Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2018

Phương Tây, đi đầu là Mỹ, lập liên minh tình báo chống Trung Quốc

Âm thầm nhưng kiên quyết, từ đầu năm 2018 đến nay, năm quốc gia trong nhóm Five Eyes (Năm con mắt) - mạng lưới chia sẻ tình báo hàng đầu thế giới hiện nay bao gồm Anh, Mỹ, Canada, Úc và New Zealand - đã gia tăng trao đổi thông tin mật với nhiều nước cùng chí hướng về hoạt động đối ngoại của Trung Quốc.

Phòng theo dõi thông tin, Trung Tâm Truyền Thông Chính Phủ, một cơ quan tình báo Anh Quốc, Cheltenham. (Ảnh chụp ngày 17/11/2015)

Thông tin này vừa được hãng tin Anh Reuters tiết lộ hôm 12/10/2018, dựa theo bảy quan chức cao cấp thuộc bốn thủ đô khác nhau. Nhiều quan chức xin ẩn danh do tính chất nhạy cảm của thông tin được tiết lộ, đã cho rằng đà tăng cường hợp tác giữa các nước có liên quan đã lên đến mức mà người ta có thể nói rằng hoạt động của Nhóm Five Eyes đã mặc nhiên được mở rộng trên vấn đề cụ thể là các hành vi can thiệp của nước ngoài, mà trước tiên hết là của Trung Quốc.

Một quan chức Mỹ đã xác nhận với Reuters rằng : « Các cuộc tham vấn với các đồng minh của chúng tôi, với các đối tác cùng chí hướng với chúng tôi, về cách ứng phó với chiến lược quốc tế quyết đoán của Trung Quốc đã trở nên thường xuyên và ngày càng phát triển ».

Hợp tác ngày càng tăng với Đức, Nhật, Pháp…

Đối với quan chức này thì « Những cuộc thảo luận thoạt đầu chỉ mang tính chất chuyên biệt giờ đây đã trở thành những buổi tham khảo ý kiến lẫn nhau một cách chi tiết hơn về cách thức hành động và cơ hội tiếp tục đẩy manh hợp tác. »

Theo Reuters, hợp tác ngày càng tăng giữa 5 thành viên nhóm Five Eyes, với những nước như Đức, Nhật Bản, và cả Pháp trong một số trường hợp, cho thấy sự mở rộng của một mặt trận quốc tế chống lại các chiến dịch tăng cường ảnh hưởng và đầu tư của Trung Quốc. Trong thời gian qua, trước những phản ứng càng lúc càng mạnh từ phía Washington, Canberra và nhiều thủ đô khác, Bắc Kinh đã gay gắt bác bỏ các cáo buộc cho rằng Trung Quốc đang tìm cách tác động đến các chính phủ nước ngoài, và các khoản đầu tư hải ngoại của Bắc Kinh đều nhằm ý đồ chính trị.

Theo thẩm định của Reuters, việc mạng lưới Five Eyes tăng cường phối hợp hành động đã nêu bật vai trò của Mỹ. Bất chấp những tín hiệu từ tổng thống Mỹ Donald Trump theo đó ông đã sẵn sàng đơn thương độc mã đối đầu với Trung Quốc, các thành viên trong chính quyền của ông đang nỗ lực làm việc để hình thành một liên minh không chính thức để chống lại Bắc Kinh.

Bắc Kinh thất bại trong việc lôi kéo châu Âu bỏ Mỹ theo Tầu

Đối với Trung Quốc thì đó là một vố đau, xóa tan hy vọng của Bắc Kinh về việc thuyết phục các nước châu Âu rời xa Mỹ để xích lại gần Trung Quốc hơn, trong bối cảnh các nước châu Âu đang bất an trước chính sách "nước Mỹ trên hết" của tổng thống Trump.

Theo các quan chức đã đồng ý trả lời hãng Reuters, thì các cuộc đàm phán đã diễn ra một cách kín đáo, và chủ yếu trên cơ sở song phương. Không quan chức nào xác nhận việc Đức, Nhật Bản hay các quốc gia khác ngoài mạng lưới Five Eyes đã được mời đến các cuộc họp của liên minh tình báo, được thành lập sau Thế Chiến Thứ II để chống lại ảnh hưởng của Liên Xô. Thế nhưng, một thông báo công bố sau một cuộc họp của nhóm Five Eyes tại Úc vào cuối tháng Tám vừa qua, đã gợi lên một sự phối hợp chặt chẽ hơn, xác định rằng nhóm Năm Con Mắt sẽ sử dụng đến các "quan hệ đối tác toàn cầu" và đẩy nhanh việc chia sẻ thông tin về các hoạt động can thiệp của nước ngoài.

Như vậy là một liên minh quốc tế chống các thủ đoạn của Trung Quốc xen vào nội tình các nước khác đang được hình thành, nối tiếp theo một loạt những hành động ở cấp quốc gia - ở Mỹ, ở Đức, ở Úc… - nhằm hạn chế đầu tư của Trung Quốc vào các công ty công nghệ nhạy cảm và chống lại những điều mà một số chính phủ cho là một chiến dịch ngày càng mạnh đang được chế độ Tập Cận Bình phát triển, để lũng đoạn các chính phủ và xã hội nước ngoài theo hướng có lợi cho Trung Quốc.

Nguồn: RFI
0

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2018

Trung Quốc sẽ làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu

Trên thực tế, Trung Quốc đã không thoát khỏi sự sụp đổ năm 2008. Họ chỉ trì hoãn nó – cho đến hiện nay. Do đó, dường như Bắc Kinh đang làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu một lần nữa. Lần nay, nạn nhân lớn nhất sẽ là Trung Quốc.


Bắc Kinh sẵn sàng đẩy thế giới vào một cuộc suy thoái khác.

Nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn, tiền tệ và các thị trường của nước này, phản ánh tình trạng bất ổn, đang xáo trộn. Tập Cận Bình không có giải pháp nào. Điều duy nhất ông đang làm là gánh thêm nợ nần.

Đó là điều cực kỳ đáng tiếc vì một Bắc Kinh mắc nợ quá nhiều một lần nữa bắt đầu đẩy thế giới vào suy thoái. Thông qua các chính sách trục lợi, Trung Quốc đã đẩy nhanh cuộc suy thoái toàn cầu vào thập kỷ trước, và dường như họ cũng sẽ gây ra cuộc suy thoái tiếp theo.

Lần trước, người Trung Quốc đã hưởng lợi rất lớn từ sự khốn khổ của toàn thế giới. Lần này, họ sẽ không may mắn như vậy và gần như chắc chắn sẽ trở thành những nạn nhân lớn nhất.

Nhìn bề ngoài, nền kinh tế của Trung Quốc trông có vẻ tốt đẹp. Ngày 16/7, Cục thống kê quốc gia báo cáo rằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng 6,7% trong Quý II năm 2018, giảm từ mức 6,8% trong Quý I nhưng phù hợp với kỳ vọng.

Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc không phải là vấn đề, bất kể được báo cáo thế nào. Nước này có một vấn đề căn bản: họ đang nhanh chóng mắc nợ. Nước này đang chịu số nợ có thể gấp 1,5 lần GDP danh nghĩa họ tạo ra – nếu những số liệu GDP chính thức là chính xác.

Tuy nhiên, chúng lại không chính xác. Cục thống kê quốc gia đã báo cáo số liệu GDP ở mức ổn định, điều sẽ là cực kỳ bất thường trong một nền kinh tế hoàn thiện đầy đủ, chưa kể đến một nước đang phát triển như Trung Quốc.

Do đó, bề ngoài, những số liệu của Bắc Kinh là đáng ngờ. Lấy ví dụ năm 2016, Bắc Kinh tuyên bố đạt tỷ lệ tăng trưởng là 6,7%. Giữa năm 2017, Ngân hàng thế giới (WB), đã công bố một biểu đồ cho thấy vào năm 2016, GDP của Trung Quốc tăng 1,1%.

Con số 1,1%, vốn khiến nhiều người bất ngờ, phù hợp với tổng chỉ số chính xác duy nhất đánh giá hoạt động kinh tế của Trung Quốc, tổng lượng tiêu thụ năng lượng chính. Theo các số liệu chính thức, vào năm 2016, tổng lượng tiêu thụ năng lượng chính tăng 1,4%.

Năm 2017, nền kinh tế đã tăng tốc – tiêu thụ năng lượng tăng lên 2,9% - nhưng GDP không thể tăng trưởng ở mức đã công bố là 6,9%.

Mức tăng trưởng thấp làm nổi bật vấn đề dai dẳng của Bắc Kinh: không nền kinh tế nào có thể tiếp tục vô hạn định tạo ra nợ nhanh hơn tạo ra GDP, đặc biệt với tốc độ của Trung Quốc. Ở một thời điểm nào đó, như các nhà kinh tế học sẽ nói, phải có một sự “điều chỉnh”, và một “cuộc khủng hoảng” như phần còn lại trong số chúng ta sẽ mô tả nó. Hơn nữa, sự điều chỉnh, hay cuộc khủng hoảng, phải thật lớn vì nó đã bị trì hoãn quá lâu. Bắc Kinh đã trì hoãn những sự điều chỉnh kể từ cuộc suy thoái năm 2008 có lẽ là với thời kỳ cho vay-chi tiêu lớn nhất trong lịch sử. Trong 5 năm bắt đầu vào năm 2009, các ngân hàng của Trung Quốc đã mở rộng nhiều khoản tín dụng gần tương đương với số tín dụng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng của Mỹ, mặc dù vào cuối năm 2008, nền kinh tế Trung Quốc chưa bằng 1/3 quy mô nền kinh tế Mỹ. Hoạt động này tiếp tục diễn ra kể từ cuối nửa thập kỷ đó.

Kết quả là nền kinh tế Trung Quốc trở nên mất cân bằng, những sự mất cân bằng đó trở nên có tính đe dọa, và đất nước này đã tích lũy số nợ đáng kể. Theo Bloomberg, năm 2008, tỷ lệ nợ so với GDP của Trung Quốc, một thước đo tiêu chuẩn cho tính bền vững của nợ, là 141%. Con số đó vốn đã gây lo ngại, nhưng tình hình còn nhanh chóng trở nên xấu đi kể từ đó. Bloomberg cho biết tỷ lệ này đã tăng vọt lên đến 256% vào giữa năm 2017.

Con số này chắc chắn còn cao hơn, đặc biệt là khi tính đến cái gọi là “nợ bí mật” trong hệ thống “ngân hàng ngầm”. Andrew Collier đến từ Trung tâm nghiên cứu Orient Capital có trụ sở tại Hong Kong nói rằng các ngân hàng ngầm quản lý “gần một nửa tổng số tiền ở Trung Quốc”. Tính đến tất cả các khoản nợ này, Collier tin rằng tỷ lệ nợ so với GDP của nước này là khoảng 400%. Một tỷ lệ phần trăm kiểu như vậy cho thấy gánh nặng nợ nần của nước này là vô cùng nặng nề.

