bỏ luận cứ Trung Quốc về công hàm Phạm Văn Đồng

Phạm Văn Đồng là Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1976, và là Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 1976

Trung Quốc tới nay vẫn sử dụng thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, nói đây là chứng cứ Việt Nam từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.

Vậy đánh giá mới nhất của các chuyên gia Việt Nam là thế nào?

Hôm 17/4/2020, bản công hàm từ năm 1958 do người đứng đầu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi cho người đồng cấp Chu Ân Lai của phía Trung Quốc đã được Bắc Kinh viện dẫn trong một công hàm (CML/42/2020) gửi lên Liên Hợp quốc, cùng lúc Bắc Kinh có các cáo buộc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, xâm chiếm biển, đảo của Trung Quốc.

'Bước leo thang, tuyên chiến'?

Bình luận về động thái này, Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao, nguyên Phó Vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, hiện là Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật & Phát triển, từ Hà Nội nói:

"Trước hết, đây là một bước leo thang mới của Trung Quốc trong việc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông của họ đã thể hiện rất rõ.

"Ngay tuyên bố của Trung Quốc cho rằng Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là thuộc về của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam rút khỏi và họ tuyên bố rằng Việt Nam đã chiếm những đảo và thực thể mà Việt Nam hiện nay Việt Nam đang chấn giữ một cách hợp pháp, thì họ bảo rằng đó là những vị trí mà Việt Nam đã xâm lược, cũng như đã chiếm giữ bất hợp pháp.

"Thì đây theo tôi gần như một tuyên bố có thể nói là tuyên chiến rồi, đồng thời họ nói là họ sẽ bảo vệ lợi ích ở những vùng biển này, cũng như ở các đảo này, bằng mọi phương tiện và một cách kiên quyết, thì giới chuyên gia đã bình luận đây là một lời đe dọa về dùng vũ lực rồi, không phải là bình thường nữa."


Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh năm 1965

'Nằm trong nghị trình'

Liên quan đến việc Trung Quốc công bố, viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Hoàng Ngọc Giao bình luận:

"Theo tôi, tới lúc này, đây là câu chuyện có thể sẽ nằm trong nghị trình của một phiên giải quyết tranh chấp xét xử tại một cơ quan tài phán quốc tế rằng là công hàm này có giá trị pháp lý như thế nào, đến đâu.

"Trung Quốc đã dám công bố viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng, thì họ có dám ra trước cơ quan tài phán quốc tế để tranh luận, tranh lý với Việt Nam về giá trị của công hàm này và rộng hơn là tranh luận đi đến phán xử, phán quyết về ai mới là người có chủ quyền thực sự ở Hoàng Sa, Trường Sa hay không?

"Vì lúc đó phía Việt Nam trong hồ sơ khởi kiện cũng phải chuẩn bị cho kỹ, riêng cá nhân tôi với tư cách chuyên gia, tôi đồng tình với nhiều quan điểm cho rằng công văn, công hàm Phạm Văn Đồng này không có giá trị pháp lý nào cả.

"Bởi vì căn cứ vào Hiệp định Geneva năm 1954 về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam, chia đất nước Việt Nam thành hai miền, chính trong Hiệp định đó đã quy định rất rõ Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc phía Nam của vĩ tuyến 17, và như vậy trực thuộc sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa.

Đánh đổi chính trị?
Theo chuyên gia luật học này, công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về Hoàng Sa, Trường Sa và có thể được vô hiệu hóa, nhưng đánh đổi lại nhà nước Viện Nam hiện nay phải có sự đánh đổi chính trị, hay thay đổi về quan niệm và nhìn nhận lịch sử với một nhà nước đã bị đánh sập 45 năm trước ở miền Nam Việt Nam, ông Hoàng Ngọc Giao nói tiếp:

"Thế thì từ trước đến nay, chính quyền ở Bắc Việt Nam và kể cả chính quyền Việt Nam bây giờ, trong các giới học thuật, đặc biệt học thuật về luật quốc tế, người ta vì những mục đích chính trị, cho nên người ta không chấp nhận Việt Nam Cộng Hòa như là một chủ thể độc lập của Công pháp Quốc tế.

"Và vì thế cho nên điều này cuối cùng xảy ra công hàm 'bất lợi', thì bây giờ nhà nước, chính phủ Việt Nam hiện nay mới bắt đầu nhận thấy một điều là nếu như mình phủ nhận sự tồn tại của một chính phủ, của một nhà nước chính danh, phù hợp pháp luật quốc tế, đó là Việt Nam Cộng Hòa, thì nó lại gây hại cho câu chuyện đấu tranh bảo vệ chủ quyền."

"Do vậy hiện nay, quan điểm chính thức của những người lãnh đạo Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chắc chắn không thể phủ nhận vai trò chính danh của nhà nước Việt Nam Cộng hòa, tức là miền Nam Việt Nam trước đây, trước 30/4/1975 và điều này chỉ có lợi cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và nó làm vô hiệu hóa Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958.


Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng năm 1956

"Tất nhiên bên cạnh việc công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị ở chỗ là anh không thể công nhận cái gì mà anh không có được, thì ở đây còn một ý nữa đó là công hàm này, như nhiều chuyên gia đã nói, đó là ở cấp Thủ tướng, không phải ở cấp đại diện quốc gia là một nguyên thủ quốc gia và chưa được Quốc hội phê chuẩn.

"Bởi vì những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ quốc gia bao giờ cũng phải có sự phê chuẩn của Quốc hội, và vì thế cho nên về giá trị pháp lý của nó, thì nó cũng không có giá trị pháp lý ở chỗ đó nữa.

"Điểm thứ ba nữa là Công hàm Phạm Văn Đồng nó phản ánh như một động thái chính trị phe nhóm với nhau. Cùng là phe cộng sản, thời đó Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam để đánh Mỹ.

"Thế thì nó có thể hiểu như là một tuyên bố chính trị, một động thái chính trị giữa hai bên, chứ không thể coi nó có giá trị pháp lý gì hết."

Khó khăn pháp lý?

Hôm 23/4, trả lời câu hỏi của khán, thính giả gửi cho một chương trình bình luận trực tuyến của BBC News Tiếng Việt hỏi rằng công hàm Phạm Văn Đồng 1958 gây khó khăn pháp lý gì cho cuộc đấu tranh về chủ quyền quốc gia và biển đảo của Việt Nam hiện nay, từ Đại học George Mason, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia chính trị học và bang giao quốc tế nói:

"Thực sự thì Trung Quốc đang bám vào cái đó và bảo rằng ở Việt Nam đã công nhận những điều khoản của họ rồi.

"Nhưng ngược lại chúng ta thấy có một số sự kiện cho thấy là Việt Nam cũng tương đối thay đổi. Ngày xưa, khi ông Nguyễn Tấn Dũng còn làm Thủ tướng chính phủ Việt Nam, thì ông cũng đã nói rõ rằng vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa là dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

"Thường thường, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam gọi đó là chính quyền 'ngụy quyền' và không có giá trị, thẩm quyền gì cả, nhưng bây giờ Việt Nam chứng nhận là có, như vậy có nghĩa là bảo rằng nếu là do Việt Nam Cộng hòa quản lý, thì công hàm Phạm Văn Đồng tự nó không có hiệu quả gì cả.

"Bởi vì theo quan niệm gọi là chuyển quyền từ chính phủ này sang chính phủ khác, thì chính phủ miền Bắc, khi lãnh thêm miền Nam vào miền Bắc, thì lãnh thêm cả những tiêu sản và tích sản, những quyền lợi và nghĩa vụ.

"Nếu theo quan điểm của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, thì miền Bắc chỉ thừa hưởng của miền Nam Cộng hòa, do đó họ không chịu trách nhiệm, bởi vì đã không có nghĩa vụ thì miền Bắc không có nghĩa vụ.

"Đặc biệt là bây giờ trong Liên Hợp quốc, chúng ta thấy có văn bản rõ rệt vào tháng Giêng năm 1974, thì xảy ra vụ đó, thì ông Ngoại trưởng của Việt Nam Cộng hòa là ông Vương Văn Bắc đã viết văn thư cho ông Tổng Thư ký Liên Hợp quốc và yêu cầu đưa vấn đề này ra Hội đồng Bảo an và Việt Nam Cộng hòa đã lên án Trung Quốc là xâm lấn Việt Nam.

"Thành ra những văn bản đó là những văn bản đã có ở trong Liên Hợp quốc rồi và theo luật pháp quốc tế thì nó cũng đúng.
"Cho nên đã có những động thái đó, còn bây giờ chúng ta chưa thấy tiếp tục từ hồi ông Nguyễn Tấn Dũng nói câu đó, thì sau này chúng ta chưa thấy gì cả."

'Không có nhượng chủ quyền'

Từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, sử gia và nhà nghiên cứu Trung Quốc học bình luận:

"Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ủng hộ vấn đề là xung quanh các nước, hay xung quanh các đảo thì được 12 hải lý, thế thôi, chứ không phải chấp nhận là Trung Quốc có chủ quyền ở Hoàng Sa.

"Mà cũng giống như Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng vừa nói, vấn đề này không có động chạm gì đến vấn đề chủ quyền Hoàng Sa là của Việt Nam Cộng hòa ngày xưa.

"Ngoài ra, tôi cũng cho rằng việc này chỉ là một công thư của một Thủ tướng công nhận vấn đề ở trên biển, vấn đề 12 hải lý, thôi.

"Nhưng mà cái đó không được chính quyền Việt Nam, trong đó có Quốc hội, trong đó có Chủ tịch nước ủy quyền, do đó Trung Quốc không thể dùng công thư đó để nói rằng là Việt Nam đã nhường chủ quyền ở Hoàng Sa cho Trung Quốc."

Trong dịp này, theo dõi tình hình an ninh ở Biển Đông và khu vực, một số học giả, nhà quan sát đã chia sẻ ý kiến, bình luận của mình với BBC News Tiếng Việt.

Tiến sỹ Vũ Cao Phan, nguyên Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký Hội hữu nghị Việt - Trung, nhà nghiên cứu chính trị học thuộc Đại học Bình Dương, nêu nhận định:

"Năm ngoái Trung Quốc đến Tư Chính chủ yếu là để cản trở Việt Nam ở mỏ Sao Vàng- Đại Nguyệt.

"Họ thất bại vì cuối cùng, Việt Nam vẫn hạ đặt được chân đến giàn khoan ở đây.

"Trong công bố nghiên cứu mới "Vấn đề Biển Đông: Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hiện nay", tôi có viết rằng điều quan trọng là mặc dù mọi cản trở từ phía Trung Quốc, Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ở khu vực này".

"Năm nay Việt Nam tiếp tục đặt giàn khoan ở đây, Trung Quốc cũng biết vậy nên sẽ quyết tâm phá.

"Bởi vậy, dự báo của tôi là tình hình sẽ căng thẳng và các hoạt động của Trung Quốc (gồm cả xâu chuỗi từ việc đâm chìm tàu cá cho đến các động thái khác) là đòn ra tay trước."

Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-52424973
0

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

Vì sao Nguyễn Văn Thiệu quyết định bỏ rơi Tây Nguyên?

(16/04/2020)- Là một sĩ quan lục quân được đào tạo bài bản theo chương trình của Pháp trước khi bước vào chính trường Thiệu không thể không hiểu vị trí chiến lược của Tây Nguyên. Vậy thì vì sao ông ta đã quyết định đi một nước cờ như vậy?


Từ bỏ cao nguyên

Trong suốt lịch sử chiến tranh xâm lược Việt Nam, cả người Pháp và người Mỹ đều đánh giá Tây Nguyên là nóc nhà của Đông Dương. Đó là một vùng có giá trị chiến lược quân sự quan trọng, ai làm chủ được Tây Nguyên sẽ làm chủ được Đông Dương. Tuy nhiên, vào năm 1975, quân đội Sài Gòn đã quyết định rút khỏi vùng đất chiến lược này. Đó không phải một đợt lui binh chiến thuật mà là một cuộc rút lui quy mô lớn với cả một quân đoàn được trang bị hiện đại gồm hàng ngàn xe pháo và các trang bị cồng kềnh. Quyết định rút lui này được đưa ra sau khi quân đội Sài Gòn để mất thành phố Buôn Ma Thuột.

Theo lời khai của viên Đại tá Phạm Duy Tất – Chỉ huy trưởng biệt động quân thuộc Quân khu 2 (VNCH) được tướng Văn Tiến Dũng trích trong hồi ký Đại thắng mùa xuân, ngày 14/3/1975, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu đã có cuộc họp với các tướng lĩnh ở Cam Ranh để bàn về bước đi sau khi thất trận ở Buôn Ma Thuột.

Trong cuộc họp đó, Thiệu hỏi tướng Cao Văn Viên có còn quân trù bị để tăng cường cho Tây Nguyên không thì nhận được câu trả lời không còn. Thiệu lại hỏi Phạm Văn Phú – Tư lệnh Quân đoàn 2 rằng nếu không có tăng viện thì giữ được bao lâu. Phú trả lời giữ được 1 tháng với điều kiện được yểm trợ không quân tối đa, tiếp tế đường không đầy đủ để bù đắp thiệt hại của những trận vừa qua. Phú thề sẽ tử thủ ở Pleiku nếu được đáp ứng các điều kiện trên.

Tuy nhiên ông Thiệu nói ngay cả việc tiếp tế đường không cũng không thể đáp ứng và kết luận rằng phải rút khỏi Kon Tum, Pleiku để bảo toàn lực lượng, lấy quân đưa về giữ đồng bằng ven biển, tiếp tế thuận lợi hơn.

Vấn đề rút theo đường nào cũng được đưa ra bàn bạc. Tướng Cao Văn Viên nói rằng trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà không bị diệt còn đường 14 thì càng không thể được. Những người dự họp cho rằng chỉ có đường số 7 từ lâu không dùng đến, tuy xấu nhưng như vậy có thể tạo yếu tố bất ngờ giúp cuộc rút lui an toàn.

Ngày 15/3 Quân đoàn 2 VNCH bắt đầu rút khỏi Tây Nguyên với liên đoàn biệt động số 6, liên đoàn biệt động số 23 và lữ đoàn kỵ binh số 2 làm nhiệm vụ bảo vệ đường, liên đoàn công binh đi trước để chữa đường, bắc cầu. Trước đó, vào đêm 14 rạng ngày 15/3, Bộ Chỉ huy tiền phương Quân đoàn 2 VNCH đã rút về Nha Trang bằng máy bay.