Món nợ nặng nề của Trung Quốc là một trở ngại cho tăng trưởng, đặc biệt là vì nhiều khoản đầu tư được thực hiện với những khoản vay này không có hiệu quả. Một số không hiệu quả vì chúng bị hiểu sai hoàn toàn và sẽ vẫn như vậy hoặc vì chúng sẽ chỉ có hiệu quả trong tương lai. Dù thế nào, những khoản đầu tư đó cũng gây ra một vấn đề của hiện tại. Các nhà kỹ trị Trung Quốc có thể làm nhiều điều, nhưng như Fraser Howie, đồng tác giả của cuốn sách “Chủ nghĩa tư bản đỏ: Nền tảng tài chính mong manh của sự trỗi dậy phi thường của Trung Quốc”, nói với tác giả vào tháng 6: “Điều họ không thể làm là biến những khoản đầu tư ngu ngốc trở thành tốt đẹp”.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tìm cách loại bỏ những vấn đề này bằng cách mắc thêm nợ. Thủ thuật đó đã có tác dụng vào cuối những năm 1990, nhưng khối nợ tích lũy giờ đây trở nên nặng nề đến mức làm chậm tăng trưởng và làm lung lay niềm tin.

Trong số những điều khác, những quan ngại về kinh tế đã dẫn đến tình trạng thoái vốn ồ ạt vào năm 2015 và năm 2016, khi theo những ước tính chính xác nhất, dòng chảy vốn ròng ra ngoài vượt mức 2000 tỷ USD. Bắc Kinh đã ngăn chặn dòng chảy ra ngoài, nhưng chỉ bằng những biện pháp kiểm soát vốn hà khắc, chỉ một vài trong số đó được công bố chính thức.

Bất chấp thành công trong việc ngăn dòng vốn chảy ra ngoài, vẫn còn những mối lo ngại. Tháng 10/2017, Chu Tiểu Xuân, khi vẫn là người đứng đầu Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, công khai nêu lên khả năng rằng Trung Quốc sẽ gánh chịu “thời điểm Minsky”, thời điểm mà các giá trị tài sản sụp đổ. Đây cũng là nỗi lo lắng của người dân Trung Quốc, những người rõ ràng nghĩ rằng điều gì đó tồi tệ đang đến. Hết khảo sát này đến khảo sát khác cho thấy 1/3 đến 1/2 người giàu Trung Quốc lên kế hoạch rời khỏi đất nước của họ trong trung hạn.

Như những bình luận khác thường của Chu Tiểu Xuân chỉ ra, tình hình của Bắc Kinh vẫn nghiêm trọng. Michael Pettis đến từ Đại học Bắc Kinh đã chỉ ra trong các bình luận tại Diễn đàn Thịnh vượng toàn cầu vào tháng 12/2017 rằng sự khác biệt giữa tình hình Trung Quốc hiện nay và các cuộc khủng hoảng nợ trước đây ở những nước khác là trong các cuộc khủng hoảng trước đó, những sự mất cân bằng về kinh tế không “sâu sắc” và nợ không ở mức “cao” như vậy.

Trung Quốc có thể tránh được tình trạng mất cân bằng và nợ nần lâu hơn các nước khác. Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ mọi thứ từ người đi vay, người cho vay, các thị trường đến tòa án. Tuy nhiên, nền kinh tế không thể tránh khỏi thời điểm then chốt đó khi một sự điều chỉnh diễn ra.

Tại sao? Donald Trump xuất hiện. Cho dù người ta nghĩ Tổng thống Trump bắt đầu một cuộc chiến tranh thương mại hay chỉ phản ứng với cuộc chiến mà Trung Quốc khởi xướng – tác giả bỏ phiếu cho cách hiểu thứ hai – thì ông cũng đang thực hiện những hành động tấn công nền kinh tế Trung Quốc và làm lung lay niềm tin.

Sau một làn sóng mạnh mẽ ban đầu do hoạt động tuyên truyền tạo ra, các học giả và nhà phân tích Trung Quốc đang bắt đầu hiểu ra rằng “chiến tranh thương mại” là một cuộc tranh đấu lâu dài mà đất nước họ không thể duy trì.

Tại sao? Trump nói về các khoản thâm hụt thương mại, nhưng những hành động của chính quyền ông lại tập trung vào công nghệ. Một cuộc cạnh tranh về công nghệ, hơn cả một cuộc chiến tranh thương mại, trông giống như một cuộc tranh đấu cho tương lai. Như Thomas Friedman của tờ New York Times đã viết vào đầu tháng 5, đây không phải cuộc chiến về các loại thuế hay thậm chí là về thương mại; đây là cuộc chiến cho tương lai. Kết luận của Friedman không phải là phân tích của riêng ông mà là những quan điểm từ các nguồn của Trung Quốc. Nhiều người ở Trung Quốc nhìn nhận điều này là, hoặc gần như là, một cuộc tranh đấu để tồn tại. Đúng lúc đó, người Mỹ cũng sẽ nhìn nhận giống như vậy.

Trong bất kỳ tình huống nào, những hành động của Trump cũng đang gây áp lực mạnh mẽ đối với nền kinh tế Trung Quốc. Anne Stevenson-Yang, đồng sáng lập Trung tâm nghiên cứu J Capital có trụ sở tại Bắc Kinh, nói với tờ National Interest: “Tôi thực sự tin rằng quyết tâm của Trump cắt giảm lượng đồng USD đang lưu thông sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng cho Trung Quốc, như anh có thể thấy từ lợi suất trái phiếu hiện nay, thị trường chứng khoán A-share (cổ phiếu niêm yết trên sàn Thượng Hải và sàn Thâm Quyến, định giá bằng đồng nhân dân tệ - ND), và giá trị đồng nhân dân tệ. Đây không phải là ý định của Trump mà là một tác động của việc tăng lãi suất, phần nào là chức năng của việc cắt giảm thuế, vì việc vay quá nhiều tiền làm tăng lãi suất, cộng thêm vào điều hẳn sẽ là một sự suy giảm trong thương mại của Mỹ. Lý do giải thích tại sao điều này có thể châm ngòi cho cuộc khủng hoảng nợ đã được dự đoán từ lâu là nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào doanh thu bằng đồng USD để hỗ trợ cho việc mở rộng cung ứng tiền tệ. Không có nó, họ chỉ có thể in thêm tiền, và điều đó gây ra lạm phát”.

Các nhà kỹ trị Trung Quốc có thể đang tiếp cận đến những giới hạn xa hơn của những gì họ có thể in ra để duy trì hoạt động nền kinh tế. Cuối năm 2017, M2 của Trung Quốc, thước đo tiền tệ lưu hành rộng lớn (gồm tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm – ND) đã lên đến 25.980 tỷ USD, chiếm 202,3% GDP năm 2017. Trong khi đó, M2 của Mỹ vào thời điểm đó là 13.820 tỷ USD, chỉ bằng 71,8% GDP.

Trump đang cắt giảm dòng chảy tiền tệ ngay khi Bắc Kinh cần nó nhất. Trong vài tuần gần đây, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, một ngân hàng thuộc trung ương, đã vội vàng bổ sung thêm tiền mặt. Như Collier nói với tờ The National Interest, nhìn chung các quan chức Trung Quốc nghĩ rằng tình trạng siết chặt gần đây đã đi quá xa và họ cũng đã tìm cách “đối phó với tác động của một cuộc chiến tranh thương mại đối với nền kinh tế”.

Và Trung Quốc, một nước có thặng dư thương mại, đặc biệt dễ bị tổn thương trước một cuộc chiến tranh thương mại. Ngân hàng thế giới ước tính rằng xuất khẩu chiếm 19,8% GDP năm 2017 của Trung Quốc.

Collier không mong đợi một cuộc khủng hoảng tài chính của Trung Quốc, nhưng động thái trong ngắn hạn là bổ sung tín dụng sẽ dẫn đến việc có “thêm các dự án tồi tệ” và do đó là “một nền kinh tế cơ sở yếu kém hơn”.

Bắc Kinh đang trong tình thế khó khăn. Việc bổ sung tín dụng sẽ kích thích nền kinh tế và kiềm chế làn sóng vỡ nợ trái phiếu đang diễn ra. Tuy nhiên, thêm tín dụng sẽ làm suy yếu đồng nhân dân tệ, vốn đã giảm 3,25% so với USD vào tháng 6 và đang tiếp tục sụt giảm. Đồng nhân dân tệ yếu kém hơn dẫn đến dòng vốn chảy ra ngoài.

Đồng thời, Ngân hàng dự trữ liên bang đang tăng lãi suất. Mức lãi suất cao hơn của Mỹ có xu hướng dẫn đến dòng tiền ra khỏi Trung Quốc và vào Mỹ. Đầm lầy mà Trump đang rút cạn chính là Trung Quốc.

Và những hành động của Trump trong lĩnh vực thương mại, cùng với phản ứng của Bắc Kinh, sẽ dẫn đến suy giảm xuất khẩu, do đó sụt giảm lợi nhuận từ xuất khẩu.

Như Stevenson-Yang nói với tác giả, chẳng bao lâu nữa, Bắc Kinh sẽ ở vào vị trí mà họ có thể không có khả năng kiềm chế tình hình. Trong những tháng gần đây, họ đã bảo vệ tiền tệ của mình bằng cách bán đồng USD, và Trung Quốc có lượng dự trữ lớn. Tuy nhiên, số tiền dự trữ đó – chính thức công bố là 3.110 tỷ USD vào cuối tháng 6 – chắc chắn không lớn hay có tính luân chuyển như đã được khẳng định, do đó rốt cuộc chúng có thể tỏ ra không đủ lớn để ngăn chặn tình trạng hoảng loạn.

Bắc Kinh đã kiềm chế được tình hình vào năm 2008. Họ đã kích thích nền kinh tế để tránh một cuộc khủng hoảng do họ tạo ra. Nhiều người nói rằng quy định lỏng lẻo ở Mỹ đã dẫn đến suy thoái toàn cầu, nhưng những người có óc tò mò có thể muốn hỏi lý do tại sao quy định lại thất bại ở một đất nước vốn được biết đến là có hệ thống quy định chặt chẽ.

Câu trả lời là quy định của Mỹ - và các nhà lập pháp - bị lấn át bởi xu hướng thanh khoản toàn cầu. Xu hướng đó là kết quả trực tiếp của việc Trung Quốc, thông qua các chính sách trọng thương, tích lũy thặng dư thương mại và thông qua các chính sách khác giữ phần lớn số tiền mặt có được nhờ đó khỏi tay của người dân Trung Quốc.

Bắc Kinh đã đầu tư những khoản thặng dư đó vào khoản nợ của Mỹ, và do đó, thanh khoản đã tràn ngập Mỹ. Giống như ở Trung Quốc hiện nay, quá nhiều khả năng thanh khoản trở thành các khoản đầu tư không hiệu quả. Trong một giai đoạn “sôi nổi vô lý” – thuật ngữ được cựu Chủ tịch Ngân hàng dự trữ liên bang Alan Greenspan phổ cập – hầu hết tất cả mọi người đều trở nên choáng váng, giống như các nhà đầu tư đã từng trải qua vào những năm 1920.

Mỹ là nước đầu tiên chịu thiệt hại trong cuộc đại suy thoái gần đây nhất. Trong cuộc suy thoái tiếp theo, sẽ đến lượt Trung Quốc. Sau một thập kỷ với các khoản đầu tư yếu kém và kích thích quá mức, Bắc Kinh sẽ không thể né tránh khủng hoảng.

Trên thực tế, Trung Quốc đã không thoát khỏi sự sụp đổ năm 2008. Họ chỉ trì hoãn nó – cho đến hiện nay.

Do đó, dường như Bắc Kinh đang làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu một lần nữa. Lần nay, nạn nhân lớn nhất sẽ là Trung Quốc.

Gordon G. Chang là tác giả cuốn “Trung Quốc sắp sụp đổ”. Bài viết được đăng trên The National Interest.

Văn Cường (gt)
0

Về thế và lực quân sự hiện nay của Trung Quốc

Đến nay, bức tranh toàn cảnh về thế và lực quân sự của Trung Quốc đã có những thay đổi đáng chú ý. Tuy lực và thế quân sự của Trung Quốc được cải thiện, nhưng thiếu kinh nghiệm tác chiến thực tế, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn lớn khi tiến hành chiến tranh với cường quốc khác. Trong khi đó, Trung Quốc có ưu thế hơn hẳn các nước khu vực.


Tóm tắt

Năm 2015, Trung Quốc thực hiện điều chỉnh chiến lược quốc phòng, nhằm xây dựng quân đội trở nên hùng mạnh bậc nhất thế giới vào dịp kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (01/10/2049). Cùng năm 2015, Trung Quốc công bố Sách trắng Quốc phòng nêu rõ tăng cường hiện đại hóa quân đội, quốc phòng, đối phó với thách thức an ninh của Trung Quốc đang tăng lên. Năm năm qua, một trong những thay đổi lớn nhất ở Trung Quốc là thay đổi tiềm lực, lực lượng, cơ cấu tổ chức quân đội. Đến nay, bức tranh toàn cảnh về thế và lực quân sự của Trung Quốc đã có những thay đổi đáng chú ý. Tuy lực và thế quân sự của Trung Quốc được cải thiện, nhưng thiếu kinh nghiệm tác chiến thực tế, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn lớn khi tiến hành chiến tranh với cường quốc khác. Trong khi đó, Trung Quốc có ưu thế hơn hẳn các nước khu vực.


Trung Quốc tăng cường mạnh mẽ tiềm lực quân sự

Nhờ kinh tế liên tục tăng trưởng từ khi cải cách, mở cửa bốn thập kỷ qua, ngân sách quốc phòng cũng tăng lên. Từ năm 1996, Trung Quốc tăng chi phí quân sự trung bình 11%/năm. Mấy năm gần đây, ngân sách quân sự của Trung Quốc tăng 7,6%.

Tổ chức quân đội Trung Quốc chuyển sang cơ bản giống mô hình quân đội Mỹ. Hệ thống chỉ huy gồm Quân ủy Trung ương, đứng đầu là Chủ tịch Quân ủy (cũng chính là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đảm nhiệm) có quyền chỉ huy tối cao và tuyệt đối, thông qua Bộ Tổng tham mưu liên hợp (như mô hình Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ) và các Bộ Tư lệnh liên hợp chiến khu, các Tổng bộ.1 Lãnh đạo Trung Quốc nắm toàn quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang. Quân đội Trung Quốc đặt công tác xây dựng chính trị, tư tưởng lên hàng đầu, chú trọng sáng tạo phát triển lý luận quân sự mới, loại bỏ quan niệm “một khẩu súng, một đôi chân, ba bát cơm, bốn quả lựu đạn”. Trung Quốc đứng thứ sáu châu Á về quân số tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc.

Trung Quốc thành lập ba Bộ tư lệnh mới.2 Lục quân chuyển từ “phòng ngự khu vực” sang cơ động liên khu vực và toàn cầu, nâng cao khả năng tác chiến liên chiến trường. Hải quân giữ nguyên ba (03) hạm đội và một (01) Sư đoàn thủy quân lục chiến, nhưng tăng lên ba (03) chi đội hộ vệ khu trục cho mỗi hạm đội. Hải quân chuyển trọng tâm từ “phòng thủ ngoài khơi” sang kết hợp với “bảo vệ vùng biển mở”; tăng cường khả năng cơ động và tác chiến liên hợp trên biển. Không quân Trung Quốc chuyển trọng tâm từ phòng thủ lãnh thổ sang tiến công và phòng thủ. Quân chủng hỗ trợ chiến lược được thành lập, trên cơ sở sáp nhập Lực lượng pháo binh II (tên lửa chiến lược), bộ đội tác chiến điện tử (mạng) và bộ đội phát triển vũ khí chiến tranh không gian,3 tăng cường khả năng đánh đòn trả đũa hạt nhân, tiến công tầm trung và tầm xa.

Trung Quốc cắt giảm quân số,4 tiến tới đưa tỉ lệ lục quân so với hải quân, không quân tiếp cận tỉ lệ 4/6 như các nước Mỹ, Anh, Pháp. Nét nổi bật là Trung Quốc cắt giảm quân số lục quân, nhưng tăng quân số hải quân, không quân và tên lửa chiến lược,5 tức tăng quân số ở các đơn vị được trang bị vũ khí công nghệ cao.

Trung Quốc chú trọng đầu tư trang bị, hiện đại hóa, bổ sung trang bị mới, tăng cường đáng kể sức mạnh của quân đội. Ngoài lực lượng đã có,6 năm 2017, hải quân Trung Quốc có thêm 1 tàu sân bay, dẫn đầu công nghệ đẩy cho tàu ngầm. Tháng 3/2017, Trung Quốc bắt đầu đóng tàu đổ bộ tấn công loại lớn. Tháng 6/2017, Trung Quốc hạ thuỷ tàu chiến tân tiến nhất châu Á, tạo bước chuyển lớn trong quá trình hiện đại hóa trang bị hải quân.

Tại Thái Bình Dương, Trung Quốc hoàn tất bồi đắp đảo quy mô lớn trên 7 thực thể;7 nối liền các đảo nhân tạo, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng 3 đường băng dài 3.300 m, cho phép các máy bay chiến đấu hiện đại hạ cánh, biến chúng thành những “căn cứ dân sự - quân sự” nhằm tăng cường sự hiện diện lâu dài trên Biển Đông. Trung Quốc đạt được thỏa thuận xây dựng cảng nước sâu ở Cô Công (Cam-pu-chia), thời hạn sử dụng là 99 năm, cách Biển Đông vài trăm cây số, có thể trú đậu tàu thuyền có lượng giãn nước đến hàng vạn tấn; tuần dương hạm và tàu sân bay Trung Quốc có thể ghé cảng, từ đây nhanh chóng vươn ra Biển Đông hoặc vươn tới Ấn Độ Dương.

Ngoài Quân chủng Hải quân, Trung Quốc chú trọng xây dựng lực lượng Dân quân biển từ ngư dân, sử dụng tàu đánh cá để tập trận trong vùng tranh chấp. Ngư dân được huấn luyện quân sự, trợ cấp về nhiên liệu và đá trong các chuyến đánh bắt cá, có nhiệm vụ thu thập thông tin về các tàu nước ngoài đi qua Biển Đông, tham gia tìm kiếm cứu hộ, vận chuyển nguyên vật liệu để xây dựng, cải tạo đảo đá hay ngăn chặn tàu nước ngoài trong trường hợp hải quân không tiện can thiệp. Đây là chiến lược “đánh cá, bảo vệ, chiếm giữ và quản lý” - một phần trong chiến lược tổng thể nhằm làm chủ vùng Tây Thái Bình Dương.

Tại Ấn Độ Dương, Trung Quốc mở rộng sự hiện diện quân sự trên đại dương này. Lần đầu tiên, Trung Quốc có căn cứ quân sự ở nước ngoài, trong chủ trương thiết lập chuỗi các căn cứ quân sự ven biển dọc các tuyến đường vận tải từ Trung Quốc sang châu Phi, Trung Đông. Căn cứ quân sự đầu tiên đặt tại Di-bu-ti, nối Biển Đỏ và Vịnh A-đen, gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại châu Phi và Ấn Độ Dương, đồng thời còn nhằm ngăn Mỹ hỗ trợ lực lượng cướp biển vùng Sừng châu Phi hoạt động trên tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng của Trung Quốc. Trung Quốc hiện đang tham gia vào các dự án cơ sở hạ tầng tại Pa-ki-xtan, Nê-pan, Xri Lan-ca, Mi-an-ma và Man-đi-vơ, thực chất là nhằm mở rộng hoạt động ở Ấn Độ Dương và khống chế Ấn Độ.

Về không quân: tháng 12/2016, Trung Quốc đưa vào biên chế máy bay chiến đấu tàng hình FC-3 thế hệ thứ 5, chấm dứt độc quyền của phương Tây sản xuất loại máy bay này. Tháng 3/2017 Trung Quốc đưa vào sử dụng máy bay chiến đấu tàng hình loại mới nhất J-20, tương đương máy bay tàng hình F-35 của Mỹ.

Lực lượng tên lửa: Trung Quốc liên tục hiện đại hóa tên lửa, tăng cường khả năng răn đe chiến lược. Năm 2017, Trung Quốc đưa vào sử dụng tên lửa mới DF-31AG,9 cải tiến tên lửa phòng không tầm trung DF-16G với độ chính xác hơn. Năm 1996, Trung Quốc mới bắt đầu nghiên cứu phát triển tên lửa đạn đạo thông thường, nhưng tiến bộ nhanh, đến năm 2015, Trung Quốc đã triển khai hơn 1.200 tên lửa đạn đạo (tầm bắn của tên lửa DF-21C bao phủ toàn bộ Đông Nam Á) với độ lệch mục tiêu chỉ vài mét. Tháng 2/2017, Trung Quốc đưa vào biên chế tên lửa đạn đạo có độ chính xác cao, có thể đặt trên các bệ phóng di động và tấn công tất cả tàu chiến, tàu ngầm, căn cứ không quân cách biên giới Trung Quốc 2.000 km,10 đe doạ các căn cứ quân sự của Mỹ đóng ở Nhật Bản, đe dọa Nhật Bản, Đài Loan, Phi-líp-pin.11 Như vậy, khả năng giành quyền kiểm soát trên không, trên biển và mục tiêu tấn công tầm xa của Trung Quốc nâng lên rõ rệt, có thể phòng ngự biển gần hiệu quả.

Một số hạn chế về Lực của Trung Quốc về quân sự

Tuy Trung Quốc liên tục tăng ngân sách quân sự, nhưng đến nay mới đạt khoảng 147,7 tỷ USD, trong khi đó ngân sách quân sự năm 2017 của Mỹ đã lên tới 626 tỷ USD, tức là ngân sách quốc phòng Trung Quốc mới bằng một phần tư chi phí quân sự của Mỹ. Ngân sách này lại phải chi phí cho giảm quân, tăng cường trang bị hiện đại quân đội, nên chi phí cho huấn luyện sẽ bị hạn chế.