Tuy nhiên, cuộc rút lui sau đó bị thất bại. Theo Lịch sử kháng chiến chống Mỹ tập 8, Quân đoàn 2 VNCH bị chặn lại thị xã Cheo Reo và bị đánh tan tại đây. Phần lớn vũ khí và phương tiện của quân đoàn này hoặc bị phá hủy hoặc bị quân giải phóng chiếm được.

Mặc dù một số lượng lớn bộ binh của Quân đoàn 2 chạy thoát về phía đồng bằng ven biển nhưng tinh thần hoang mang và các vũ khí nặng đã mất hết nên quân đoàn này cơ bản đã bị loại khỏi vòng chiến. Mặt khác, các nhóm tàn quân rút được về đồng bằng không những không thể tăng cường thêm sức phòng thủ mà thậm chí chỉ làm tăng thêm không khí hoang mang cho những kẻ chưa bị tấn công.

Vì sao Thiệu quyết rút khỏi cao nguyên?

Nhận xét về quyết định rút khỏi Tây Nguyên của quân đội Sài Gòn, trong hồi ký Đại thắng mùa xuân, Đại tướng Văn Tiến Dũng viết: “…trong ký ức tôi hiện lên nhiều hình ảnh rút chạy của địch trong cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ: cảnh tháo chạy của Sáctông và Lơpagiơ trên đường số 4 hồi Chiến dịch Giải phóng Biên giới, cảnh tháo chạy của Trung đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ ở Khe Sanh năm 1968, của Sư đoàn 1, các lữ đoàn dù và lữ thuỷ quân lục chiến nguỵ ở Đường 9-Nam Lào năm 1971, của Sư đoàn 3 nguỵ ở Quảng Trị năm 1972. Địch đã nhiều phen rút chạy trước sức tiến công của ta và thường áp dụng những thủ đoạn nghi binh khác nhau khi rút. Nhưng giờ đây, cả một quân đoàn chủ lực của nguỵ rút chạy hộc tốc, bỏ cả Tây Nguyên – một địa bàn chiến lược rất quan trọng thì vì sao? Theo lệnh ai? Hai đòn sấm sét ta đánh ở Nam Tây Nguyên đã làm rung động quân địch đến thế kia ư? Đúng là đòn đánh trúng huyệt, địch bắt đầu ngấm, chỉ sau có mấy ngày. Đúng là địch đã choáng váng và rối loạn về chiến lược. Lại một sai lầm nữa rất lớn về chiến lược của chúng”.

Người quyết ý rút bỏ cao nguyên là Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu. Là một sĩ quan lục quân được đào tạo bài bản theo chương trình của Pháp trước khi bước vào chính trường Thiệu không thể không hiểu vị trí chiến lược của Tây Nguyên. Vậy thì vì sao ông ta đã quyết định đi một nước cờ như vậy?

Trong cuốn sách Khi đồng minh tháo chạy, ông Nguyễn Tiến Hưng – phụ tá của ông Thiệu đã cố gắng trả lời câu hỏi này dựa trên các sự kiện liên quan. Theo ông Hưng, ảnh hưởng lớn nhất cho quyết định này là tình hình viện trợ quân sự của Mỹ.

Giữa tháng 8/1974, Quốc hội Mỹ duyệt mức chuẩn chi viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng hòa ở con số 700 triệu USD. Cũng thời điểm đó, theo tính toán của Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH, dự trữ đạn dược và xăng dầu đã gần cạn, nếu không có bổ sung, dự trữ đạn tồn kho chỉ đủ cung ứng được từ 30 đến 45 ngày. Tướng Cao Văn Viên nói rằng: “Số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng 6/1975 nếu không nhận được thêm viện trợ”.

Trên cơ sở đó, một số tướng lĩnh Sài Gòn dưới sự cố vấn của sĩ quan Mỹ đã đề xuất lên ông Thiệu ý tưởng rút bỏ cao nguyên nếu quân giải phóng tổng tấn công. Ông Nguyễn Tiến Hưng kể lại rằng trong một cuộc họp hồi cuối năm 1974, ông đã đọc được một tài liệu phân tích ảnh hưởng của các mức viện trợ quân sự tới khả năng chiến đấu và phân chia theo từng quân, binh chủng. Theo đó, nếu mức viện trợ quân sự là 1,4 tỷ USD thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả 4 vùng chiến thuật. Nếu là 1,1 tỷ thì vùng I phải bỏ. Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được vùng I và vùng II chiến thuật. Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc. Nếu dưới 600 triệu thì chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.

Ngoài ra, từ 1/8/1974, một nhóm nghiên cứu của quân đội Sài Gòn được Chuẩn tướng về hưu Ted Sarong của Australia cố vấn đã đi đến kết luận là quân đội Sài Gòn nên bỏ vùng I và vùng II và tập trung lại để chỉ giữ một tuyến từ Tây Ninh tới Nha Trang.

Như vậy, quyết định rút khỏi cao nguyên của ông Thiệu ít nhất đã được xem xét từ trước đó vài tháng nhưng không phải dựa trên những cân nhắc chiến lược chiến thuật quân sự mà chỉ dựa trên số lượng viện trợ quân sự Mỹ. Qua đó cho thấy rõ tính chất phụ thuộc của quân đội Sài Gòn vào Mỹ.

Theo TRẦN VŨ / NGƯỜI ĐƯA TIN
0

Đại dịch COVID-19 đã làm thay đổi vĩnh viễn tất cả chúng ta

Rồi đây, khi vượt qua dịch COVID-19 hay phải chung sống với nạn dịch này, mỗi người trong chúng ta dù địa vị, tuổi tác, trình độ, giới tính, màu da, dân tộc có thể khác nhau nhưng chắc sẽ chung một suy nghĩ, đánh giá, thậm chí đến nhận thức rằng: COVID-19 làm THAY ĐỔI tất cả.


Khác với những gì trước đó, có những thứ sẽ mất đi, nhưng có những điều sẽ sinh ra trong và sau dịch, để cân đong sự được mất là khó, càng không khả thi khi lượng hóa những biến chuyển này. Khi diễn biến dịch còn phức tạp, những đánh giá, dự báo thay vì hàng năm, hàng tháng, thì có đến hàng ngày, hàng giờ.

Do vậy, nói gì, viết gì cho thời gian tới, có thể còn sớm, nhưng biên lại những gì đang diễn ra từ trạng thái tâm lý của người trong cuộc lúc này cũng chính là cách ta suy nghĩ về nó – về thứ đang làm thay đổi thế giới.

Những con số ca bệnh mới, số người chết, số người được chữa khỏi, tâm dịch, khu vực cách ly, Fo, F1, F2, dương tính, âm tính… không chỉ là những thống kê đơn thuần của ngành y tế, chính quyền, được cập nhật, còn là thông tin quan tâm đến độ từ người bán rau, bán hoa, bác đạp xích lô, chị nhặt ve chai… đến những người chủ doanh nghiệp, từ những công nhân cặm cụi, miệt mài trong các dây chuyền sản xuất tưởng chỉ biết đưa cái này vào, lấy cái kia ra… đến các công chức bàn giấy đều thạo tin về COVID-19.

Toang rồi… cư dân mạng bất kể ngày đêm tương tác với nhau, thật, giả lẫn lộn, bình luận, trạng thái, chia sẻ, bày tỏ thái độ về nhân vật, diễn biến dịch…hầu hết như những người chứng kiến tận mắt, đến tận nơi.

Sang trang mới, đúng là sang trang mới với học sinh và không chỉ là học sinh còn là giáo viên, nhà trường, phương pháp dạy học, cách thức học, còn là gia đình với môi trường tưởng chừng như trên giấy nay đã thành thực tế gia đình chính là trường học. Từ tin nghỉ học tuần này, nghỉ học đến tuần sau, đến lúc ít quan tâm đến ngày nào đến trường mà bao giờ kết thúc năm học, thi kiểu gì… như là bài toán mà đáp số đang còn nhiều nghiệm.

Với lúc đầu khi dịch đến tưởng chừng những ngành du lịch, dịch vụ, hàng không… bị ảnh hưởng trực tiếp, các tập đoàn, doanh nghiệp lớn kiến nghị các chính sách tháo gỡ khó khăn giảm, miễn, giãn thuế… các gói hỗ trợ tưởng chừng dành cho ngành mình. Đến nay, hình như sự quan tâm lại từ những điều hết sức bình dị, đời thường như người hướng dẫn viên mai chưa biết làm gì, bác bán vé số chiều nay sẽ ăn gì, anh chạy xe ôm tối nay sẽ ngủ ở đâu,… những mảnh đời, cảnh đời thời COVID-19, sự khó khăn dường như đang đi vào và đi ra từ chính những ngõ, hẻm.

Tâm lý xã hội ngờ vực, hoang mang, tự tin, hi vọng, với diễn biến xúc cảm phụ thuộc vào tình hình dịch COVID-19.

Những cử chỉ gần gũi thân thương, giao tiếp đã có từ ngàn đời, gấm vào máu, như là thành trì tưởng chừng chỉ có thể chia cắt bởi cái chết như cái ôm, nụ hôn, cái bắt tay đến nay đã chuyển thành những ánh mắt thay điều muốn nói, giãn cách xã hội, giữ khoảng cách 2 mét như một đơn vị tính hữu hình mà vô hình, không chỉ là mệnh lệnh hành chính, có những lúc nó xuất hiện như là bản năng. Liệu COVID-19 có thể hình thành một phương thức giao tiếp mới hay hơn nữa là văn hóa giao tiếp mới hay không ? chưa có câu trả lời chắc chắn, phải chăng phụ thuộc vào thời gian dịch?

Đến cả số phận, nghi thức thiêng liêng của mỗi con người thường chỉ được một lần là sự sinh ra, hôn nhân, cái chết, nay thời COVID-19 đều khác. Chưa bao giờ sự chứng kiến thời khắc thiêng liêng đó của mỗi đời người lại thay đổi đến như thế. Thay vì sự loan báo, chia sẻ đến nhiều người bằng phương thức trực tiếp có từ lâu đời hàng ngàn năm và lâu hơn thế nữa, chưa thể biết chính xác được, mà nay, có nơi nếu hôn nhân phải đến không dừng được thì chỉ có vài người thân chứng kiến, hay những đám tang ngoài người nằm trong hòm và nhân viên tang lễ là trực tiếp, không có cả người thân bên cạnh, còn lại người dự được chia sẻ, tương tác qua các công cụ của mạng xã hội.

Hằng đêm, cũng có những người tâm sự với bạn COVID-19, hỏi bạn sinh ra từ đâu, bạn oán thoán, giận dữ gì mà muốn tìm đến không từ một ai, một quốc gia nào… những câu hỏi, sẻ chia được tâm sự như hỏi chính mình, hỏi về những ứng xử của con người với tự nhiên với đất mẹ, những câu hỏi mà sự trả lời không dừng ở một khoảng thời gian, một thế hệ hay một quốc gia.

Thế giới đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, có những quốc gia như Việt Nam đã từng sống trong trạng thái xã hội thời chiến, thấm thía những giá trị, nâng niu từng giây phút của hòa bình. Nay vì COVID-19, “Chống dịch như chống giặc” có nơi không khí của “thời chiến” như trở về mặc dù không bom rơi, đạn nổ. Sự dò xét, cảnh giác…ánh mắt…cử chỉ…xuất hiện từ những con ngõ đến những đô thị lớn, âu cũng là trạng thái bắt buộc, cần có!

Cũng như trong những lúc khó khăn, thử thách, chính là mảnh đất nảy sinh sự lạc quan, niềm tin. Những bài hát, vần thơ… trước đây phải hàng ngày, hàng tháng thậm chí còn nhiều hơn thế mới ra đời, lan tỏa, nay tính bằng giờ, bằng phút. Những câu chuyện, bộ phim thường chạy trước và sau thực tế cuộc sống, nay như muốn song song với sau. Phải chăng COVID-19 đã hối thúc và làm nên được điều này? Không biết rồi sau khi đánh giá lại các nhà lý luận có thể đúc rút một bước chuyển mới, một giai đoạn mới của văn học, nghệ thuật thời COVID-19 hay hậu COVID-19.

Hình ảnh những người chiến sỹ áo trắng, chiến sỹ áo xanh…được khắc họa như những người ở tuyến đầu với những phẩm chất vốn có được hiện hữu, rõ nét hơn trong “cuộc chiến chống dịch COVID-19”. Những tấm gương, những lời ngợi ca, sự hy sinh vừa trực tiếp, vừa thầm lặng của các anh, các chị đang lan tỏa, tiếp thêm sức mạnh, thắp sáng niềm tin cho toàn xã hội, từng nhà, từng người.

Như đã thành truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc ta lúc khó khăn, khi hoạn nạn “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, “lá lành đùm lá rách”. Những câu chuyện chia ngọt, sẻ bùi, tấm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào… những sáng kiến hữu ích đầy nhân văn như cây ATM gạo… đã ra đời từ thực tế cuộc sống mùa dịch COVID-19, không cần đề tài nghiên cứu, hay mệnh lệnh chỉ đạo mà xuất phát từ tấm lòng và không chỉ vì tấm lòng.
Còn nhiều câu chuyện, mà như đồng bào nói là kể từ ngày này, sang ngày khác, đêm này sang đêm khác cũng không hết được về tình cảnh do COVID-19 làm thay đổi chúng ta. Nhưng phải kể, phải nói, phải ngợi ca có những người lãnh đạo xả thân ngày đêm, không có Tết cổ truyền dân tộc, những chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, hay cả những đắn đo, cân nhắc…những hình ảnh vội vàng nhưng rất thời sự về khoảng khắc quyết định khi bước vào những giai đoạn cam go của chiến dịch, cuộc chiến.

Hình như từ sự tạm dừng lại, chậm lại của hầu hết các quan hệ xã hội… bởi dịch COVID-19, nay chúng ta đang dần chuyển trạng thái dần thích nghi, điều chỉnh, thậm chí tiếp tục một số quan hệ không thể dừng mãi được. Liệu đấy là do thời gian hay do quy luật? hay chuyển chiến thuật từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.

Khi bắt đầu dịch, có lúc đến 80-90% thông tin, thời lượng trên báo, truyền hình, mạng xã hội về chống dịch COVID-19, có người băn khoăn vì sự ngập tràn thông tin, nhất là những cảnh báo, bình luận thiếu cơ sở, gây sự hoang mang, hay tập trung hướng nhìn, dư luận vào một phía, một vế, tất cả cho tiền tuyến phòng, chống dịch, rất ít tiếng nói, câu chuyện và sự chuẩn bị cho hậu phương, sự tái thiết, nhưng rồi thời gian, đến nay đã khác.

Lịch sử nhân loại chứng kiến những cuộc chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai…cướp đi sinh mạng hàng triệu người, làm suy tàn cả nền văn minh, hay xóa cả một dân tộc. Nhưng cũng qua những biến chuyển này, lịch sử cũng sang trang mới, có những quốc gia trở lên hùng cường, hay sản sinh ra những thế hệ mới khác trước.

Đúng là chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai có thể xuất phát từ chủ quan, khách quan, từ con người hay tự nhiên, nhưng đều có nguồn gốc từ sự ứng xử, sự mất cân bằng và là điều không ai mong muốn, nhưng cũng chính nó vừa là thử thách, khó khăn song cũng là thời cơ và hình thành sự thay đổi mang tính bước ngoặt.

Theo dòng lịch sử nhân loại các cuộc cánh mạng công nghiệp với phạm vi ảnh hưởng làm biến chuyển thế giới. Từ những năm đầu của thế kỷ 21 cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được nhắc tới nhiều hơn, lúc đầu tưởng chỉ ở những nước phát triển, nhưng đến nay tầm vóc và sức ảnh hưởng đã đến mọi quốc gia không phân biệt mạnh, yếu, lớn nhỏ và nó đang trở lên mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn không chỉ ở phương diện quốc gia mà đã đến từng gia đình, cá nhân, dần thống trị ở hầu hết các quan hệ xã hội.
Và sự nhận biết sức mạnh này được thể hiện rõ qua dịch COVID-19, nhiều phương thức giao tiếp trực tiếp đã chuyển thành gián tiếp, mọi quy tắc, mọi nền kinh tế, mọi ngành nghề, thậm chí thách thức cả nội hàm của khái niệm “con người” mạng xã hội, các công cụ công nghệ thông minh, trí tuệ nhân tạo sẽ làm thay đổi chúng ta, tính riêng tư của mỗi cá nhân.

Có những kịch bản liên quan đến dịch COVID-19 đã được phác họa, theo khía cạnh thời gian như dịch kéo dài 3 tháng, 6 tháng hay đến hết năm 2020, theo ngành như tài chính, du lịch, giao thông… thậm chí khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang được dự báo, nhưng cũng có những kịch bản mang tính bao trùm như: sẽ đẩy lùi, ngăn chặn được dịch; sẽ kiểm soát, khống chế được dịch; dịch sẽ tự lui…

Viễn cảnh về kịch bản thứ nhất cuộc sống kinh tế xã hội sẽ hồi sinh, tái thiết, có thể có những thay đổi nhưng không lớn. Kịch bản thứ hai mang lại bức tranh về những thay đổi tự thân mang tính toàn diện của xã hội từ việc chăm sóc sức khỏe, vệ sinh cá nhân… sẽ có vắc xin phòng dịch, đến việc đi lại, giao tiếp…từ thiết kế không gian sống, không gian công cộng và những tiêu chuẩn về giao thông, đô thị, kiến trúc sẽ thay đổi, đến cả thời trang, thậm chí khẩu trang có thể là bộ phận không thiếu được của trang phục như quần, áo hiện nay…

Còn chỉ khi xuất hiện bởi sự can thiệp của một đấng siêu nhiên, hoặc tự bản thân virus Corona nhận thấy đã hoàn thành sứ mệnh tự rút trong một buổi sáng đẹp trời khi bình minh vừa lên thay thế bóng đêm, trong tiếng gió xào xạc còn lẫn mùi hương, líu lo tiếng chim hót là kịch bản thứ ba chắc chỉ xuất hiện trong giấc mơ hoặc những bộ phim.

Phải chăng ngay từ bây giờ, trong dịch ta phải chuẩn bị cuộc sống sau dịch, thậm chí chung sống cùng với dịch… như cha ông ta chuẩn bị lực lượng, cử người đi đào tạo nước ngoài… từ lúc chiến tranh vẫn còn căng thẳng để lúc hòa bình dựng xây đất nước, hay thân cây phải chuẩn bị mạch nguồn dinh dưỡng, từ lúc nhánh, cành sắp rơi để đâm chồi, nảy lộc trong thời gian tới.

Có nhiều điều sẽ thay đổi hoặc không, như linh tính sự thay đổi về kinh tế với phương thức của nó, văn hóa, gia đình với những giá trị cũ được làm mới lại, hay môi trưởng, tự nhiên sự ứng xử sẽ không chỉ còn trên giấy, nhận thức mà sẽ là hành động thiết thực, cụ thể trên toàn diện các cấp độ từ con người đến quốc gia, khu vực. Những điều bình dị nhất, tự nhiên nhất, gần gũi nhất, con người nhất mà bấy lâu nay cuộc sống cuốn đi, mờ đi, nay trong dịch đang hiện lên như bản năng gốc, giá trị cốt lõi và còn có thể có những thay đổi nữa, có sự mất đi và sự sinh thành.

Liệu đây có là khoảng thời gian chúng ta chậm lại, dừng lại, tự nhìn lại chính chúng ta, cách chúng ta ứng xử với nhau với tự nhiên môi trường?

Liệu đây có phải là cơ hội để chúng ta thay đổi hay thực sự bắt buộc phải đổi thay?

Chắc chắn còn nhiều câu hỏi nữa trong mùa dịch COVID-19.

Nhận thức là một quá trình, với thời điểm này những gì viết lên, nói lên, chưa thể mang tính đúc rút vì còn sớm, có thể có cái đúng, có cái chưa đúng, nhưng chắc chắn sẽ có sự THAY ĐỔI của xã hội, gia đình, cá nhân bởi dịch COVID-19, bởi chính chúng ta, không chỉ bởi chúng ta, mà còn có tính quy luật của tự nhiên, yếu tố khách quan của lịch sử.

Theo NGUYỄN THANH SƠN / VIETTIMES
0

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2020

Triết học Phật giáo: Một góc nhìn từ phương Tây

Thế giới quan của Phật giáo Tây phương đương đại là tổng hợp của khoa học, tâm lý học và triết học hiện nay. Có thể điều này là một trong những lý do giải thích được sức thu hút của Phật giáo trong thời đại của thế tục hóa.


Thế giới quan Phật giáo (Boeddhistische wereldbeeld)

Có hay không có một thế giới quan Phật giáo? Hiện tại ở Tây phương, chúng ta đang ở trong một tình trạng rất hi hữu, đó là nhiều truyền thống Phật giáo khác biệt đang cùng có mặt ở nơi này. Nếu chúng ta đảo mắt nhìn một vòng quanh các tông phái khác nhau, chúng ta sẽ thấy rõ ràng thế giới quan không phải là điểm chung, nối kết các truyền thống lại với nhau. Trong những tạng kinh xưa cũ nhất của Phật giáo nói về nhân vật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, chúng ta sẽ nhận ra lại thế giới quan Ấn Ðộ. Trong truyền thống Thiền, chúng ta sẽ tìm thấy thế giới quan của Trung Hoa, và trong Phật giáo Tây Tạng, chúng ta cũng sẽ tìm thấy thế giới quan của Tây Tạng.

Phật giáo, như thế, không chịu ảnh hưởng của một thế giới quan nhất định nào đó mà luôn tự tìm cách diễn đạt và biểu lộ một cách mới mẻ qua ngôn ngữ và thế giới quan của địa phương, nơi mà Phật giáo phát triển và nảy nở. Ðiều này giải thích vì sao ý niệm luân hồi rất quan trọng trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng trong khi gần như không được nhắc đến trong truyền thống Thiền. (Chuyện kể một hoàng đế Trung Hoa hỏi một thiền sư điều gì sẽ xảy ra sau khi chết. Thiền sư trả lời là ông không biết. “Nhưng ngài là một thiền sư mà”, hoàng đế nói to. “Ðúng thế, nhưng tôi đang còn sống đây”, thiền sư trả lời.) Vì thế cho nên muốn hiểu tường tận kinh điển, điều quan trọng tối thiểu là phải quen thuộc với thế giới quan tạo nên ngữ cảnh của kinh điển. Thông điệp đặc thù của Phật giáo nằm chính ở chỗ mà sự dị biệt so với thế giới quan truyền thống bắt đầu xuất hiện hoặc khi [Phật giáo] cho vào đó một số nét riêng biệt của mình.

Jack Kornfield kể lại, trong thời gian tu tập nhiều năm ở những tu viện sâu trong rừng già Thái Lan, anh tình cờ khám phá rằng một tăng sĩ Thái đồng tu mà anh rất kính phục, không biết rằng quả địa cầu chúng ta đang ở có hình cầu. Khi anh giải thích cho người bạn tu về sự kiện địa lý này, vị tu sĩ chăm chú lắng nghe và cuối cùng bình thản nói: “Hay đấy, nhưng cũng chẳng có chi quan trọng cho lắm”. Tưởng tượng nếu Phật giáo đặt chân đến Âu châu vào thời trung cổ, thì chắc hẳn Phật giáo sẽ biết cách tự diễn đạt bằng ngôn ngữ và thế giới quan của thời trung cổ, để rồi uyển chuyển bước từng bước theo ông Copernicus và những khám phá khoa học.

Thế giới quan của Phật giáo Tây phương đương đại là tổng hợp của khoa học, tâm lý học và triết học hiện nay. Có thể điều này là một trong những lý do giải thích được sức thu hút của Phật giáo trong thời đại của thế tục hóa (secularisatie) ngày nay.

Nghiệp (Karma)

Trọng tâm của tuệ giác Phật giáo được gói trọn trong bốn sự thực mầu nhiệm:

. Xác nhận [sự có mặt] của khổ đau
. Nguyên nhân của khổ đau nằm trong sự ràng buộc (behoeftigheid)
. Có khả năng (mogelijkheid) để giải thoát
. Con đường của tuệ giác, giới luật và thiền định sẽ đưa tới giải thoát.

Những sự thực này không phải là những giáo điều (dogma). Tin hay không tin chẳng quan trọng gì. Bốn sự thực này (trong kinh sách ghi là “Tứ diệu đế”) phải được xem như những giả định có thể chứng minh được.

Tứ diệu đế còn bao hàm 2 điều:

. Có một quan hệ nhân quả (oorzakelijke verband) giữa cách hành xử của chúng ta và hậu quả do chúng mang lại,
. Sự nghiêm túc (intentie) và khéo léo (vaardigheid) khi hành xử là điều thiết yếu.

Ðây là quan điểm của Phật giáo về nghiệp (karma). Nghiệp có thực nghĩa là “tác động” (werking). Danh từ này vẫn thường được dịch là lý nhân quả (causaliteit). Nhưng ở đây nghiệp không có dính dáng gì đến luật nhân quả của vật lý học mà là hệ quả đạo đức trong cách hành xử của chúng ta. Ý niệm về trách nhiệm (verantwoordelijkheid) mà chúng ta thường nhắc đến khá sát với ý niệm này.

Câu chuyện về Angulimala trong kinh điển Pali đã minh họa một cách hùng hồn cho ý niệm về luân hồi của Phật giáo. Angulimala là một kẻ sát nhân khét tiếng. Tên của ông được lấy từ sự kiện ông đeo trên cổ một xâu chuỗi kết bằng những ngón trỏ tay phải của các nạn nhân mà ông đã giết hại (Anguli có nghĩa là ngón tay và mala là xâu chuỗi). Quân lính của triều đình lùng bắt ông, còn dân chúng thì hoảng sợ không dám ra khỏi nhà. Khi ông bắt gặp Phật đang đi khất thực trên đường, ông tiến lại gần, hươi gươm lên và bảo: “Ông thầy tu kia, dừng lại”. Phật nhìn ông và trả lời bình thản: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi. Bao giờ thì ông dừng lại?”. Thái độ và câu trả lời của Phật đã làm cho Angulimala kinh ngạc và đột nhiên hối hận. Phật liền làm lễ thế phát cho Angilimala trở thành một tu sĩ ngay tại chỗ. Từ đó về sau, Angulimala [pháp danh mới là Ahimsaka] đã tu tập rất tinh tấn, trở thành một trong những đại đệ tử của Phật và đạt được giác ngộ sau đó.

Câu chuyện này như một gáo nước lạnh tạt vào thế giới quan truyền thống của Ấn Ðộ. Một kẻ sát nhân hàng loạt như Angulimala bình thường sẽ phải trải qua không biết bao nhiêu kiếp luân hồi trong địa ngục mới mong trả cho xong nợ nghiệp chướng và mới mong có được một cơ hội mới để đầu thai. Sự kiện ông đã đạt được đạo giải thoát ngay trong kiếp sống hiện tại là một điều hoàn toàn không thể hiểu được.

Chúng ta hãy thử quay về với ta, bây giờ và ở đây. Hãy quán chiếu đời sống của bạn lúc này. Vì đâu mà cuộc đời bạn [trở nên] như thế. Ðó là một chuỗi kết hợp phức tạp của những quan hệ nhân quả. Một số yếu tố là kết quả từ những quyết định và hành xử của chính bạn. Bạn phải chịu trách nhiệm về những điều này. Nhưng còn một phần lớn những quan hệ nhân quả khác, theo như bạn thấy, không phải do bạn tạo tác ra. Dù [tình trạng] hiện tại được diễn biến theo những chọn lựa cá nhân hay không, nó vẫn là [tình trạng] duy nhất mà bạn hiện đang có. Trong giây phút tới, tình trạng sẽ chuyển biến ra sao tùy thuộc một phần do những quyết định bạn làm vào lúc này. Trách nhiệm duy nhất thực sự của chúng ta nằm ngay trong lúc này, tại đây; vì bây giờ và ở đây là [cơ hội] duy nhất mà chúng ta có để hành xử.