Trung Quốc chậm thu hẹp khoảng cách với các cường quốc phát triển về sản xuất những trang bị chủ yếu. Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc đứng thứ tư trên thế giới,12 không phải là nước nắm công nghệ gốc, nên hạn chế khả năng nghiên cứu, phát triển các phương tiện chiến đấu chủ yếu như máy bay chiến đấu hay tên lửa không đối không tiên tiến.

Việc tinh giảm biên chế gặp khó khăn về tạo việc làm, bảo đảm phúc lợi xã hội. Chính phủ khó bố trí ngân sách hỗ trợ quân nhân giải ngũ.

Nội trị Trung Quốc gặp không ít thách thức, như khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề Hồng Công, Ma Cao... khiến quân đội phải dàn trải nguồn lực để đối phó.

Quân đội Trung Quốc nhìn chung vẫn ít dịp thử thách, thiếu kinh nghiệm tác chiến, năng lực sử dụng vũ khí hạn chế, khả năng tấn công từ xa và kỹ thuật tác chiến chống tàu ngầm còn yếu; chưa phát triển được năng lực tác chiến biển xa đáng tin cậy.

Tương quan về Thế

Một số điểm “thuận lợi” đối với Trung Quốc

Các thách thức an ninh đối với Mỹ hiện không chỉ có ở Đông Bắc Á mà cả ở Đông Nam Á, nơi Mỹ gần như không hiện diện quân sự.13 Trung Quốc sẽ nhiều cơ hội “rảnh rang” hơn để vươn ra làm chủ khu vực.

Nhờ thi hành chính sách đối ngoại láng giềng, Trung Quốc thành công trong việc dùng quan hệ thương mại, viện trợ kinh tế để dành “tình cảm” của nhiều nước ASEAN. Tiềm lực quân sự của Trung Quốc hiện nay vượt xa tất cả các nước khu vực cộng lại.

Hợp tác quốc tế nổi bật nhất đến nay của quân đội Trung Quốc là tập trận với hải quân Nga, rèn luyện khả năng hoạt động ở các vùng biển xa nhằm mục tiêu ngăn chặn Mỹ. Trung Quốc còn mở rộng hoạt động sang Ấn Độ Dương, châu Phi, Địa Trung Hải, Ban-tích, Pri-mô-ri-e.

Một số điểm hạn chế về “Thế quân sự”

Việc thực hiện mục tiêu “cường quân” của Trung Quốc thách thức trực tiếp lợi ích và địa vị của Mỹ, làm cho thách thức an ninh của Trung Quốc tăng lên. Mỹ tăng cường hiện diện, củng cố các liên minh quân sự trong khu vực. Mỹ có căn cứ ở Hawaii, 54.000 quân đóng tại Nhật Bản, 28.500 quân đồn trú tại Hàn Quốc, tăng cường quan hệ quân sự, bán vũ khí cho Đài Loan. Tuy thực hiện chính sách “một Trung Quốc”, nhưng Mỹ vẫn đối xử với Đài Loan như “đồng minh”. Đồng thời, Mỹ lại có kế hoạch triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm xa giai đoạn cuối (THAAD) tại Hàn Quốc, đem mối họa đến gần biên giới Trung Quốc hơn, tạo nên thế bao vây, kiềm chế Trung Quốc ở phía Bắc. Mỹ tăng cường quan hệ quân sự với Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Áp-ga-ni-xtan, tạo thế kiềm chế Trung Quốc ở phía Nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và phía Tây. Biển Đông là môi trường tác chiến thuận lợi cho hải quân và không quân Mỹ khi can thiệp vào eo biển Đài Loan để bảo vệ vùng lãnh thổ này.

Do vậy, việc giành và giữ quyền khống chế Biển Đông trở nên rất quan trọng đối với việc duy trì sức mạnh quân sự của Mỹ ở Đông Á. Mỹ tỏ thái độ cứng rắn trong vấn đề Biển Đông, trong hoạt động ngoại giao cũng như trên thực địa nhằm kiềm chế Trung Quốc, cam kết đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không trên vùng biển này. Ngoài ra, từ năm 2016 tới nay, Mỹ tập trận chung với Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc để tăng cường khả năng phối hợp. Kiểm soát Biển Đông, tranh chấp trên Biển Hoa Đông, tăng cường sức mạnh tổng hợp, Trung Quốc đang tạo nên sức ép, nguy cơ đối với Mỹ, ngăn chặn sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Biển Đông. Không những thế, Trung Quốc từng bước ép Việt Nam, Phi-líp-pin và tất cả các nước khác phải chấp nhận yêu sách về Biển Đông của Trung Quốc, buộc các nước ven Biển Đông chạy đua vũ trang, làm cho khu vực thêm bất ổn.

Trong khi Mỹ có trên 60 đồng minh quân sự trên thế giới, thì Trung Quốc gần như không có đồng minh (trừ Triều Tiên và chừng mực nào đó là Cam-pu-chia); Trung Quốc vẫn bị bao vây trong vành đai đảo thứ nhất (từ Nhật kéo xuống Phi-líp-pin và Ma-lai-xi-a); ít kinh nghiệm tác chiến thực tế và chính trị nội bộ bất ổn. Những thách thức này sẽ tiếp tục gây khó khăn cho Trung Quốc.

Nhật Bản nỗ lực hiện đại hóa quân đội và tăng cường các chính sách an ninh, phản ứng nhanh, mạnh đối với việc Trung Quốc triển khai hoạt động “quân sự hóa” ở Biển Đông, tranh chấp quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư ở biển Hoa Đông. Nhật Bản lo lắng về các giàn khoan mới do Trung Quốc xây dựng trên vùng biển mà cả hai nước đều tuyên bố là vùng đặc quyền kinh tế. Nhật Bản luôn khẳng định không có tranh chấp vì quần đảo này thuộc chủ quyền của Nhật Bản cả về pháp lý lẫn lịch sử. Trong khi đó, các tàu hải giám Trung Quốc ngang nhiên đi vào vùng lãnh hải của Nhật Bản ở gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, khiến một số nhà phân tích dự đoán rằng cuộc tranh chấp này có thể leo thang thành xung đột.
Trung Quốc không chỉ cạnh tranh chiến lược với Mỹ, tranh chấp với Nhật Bản mà còn tranh chấp biên giới với Ấn Độ. Tranh chấp này tồn tại từ khi Ấn Độ mới ra đời. Ấn Độ cho rằng địa vị địa - chính trị của mình ở Nam Á bị Trung Quốc thách thức khi Trung Quốc thúc đẩy toàn diện ý tưởng “Vành đai và Con đường” đi qua khu vực Nam Á và Trung Á gần Ấn Độ.

Cạnh tranh, tranh chấp không chỉ diễn ra giữa Trung Quốc với các nước lớn, mà Trung Quốc còn uy hiếp chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển của các nước có yêu sách chủ quyền ở Trường Sa, làm gia tăng cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực, khiến môi trường an ninh Trung Quốc và các nước xung quanh Biển Đông phức tạp hơn.14 Trung Quốc có “truyền thống” dùng vũ lực đánh chiếm các đảo,15 do đó các nước khu vực tỏ lo ngại trước việc Trung Quốc tôn tạo đảo, đá, triển khai tên lửa, quân sự hóa các đảo nhân tạo.

Thay lời kết luận

Từ sau năm 2012, tiềm lực, sức mạnh, cũng như thế quân sự của Trung Quốc cải thiện rõ rệt. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 đặt mục tiêu đến năm 2035 cơ bản thực hiện hiện đại hóa quốc phòng và quân đội; đến giữa thế kỷ XXI, hoàn thành xây dựng quân đội Trung Quốc thành quân đội hàng đầu thế giới. Đây là nhiệm vụ không dễ dàng.

Hiện nay, Trung Quốc gặp không ít thách thức bên trong, lo bất ổn nội trị, sợ bị phong tỏa, sợ không kiểm soát được vấn đề Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao, sợ bị láng giềng tấn công trên bộ, sợ có lãnh thổ ly khai, sợ bị ném bom tầm xa, sợ bị tấn công vào các vị trí chiến lược, sợ tình hình leo thang hoặc mất kiểm soát. Bên ngoài, trên các hướng, trừ hướng phía Bắc, đều tồn tại những nguy cơ an ninh; những thách thức này tăng lên cùng với quá trình Trung Quốc vươn lên thành cường quốc khu vực, cường quốc toàn cầu, nên không dễ gì Trung Quốc có thể dành chiến thắng dễ dàng nếu gây ra chiến tranh với các nước lớn. Bên cạnh đó, cạnh tranh Trung - Mỹ gay gắt, “không hòa, không chiến”, không có điểm kết thúc ngay tại khu vực.

Không phải lúc nào cạnh tranh, xung đột giữa cường quốc mới nổi lên và cường quốc đang suy yếu cũng nổ ra chiến tranh. Nhưng với “giấc mộng Trung Hoa” và so sánh lực và thế quân sự Trung Quốc hiện nay với từng nước khu vực, không loại trừ khả năng Trung Quốc xâm lấn, đánh chiếm các đảo của các nước ven Biển Đông. Đây là điều các nước, nhất là các nước nhỏ và trung bình, cần cảnh giác, chuẩn bị lực lượng, phương án để sẵn sàng đối phó./.
Thiếu tướng, PGS, TS. Nguyễn Hồng Quân, Viện Chiến lược Quốc phòng. Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Học viện Ngoại giao, Số 1 (112) Tháng 3/2018.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Ngoại giao. Về cải cách quân đội Trung Quốc. Báo cáo tháng 12/2015.
2. Quốc vụ viện Trung Quốc. Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc. Năm 2015.
3. Robert, Haddick. Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific, Appapolis: Naval Institute Press. 2014.
4. South China Morning Post, ngày 14/7/2017. http://www.scmp.com/news/china.