Trong tứ diệu đế, vấn đề hạnh phúc (geluk) hay không hạnh phúc (ongeluk) không dính dáng đến câu hỏi bạn có được hài lòng hay không trong lúc này, mà là bạn đã ứng xử như thế nào trong giờ phút hiện tại. Một ví dụ nổi bật là câu chuyện của Fleet Maul khi anh bị tòa tuyên một án rất nặng so với tội [buôn bán] ma túy. Ở trong tù, anh đã tổ chức chăm sóc xoa dịu cho những bạn tù đang hấp hối. Nhiều người tuy bị xem là phạm tội nhưng vẫn cảm thấy mình vô tội. Chúng ta có thể kể ra rất nhiều yếu tố luôn luôn nằm ngoài trách nhiệm của chính chúng ta, chúng góp phần khiến ta đã hành xử như thế. Chẳng hạn như yếu tố giáo dục. Anh Fleet Maul chắc sẽ đau khổ hơn rất nhiều nếu trong suốt thời gian ngồi tù, anh đã liên tục cay đắng và bực tức về bản án nặng nề của mình, về sự tàn ác và bất công mà đời sống dành cho anh. Ngoài thí dụ trên đây – một trường hợp đặc biệt khắc nghiệt – đương nhiên còn vô số những thí dụ khác trong đời thường của những người đã nhận lấy trách nhiệm ngay bây giờ và ở đây cho tình trạng mà họ đang lâm vào.

Ðặc tính của thực tại (werkelijkheid)

Theo Phật giáo, thực tại biểu hiện trước mắt chúng ta có ba đặc tính. Ba đặc tính này không gì khác hơn là ba nhận định đơn giản và hoàn toàn có thể kiểm chứng được. Danh từ Pali được dùng ở đây là dukkha, anicca và anatta, vẫn được dịch là khổ đau, vô thường và vô ngã. Lý do các thuật ngữ Pali còn được dùng ở đây là vì những danh từ này vẫn chưa được dịch một cách chính xác.

Dukkha xưa nay vẫn thường được dịch là khổ đau. Những phiên dịch khác là stress, thất vọng… Dukkha không phải chỉ là khổ đau bình thường. Ở đây, đó là sự kiện thực tại không bao giờ làm chúng ta hoàn toàn thỏa mãn. Không bao giờ những nhu cầu của chúng ta đạt được một sự thỏa mãn căn bản (fundamentele bevrediging). Bạn vui được bao lâu sau khi nhận được một món quà? Bao nhiêu lần bạn đã từng nghĩ: “Nếu mà được cái đó mình sẽ bằng lòng…”. Và sau đó không bao lâu bạn lại ao ước những điều khác nữa? Bạn hãy nhìn chung quanh. Rồi nhìn lại chính mình. Thật là một chuỗi bất tận.

Dukkha là đặc tính của thực tại và như thế không là một sự kiện khách quan thuần túy. Ý tưởng có được một [khả năng] diễn đạt thực tại một cách khách quan, một thực tại [tồn tại] độc lập với chủ thể quan sát là một phát kiến độc đáo của Tây phương, điều này cuối cùng đã làm nảy sinh ra khoa học. Còn các phát biểu trong Phật giáo nói tới mọi liên hệ của chúng ta với thực tại. Chẳng hạn như khi cho rằng tất cả chỉ là ảo tưởng, điều đó không nói chút gì về tự thân của thực tại (werkelijkheid an sich), mà chỉ có nghĩa là chúng ta làm tất cả hóa ra ảo tưởng đối với chúng ta. Ðiều được bàn tới ở đây là những hiện tượng trình hiện trước mắt chúng ta. Sự đào sâu một cách có hệ thống trong cách tiếp cận với thực tại này trong Phật giáo đã cống hiến cho chúng ta một nền tâm lý học phong phú và đa dạng.

Anicca có nghĩa là tàn hoại (vergankelijkheid), vô thường (impermanentie). Ðiều này có thể dễ dàng được kiểm chứng. Tất cả có đó rồi mất đó. Ngay thực tại khách quan cũng thế. Tất cả đều đang chuyển động trong một dòng chảy liên tục. Ðiều này cũng đúng trong trường hợp của các cảm thọ và nhận thức của chúng ta. Niềm vui chất ngất rất đẹp nhưng không kéo dài mãi. Nỗi buồn quay quắt, may mắn thay, cũng thế. Chính nhờ sự liên tục thay đổi của tất cả mọi vật mà sự sống mới có thể có mặt. Một tình trạng bất biến liên tục chỉ có thể đồng nghĩa với sự chết. Tuy sự thực này đơn giản và rõ ràng như vậy, nhưng chúng ta vẫn không dễ dàng chấp nhận. Dù cho ta có được gì đi chăng nữa, ngày nào đó chúng ta cũng sẽ đánh mất nó. Có là ai đi nữa, một ngày kia chúng ta cũng không còn đó. Dù có gắn bó với ai đến đâu, một ngày kia chúng ta cũng phải chịu chia lìa. Chúng ta biết thế nhưng chúng ta cứ làm như không biết. Chúng ta sống như thể không có chuyện gì xảy ra cho đến khi chạm trán với thực tế thì chúng ta mới giật mình hoảng hốt, cuống cuồng lên.

Anatta có nghĩa đen là không có tự thân, vô ngã. Ðiều đó muốn nói rằng tất cả sự vật khi biểu hiện trước mắt chúng ta, chúng không có tự tính riêng biệt (eigen essentie).

Dưới đây là một thí dụ của nhà vật lý học Tây phương D. R. Hofstadter. Hãy nhìn một tờ nhật trình. Tờ nhật trình là gì? Có phải đó là tờ báo sáng nay nằm trong thùng thư không? Nếu bạn nói đã đọc được tin gì đó trên báo, không nhất thiết có nghĩa là tin đó đã được đăng trên tờ báo sáng nay. Rồi tờ báo sáng nay đó có còn là tờ báo của ngày mai không, nếu tối nay bạn dùng nó để châm lò sưởi? Hay có thể tờ nhật trình là một phần của bản hợp đồng mua báo hàng tháng? Rồi chúng ta phải gọi người làm việc cho tờ báo như thế nào? Ví dụ này cho tới đây vẫn mới chỉ là vấn đề ngôn từ (taalkundig). Trong mọi trường hợp, “tờ báo” không chỉ một cái gì đó nhất định. Cứ thử lấy ví dụ tờ báo sáng nay. Cái gì là tự tính của tờ báo? Tờ báo là một thứ tổng hợp của giấy, mực, thông tin, của người viết bài và người đọc, người đưa thư, thùng thư và bàn ăn sáng… Tất cả làm cho tờ báo trở thành tờ báo. Càng cố gắng đào sâu, bạn càng nhận thức rõ ra rằng không sao tìm ra được một tự tính nào tạo ra tờ báo. Tờ báo tự nó không có một cái ngã riêng biệt (eigen zelf).

Cũng vậy trong sự suy luận cho câu hỏi “ta là ai”? Tờ báo không có cái ngã riêng đã đành. Nhưng nếu như ta đây mà cũng không có hoặc không phải là ta…? Sự thực này cũng đơn giản rõ ràng như sự thực về khổ đau và vô thường. Một số nhân sinh quan đã gặp rất nhiều khó khăn với nhận định này nên đã bịa đặt ra những cái ngã vô thường hoặc thường hằng, linh hồn hoặc tự tính. Nhưng những tạo tác này không bao giờ có thể được minh chứng và được quy nạp qua suy luận biện chứng. Phật giáo bác bỏ các cách giải quyết giả tạo này. Phật giáo chấp nhận rằng con người không có một cái ngã riêng biệt, cho dù nhận thức này có làm cho một số người hoang mang, có cảm giác mình bị sỉ nhục. Ý tưởng có một linh hồn bất tử không gì khác hơn là một tưởng tượng không thể kiểm chứng được.

Con đường ở giữa (trung đạo)

Phật giáo tự nhận mình là một trung đạo. Trên mặt thực hành, điều này có nghĩa là Phật giáo nằm giữa khổ hạnh và dục lạc. Về mặt triết lý, đó là con đường đi giữa chủ nghĩa tuyệt đối và chủ nghĩa hư vô.

Ví dụ về tờ báo cho thấy, càng đào sâu, chúng ta càng không tìm ra cái có thể được gọi là tờ báo. Không có gì là một đặc tính rõ rệt (eenduidige identiteit) cho “tờ báo”. Nhưng cũng thật vô lý nếu nói tờ báo, người đọc và người hàng xóm không thực sự có mặt. Chủ nghĩa hư vô vì thế cũng không đúng. Sự phân tích về thực tại này không ngăn chận việc tôi đọc tờ báo mỗi buổi sáng và sau đó chuyển cho người hàng xóm đọc. Trong Phật giáo, điều này được gọi là thực tại tương đối (relatieve) hay thực tại ước lệ (conventionele). Ngôn ngữ, cũng là một thứ ước lệ, là một công cụ hữu dụng của thực tại ước lệ đó.

Việc nhầm lẫn thực tại ước lệ với thực tại tuyệt đối là nguyên nhân của nhiều đau khổ. Ðã bao lần chúng ta bám vào một cái gì đó, mà cái đó không giúp chúng ta được một mảy may? Ðã có bao nhiêu người đã ngã xuống cho hàng loạt ý kiến và ý thức hệ [được mệnh danh là] chính thống (fundamentalismes)?

Thực tại ước lệ là một phần của chiếc mề-đai. Mặt kia của thực tại là một thực tại thoát ra khỏi ràng buộc của tất cả ước lệ, tất cả ý niệm, tất cả huyễn giác. Ðương nhiên đó cũng cùng một thực tại [như thực tại ước lệ], nhưng được nhìn bằng cặp mắt khác. Phật giáo gọi đó là thực tại tối hậu (uiteindelijke) hoặc là thực tại tuyệt đối (absolute).

Trong Phật giáo, tuệ giác về thực tại tột cùng này được đánh giá là tuệ giác cao nhất. Ðiều này đương nhiên dễ gây ra ngộ nhận. Nếu ai đó đem một từ ngữ như thực tại tuyệt đối ra sử dụng, kẻ đó sẽ tạo ra vô số những tưởng tượng lãng mạn hay thần bí có thể nghĩ bàn (denkbaar), những điều mà, trên thực chất, không dính dấp gì đến [thực tại tối hậu]. Thực tại tối hậu chính là việc bỏ lại phía sau những tưởng tượng cuồng loạn.

Ðiều này không có nghĩa là ta không thể nói điều gì về thực tại tối hậu. Thực tại rốt ráo này là một tầm nhìn (perspectief) về thực tại, khác biệt với tầm nhìn ước lệ về thực tại, nhưng cũng không phủ nhận tính hiệu lực (validiteit) của tầm nhìn ước lệ. Mỗi kinh nghiệm, dù là kinh nghiệm về nếm thử rượu hay về thực tại tột cùng, đều có thể bàn thảo được. Nhưng điều được nói ra không bao giờ có thể thay cho kinh nghiệm, tựa như ngón tay chỉ mặt trăng, sẽ không bao giờ có thể trở thành mặt trăng.

Sự tan biến ảo giác to lớn (grote desillusie)

Tuệ giác Phật giáo là một tiến trình tan biến càng lúc càng tăng (toenemende) của ảo giác. Sự tan biến ảo giác này không đưa đến tiêu cực chủ nghĩa (negativisme) hoặc hư vô chủ nghĩa (nihilisme) mà được trải nghiệm một cách tích cực như sự giải thoát khỏi ảo giác. Thực tại lúc đó sẽ được biểu hiện ra tròn đầy, rộng mở (toegankelijk) và có thể cảm nhận được (leefbaar).

Ðiều này đặt ra cho Phật giáo một vấn đề giáo khoa (didactisch). Với lý thuyết thuần túy chúng ta không thể đi xa. Chúng ta đã nói tới một tầm nhìn về thực tại. Ðiều này chỉ có thể thể nghiệm được khi chúng ta thực sự đứng vào vị thế của phối cảnh đó [để nhìn về thực tại]. Ðiều này lại đưa chúng ta trở về khởi điểm của bài viết này. Tuệ giác triết học tự nó (op zich) không có ý nghĩa gì đối với Phật giáo. Tuệ giác chỉ thực sự có ý nghĩa khi được thực tập trên con đường của trì giới, thiền định và tuệ giác.

Theo PHẬT TỬ VIỆT NAM
0

Tổng kho Long Bình: Những bí ẩn chưa được giải đáp

(10/04/2020)- Tổng kho Long Bình được canh phòng cẩn mật và giữ bí mật ở mức độ cao. Phải chăng vì vậy, cho đến nay – dù đã “đổi chủ” hơn 40 năm song vẫn còn nhiều bí ẩn chưa có lời giải?


Những con số khiến thiên hạ phải giật mình

Sau khi thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” và đưa quân đội vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam, lượng vũ khí và quân trang quân dụng để bảo đảm cho đội quân này tăng lên theo cấp số nhân và càng ngày càng lớn.

Theo các tài liệu thống kê để lại cho biết: Lượng đạn dược được chuyển đến Việt Nam trung bình khoảng 40.000 tấn/tháng trong năm 1966, một năm sau số lượng đã tăng lên gần gấp đôi đạt 75.000 tấn/tháng vào năm 1967.

Đầu năm 1968 số lượng vận chuyển đã tăng lên đến 90.000 tấn/tháng, đến giữa năm 1968 số lượng đã vượt quá 100.000 tấn/tháng.

Đấy mới chỉ là khối lượng đạn dược. Còn để phục vụ đầy đủ cho một đội quân nhà nghề “được trang bị tới tận răng” như quân đội Mỹ thì còn biết bao nhiêu thứ quân trang, quân dụng khác.

Từ các phương tiện chiến tranh như máy bay, xe tăng, pháo cối… cùng với khí tài vật tư dự trữ phục vụ sửa chữa, bảo dưỡng trang bị cho đến lương thực thực phẩm, quân trang quân dụng, đồ dùng sinh hoạt… của mỗi người lính còn cao gấp nhiều lần con số đó.

Trong khi đó, theo yêu cầu của Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ tại Nam Việt Nam thì số lượng vật chất dự trữ phải đảm bảo đủ cho quân đội sử dụng ít nhất là 6 tháng.

Và đó chính là lý do bức bách mà Mỹ phải tiến hành xây dựng Tổng kho dự trữ chiến lược tại Long Bình – một địa điểm vừa thuận lợi cho quá trình tiếp nhận hàng hóa, đồng thời cũng có thể nhanh chóng tiếp tế cho cả 4 vùng chiến thuật và Biệt khu Thủ Đô.

Với quy mô như vậy, Tổng kho Long Bình được xây dựng trên diện tích khoảng 24 km2 với hàng chục phân kho. Mỗi phân kho bao gồm hàng chục dãy nhà kho cả nổi cả chìm tùy theo loại hàng hóa mà nó chứa trong đó.

Các nhà kho nổi thường được làm bằng nhà thép tiền chế khẩu độ rộng với chiều dài từ vài chục đến hàng trăm mét. Còn các kho chìm dùng để chứa bom đạn, hóa chất… thì thường có mái vòm bằng tôn dày, sau đó đổ đất lên trên.

Xung quanh các nhà kho thường có lũy đất hoặc thùng phuy sắt đổ đất xếp chồng lên nhau bảo vệ. Một số hàng hóa cồng kềnh, nặng nề như máy bay trực thăng, xe tăng, xe thiết giáp – nhất là số cũ hỏng đem về đổi và sửa chữa thì để ở ngoài trời…

Để ra vào tổng kho (TK) có 12 cổng mở theo nhiều hướng khác nhau với hệ thống đường sá rất hiện đại. Hàng ngày có hàng ngàn chuyến xe trọng tải lớn ra vào song không bao giờ có hiện tượng ùn tắc xảy ra.

Với khối lượng hàng hóa tàng trữ trong kho lên đến hàng chục triệu tấn, TK Long Bình trở thành kho dự trữ chiến lược lớn nhất ngoài nước Mỹ của quân đội Hoa Kỳ và được quản lý bằng máy tính IBM 360/50- một trong những hệ thống máy tính hiện đại nhất thời đó.

Do tính chất quan trọng như vậy, TK Long Bình được bảo vệ hết sức cẩn mật và nghiêm ngặt. Xung quanh TK có hàng rào dây thép gai từ 7 đến 12 lớp; giữa các hàng rào dây thép gai đều bố trí mìn nhiều loại. Phía trong và ngoài hàng rào đều bị phát quang.

Phía trong hàng rào có đường dành cho xe tuần tra. Dọc đường tuần tra, cứ vài trăm mét lại có một tháp canh, trên đó được trang bị đèn pha cực mạnh để chiếu sáng ban đêm. Giữa các phân kho cũng có hàng rào dây thép gai.

Toàn bộ phần bên trong kho gần như không có cây xanh lớn, chỉ có loại cỏ Mỹ mà lá sắc như dao. Đảm nhiệm công tác bảo vệ kho thường xuyên là 2000 sĩ quan, binh lính.

Ngoài ra, còn một số đơn vị chiến đấu cũng có doanh trại trong khuôn viên kho nhưng được ngăn cách đặc biệt với kho hàng.

Có điều không hiểu sao trong khi các nhà kho xây dựng rất vững chắc, lâu bền thì nhà ở của sĩ quan, binh lính và nhân viên trong kho lại khá đơn giản và có vẻ ngắn hạn. Đó thường là loại nhà làm bằng gỗ xẻ lợp tôn.

Các thanh gỗ kích thước 15 x 6 cm được lắp ghép thành khung nhà (chỗ nào là cột thì ghép 2-3 thanh bằng đinh rồi bắt bu- lông xuống nền bê tông), mặt trong vách dùng gỗ dán, mặt ngoài gỗ xẻ “lợp” như vẩy cá.

Giữa hai lớp là chất chống nóng khá giống mùn cưa. Sàn cũng bằng gỗ xẻ và trải một lớp nhựa mỏng. Nhà ở của sĩ quan thường là nhà 2 tầng, phòng có máy điều hòa nhiệt độ; còn binh sĩ và nhân viên thì ở nhà 1 tầng, khu vệ sinh chung.

Mặc dù được bảo vệ như vậy song TK Long Bình cũng đã bị đặc công Quân giải phóng (QGP) “hỏi thăm” nhiều lần và cũng tổn thất đáng kể. Một số trận đánh tiêu biểu như:

Trận đánh ngày 23.6.1966, phá hủy 40.000 viên đạn pháo.

Đêm 03.02.1967, làm nổ tung 40 dãy nhà kho, phá hủy 800.000 viên đạn pháo.

Ngày 13.8.1972, phá hủy 17 dãy nhà, thiêu hủy 15.000 tấn bom đạn, xăng dầu, diệt 300 địch.

Ngày 14.12.1972, phá hủy gần 200 xe quân sự.

Từ khi thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, quân đội Mỹ giảm dần sự hiện diện tại chiến trường miền Nam. Cho đến khi Hiệp định Pa- ri được ký kết, quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam thì TK Long Bình cũng từng bước được bàn giao cho quân lực Việt nam Cộng Hòa (VNCH).

Khi về tay VNCH, lượng hàng hóa trong kho vẫn còn tương đối phong phú nên quân lực VNCH vẫn khá dồi dào về nhiên liệu, đạn dược.

Các tài liệu lưu trữ cho thấy: Tháng 2.1973, quân lực VNCH đã sử dụng 78.000 tấn bom đạn – nghĩa là gần bằng những tháng cao điểm khi còn quân Mỹ. Trong cả năm 1973, VNCH sử dụng 326.000 tấn bom đạn, nhiều nhất từ trước đến lúc ấy.

Tuy nhiên, của kho không vô tận. Cùng với lượng viện trợ của chính phủ Mỹ giảm dần từ 1,4 tỷ USD/ năm xuống 700 triệu, rồi 300 triệu USD/ năm, lượng hàng hóa viện trợ cũng giảm sút nhanh chóng.

Theo hồi ký của TS Nguyễn Bá Cẩn, một trợ lý thân cận của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì từ năm 1973 trở đi, lượng hàng hóa, vật tư dự trữ trong TK Long Bình chỉ đủ đảm bảo cho quân đội 3 tháng thay vì 6 tháng như trước đây.

Mùa Xuân năm 1975, sau những thất bại liên tiếp tại địa bàn Quân khu I và II, ông Thiệu chủ trương “trì hoãn chiến” cố giữ lấy quân khu IV và vùng đất còn lại để tìm một giải pháp chính trị nên đã ra lệnh cho quân đội phân tán TK Long Bình về địa bàn Quân khu IV (Miền Tây Nam Bộ).

Tuy nhiên, công việc này được triển khai chậm và thiếu tính tổ chức nên không mấy hiệu quả và thất thoát nhiều.

Hãy nghe một sĩ quan VNCH thuộc Quân đoàn 4 hồi tưởng:

“Ngày 28.4.1975- Ban chỉ huy Trung đoàn đóng tại Trường Trung học Cần Giuộc. Phía trước là đồng ruộng, sau mùa gặt nên đất đã khô và trơ những gốc rạ.

TK Long Bình có lệnh phân tán quân trang quân dụng nên đã đưa xuống đây cả mấy chục chiếc GMC và xe JEEP các loại kèm theo một lệnh miệng: Mỗi xe chỉ có đầy bình xăng, sử dụng chiếc nào đến hết xăng là bỏ luôn.

Vừa xe, vừa gạo và quân trang chất thành những đống cao giữa trời, trên những đám ruộng khô”.

Trước tình hình ấy, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, một phân đội đặc công của QGP Miền (B2) được giao nhiệm vụ tiến công TK Long Bình và họ đã hoàn thành nhiệm vụ mà không gặp mấy khó khăn. Từ đó, TK Long Bình thuộc quyền kiểm soát của QGP miền Nam Việt Nam.

Những tin đồn “vô tiền khoáng hậu”

Do quy mô lớn, lượng hàng hóa phong phú lại được bảo vệ hết sức cẩn mật nên ngay từ khi mới đưa vào sử dụng, TK Long Bình đã được bao bọc trong màn khói vô cùng bí hiểm và gây sự chú ý đặc biệt đối với dân chúng xung quanh nói riêng cũng như cả miền Nam nói chung.

Người ta thì thầm rỉ tai nhau: “TK Long Bình không thiếu một thứ gì, kể cả những loại vũ khí tối tân nhất!”. Rồi họ ngó trước, ngó sau và tranh luận với nhau xem trong đó có “bom nguyên tử hay không?”.

Lại có người viện dẫn lời của những người quen biết làm “ở trỏng” mà khẳng định chắc nịch: “Trong đó có 2 “mũi tên gẫy” là loại vũ khí tối tân nhất của Mỹ, có sức hủy diệt ngang với bom nguyên tử và vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu”.

Người ta còn mắt trước mắt sau rồi thì thầm vào tai nhau: “Ngoài những nhà kho trên mặt đất thì TK Long Bình còn một hệ thống hầm ngầm lớn hơn rất nhiều (có người còn khẳng định rộng đến 300 km2).

Các kho ngầm này có nhiều lớp cửa, khóa cửa có mã khóa bí mật. Nếu mở không đúng sẽ tự hủy và vụ nổ này có thể sẽ tàn phá một nửa thành phố Sài Gòn và toàn bộ thành phố Biên Hòa”.

Thật sự đó là những thông tin hết sức hấp dẫn đối với trí tò mò của mọi người và nó cứ thế lan truyền!

Trong khi đó, ngay sau 30/4/1975 TK Long Bình được sử dụng làm nơi đóng quân của hầu hết các đơn vị binh chủng kỹ thuật của Binh đoàn Hương Giang như Lữ đoàn xe tăng 203, các Lữ đoàn Pháo binh, Công Binh và Phòng Không….

Tuy nhiên, các đơn vị này cũng chỉ sử dụng phần doanh trại của các đơn vị quân đội và nhà ở của sĩ quan, binh sĩ, nhân viên tổng kho và không đụng chạm gì đến các phân kho.

Trong thời gian đầu – khi mà công tác bảo vệ kho chưa vào quy củ chặt chẽ thì “lính tráng” các đơn vị cũng giành nhiều thời gian khám phá xung quanh và họ chỉ biết trầm trồ trước sự phong phú, dồi dào của hàng hóa, vật tư chứa chất ở nơi đây.

Riêng về xe quân sự – kể cả tăng thiết giáp và ô tô- đã lên đến gần 1.000 chiếc. Tất nhiên, họ cũng thu một số “chiến lợi phẩm” song chủ yếu là đồ ăn, thức uống cùng một số vật tư phục vụ cho việc bảo quản, bảo dưỡng trang bị mà thôi.

Còn các đơn vị cũng tranh thủ tăng cường vào biên chế của mình một số loại phương tiện vận tải thích hợp.

Một thời gian ngắn sau đó, TK Long Bình được giao cho Tổng cục Kỹ thuật quản lý. Từ đó, công tác bảo vệ và bảo quản được tiến hành chặt chẽ hơn rất nhiều nên hầu hết vật tư, hàng hóa trong TK vẫn còn nguyên vẹn.

Song song với việc đó, một đoàn cán bộ kỹ thuật của QĐND Việt Nam từ Hà Nội vào đã nhanh chóng tiếp quản và khai thác thành công hệ thống máy tính IBM360/50- trong đó có dữ liệu quản lý kho của quân lực VNCH.

Sau khi khai thác thành công – khoảng 1 tháng sau ngày tiếp quản, đoàn công tác đã cung cấp cho Tổng cục Kỹ thuật danh mục toàn bộ hàng còn tồn trong các kho, trong đó kho lớn nhất là Tổng kho Long Bình.

Đây là một thành công lớn trong công tác tiếp quản Tổng kho của QĐND Việt Nam.

Với dữ liệu đầy đủ và lực lượng được tăng cường, công tác quản lý và bảo quản hàng hóa, vật tư trong TK Long Bình đã càng ngày càng đi vào nề nếp, đảm bảo quy trình nghiêm ngặt đối với những chủng loại hàng hóa khác nhau.

Các loại hàng hóa, vật tư phù hợp đã được huy động phục vụ cho việc sửa chữa trang bị vũ khí. Đặc biệt là phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.

Một số phế liệu hoặc vật tư lưỡng dụng có thời hạn cũng được thanh lý để dùng vào mục đích dân dụng như lốp xe cũ, nhựa đường…

Thời kỳ đổi mới, một phần diện tích của TK Long Bình cũ đã được sử dụng cho mục đích khác như xây dựng khu công nghiệp, doanh trại quân đội, nhà ở cho cán bộ- nhân viên…

Tuy nhiên, phần lớn diện tích vẫn tiếp tục được sử dụng làm kho của Quân đội, vẫn được bảo vệ nghiêm ngặt và vẫn có phần kỳ bí như xưa.

Trong điều kiện đó, những tin đồn xung quanh cái Tổng kho bí ẩn vẫn tiếp tục được lan truyền rộng rãi, nhất là khi có một sự kiện nào đó như cháy, nổ xảy ra quanh khu vực đó.

Nào là: “Việt nam đã nhờ cả Liên Xô mở khóa các kho ngầm, một số chuyên gia đã bị hy sinh song vẫn không thành công!”.

Nào là: “Sau khi quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ được bình thường hóa, phía Mỹ đã đề nghị Việt Nam cho họ mở khóa với điều kiện sẽ “cưa đôi” những thứ trong đó- riêng 2 “mũi tên gẫy” phải trả về cho họ. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà phía Việt Nam không đồng ý”… v.v… và v.v…

Những tin đồn về TK long Bình không chỉ tồn tại trong nước mà cả ở nước ngoài- nhất là ở Mỹ. Thậm chí một tờ báo Mỹ còn đưa tin:

“Năm 2001, Mỹ từng cử 1 đội biệt kích thuộc quân đoàn Gost Recon và Skull tham gia chiến dịch thu hồi 2 “mũi tên gãy” ở VN nhưng nhiệm vụ thất bại. Toàn bộ 12 binh sĩ Mỹ hi sinh tại Long Bình do bị phát hiện. Tất cả thi thể 12 binh sỹ đều bị tiêu huỷ hoàn toàn”.

Không loại trừ sẽ còn nhiều lời đồn đoán “vô tiền, khoáng hậu” nữa về bí ẩn Tổng kho Long Bình tùy theo trí tưởng tượng của tác giả. Thôi thì ai tin cứ tin! Còn Tổng kho Long Bình thì vẫn thế mà thôi!

Theo THẾ GIỚI TRẺ
0

Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2020

Khủng hoảng Covid-19 : Trung Quốc "trục lợi" hay châu Âu bất lực ?


(05/04/2020)- Dịch bệnh viêm phổi cấp do virus corona chủng mới, bùng phát từ Vũ Hán, Trung Quốc cách nay ba tháng và đang tiếp tục lan rộng trên toàn cầu. Cuộc khủng hoảng dịch tễ này đã làm lộ rõ những yếu kém của một châu Âu già cỗi, thiếu một tầm nhìn, một chiến lược chung trên bình diện y tế cũng như là những lổ hỗng của hệ thống y tế Mỹ, siêu cường hàng đầu thế giới.