1 Bộ Ngoại giao, Về cải cách quân đội Trung Quốc, Báo cáo tháng 12/2015.
2 là Bộ Tư lệnh Lục quân, Bộ Tư lệnh Tên lửa và Bộ Tư lệnh Hỗ trợ chiến lược.
3 Bộ Ngoại giao, Về cải cách quân đội Trung Quốc, Báo cáo tháng 12/2015.
4 Năm 2013, lục quân có 850.000 binh sĩ, hải quân có 235.000 binh sĩ và không quân có 3 98.000 binh sĩ.
5 Theo Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc, năm 2013, quân đội Trung Quốc có 1,483 triệu người, trong đó, lục quân 850.000, hải quân 235.000, không quân 398.000 người. Tháng 9/2015, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố tiếp tục cắt giảm 13% quân số (khoảng 300.000 quân), hoàn thành vào cuối năm 2017.
6 Trung Quốc đã có 2 tàu sân bay, 75 tàu ngầm, 29 tàu khu trục, 52 tàu hộ vệ, 162 tàu rải, quét thủy lôi, 265 tàu tên lửa, 240 tàu pháo, 98 tàu đổ bộ, 208 tàu bảo đảm và hậu cần. Bên cạnh đó, Trung Quốc có lực lượng không quân, hải quân với 140 máy bay ném bom, rải ngư lôi; 144 chiếc máy bay cường kích Q-5, JH-7, Su-30MK2; 10 máy bay tiêm kích; 31 máy bay trinh sát, tuần tra, chống ngầm; 3 máy bay tiếp dầu (nhằm phục vụ tác chiến xa, lâu); 174 trực thăng và máy bay vận tải; 122 máy bay huấn luyện. Số lượng tàu chiến hiện đại của Trung Quốc chiếm 7 % số lượng tàu nổi, trang bị tên lửa đất đối không tầm ngắn và tầm xa, tên lửa hành trình chống hạm siêu âm và hệ thống tác chiến chống ngầm nâng cấp. Tỷ trọng tàu ngầm tấn công hiện đại hóa của Trung Quốc năm 2010 tăng lên 48%, nay tăng lên 66%.
7 Trong hai năm, Trung Quốc đã bồi đắp các đảo nhân tạo, cải tạo 1.300 hecta đất trên các đảo ở Trường Sa, bằng tất cả các nước xung quanh thực hiện trong vòng 40 năm qua, diện tích rộng gấp 17 lần, không tính diện tích Trung Quốc đã cải tạo quần đảo Hoàng Sa.
8 Máy bay J-20 có tầm bay xa hơn, năng lực cung cấp nhiên liệu lớn hơn và mang được nhiều vũ khí hơn máy bay chiến đấu F-22 và F-35 của Mỹ. Đây là thách thức đối với Hàn Quốc và Nhật Bản.
9 DF-31 AG sử dụng nhiên liệu rắn, có khả năng di chuyển trên đường và có thể được phóng đi từ xe 8 cầu dùng để chuyên chở.So với tên lửa DF-31 và DF-31A, tên lửa DF-31AG có khả năng di chuyển và khả năng tồn tại tốt hơn. Tên lửa DF-31AG cùng với tên lửa DF-31A thể hiện vị thế cường quốc và năng lực quốc phòng của Trung Quốc.
10 Haddick, Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific, Appapolis: Naval Institute Press.
11 Dẫn theo South China Morning Post, ngày 14/7/2017.
12 Sau Mỹ, Nga và Pháp
13 Năm 1943, Mỹ xác định 66 vị trí chiến lược mà hải quân và không quân Mỹ cần bảo vệ để ngăn chặn các cuộc tấn công từ châu Á - Thái Bình Dương. Về sau, Mỹ lập các căn cứ quân sự trong khu vực đều dựa trên hệ thống 66 vị trí này. Sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ điều chỉnh, rút nhiều căn cứ và duy trì chủ yếu ở Đông Bắc Á.
14 In-đô-nê-xi-a tăng cường lực lượng tại quần đảo Natuna, triển khai hệ thống phòng không tối tân nhất, 4 đơn vị đặc nhiệm, trang bị hệ thống phòng không tầm trung trên đảo Pulau Natuna Besar, bố trí thêm 8 máy bay chiến đấu, một phi đội máy bay không người lái đến căn cứ không quân ở thủ phủ quần đảo Natuna; mở rộng hai căn cứ không quân và hải quân tại chỗ, tăng gấp đôi binh lính đồn trú, tới 2.000 quân. Mỹ giúp Phi-líp-pin hiện đại hóa Trung tâm Theo dõi Duyên hải và tăng cường chia sẻ tin tức tuyệt mật giữa Mỹ và Hải quân Phi-líp-pin.
15 Năm 1956 và năm 1974 Trung Quốc dánh chiếm Hoàng Sa, năm 1988 chiếm Johnson South Reef (đá Gạc Ma), Gaven Reef (đá Ga Ven), Hughes Reef (đá Tư Nghĩa) thuộc Trường Sa; năm 1995 Trung Quốc chiếm Mischief Reef (bãi đá Vành Khăn), năm 2012 chiếm bãi đá Scarborought...
0

Trung Quốc đang gian lận trong một trò chơi dối trá

Việc đổ lỗi cho Trung Quốc đe dọa kìm hãm tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do mà không thiết lập được bất cứ thứ gì thay thế cho nó – một cách tiếp cận mà chỉ có thể dẫn đến một vòng luẩn quẩn với hoạt động kinh tế bất thường ngày một gia tăng và xung đột mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa là nguyên nhân và kết quả của nhau và đẩy thế giới đi theo một chiều hướng rất nguy hiểm.


Cuộc chiến thương mại là dấu hiệu của việc một hệ thống toàn cầu đã trở nên rất tồi tệ.

Một thái độ mới đối với Trung Quốc đang nhanh chóng được định hình trên mọi khía cạnh của chính trị nước Mỹ. Thượng nghị sĩ Bernie Sanders (chính trị gia độc lập đến từ bang Vermont) nhắc lại các luận điểm của Tổng thống Donald Trump, chỉ trích việc chuyển giao công nghệ của Mỹ cho Trung Quốc và việc đầu tư vào đó. Thượng nghị sĩ có tư tưởng tiến bộ Elizabeth Warren (đảng viên Đảng Dân chủ đến từ bang Massachusetts) đứng về phía cựu Chiến lược gia trưởng của Nhà Trắng Steve Bannon kêu gọi phải có một chính sách “hung hăng”. Các đảng viên Đảng Dân chủ thuộc giới quyền uy như Thượng nghị sĩ Chuck Schumer, lãnh đạo phe thiểu số, đang ủng hộ cuộc chiến thương mại của Trump với Trung Quốc. Những người trung thành ủng hộ thương mại tự do như ban biên tập tạp chí Wall Street Journal và các cơ quan trong bộ máy chính quyền như Hội đồng quan hệ đối ngoại đang tìm điểm chung với các liên đoàn bảo hộ như Liên đoàn công nhân ngành thép và những tổ chức chỉ trích công đoàn như Tổ chức giám sát thương mại toàn cầu. Mặc dù vẫn có những khác biệt đáng kể về chính sách và chiến lược, nhưng mọi người dường như đều nhất trí rằng Trung Quốc đang tiến hành hoạt động thương mại theo kiểu trục lợi gây tổn hại đến công việc kinh doanh và lao động ở Mỹ, và đã đến lúc cần phải đối đầu.

Điều gây tò mò là không có bất kỳ phân tích nào về động lực của chính sách Trung Quốc trong những cuộc tranh luận này. Thay vào đó, chúng ta lại thấy một hình ảnh thô kệch về việc những người Trung Quốc dối trá quyết tâm lợi dụng những người Mỹ ngây thơ. Như Thượng nghị sĩ bang Oregon Ron Wyden, đảng viên cấp cao của Đảng Dân chủ thuộc Ủy ban tài chính Thượng viện, đã phát biểu tại một phiên điều trần vào tháng 3/2018: “Trung Quốc đã đánh cắp tài sản trí tuệ của chúng ta, o ép các công ty của Mỹ cho đến khi họ tiết lộ bí mật thương mại của họ, và thao túng các thị trường của mình một cách chiến lược nhằm cướp lấy công ăn việc làm và các ngành công nghiệp của Mỹ”. Hay như Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa John Cornyn thuộc bang Texas đã nói: “Đơn giản là chúng ta không thể để Trung Quốc làm xói mòn lợi thế an ninh quốc gia của chúng ta bằng cách né tránh luật pháp của chúng ta và khai thác các cơ hội đầu tư vì những mục đích bất chính”.

Hình ảnh này phản ánh theo những cách đáng lo ngại lịch sử lâu dài của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bài Trung Quốc ở Mỹ. Và giống như việc những người Trung Quốc nhập cư vào thế kỷ 19 bị đổ lỗi là nguyên nhân dẫn đến sự bất lực của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do trong việc tạo ra sự thịnh vượng được chia sẻ rộng rãi, Trung Quốc giờ đây cũng bị đổ lỗi là nguyên nhân khiến cho tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do không đạt được sự tăng trưởng mang tính tổng hòa.

Sự đối đầu mới xuất hiện với Trung Quốc chỉ là dấu hiệu gần đây nhất cho thấy rằng một điều gì đó đã trở nên rất tồi tệ trong nền kinh tế toàn cầu. Những người chỉ trích Trung Quốc không sai khi cho rằng Mỹ và Trung Quốc hiện đang bị kẹt trong một cuộc cạnh tranh được mất ngang nhau vì sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề không phải là Bắc Kinh mà là bản thân cấu trúc kinh tế toàn cầu. Khi người ta ngày càng thấy rõ rằng hình thức toàn cầu hóa hiện tại không còn khả năng thúc đẩy sự phát triển, thì việc chê bai Trung Quốc đã trở thành một sự thay thế cho việc phải đối mặt một cách thành thật với nhu cầu cấp thiết là phải biến đổi bản chất của tăng trưởng toàn cầu.

Nếu người Mỹ đơn giản là chấp nhận những hạn chế do cấu trúc hiện tại áp đặt và cố gắng đấu tranh để giải quyết nó trong phạm vi những hạn chế này, thì chúng ta đang tiến vào một chu kỳ xung đột đang tăng tốc từng bước. Đối với Trung Quốc, đó là vì vấn đề trung tâm không phải là thương mại mà là sự phát triển. Khi được nhìn nhận từ khía cạnh này thì điều trở nên rõ ràng là những đòi hỏi mà Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đang đưa ra không khác gì việc cắt đứt con đường để Trung Quốc tiến tới một xã hội giàu có hơn. Đối với ban lãnh đạo Trung Quốc, điều này đặt ra một mối đe dọa mang tính sống còn.

Đúng là nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ cao nhất trong lịch sử của nó trong 3 thập kỷ qua, cải thiện đáng kể mức sống của hàng trăm triệu người dân. Tuy nhiên, phần lớn người dân Trung Quốc vẫn hết sức nghèo khó vì họ xuất phát từ một mức thu nhập thấp và vì của cải được phân phối rất không đồng đều. Một báo cáo gần đây đã đưa ra mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình, được điều chỉnh theo sức mua, là 6.180 USD. Con số đó ở Mỹ là 43.585 USD – nhiều hơn 7 lần.

Trong khi nhiều tỉnh ven biển của Trung Quốc đã đạt đến mức phát triển cao, thì rất nhiều tỉnh nội địa vẫn chìm trong nền nông nghiệp quy mô nhỏ năng suất thấp. Ngay cả ở Thượng Hải, thành phố giàu có nhất Trung Quốc, đại đa số lao động vẫn phải làm thuê những công việc lương thấp, thường kéo dài ít nhất 12 tiếng/ngày như lao động đến gãy lưng trên các công trường xây dựng, vắt kiệt mồ hôi tại các công xưởng trong điều kiện nguy hiểm, vận hành các cửa hàng nhỏ với lãi suất vô cùng ít ỏi, làm nghề mại dâm, quét rác trên đường phố hay bới rác.