Nghe:


Một châu Âu « già nua » thụ động

Hơn một triệu người bị nhiễm bệnh, khoảng 50 ngàn người chết, gần một nửa dân số thế giới phải « tự giam mình » ở nhà, dịch Covid-19, xuất phát từ Vũ Hán, Trung Quốc từ cuối năm 2019 đang khuynh đảo cả thế giới. Nếu như Trung Quốc giờ đây đang dần thoát ra khỏi trận dịch, thì các đại cường khác từ châu Âu đến Mỹ vẫn đang phải lao đao đối phó.

Thế nhưng, cuộc chiến dịch tễ này còn mang dáng dấp của một cuộc đọ sức giữa hai mô hình xã hội : Độc tài và Dân chủ. Giờ đây có một câu hỏi đang dấy lên : Phải chăng Trung Quốc khi thoát ra khỏi dịch bệnh còn hùng mạnh hơn và đang thắng cuộc chiến toàn cầu chống virus corona, ít nhất là trên bình diện thông tin ?

Quả thật, Trung Quốc dường như đang dập tắt được dịch bệnh trong nước nhờ vào những biện pháp nghiêm ngặt. Những biện pháp lúc ban đầu bị chỉ trích là chỉ có một chế độ toàn trị mới có thể đưa ra những quy định khắt khe đến như thế, để rồi sau đó, được sao chép lại bằng cách này hay cách khác tại các nước được cho là « dân chủ ».

Và nhất là hình ảnh một Trung Quốc « cứu nhân độ thế » được tuyên truyền rầm rộ : Đến hỗ trợ nước Ý, gởi hàng cứu trợ đến châu Phi và nhiều nước khác trên thế giới… Con đường tơ lụa kinh tế - thương mại của Trung Quốc giờ còn là con đường tơ lụa y tế.

« Tiên trách kỷ, hậu trách nhân »

Phương Tây chỉ trích đó là chuyện tuyên truyền, Trung Quốc đến chỉ để bảo vệ lợi ích của mình chứ chẳng phải đến cứu giúp người dân. Nhưng dịch bệnh nổ ra cho thấy rõ sự thiếu khả năng chuẩn bị đề phòng của châu lục già từ nhân sự, trang thiết bị cho đến cả về mặt chiến lược. Ông Pascal Boniface, chuyên gia địa chính trị, Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (IRIS), có quan điểm cho rằng châu Âu trước hết phải tự trách mình :

« Đương nhiên là Trung Quốc bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Ai có thể phê phán Trung Quốc ? Nước nào cũng làm điều đó, châu Âu cũng vậy. Còn nếu châu Âu không làm, thì chỉ nên tự trách lấy mình và đừng chỉ trích Trung Quốc đã làm như thế. Quả thật khi Trung Quốc đến hỗ trợ các nước khác, cũng là lúc nước này tự giúp mình, bởi vì Trung Quốc cần các nước khác tái khởi động nền kinh tế của họ do Trung Quốc cũng phụ thuộc vào thị trường bên ngoài. Thế nên, thay vì chỉ tập trung vào chỉ trích những điều mà tôi cho là vô bổ hay là về hệ tư tưởng của Trung Quốc, phương Tây nên nhìn thẳng vào sự việc. »

Thế giới đang đứng trước một bước ngoặt mới. Trong cuộc đại chiến giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, kéo dài từ bao lâu nay, chẳng phải Bắc Kinh đang thắng là nhờ vào Hoa Kỳ hay sao ? Chuyên gia Pascal Boniface giải thích tiếp :

« Đó cũng có thể là do chính sách thảm hại của ông Donald Trump đối với đại dịch virus corona kể cả ở trong nước, từ lâu cự tuyệt nhìn nhận sự việc, giờ đang bị chỉ trích ở trong nước và điều này có thể khiến ông trả giá đắt cho cuộc bầu cử tổng thống tháng 11/2020. Donald Trump điều hành siêu cường hàng đầu thế giới, vậy đâu rồi vai trò lãnh đạo hàng đầu của ông ? ».

Donald Trump được xem như là lãnh đạo thế giới phương Tây, thiếu trách nhiệm là một chuyện, nhưng còn châu Âu thì sao ? Vẫn theo ông Pascal Boniface, Trung Quốc « ghi bàn » đó cũng là vì sự thụ động, trì trệ, và nhất là thái độ « ỷ lại » của châu Âu vào Mỹ.

« Bởi vì nếu Trung Quốc đang thắng đó chẳng phải là do châu Âu tự phó mặc điều đó cho Trung Quốc ? Tại sao châu Âu không thúc đẩy việc cùng suy nghĩ một sự tự chủ về chiến lược cho chính mình kể cả trên phương diện truyền thông cũng như là một chính sách y tế ? Nếu không muốn Trung Quốc ghi được nhiều điểm trong cuộc chiến này, nên chăng châu Âu cũng phải phát triển một chính sách độc lập khác biệt với Hoa Kỳ ? »

Cuối cùng, nhà nghiên cứu địa chính trị kêu gọi trước những thách thức thật sự do Trung Quốc đặt ra, thay vì ta thán, phàn nàn rằng đó là một chế độ độc tài… đã đến lúc châu Âu nên xắn lấy tay áo, gánh lấy trách nhiệm và bảo vệ lấy lợi ích của chính mình. Cần phải bảo vệ và vạch ra một chính sách chung mà hiện nay chưa hề có. Bất luận thế nào, châu Âu chớ nên trách Trung Quốc là đang bảo vệ lợi ích của họ, nếu như chính bản thân châu Âu không có khả năng bảo vệ lấy chính mình.

Covid-19 và những lỗ hổng y tế của Mỹ

Tại Mỹ, dịch Covid-19 đã làm cho hơn 6.000 người chết. Tổng thống Mỹ Donald Trump cảnh báo người dân « hai tuần địa ngục » sắp tới, khi dự phóng con số nạn nhân có thể lên từ 100 -240 ngàn người. Hoa Kỳ có nguy cơ trở thành tâm dịch mới của thế giới.

Bất chấp dịch bệnh hoành hành dữ dội trong nước, chủ nhân Nhà Trắng vẫn khước từ ban hành lệnh phong tỏa toàn quốc như nhiều nước châu Âu đang làm. Và tùy theo từng bang, biện pháp phong tỏa được áp dụng một cách khác nhau.

Trả lời các câu hỏi của RFI, cô Sarah Rozenblum, chuyên nghiên cứu về Y tế công và Khoa học chính trị tại đại học Michigan cho rằng khủng hoảng dịch tễ hiện nay cho thấy rõ những khiếm khuyết của hệ thống y tế của Mỹ.

« Điều đó có liên quan đến đặc tính rất phân cấp của hệ thống y tế Mỹ. Ở nước này, các quyết định y tế được đưa ra ở cấp độ bang hay địa phương. Bởi vì, ý tưởng chính là làm sao các quyết định đưa ra phải gần với nhu cầu của dân chúng.

Khi không có các cuộc khủng hoảng có quy mô lớn, điều này có ý nghĩa. Nhưng trong cuộc đại dịch toàn cầu này, cần phải hợp nhất, phối hợp hài hòa đối phó ở cấp độ từng bang mà cả ở quy mô liên bang. Đó chính là những gì tài liệu hướng dẫn chuẩn bị nguy cơ đại dịch đề ra, do chính quyền Obama soạn thảo.

Thế nhưng cách nay vài ngày, chúng tôi được biết là chính quyền Donald Trump đã quyết định cố tình lờ đi tập sách, vốn khuyến nghị chính phủ liên bang nắm giữ một vai trò thống nhất, một vai trò tuyến đầu…

Trong khi chính quyền Donald Trump quyết định chọn thoái lui ra khỏi việc quản lý của khủng hoảng trên bình diện y tế khi ưu tiên cho mảng kinh tế nhiều hơn, Ông ấy đã ủy thác việc xử lý dịch bệnh cho các thống đốc và chính quyền địa phương, vốn dĩ có những phản ứng ít nhiều gì cũng hung hăng hơn, duy ý chí và nhiều khiếm khuyết. »

Liệu rằng cuộc khủng hoảng dịch bệnh hiện nay có thể làm tạo ra một mô hình xã hội mới hay một hệ thống y tế mới tại Mỹ ? Về câu hỏi này, cô Sarah Rozenblum tỏ ra không mấy lạc quan.

« Hiện có 87 triệu người dân Mỹ là không có hoặc có bảo hiểm rất ít. Nghỉ bệnh không được quy định trong luật liên bang và chỉ có 11 bang công nhận quyền này. Chúng ta cũng biết là rất nhiều người dân Mỹ có bảo hiểm y tế qua trung gian người tuyển dụng.

Giờ phải chờ xem liệu cuộc khủng hoảng này có thể làm xuất hiện một trật tự xã hội mới, một mô hình chính trị hay một hệ thống y tế mới hay không. Điều đó có thể lắm nhưng lịch sử nước Mỹ luôn cho thấy là điều này khó có thể thực hiện.

Ví dụ, ngày hôm sau vụ khủng bố 11-9, việc xử lý cuộc khủng hoảng đã không có chút gì là tình liên đới cả, bởi vì những người thuộc lực lượng phản ứng nhanh như bác sĩ, hay lính cứu hỏa khi bắt đầu phát bệnh ung thư, hay các chứng bệnh đường hô hấp sau các chiến dịch cứu hộ phải mất rất nhiều thời gian để có bảo hiểm y tế.

Tại Mỹ, các thảm họa thiên nhiên tệ hại chưa bao giờ dẫn đến những thay đổi triệt để trên bình diện y tế. Hiện nay, tình hình có thể sẽ khác đi do tính chất chưa từng thấy của cuộc khủng hoảng, vốn dĩ chỉ mới bắt đầu. Thế nên, rất khó mà tiên đoán được. »
0

Phim tài liệu : A1 bùn, máu và hoa - Tập 3


Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ, trái lại, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đến cuối năm 1953, sau nhiều thất bại liên tiếp quân Pháp tại Đông Dương lâm vào thế bị động trên chiến trường. Để cứu vãn tình thế ngày 19/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự kiên cố để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công. Trước thách thức của kẻ địch ngày 24/11/1953, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định "Vô luận rồi đây địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta...". Cuối tháng 11/1953 các đơn vị của QĐND Việt Nam được lệnh dồn quân về khu vực lòng chảo Điện Biên để tham gia chiến dịch mang bí danh "Trần Đình", phương châm đánh nhanh, giải quyết nhanh trong đó có những chàng trai của Trung đoàn 174.
0

Phim tài liệu : A1 bùn, máu và hoa - Tập 2


Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ, trái lại, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đến cuối năm 1953, sau nhiều thất bại liên tiếp quân Pháp tại Đông Dương lâm vào thế bị động trên chiến trường. Để cứu vãn tình thế ngày 19/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự kiên cố để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công. Trước thách thức của kẻ địch ngày 24/11/1953, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định "Vô luận rồi đây địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta...". Cuối tháng 11/1953 các đơn vị của QĐND Việt Nam được lệnh dồn quân về khu vực lòng chảo Điện Biên để tham gia chiến dịch mang bí danh "Trần Đình", phương châm đánh nhanh, giải quyết nhanh trong đó có những chàng trai của Trung đoàn 174.
0

Phim tài liệu : A1 bùn, máu và hoa - Tập 1


Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ, trái lại, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đến cuối năm 1953, sau nhiều thất bại liên tiếp quân Pháp tại Đông Dương lâm vào thế bị động trên chiến trường. Để cứu vãn tình thế ngày 19/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự kiên cố để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công. Trước thách thức của kẻ địch ngày 24/11/1953, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định "Vô luận rồi đây địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta...". Cuối tháng 11/1953 các đơn vị của QĐND Việt Nam được lệnh dồn quân về khu vực lòng chảo Điện Biên để tham gia chiến dịch mang bí danh "Trần Đình", phương châm đánh nhanh, giải quyết nhanh trong đó có những chàng trai của Trung đoàn 174.
0

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2019

Chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tổng hợp

Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh trên chiến trường Đông Dương (1945–1979), bắt đầu ngày 1 tháng 11 năm 1955 khi Phái bộ Cố vấn và Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ (MAAG) được thành lập ở miền Nam Việt Nam và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

1. Chiến tranh Việt Nam (tài liệu PDF, Wikipedia)

2. Phim tài liệu của Mỹ: The Vietnam War (Vietsub)

3. Phim tài liệu: Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày

4. Phim tài liệu Việt Nam: Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không
0

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019

Thụy Điển: Một đế quốc hùng mạnh, chỉ vì xâm lược Nga mà mất tất cả

400 năm trước, quốc gia Bắc Âu từng là cường quốc quân sự, thậm chí đạt đến tầm của một đế quốc, nhưng một sai lầm khi xâm lược Nga đã khiến tất cả tan thành mây khói.


Trận Polatava giữa Nga và Thụy Điển năm 1709.


Nhắc tới Thụy Điển ngày nay, ai cũng nghĩ tới đồ nội thất IKEA, những vụ án giết người thế kỷ hay chính sách đối ngoại mang thiên hướng trung lập.

Ít người biết rằng cách đây khoảng 400 năm, Thụy Điển nổi lên là đế chế hùng mạnh, một cường quốc quân sự. Điều mà cho đến bây giờ, Thụy Điển không bao giờ có thể lập lại được.

Từng nổi danh là đế chế hùng mạnh

Thụy Điển nổi lên như một cường quốc châu Âu dưới thời Axel Oxenstierna và vua Gustavus Adolphus – người nổi tiếng là một chỉ huy quân sự đại tài. Thụy Điển ban đầu là một quốc gia nghèo, không có nguồn tài nguyên rộng lớn như Pháp hay Nga ở thời kỳ đó.

Vậy nên Gustavus Adolphus đã phải đề ra các hình thức chiến tranh linh hoạt hơn. Trong thời đại mà quân đội, bao gồm cả nông dân và lính đánh thuê được trả lương nghèo nàn, Adolphus vẫn xây dựng được một đội quân thường trực chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản.