Sự vật lộn để có được một cuộc sống tốt đẹp trong điều kiện cạnh tranh dữ dội và khan hiếm chung đã khiến cho bất ổn xã hội trở thành tình trạng kinh niên ở Trung Quốc. Chính phủ không còn công bố dữ liệu thống kê về số lượng các cuộc đình công và phản kháng, và các phương tiện truyền thông chính thức hiếm khi đưa tin về chúng, nhưng hầu như không ai nghi ngờ về việc sự bất mãn đó vừa có chiều rộng vừa có chiều sâu. Theo thống kê không chính thức của tổ chức China Labour Bulletin, con số các cuộc bạo loạn của người lao động trong năm 2017 dừng ở mức 1.257 và trong 7 tháng đầu năm 2018, con số này đã lên tới 1.063. Vì những con số này chỉ phản ánh các trường hợp có thể biết được trên mạng, chủ yếu thông qua truyền thông xã hội, nên nhóm thống kê tin rằng con số thực tế có lẽ cao hơn thế 10 đến 20 lần.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kết luận rằng cách duy nhất để kiểm soát tình trạng bất ổn nguy hiểm này là tiếp tục quỹ đạo phát triển hiện tại và duy trì việc dịch chuyển Trung Quốc sang nền sản xuất có giá trị cao hơn. Điều họ lo ngại hơn cả là Trung Quốc có thể rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” mà ở đó quỹ đạo phát triển của một nước dừng lại và trì trệ, không đạt đến được trình độ tiên tiến. Các nước như Ai Cập, Thái Lan và Brazil bị rơi vào tình trạng như vậy, không đáp ứng được nguyện vọng của người dân nước họ và gây hỗn loạn chính trị rộng khắp.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức sâu sắc về trải nghiệm này cũng như những tiền lệ trước đó của Trung Quốc, kể cả các cuộc phản kháng tại quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989 do tình trạng lạm phát cao và sự trục trặc của nền kinh tế gây ra. Cách đây vài năm, Vương Kỳ Sơn – thường được coi là người đàn ông quyền lực thứ hai ở Trung Quốc – đã yêu cầu các cán bộ cấp cao phải đọc tác phẩm “Chế độ cũ và cuộc cách mạng” của nhà sử học người Pháp Alexis de Tocqueville, cảnh báo rõ ràng rằng tình trạng hiện nay của Trung Quốc giống như tình trạng nước Pháp ngay trước khi cuộc cách mạng nổ ra.

Sẽ không có một sức ép nào từ phía Mỹ thuyết phục được các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ bỏ chiến lược phát triển của họ khi họ cảm thấy đã rơi vào bước đường cùng. Nhưng tại sao lại như vậy? Việc đưa một đất nước đi lên từ đói nghèo và làm gia tăng cơ hội cho tất cả mọi người sẽ không phải là những mục tiêu gây tranh cãi. Vậy thì tại sao lại có nhiều người ở Mỹ vội vàng tóm lấy cơ hội để chỉ trích Trung Quốc vì điều đó đến vậy? Câu trả lời là theo hình thái toàn cầu hóa hiện nay, cách duy nhất để có được sự phát triển là gian lận – được định nghĩa là sự can thiệp đáng kể của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Chỉ có những nước lớn tạo được bước đột phá trong phát triển mới đúng là những nước thao túng các điều kiện mà nền kinh tế toàn cầu đưa ra.

Kết quả tăng trưởng trong 3 thập kỷ toàn cầu hóa vừa qua đã chứng tỏ điều này. Trong số các nước đông dân nhất có thu nhập thấp và trung bình, chỉ có Trung Quốc là chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể và bền vững về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người. Ngược lại, các nước khác đã cho thấy sự gia tăng vừa phải về mức thu nhập nhưng lại không có sự đột phá trong phát triển. Cấu trúc chung của các nền kinh tế này vẫn trì trệ – hoặc tồn tại trong tình trạng nghèo xác xơ hoặc bị cản trở đến mức còn lâu mới trở thành các nước giàu có.

Kỷ nguyên tăng trưởng toàn cầu hậu Chiến tranh thế giới thứ hai, dễ thích nghi hơn với các cơ chế đầu tư do nhà nước dẫn dắt, đã chứng kiến các nước như Brazil và Mexico phát triển nhanh chóng. Nhưng trong thời kỳ toàn cầu hóa thị trường tự do, cơ hội phát triển duy nhất của các nước nghèo là thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất để xuất khẩu hàng hóa sang các nước giàu. Sự lựa chọn thay thế khác có ý nghĩa, xuất khẩu các hàng hóa cơ bản từ dầu mỏ đến đồng rồi đậu nành, đã làm giàu cho một số người ở những nước nghèo nhưng nhìn chung lại không biến thành sự tăng trưởng trên diện rộng bởi các chu kỳ thịnh-suy diễn ra nhanh chóng và các thành tựu của những thị trường này trong lĩnh vực việc làm là có hạn.

Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan vào những năm 1960 và 1970 đã đi tiên phong trong việc xuất khẩu hàng hóa sản xuất như một chiến lược phát triển. Là đồng minh của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Lạnh trước khi ý thức hệ thị trường tự do được áp đặt trở lại, những chính phủ này hoàn toàn được tự do hướng các nguồn lực vào các ngành công nghiệp chiến lược. Điều có ý nghĩa không kém là sự cạnh tranh mà họ phải đối mặt trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa giá rẻ là rất hạn chế.

Khi ngày càng có nhiều quốc gia hội nhập chế độ toàn cầu hóa thị trường tự do bắt đầu vào đầu những năm 1980, sự tranh giành đầu tư và các thị trường xuất khẩu trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Càng có nhiều quốc gia sử dụng chiến lược này, càng khó cho bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào trong việc tích lũy tư bản họ cần để đổi mới căn bản nền kinh tế và duy trì sự gia tăng về của cải. Và không giống như sự phối hợp có chủ ý trong việc lập kế hoạch phát triển cho kỷ nguyên hậu chiến tranh, thị trường tự do có xu hướng chuyển các nguồn lực sang các nước vốn đã giàu có vì những nước này hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao nhất. Kết quả là, 3/5 đầu tư nước ngoài trong kỷ nguyên toàn cầu hóa rơi vào tay 1/8 dân số thế giới tập trung ở những nước giàu.

Vì thị trường người tiêu dùng toàn cầu vẫn luôn có giới hạn, nên các nước nghèo bị buộc phải cạnh tranh gay gắt với nhau. Việc theo đuổi sự phát triển thông qua các công xưởng bóc lột công nhân thậm tệ có nghĩa là chỉ có những nước duy trì được nguồn lao động rẻ mới thu hút thành công đầu tư nước ngoài. Nếu giá lao động bắt đầu tăng – nghĩa là nếu tăng trưởng kinh tế bắt đầu mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người lao động – thì nguồn đầu tư nước ngoài sẽ dịch chuyển đi nơi khác.

Kết quả là, nhiều nước đã chứng kiến việc dòng đầu tư đổ vào không để lại bất kỳ di sản lâu dài nào vì nguồn vốn nhanh chóng ra đi khi người lao động bắt đầu đưa ra các yêu cầu hay khi có sẵn các lựa chọn rẻ hơn. Chẳng hạn, Mexico đã chứng kiến một vài làn sóng đầu tư nước ngoài quy mô lớn. Tuy nhiên, mức lượng là không đổi trong hơn một thập kỷ, tỷ lệ đói nghèo chiếm hơn một nửa dân số, và số lượng công ăn việc làm trong ngành sản xuất hiện giờ vẫn giữ ở mức như trong năm 1960.

Trung Quốc đã thoát khỏi cái bẫy này chính xác là vì họ có các phương tiện cần thiết để gian lận trong khi chơi trò chơi dối trá này. Khi Trung Quốc bước vào cuộc cạnh tranh để phát triển trong những năm 1980, họ lấy làm hãnh diễn vì có một lực lượng lao động có kỷ luật và học thức đến mức khác thường, cơ sở hạ tầng đặc biệt tiên tiến và một nền tảng công nghiệp rất đa dạng so với các nước khác có cùng trình độ phát triển. Từ năm 1989 đến năm 2016, Trung Quốc đã thu hút 1/5 toàn bộ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước đang phát triển.

Nhưng chỉ mình đầu tư thì không tạo ra được sự phát triển. Khu vực Mỹ Latinh, trong cùng giai đoạn, đã thu hút được một phần thậm chí còn lớn hơn trong số FDI cho các nước đang phát triển – 1/4 – mà không đạt được sự tăng trưởng bùng nổ như đã thấy ở Trung Quốc.

Giống như ban lãnh đạo của hầu hết các nước nghèo, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) xác nhận sự phát triển là mục tiêu trung tâm cho tính chính danh của mình. Nhưng ở các nước khác, quyền lực chủ yếu được thiết lập thông qua các mạng lưới nhà bảo trợ-khách hàng chắp vá, chỉ liên kết theo kiểu ký sinh với hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại, nhà nước Trung Quốc là nhà nước trung ương tập quyền tới mức khác thường và sở hữu quyền kiểm soát cũng ở mức độ khác thường đối với nền kinh tế.

Trung Quốc chắc chắn không phải là không có sự bảo trợ và tham nhũng, nhưng trong hệ thống đảng-nhà nước từ trên xuống dưới, các quan chức thăng tiến bằng cách có được những con số thống kê đẹp về nền kinh tế vĩ mô và đóng góp vào chính sách công nghiệp do trung ương quyết định. Do có mối quan hệ gần gũi giữa quan chức và doanh nghiệp nên có thể theo đuổi sự bảo trợ thông qua việc đầu tư có hiệu quả thay vì chỉ thông qua việc bòn rút các nguồn lực.

ĐCSTQ đã nuôi dưỡng các lực lượng thị trường để đưa lực lượng lao động vào kỷ luật và các công ty tư nhân vẫn duy trì khả năng của họ trong việc giám sát các mô hình đầu tư lớn. Bằng việc dồn vốn để tăng cường các ngành công nghiệp chiến lược và kiến thức chuyên môn, ban lãnh đạo đã từng bước dịch chuyển lần lượt các lĩnh vực của nền kinh tế hướng đến một nền sản xuất ngày càng tiên tiến. Trong các lĩnh vực từ đồ chơi và dệt, đến thép và hóa chất, rồi đến xe hơi và hàng không và bây giờ là công nghệ thông tin và robot tiên tiến, nhà nước đã từng bước thúc đẩy nền sản xuất đi lên.

Nếu tầm nhìn đặc biệt này và năng lực của nhà nước mang lại động lực thúc đẩy Trung Quốc phát triển, thì chính vị thế thương lượng vững chắc có một không hai của Trung Quốc đã cho phép nước này thực hiện thành công các kế hoạch của mình. Thị trường rộng lớn và ngày càng phát triển của Trung Quốc đã thuyết phục được các tập đoàn lớn của nước ngoài đầu tư theo các điều khoản đã được đàm phán với nước này thay vì đơn phương áp đặt các điều kiện của riêng họ, như họ từng làm với ngành sản xuất ở Mỹ Latinh hay ngành công nghiệp khai khoáng ở châu Phi. Đáng chú ý nhất là Trung Quốc đã yêu cầu các tập đoàn nước ngoài bước vào thị trường trong nước phải tham gia liên doanh với các công ty Trung Quốc, điều cho phép các công ty trong nước học được các thông lệ về quản lý và công nghệ của thế giới các nước phát triển. Trung Quốc cũng đã đặt ra các quy định nhằm đảm bảo các điều kiện có lợi để các doanh nghiệp Trung Quốc được cấp phép sử dụng công nghệ của các công ty nước ngoài.

Chính phủ Trung Quốc và cá nhân một số công ty của Trung Quốc cũng đã giành được quyền tiếp cận công nghệ tiên tiến thông qua tình báo công nghiệp. Trong việc này, họ đã đi theo một con đường mà mọi quốc gia khác từng thành công về kinh tế đã đi qua – nhất là Mỹ. Vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, nước Mỹ non trẻ và lạc hậu về công nghệ đã hăng hái tham gia đánh cắp và chuyển giao bất hợp pháp các kỹ thuật sản xuất mũi nhọn từ nước Anh.

Tuy nhiên, việc công khai đánh cắp chỉ đóng một vai trò nhỏ trong chiến lược của Trung Quốc. Ngay cả Đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer, một người hiếu chiến ủng hộ đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc, cũng không dám nói rằng tình báo công nghiệp là một thành tố chính cấu thành nên chính sách của Trung Quốc nhằm thâu tóm thành công công nghệ tiên tiến. Báo cáo của Văn phòng Đại diện thương mại Mỹ sau cuộc điều tra của họ về “chế độ chuyển giao công nghệ bất hợp pháp” của Trung Quốc theo Mục 301 của Luật thương mại Mỹ năm 1974 tập trung rất nhiều vào các cuộc chuyển giao được thực hiện thông qua hoạt động liên doanh, các quy định về cấp phép và việc các công ty Trung Quốc thu mua các công ty nước ngoài – tất cả những điều này hẳn sẽ không xảy ra nếu các công ty nước ngoài có liên quan đều không sẵn sàng thỏa thuận. Mỗi một hình thức chuyển giao công nghệ đơn giản là một trường hợp khác của nguyên tắc chung về thị trường rằng các bên tham gia có sức mạnh thương lượng lớn hơn sẽ luôn đạt được những thỏa thuận tốt hơn cho mình. Phân tích cho cùng, Trung Quốc đã giành được quyền tiếp cận công nghệ không phải bằng cách gian lận mà vì họ không yếu đến mức thảm hại như những nước khác cũng đang hy vọng phá vỡ thế độc quyền của các nước giàu vốn dựa vào kỹ thuật để đạt năng suất cao.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã phải trả giá rất đắt cho chiến lược phát triển. Nhu cầu của Trung Quốc về đầu tư nước ngoài xuất hiện đồng thời với chiến dịch dài hạn của các tập đoàn ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản nhằm cắt giảm tiền lương và phá vỡ sức mạnh của các liên đoàn. Sự sẵn có của lao động Trung Quốc giá rẻ cho phép các tập đoàn này ép buộc người lao động phải chấp nhận mức lương trì trệ và điều kiện làm việc ngày càng tồi tệ trước sự đe dọa dịch chuyển sản xuất ra nước ngoài, góp phần đáng kể vào sự sụp đổ của khế ước xã hội ở những nước phát triển.

Chiến lược của Trung Quốc cũng tước đi khả năng phát triển của các nước nghèo khác. Một lần nữa ở đây, sức mạnh của nhà nước Trung Quốc đảm bảo nước này có một lợi thế quan trọng so với các đối thủ cạnh tranh, không chỉ trong việc cung cấp cho tư bản nước ngoài một lực lượng lao động giá rẻ và có kỷ luật và cơ sở hạ tầng có chất lượng cao một cách khác thường, mà còn bằng việc duy trì tỷ giá hối đoái thấp cho đồng nhân dân tệ. Điều này bảo đảm lợi thế về giá cả cho hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc khiến các nước khác bị gạt sang một bên.

Đặc biệt là người dân Trung Quốc cũng phải chịu đựng rất nhiều. Vì sự tăng trưởng dựa vào xuất khẩu đòi hỏi phải khai thác mạnh mẽ lực lượng lao động, nên Trung Quốc đã phá hủy có hệ thống sức dao động. Kết quả là, lao động Trung Quốc đã phải chịu đựng điều kiện làm việc nguy hiểm, mức lương nghèo nàn, tình trạng thường xuyên bị đánh cắp tiền lương và bị sỉ nhục ở nơi làm việc trong nhiều thập kỷ. Điều gây kinh hoàng là 38.000 lao động Trung Quốc đã mất mạng trong các tai nạn xảy ra tại nơi làm việc vào năm 2017.

Mặc dù sự phát triển đã mở ra các cơ hội kinh tế cho phần lớn người Trung Quốc, nhưng hệ thống trung ương tập quyền từ trên xuống dưới vốn cần thiết để đạt được sự phát triển theo tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do đã hạn chế đáng kể những lĩnh vực tự do khác ở Trung Quốc. Xuất hiện cùng với sự gia tăng về của cải là tình trạng tham nhũng mang tính đặc hữu, sự sa sút của các dịch vụ công và việc của cải rõ ràng chỉ được phân phối cho các tầng lớp trên. Vì dân thường ngày càng dễ bị ảnh hưởng bởi các lực lượng thị trường, nên họ đã phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng dữ dội, tình trạng bất ổn gia tăng và sự đổ vỡ lòng tin và cộng đồng đi kèm tình trạng như vậy. Sự phát triển làm xói mòn thay vì thúc đẩy các triển vọng dân chủ hóa của nước này.

Những vấn đề này không phải chỉ có ở Trung Quốc. Tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do đã khiến cho người lao động ở tất cả các nước phải cạnh tranh với nhau trong tình trạng đối kháng theo kiểu “cuộc đua đến đáy” (các công ty cạnh tranh với nhau bằng cách cắt giảm tiền lương và điều kiện làm việc – ND). Không nên đổ lỗi cho bên thắng cũng như bên thua trong cuộc chiến này về các hậu quả. Vấn đề là bản thân cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu.

Sự dư thừa năng lực là vấn đề thực sự, cũng như sự cạnh tranh khắc nghiệt mà việc phát triển có kế hoạch của nền sản xuất công nghệ cao của Trung Quốc có thể gây ra cho các khu vực năng động nhất của nền kinh tế Mỹ. Nhưng thay vì cản trở sự phát triển ở Trung Quốc, một hình thức toàn cầu hóa mới có thể giải quyết các vấn đề này bằng cách nâng cao mức lương và năng suất trên toàn thế giới. Cách tiếp cận mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa tìm cách hạn chế sự cạnh tranh bằng cách giới hạn nguồn cung, trong khi cách tiếp cận thay thế sẽ giải quyết tình trạng dư thừa năng lực và hạn chế về thị trường bằng cách mở rộng nhu cầu.

Nhưng một giải pháp như vậy đòi hỏi phải có một sự suy tính lại về sự tăng trưởng toàn cầu ở mức độ sâu sắc hơn nhiều so với những gì mà các chính trị gia dù là cánh tả hay cánh hữu đã dự tính. Nó đòi hỏi phải chấm dứt “cuộc đua đến đáy”: một chế độ toàn cầu về các quyền của người lao động mà sẽ phân phối lợi ích thu được từ sự tăng trưởng một cách rộng rãi hơn và đồng thời buộc các tập đoàn phải cạnh tranh bằng cách đầu tư vào lao động của họ thay vì làm cho các điều kiện làm việc trở nên tồi tệ hơn. Nó cũng đòi hỏi phải dành các khoản đầu tư đáng kể cho hàng tỷ người hiện đang cần vốn – các khoản đầu tư mà thị trường tự do từ chối bỏ ra – nhằm biến những người bị mắc kẹt trong các khu ổ chuột, khu biệt cư và các khu vực nông thôn bị bần cùng hóa trở thành người lao động và người tiêu dùng trong tương lai.

Việc đổ lỗi cho Trung Quốc đe dọa kìm hãm tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do mà không thiết lập được bất cứ thứ gì thay thế cho nó – một cách tiếp cận mà chỉ có thể dẫn đến một vòng luẩn quẩn với hoạt động kinh tế bất thường ngày một gia tăng và xung đột mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa là nguyên nhân và kết quả của nhau và đẩy thế giới đi theo một chiều hướng rất nguy hiểm. Một con đường khác sẽ đòi hỏi đối đầu với các nhóm lợi ích đầy quyền lực, ở Mỹ cũng như ở Trung Quốc. Trái ngược với tư duy dân tộc chủ nghĩa lợi ích ngang nhau, lựa chọn thay thế là một tầm nhìn thực sự mang tính toàn cầu về sự phát triển.

Jake Werner là nhà sử học về Trung Quốc hiện đại. Ông là Phó giáo sư về Khoa học Xã hội Đại học Chicago, Mỹ. Bài viết được đăng trên Foreign Policy.

Trần Quang (gt)
0

Các điểm yếu chiến lược của Trung Quốc

Trung Quốc trong thế kỷ 21 có thể sở hữu cỗ máy quân sự mạnh mẽ với kho vũ khí tên lửa có khả năng bắn tới lục địa Mỹ, tuy nhiên, Vạn lý trường thành trên bộ và Vạn lý trường thành trên biển, là những đảo đá được gia cố và cải tạo ở Biển Đông, vẫn có thể khiến Trung Quốc dễ bị tổn thương.


Trung Quốc có thể có một Tập Cận Bình chỉ huy bộ máy quân sự đáng gờm này và kể từ năm 2013 đã tiến hành chủ nghĩa phiêu lưu quân sự, song con đường theo đuổi “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập đang ngày càng làm tính dễ bị tấn công chiến lược của Bắc Kinh gia tăng. Vì vậy, cơ quan chính sách của Ấn Độ và các cơ quan tình báo liên quan cần tập trung nghiên cứu tính chất dễ bị tấn công mang tính chiến lược này của Trung Quốc và thường xuyên có những đánh giá về cách thức lợi dụng tính chất này để đối phó với sức mạnh quân sự vượt trội của Bắc Kinh. Phải thừa nhận rằng trong vòng 10 năm trở lại đây, Trung Quốc có tiềm lực quân sự có khả năng đe dọa về mặt quân sự và chính trị trong phạm vi các nước láng giềng. Mặc dù vậy, Bắc Kinh vẫn thiếu cả khả năng viễn chinh và khả năng tập hợp lực lượng để triển khai các chiến dịch ở tận Vùng Vịnh hoặc ở quy mô mà Mỹ và Nga có thể làm được.

Vì vậy, những nước đối địch của Trung Quốc cần nghiên cứu tính chất dễ bị tấn công về mặt chiến lược và địa chính trị của Trung Quốc khi đánh giá sức mạnh quân sự của Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh môi trường an ninh khu vực hiện nay. Việc đánh giá này không đơn thuần dựa trên những năng lực quân sự cũng như những hành động gây hấn của Bắc Kinh, mà dựa vào tính khách quan và các thuật ngữ quân sự đơn giản.