Quân đội Thụy Điển chủ trương lấy chất lượng bù số lượng, đội hình thay đổi linh hoạt trước những kẻ thù đông đảo nhưng chậm chạp hơn. Giai đoạn thế kỷ 17 cũng là lúc các đội quân trên thế giới dần thay đổi từ kiếm và giáo sang súng và pháo.

Adolphus tỏ ra thức thời khi cho sản xuất hàng loạt vũ khí dùng thuốc súng. Hầu hết các loại pháo trong thời đại này đều có ít khả năng cơ động chiến trường, nhưng nhà vua Thụy Điển đã trang bị cho các đơn vị bộ binh của mình những khẩu pháo cơ động, có thể hỗ trợ binh sĩ trong suốt trận đánh.

Trong cuộc chiến tranh 30 năm (1618-1648), quân đội Thụy Điển tiến sâu xuống phía nam, chạm đến cả Prague, thủ đô CH Czech ngày nay và Vienna, thủ đô Áo ở miền trung châu Âu.

Một trong những trận đánh nổi tiếng nhất phải kể đến trận Breitenfeld vào tháng 9/1631. 23.000 quân Thụy Điển và 18.000 quân Saxon gần như quét sạch toàn bộ đội quân Đế quốc La Mã Thần thánh với 35.000 người. Ở trận đánh đó, Adolphus chỉ mất 5.500 quân.

Trong trận Lutzen năm 1632, Adolphus đánh bại đội quân Đế quốc La Mã Thần thánh, nhưng phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Adolphus sơ hở khi đích thân dẫn quân chiến đấu, bị trúng nhiều phát đạn và cuối cùng là một nhát đâm kết liễu mạng sống. Vị vua vĩ đại nhất của Thụy Điển qua đời khi mới 37 tuổi.

Đóng góp không nhỏ của Adolphus ở thời kỳ đầu giúp Thụy Điển giành chiến thắng cuối cùng vào năm 1648, kiểm soát vùng đất rộng lớn bao gồm cả lãnh thổ Đông Đức và Ba Lan, trở thành cường quốc quân sự ở châu Âu và khu vực Baltic.

Tất cả sụp đổ ở Nga

Để có thể duy trì sự cường thịnh của đế chế, năm 1708, vua Thụy Điển khi đó là Charles XII quyết định mở chiến dịch xâm lược Nga. Chiến dịch kết thúc tạo bước ngoặt lớn cho đế chế Thụy Điển, nhưng là theo chiều ngược lại.

Chiến dịch xâm lược Nga nằm trong cuộc chiến phương Bắc kéo dài từ năm 1700-1721, trong đó Thụy Điển đối đầu với một liên minh do đế quốc Nga đứng đầu.

Giống như cha ông, vua Charles XII nổi tiếng là người cai trị thông minh, hoạt bát, được mệnh danh là “Sư tử phương Bắc”. Nhưng đế quốc Nga khi đó cũng không kém cạnh, do Peter Đại đế nắm quyền. Peter Đại đế là người đưa nước Nga sang một trang mới, từ quốc gia rộng lớn nhưng nghèo khó, trở thành cường quốc châu Âu.

Sự nổi lên của Nga đe dọa lãnh thổ do Thụy Điển kiểm soát ở Đông Âu, đặc biệt là khu vực Baltic. Charles XII chủ động tiến quân trước, tiến vào lãnh thổ Nga năm 1708, bắt đầu chiến dịch chinh phạt lớn nhất trong cuộc đời.

40.000 quân Thụy Điển tham gia chiến dịch tuy không phải là quân số lớn, nhưng đều là những binh sĩ tinh nhuệ. Trong trận đánh ở nơi là Estonia ngày nay, 12.000 quân Thụy Điển đánh tan 37.000 quân Nga.

Nga hoàng Peter Đại đế ra lệnh tàn phá một vùng rộng lớn để Quân đội Thụy Điển không thể thu hoạch được gì bất kể họ tiến quân theo hướng nào. Dọc mọi con đường dẫn từ doanh trại Thụy Điển hướng về bắc, đông hoặc tây, quân Nga tạo một vành đai vườn không nhà trống dài gần 200km.

Charles XII tiến quân đến đâu, quân Nga lại dùng chiến thuật du kích, khiến quân Thụy Điển dần dần bị cô lập, không còn nhận được nhu yếu phẩm tiếp tế.

Năm 1709, đến thời tiết cũng quay lưng với vua Thụy Điển, đó là khi châu Âu trải qua đợt rét nhất trong 500 năm. Vùng lãnh thổ rộng lớn của Nga vô hình trung biến thành mồ chôn kẻ thù vì giá rét.

Hơn 2.000 binh sĩ Thụy Điển chết rét chỉ trong một đêm. Đến tháng 6/1709, đội quân chinh phạt của Thụy Điển chỉ còn lại 20.000 người và 34 khẩu pháo.

Trong trận quyết định ở nơi ngày nay là Ukraina, Peter Đại đế đem tới 80.000 quân ra nghênh chiến. Ưu thế quá lớn về số lượng và cả tinh thần chiến đấu đã tạo cơ hội để Peter Đại đế đập tan quân Thụy Điển, gây tổn thất tới 19.000 người.

Nga cũng tổn thất nặng nề, nhưng nhờ ưu thế sân nhà nên có thể dễ dàng củng cố lực lượng, còn Charles XII thì không. Kết cục là Charles XII rời Nga với 543 người còn lại.

Thụy Điển cũng mất luôn lãnh thổ ở Baltic và không bao giờ lấy lại được sức mạnh như xưa. Các nhà sử học sau này đều đồng ý rằng, trận Poltava ở Ukraina năm 1709 đã khiến cho “kỷ nguyên đế quốc” của Thụy Điển kết thúc một cách đột ngột. Những năm cuối đời Charles XII điên cuồng chống Nga và chết ở tuổi 36 trong một chiến dịch vào năm 1718.

3 năm sau, vua mới của Thụy Điển buộc phải ký hòa ước Nystad, đồng ý công nhận các vùng lãnh thổ chiếm được trước đây, nay thuộc về Nga, bao gồm vùng Baltic và phía nam Phần Lan.

Theo DÂN VIỆT
0

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2019

Chuyên gia Biển Đông: Trung Quốc chép lỗi sai của bản đồ Anh để tạo 'đường 9 đoạn'

Chuyên gia Bill Hayton dẫn chứng tài liệu cho thấy "đường 9 đoạn" là một yêu sách rất mới, xuất phát từ việc Trung Quốc sao chép lỗi sai trong bản đồ của Anh.


Trung Quốc xây dựng trái phép tại đá Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam tháng 10/2017. Ảnh: CSIS.
0

Hạ viện Mỹ kêu gọi Trung Quốc ngừng bắt nạt Việt Nam ở Biển Đông

Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ ra tuyên bố kêu gọi Trung Quốc rút tàu và chấm dứt hành vi bắt nạt, vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.


Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ Eliot L. Engel. Ảnh: AFP.
0

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019

Việt Nam và Biển Đông: Luôn sẵn sàng cho chiến tranh để bảo vệ hòa bình

Nếu chúng ta không sợ chiến tranh và chuẩn bị kỹ cho chiến tranh thì chúng ta sẽ có hòa bình. Còn nếu chúng ta sợ hãi thì lập tức chiến tranh sẽ đến, chúng ta mất hòa bình và mất cả chủ quyền lãnh thổ.


Nghe:


Lược ghi góc nhìn của ông Nguyễn Trường Giang – Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Brunei, nguyên Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao – trong bài phát biểu tại CLB Cafe Số gần đây.

I. Mưu đồ chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông

Thứ nhất, lợi ích của Biển Đông là về vấn đề kinh tế, đầu bảng là tài nguyên dầu khí, sau đó là băng cháy. Khu vực Đông Nam Á có lượng băng cháy cực lớn. Đây là nguồn năng lượng của tương lai, có thể sử dụng trong nhiều thế kỷ, theo tính toán sơ bộ là khoảng 800 năm tới.

Việt Nam là một trong những quốc gia sở hữu lượng băng cháy tương đối lớn. Chúng ta có khoảng 2.400 tỷ mét khối băng cháy, là quốc gia có thứ hạng ở Châu Á về loại tài nguyên này. Đây là nguồn năng lượng tuyệt vời. Do đó, Trung Quốc nhìn vào nguồn băng cháy như một loại tài nguyên thay thế cho dầu khí đang dần trở nên cạn kiệt.

Thứ hai, Biển Đông được xác định là một trong 4 khu vực đánh cá chủ yếu của ngư dân Trung Quốc.

Thứ ba, Biển Đông cũng được xác định là con đường sinh mệnh của nền kinh tế Trung Quốc. Trong số 27 tuyến vận tải của Trung Quốc, 17 trong số đó nằm ở Biển Đông. Biển Đông giúp kết nối Trung Quốc với 125 nước và vận chuyển 3/4 lượng dầu nhập khẩu vào nước này.

Về an ninh quốc phòng, đây là một bức trường thành tự nhiên trên biển. Biển Đông như một vành đai quân sự, phòng thủ, là rào cản an ninh để ngăn chặn những rủi ro và uy hiếp từ bên ngoài.

Về mặt địa chiến lược, Trung Quốc xác định Biển Đông như sân sau, nơi tập dượt của hải quân Trung Quốc để tiến ra thế giới bên ngoài.

Biển Hoa Đông ở phía đông Trung Quốc quá nông, lại có một đối thủ khó nhằn là Nhật Bản án ngữ phía ngoài. Còn đối với Biển Đông, vùng biển này rộng 3,4 triệu km2, độ sâu trung bình là 1.400 mét và có rất nhiều rãnh sâu. Đây là địa điểm tuyệt vời cho sự hoạt động của các loại tàu ngầm.

Muốn thành bá chủ toàn cầu, Trung Quốc phải trở thành cường quốc trên biển. Điều này chỉ có thể thực hiện được ở Biển Đông, vùng biển mà xung quanh đó toàn các quốc gia nhỏ bé. Về mặt địa chiến lược, đây là cửa ngõ duy nhất, là bàn đạp để Trung Quốc đi ra thế giới bên ngoài. Do vậy, trong cái nhìn đại chiến lược của người Trung Quốc, Biển Đông có lợi ích sống còn.

Trung Quốc sắp đặt Biển Đông trong chiến lược an ninh – phát triển như thế nào?

Từ các văn kiện Đại hội Đảng, chương trình nghị sự của chính phủ và thông tin chính thức từ phía Trung Quốc, nước này xác định Biển Đông là một phần quan trọng, cũng là điểm khởi đầu cho con đường tơ lụa trên biển. Con đường này là trọng tâm của sáng kiến Vành đai – Con đường. Sáng kiến này là một phần của giấc mơ chấn hưng Trung Quốc.

Biển Đông là một phần của chiến lược biến Trung Quốc thành một cường quốc biển. Một quốc gia muốn tiến vào vị trí trung tâm quyền lực chính trị của thế giới thì không thể không trở thành một cường quốc biển.

Chính giới Trung Quốc đã lồng ghép vấn đề Biển Đông vào mục tiêu trăm năm, coi đó là việc triển khai thực hiện giấc mộng Trung Hoa. Nước này thậm chí còn đưa vấn đề chủ quyền và lợi ích trên biển thành một trong những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, tương tự như vấn đề Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng. Tần suất Trung Quốc đưa ra lời khẳng định các đảo ở Biển Đông thuộc về mình từ ngàn đời đang không ngừng tăng lên.

Nguyên thủ các quốc gia trên thế giới thường ít nói về vấn đề chủ quyền. Thay vào đó, họ thường để cho những cơ quan có thẩm quyền lên tiếng. Tuy nhiên, liên tiếp trong năm 2016, Chủ tịch Trung Quốc đã 3 lần phát biểu câu chuyện này ở nước ngoài, điều trước đây chưa từng có đã thể hiện sự quan tâm đến mức tối đa của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông.

Bên cạnh đó, cơ quan truyền thông nhà nước Trung Quốc liên tục khẳng định rằng nước này không có gene xâm lược, không xâm phạm vào lợi ích của các nước khác, thế nhưng Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lợi của mình.

Năm 2021, Trung Quốc sẽ diễn ra sự kiện kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng. Cùng với các sự kiện lớn này, Trung Quốc sẽ tiến hành nhiều hành động lớn, tình hình Biển Đông vì thế cũng sẽ liên quan đến câu chuyện này.

Trung Quốc không đem lợi ích cốt lõi ra trao đổi, không có chuyện nhân nhượng, thỏa thuận và từ bỏ tham vọng Biển Đông. Đây là một thông điệp rất rõ ràng.

Chủ tịch Trung Quốc từng có một câu nói mà chúng ta cần phải lưu ý: “Quân đội Trung Quốc triệu tập là có, đến là có thể đánh và đánh là có thể thắng, để bảo vệ chủ quyền và các quyền liên quan ở Biển Đông”.

Vậy vài chục năm nữa Biển Đông sẽ như thế nào? Biển Đông đại khái sẽ thế này, lúc nóng, lúc lạnh, lúc căng thẳng lúc hòa hoãn. Tất nhiên, chúng ta cần có những nhìn nhận đúng đắn, có những động thái kiên quyết đối với vấn đề này.

Truyền thông Trung Quốc

Báo chí Trung Quốc nói, những nước như Việt Nam, Phillipines, Brunei, Malaysia… là những kẻ đang cướp đảo, cướp biển, cuớp tài nguyên của Trung Quốc, do đó chúng ta phải thu hồi. Điều này được thực hiện bằng chiến lược ngoại giao đi trước, hải quân đi sau, văn công vũ vệ (tiến công bằng văn, bảo vệ bằng vũ lực).

Có những tờ báo liệt kê 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc phải đánh, một trong số đó là cuộc chiến trên Biển Đông để thu hồi những đảo bị các nước chiếm đóng trái phép. Truyền thông Trung Quốc là một dấu hiệu giúp Việt Nam có thể dự báo trước.

Trung Quốc đang làm gì từ năm 1949 đến nay?

1. Đưa ra các yêu sách chủ quyền và yêu sách trên biển.

2. Thực hiện những biện pháp hành chính. Thể hiện Biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa trên bản đồ, đặt tên cho các đảo, quy thuộc sát nhập Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển vào lãnh thổ Trung Quốc và các đơn vị hành chính thuộc Trung Quốc.

3. Áp đặt nội luật của Trung Quốc vào khu vực Biển Đông, coi Biển Đông thành khu vực của mình.

4. Các hoạt động kiểm soát, khống chế và làm chủ Biển Đông trên thực địa. Bao gồm việc từng bước thay đổi nguyên trạng của Biển Đông, tạo ra một cục diện quân sự thuận lợi cho Trung Quốc, dần dần khống chế, kiểm soát Biển Đông, tiến tới mục tiêu lâu dài là độc chiếm toàn diện Biển Đông.

5. Sử dụng vũ lực. Từ năm 1956 đến nay, tất cả các bước tiến của Trung Quốc trên Biển Đông đều là nhờ vũ lực. Trung Quốc liệu có tiếp tục sử dụng vũ lực nữa hay không? Nếu không trả lời được câu hỏi này thì cực kỳ nguy hiểm.

II. Không gian sinh tồn của dân tộc đang bị thách thức

Đầu tiên, cần phải nhận diện được thách thức của mình. Người Việt Nam có một điểm yếu, đó là có thể nhận diện được tất cả mọi thứ, trừ bản thân mình. Nếu chúng ta không sợ chiến tranh và chuẩn bị kỹ cho chiến tranh thì chúng ta sẽ có hòa bình. Còn nếu chúng ta sợ hãi thì lập tức chiến tranh sẽ đến, chúng ta mất hòa bình và mất cả chủ quyền lãnh thổ. Đây là vấn đề căn bản của mọi binh pháp trên thế giới.

Qua bức tranh thực trạng Biển Đông như tôi đã nói, có thể thấy mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, tức là chiếm toàn bộ các đảo trong vùng biển này (bao gồm 4 quần đảo Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa theo cách gọi của Trung Quốc).

Trung Quốc cũng muốn chiếm chủ quyền với khoảng 80% diện tích Biển Đông và toàn bộ tài nguyên trong khu vực biển này. Bên cạnh đó là quyền kiểm soát với vùng trời, vùng biển và đáy biển. Điều này mang đến thách thức nghiêm trọng đối với chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.

Trong 6 thập kỷ qua, có thể thấy rõ các biện pháp và kế sách mà Trung Quốc đã áp dụng để triển khai mục tiêu này. Nước này đã dùng đến mọi biện pháp, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao cho đến tâm lý và cả thông tin tuyên truyền.

Do vậy, có thể thấy thông tin tuyên truyền là một trong những mặt trận rất quan trọng. Có những thời điểm, mặt trận tuyên truyền còn quan trọng hơn cả mặt trận quân sự, ngoại giao hay pháp lý.

Các kế sách của Trung Quốc trên Biển Đông

Người Trung Quốc ngày nay học tập nhiều từ binh pháp Tôn Tử, nhưng cũng có rất nhiều cải tiến đối với loại binh pháp này. Người Trung Quốc biến các loại mưu kế trở thành một bộ môn khoa học và đưa vào các nội hàm mới cho những mưu kế này.

Các ví dụ có thể kể đến là kế sách “tằm ăn dâu”, “biến không thành có”, “gác tranh chấp cùng khai thác”, “cây gậy và củ cà rốt”,…

Trong đó, một trong những kế sách thâm độc nhất của Trung Quốc là chiến thuật “vùng xám”, tức dân sự hoá các hoạt động quân sự và bán quân sự, không sử dụng hải quân cũng như các hoạt động có cường độ quá mạnh hay vượt qua một giới hạn đỏ nào đó. Mục đích của điều này là không để tạo ra những phản ứng quá quyết liệt từ các nước khác.

Nhìn vào quá khứ, dự đoán tương lai

Trong bức tranh về thực trạng ở Biển Đông, chúng ta có thể dựa vào những gì đã xảy ra trong quá khứ để nhìn nhận và dự đoán tương lai.

Về trung hạn, Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục đưa dàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam. Khả năng thứ 2 là Trung Quốc sẽ tạo ra một vùng nhận diện phòng không trên Biển Đông. Trung Quốc cũng có thể sẽ tiến hành chiếm giữ một số bãi đá ngầm mà chưa có quốc gia nào chiếm đóng.

Dù rất hãn hữu, thế nhưng không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ đánh chiếm Trường Sa. Tuy nhiên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ có một thời cơ thích hợp. Người Trung Quốc thường chỉ hành động khi có thiên thời, địa lợi, nhân hòa và tính toán được rất kỹ cái giá phải trả. Đây chính là điểm để Việt Nam hoạch định các kế sách đối phó.

Nếu Việt Nam có thể làm cho Trung Quốc không có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa hoặc trong trường hợp có chiến tranh, nước này sẽ phải trả một cái giá rất đắt thì họ sẽ không dám đánh chiếm Trường Sa nữa.

Trong 2 năm tới trước Đại hội, việc quân sự hoá Biển Đông sẽ được Trung Quốc thực hiện ráo riết hơn. Trung Quốc có thể đưa những lực lượng quân sự đông hơn ra chiếm đóng tại Trường Sa. Nước này cũng có thể vẽ ra lãnh hải của những hòn đảo mà hiện tại họ đang chiếm đóng, cũng như vùng nội thuỷ của các đảo này. Đây là những cảnh báo mà chúng ta cần phải lưu ý.

Trung Quốc sẽ sớm thông qua Luật An toàn giao thông hàng hải sửa đổi. Từ dự thảo của bộ luật này, có thể thấy Trung Quốc có khả năng dựa vào đây để lập các vùng an toàn hàng hải trên biển. Điều gì sẽ xảy ra nếu vùng an toàn bao chùm lên các nhà giàn DK1 của Việt Nam. Bên cạnh đó, tàu thuyền sẽ phải xin phép khi tiến vào vùng biển Trường Sa. Điều này cũng có nghĩa là các đảo của Việt Nam sẽ bị phong toả.

Năm 2016, 2017, trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc đưa ra một dự báo cho thấy, Trung Quốc có thể đưa những nhà máy điện hạt nhân nổi ra Biển Đông.

Nếu như các nhà máy điện hạt nhân nổi được triển khai tại Biển Đông, nó sẽ mang lại rất nhiều thách thức về chủ quyền, môi trường, kinh tế, tài nguyên và đối với mạng sống của hàng trăm triệu người…

Đánh giá về tình hình hiện nay, có thể thấy vấn đề Biển Đông đang ngày càng phức tạp và diễn biến khó lường. Chủ quyền biển đảo Việt Nam đang bị thách thức nghiêm trọng và thách thức này sẽ còn nghiêm trọng hơn nữa trong tương lai.

Các thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt là về chủ quyền, kinh tế biển, an ninh quốc phòng, môi trường phát triển và thách thức đối với không gian sinh tồn của dân tộc. Cuối thế kỷ 21, Việt Nam sẽ có quy mô dân số khoảng 140 triệu người. Lúc này chúng ta cần phải tiến ra biển, biển là niềm hy vọng và là không gian sinh tồn của những thế hệ sau này.

Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với một kiểu xâm lược như vậy: tiến dần dần. Vì thế, tôi muốn nhấn mạnh về thách thức không gian sinh tồn của dân tộc .

Cuối thế kỷ này dân số nước ta lên khoảng 140 triệu người, con cháu chúng ta sống ở đâu nếu không tiến ra biển. Lúc đấy là chúng ta cần có thành phố biển, có làng mạc biển, có nông nghiệp biển, có công nghiệp biển, có cảng biển, có sân bay trên biển. Biển là niềm hi vọng, là không gian sinh tồn của những thế hệ sau này.

Và tôi muốn nhấn mạnh điểm này: không gian sinh tồn của dân tộc mình đang bị thách thức.

III. Chúng ta có thể giữ được Biển Đông một cách hòa bình

Câu hỏi tiếp theo là: Sau khi biết tình hình thực trạng rồi, Việt Nam làm gì để bảo vệ chủ quyền Biển Đông? Tôi chỉ nêu một vài điểm vì có hàng nghìn đầu việc. Nhưng trước hết, chúng ta phải khẳng định chắc chắn 100%, chúng ta có thể giữ được Biển Đông, và có thể giữ được một cách hòa bình.

Tôi xin thưa, Biển Đông không chỉ có thách thức, nó còn là cơ hội tuyệt vời cho chúng ta.

Việt Nam sở hữu những vũ khí, những giá trị vô cùng quan trọng, trong đó có danh tiếng của mình. Danh tiếng của Việt Nam tương đương với 50 sư đoàn tinh nhuệ nhất trên thế giới.

Trong cuộc chiến tranh Iraq, Mỹ mất 12 nhân mạng là do tai nạn trực thăng, còn không thì chẳng mất người nào hết. Trong cuộc chiến ở Iraq, thông tin truyền thông đóng vai trò căn bản, 90% thắng lợi của Mỹ là cuộc chiến tranh truyền thông trước khi diễn ra.

Vào giờ chuẩn bị khởi động chiến tranh, Tổng thống G. Bush (cha) xuất hiện trên truyền hình và kêu gọi Iraq suy nghĩ. Saddam Hussein cũng xuất hiện trên truyền hình truyền đi một thông điệp: thua cũng đánh.

Tư lệnh của một quân đội 1,5 triệu người được trang bị những vũ khí hiện đại nhất mà chưa vào trận đã nhắc đến thua. Vậy nên, có những đoàn quân 300 nghìn người không bắn một phát súng. Như vậy làm sao lại không thua. Đó là do phát ngôn của Saddam Hussein.

Sức mạnh tinh thần mới là nguồn sức mạnh của chúng ta, của dân tộc Việt Nam. Không phải tàu chiến, tàu ngầm, thông tin truyền thông mới là nguồn sức mạnh của chúng ta. Chúng ta đang sở hữu một vũ khí quan trọng như thế thì chúng ta nên sử dụng như thế nào?

Việt Nam cần làm gì để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông?

Nếu chúng ta đặt ra câu hỏi này, chúng ta đã trả lời được 50%. Nếu chúng ta tự hỏi làm thế nào để cho đất nước Việt Nam trở nên hùng cường, thì chúng ta đã đặt chân lên con đường đi đến hùng cường và thịnh vượng.

Vấn đề truyền thông rất quan trọng. Sự an toàn biển đảo tỷ lệ thuận với sự quan tâm của dân chúng về vấn đề Biển Đông.

Có mấy việc phải làm, tôi xin nêu ngắn gọn:

– Nhận diện rõ thách thức với chủ quyền biển đảo.
– Củng cố ý chí quyết tâm.
– Huy động sức mạnh tổng lực của quốc gia.
– Phát huy được sức mạnh của thời đại.
– Xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Thông tin truyền thông cần làm gì?

Thông tin truyền thông đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Thông tin truyền thông là một bộ phận cấu thành của cuộc chiến này, quan trọng không kém gì chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp lý. Bây giờ, thậm chí, nó quan trọng hơn cả quân sự, ngoại giao pháp lý.

Lúc này là thời điểm rất quan trọng để xác định chúng ta giữ được biển hay không. Chúng ta chọn hướng nào? Chúng ta có lựa chọn khác với ông cha mình hay không? Như vậy chúng ta phải coi thông tin truyền thông là một mặt trận.

Thông tin truyền thông không chỉ đưa tin, bình luận, nâng cao nhận thức, không chỉ có tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn phải thêm cả công tác dự báo.

Những việc thông tin truyền thông cần làm bao gồm nêu cao chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền trên biển; góp phần huy động sức mạnh tổng lực quốc gia; phát huy sức mạnh của thời đại; góp phần xây dựng nước Việt Nam hùng cường.

Xin giải thích rõ những vấn đề trên như sau:

1. Nêu cao chính nghĩa.

Nêu cao chính nghĩa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thông tin truyền thông. Muốn nêu cao chính nghĩa phải làm hai việc.

Thứ nhất, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa và Hoàng Sa; bác bỏ được yêu sách đường lưỡi bò, bác bỏ cái gọi là chủ quyền lâu đời của Trung Quốc đối với Trường Sa, Hoàng Sa.

Để nêu được chính nghĩa phải đưa ra được các chứng cứ pháp lý và lịch sử xác thực và thuyết phục các cơ quan tài phán quốc tế. Truyền thông báo chí phải kết hợp với các chuyên gia trong nước, quốc tế.

2. Huy động sức mạnh tổng lực quốc gia.

Củng cố ý chí quyết tâm bảo vệ đến cùng biển đảo bằng bất cứ giá nào. Thông tin truyền thông phải biến nó thành ý chí của toàn bộ dân tộc, của cả hệ thống chính trị và của tất cả mọi người dân Việt Nam.

Cần nâng cao nhận thức của người dân về biển đảo. Nhận diện rõ thách thức với chủ quyền biển đảo. Đánh giá Trung Quốc thế nào? Hiện nay, thế giới nhận định về Trung Quốc như con hổ mới trỗi dậy, dữ dằn về quân sự, chính trị, kinh tế. Họ là một con hổ đói: Đói không gian sinh tồn, đói tài nguyên thiên nhiên, đói quyền lực chính trị. Tuy nhiên, con hổ đó có nhiều bệnh về chính trị, văn hóa, dân tộc, sắc tộc, môi trường…

Truyền thông cần đề cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự tôn dân tộc, phẩm cách quốc gia. Đặc biệt, củng cố đại đoàn kết dân tộc, xây dựng sức mạnh toàn dân. Đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên đồng thuận dân tộc: đồng thuận về nhận thức, ý chí, hành động. Củng cố niềm tin: niềm tin phải có cơ sở, dựa trên điểm mạnh và yếu của Việt Nam và đối thủ, đồng thời tin vào khả năng của chúng ta.

3. Truyền thông phải lan tỏa giấc mơ về đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Trong vòng 15 năm nữa chúng ta có thể trở thành cường quốc tập trung với 5 tiêu chí: Quân sự, Kinh tế, Văn hóa – Giáo dục, Khoa học – Công nghệ, Chính trị. Hiện nay, chúng ta đang thiếu hai thứ: Một là minh triết, hai là kế hoạch (giấc mơ).

Truyền thông, tuyên truyền cần nhanh chóng và kịp thời; khách quan và chính xác; hay và hấp dẫn.

Tôi phải nhấn mạnh lại một lần nữa: Không phải tàu chiến, tàu ngầm, thông tin truyền thông mới là nguồn sức mạnh của chúng ta. Sức mạnh tinh thần mới là nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam trước bất kỳ kẻ xâm lược nào.

Theo VIETNAMNET

Link MP3: https://drive.google.com/file/d/1LulYslvLT8JpQt6MJQ3EB52sl8se8OOZ/view
0