Đối với khía cạnh dễ bị tổn thương hay dễ bị tấn công về mặt địa chính trị, Trung Quốc nằm giữa hai cường quốc Mỹ và Nga. Ngoài ra, khu tự trị Tây Tạng, một điểm yếu khác của Trung Quốc, lại sát với Ấn Độ. Bắc Kinh và Washington trong năm 2018 này vẫn trong tình trạng đối đầu và mối quan hệ giữa Bắc Kinh và New Delhi cũng trong tình trạng tương tự. Moskva có thể duy trì quan hệ chiến lược với Bắc Kinh song đây chỉ là một kiểu quan hệ mang tính chiến thuật. Trong khi đó, sườn phía Thái Bình Dương của Trung Quốc là các quốc gia có mối quan hệ liên minh quân sự với Mỹ ở các cấp độ khác nhau. Trong đó, Nhật Bản là một cường quốc có quan hệ liên minh quân sự mạnh mẽ với Washington và vai trò của Tokyo cũng nổi lên trong cấu trúc an ninh khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Sự phân cực cạnh tranh hàng hải với Trung Quốc cũng nổi lên mạnh mẽ sau những hành động quyết đoán của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Xét ở khu vực địa chính trị châu Á hẹp hơn, Trung Quốc không có bạn bè. Tại Đông Á, ngoài Triều Tiên thì các nước khác không ưa gì Bắc Kinh. Ở khu vực Đông Nam Á, mặc dù Trung Quốc có thể thành công trong việc chia rẽ ASEAN song nhìn chung, ngoài Campuchia và và ở mức độ nào đó là Thái Lan, thì Trung Quốc không thể dựa vào bất kỳ nước nào sau những hung hăng quân sự của họ ở Biển Đông. Khu vực Nam Á lại đặt ra thách thức địa chính trị nghiêm trọng cho Bắc Kinh bất chấp sự nổi lên của trục Trung Quốc-Pakistan. Còn ở Trung Đông, Bắc Kinh không phải là nhân tố làm thay đổi cuộc chơi trong khu vực đang chứng kiến sự cạnh tranh giữa các cường quốc như Mỹ và Nga. Tóm lại, ở châu Á, mặc dù Trung Quốc gia tăng mở rộng quân sự nhưng cán cân quyền lực về mặt địa chính trị vẫn là những thách thức mà Bắc Kinh phải đối mặt trước mạng lưới liên minh quân sự và đối tác chiến lược của Mỹ với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Úc.

Xét ở góc độ chiến lược, Trung Quốc vẫn còn kém xa các liên minh quân sự và địa chính trị đối đầu với Bắc Kinh. Do không có sức mạnh nào bù đắp cho sự yếu kém này, Bắc Kinh khó có thể đem lại cái gọi là “cấp số nhân lực lượng” cho mình. Bên cạnh đó, không thể nói rằng môi trường chính trị và an ninh nội bộ lại giúp tăng cường sức mạnh tổng thể cho Bắc Kinh khi các khu vực biên giới như Tây Tạng và Tân Cương vẫn chìm trong bất ổn. Cùng với sự suy giảm tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu hàng chế tạo kèm theo đó là thu nhập giảm và tình trạng thất nghiệp, sự bất bình trong nước sẽ gia tăng. Thêm vào mối đe dọa này là sự che dấu tình trạng bất ổn (chính trị) có thể gây nên bởi giới chức cấp cao trong Đảng Cộng sản, trong quân đội và những quan chức bị xử với cáo buộc tham nhũng do họ chống lại quyền lực của Tập. Trung Quốc hoàn toàn không thể bị tổn thương như giới phân tích chiến lược lâu nay tuyên bố. Thực tế, Bắc Kinh cũng có những yếu tố dễ bị tổn thương mang tính chiến lược rõ ràng vốn có thể hủy hoại sức mạnh tổng thể của mình nếu đi sâu phân tích kỹ lưỡng.

Theo “Eurasia review”
Hương Trà (gt)

Nguồn bài đăng: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-trung-quoc/6903-cac-diem-yeu-chien-luoc-cua-trung-quoc
0

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2018

Sông Mekong trong các tính toán địa chính trị của Trung Quốc

Với việc đã xây dựng 6 đập lớn ở thượng nguồn và dự kiến xây mới 21 đập khác, năng lực của Trung Quốc trong việc trữ và xả nước trong suốt mùa khô và trong thời gian hạn hán chắc chắn sẽ tăng lên.


Bản đồ đập thủy điện trên sông Mekong

Sông Mekong là nguồn sống của hàng trăm nghìn người sống hai bên bờ trải dài từ Trung Quốc xuyên qua Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Trận lụt tồi tệ hồi tháng trước do vỡ đập thủy điện đang được xây dựng ở Lào khiến khoảng 30 người thiệt mạng. Sự cố cũng gây thiệt hại rộng khắp đối với nền kinh tế bản địa, khiến 6.000 người mất nhà cửa và đặt ra câu hỏi về việc quản lý, khai thác hiệu quả sông Mekong.

Tuy nhiên, con sông vốn rất nổi tiếng qua phim ảnh và thu hút vô số khách du lịch mỗi năm có tác động vượt ra ngoài yếu tố thương mại và giao thương. Các khoản tiền đã được đổ vào đây, khi mà các nước - thường là qua các công ty nhà nước hoặc được nhà nước "chống lưng" - đua nhau xây dựng các nhà máy thủy điện. Những nước nhỏ hơn, nghèo hơn như Campuchia và Lào luôn chào đón những khoản đầu tư này, ngay cả khi nó bị gắn kèm những ràng buộc chiến lược.

Là cường quốc lớn nhất khu vực và cũng là nước mà dòng Mekong khởi nguồn từ bình nguyên Tây Tạng, Trung Quốc đang không ngừng sử dụng ảnh hưởng kinh tế để đạt được các mục tiêu lớn hơn. Quyền kiểm soát lớn hơn đối với sông Mekong, còn được biết đến với cái tên Lan Thương trong tiếng Trung Quốc, tới tận miền Nam Việt Nam giúp Bắc Kinh có tiếng nói quyết định trong việc sử dụng nguồn lực chủ chốt của sông và có ưu thế để ép các nước phải đi theo những tính toán chính trị của mình.

Elliot Brennan, chuyên gia nghiên cứu cao cấp tại Viện An ninh và Phát triển Chính sách có trụ sở tại Bangkok, bình luận: “Trung Quốc vẫn chưa sử dụng toàn bộ ảnh hưởng tuyệt đối, nhưng nếu thực thi, Bắc Kinh có đủ sức mạnh tạo ra nạn đói và bất ổn dân sự. Ảnh hưởng ngày một lớn của Trung Quốc trên hệ thống sông này, thông qua các đập thủy điện ở thượng nguồn và các dự án liên doanh xây dựng đập thủy điện ở hạ nguồn sông Mekong là một nửa trong cái gọi là chiến lược lát cắt salami ở Đông Nam Á”, với hàm ý nửa còn lại là chiến lược xây dựng một chuỗi đảo nhân tạo, cơ sở hạ tầng và tiềm lực quân sự tại đó.

Với việc đã xây dựng 6 đập lớn ở thượng nguồn và dự kiến xây mới 21 đập khác, năng lực của Trung Quốc trong việc trữ và xả nước trong suốt mùa khô và trong thời gian hạn hán chắc chắn sẽ tăng lên. Giới quan sát đôi khi mô tả Mekong sẽ là điểm nóng địa chính trị kế tiếp tại khu vực. Chưa đến mức căng thẳng như tranh chấp ở Biển Đông - vùng biển mà Trung Quốc đã cải tạo hàng nghìn mẫu vuông, thiết lập các đồn bốt quân sự ở những đảo, đá - nhưng sông Mekong rồi cũng sẽ đến lúc nóng hơn cả Biển Đông. Đó là bởi giá trị của sông Mekong như một tuyến đường sông thông ra biển, chạy qua vựa lúa của Đông Nam Á, nơi mà gạo và các cây trồng chủ chốt khác được trồng cấy, là nguồn lợi về cá tôm và cũng là điểm đến của du lịch.

Tại sông Mekong cũng như Biển Đông, Trung Quốc đang triển khai chiến lược “củ cà rốt” (đầu tư) lẫn cây gậy (sức ép quân sự và ngoại giao). Trong lúc các công ty trong nước đứng ra thu xếp vốn để mở rộng mạng lưới đập thủy điện xây dựng dọc sông, Trung Quốc tìm cách tối đa hóa tiếng nói quyết định của mình về việc trị thủy dòng chảy của Mekong trên toàn bộ chiều dài 4.350km.

Được thành lập năm 1995, Ủy hội sông Mekong từng đóng vai trò là cơ chế quản lý sông Mekong giữa Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam trong suốt 20 năm qua. Tuy nhiên, điều đó đã thay đổi vào năm 2016, với việc Trung Quốc chính thức cho ra đời Cơ chế Hợp tác Lan Thương-Mekong (LMCM). Thay vì hợp tác với Ủy hội sông Mekong, tổ chức mà Trung Quốc không là thành viên, Bắc Kinh tập trung xây dựng LMCM thành thiết chế giúp thúc đẩy phát triển miền Tây Trung Quốc và bổ sung, hỗ trợ sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI) với mục tiêu mở rộng các tuyến đường bộ, đường biển vươn tới châu Âu.
Với quy chế thành viên bao gồm tất cả các nước Đông Nam Á lục địa, LMCM có quy mô lớn hơn so với Ủy hội sông Mekong. LMCM xử lý các vấn đề chính trị và an ninh, như sức khỏe, giáo dục, hạ tầng cũng như phát triển bền vững sông Mekong và hợp tác kinh tế xuyên biên giới. LMCM cũng giúp điều phối hoạt đồng tuần tra hỗn hợp với các tàu quân sự của Trung Quốc.

Trong khi đó, Mỹ lại tập trung vào sáng kiến Hạ lưu sông Mekong - quan hệ đối tác được hình thành từ năm 2009 để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện tại 5 nước hạ nguồn. Tại cuộc gặp ở Singapore ngày 4/8 vừa qua, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã nhấn mạnh rằng các nước Đông Nam Á là những đối tác chiến lược then chốt của Mỹ và tuyên bố “việc tạo lập tăng trưởng công bằng, bền vững, toàn diện cho tiểu vùng này không chỉ mang lại lợi ích cho các nước ASEAN, vai trò trung tâm của ASEAN, mà còn cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở”. Đó là các tuyên bố rất đáng chú ý. ASEAN, dưới góc độ là một tổ chức, về cơ bản đang né tránh chỉ trích hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Bắc Kinh nhất quyết đòi giải quyết tranh chấp với các nước Đông Nam Á trên nền tảng song phương, chứ không phải thông qua ASEAN. Đặc biệt, việc Trung Quốc hỗ trợ kinh tế cho Lào và Campuchia đã góp phần làm chia rẽ các nước trong ASEAN - vốn đưa ra mọi quyết định thông qua nguyên tắc đồng thuận.

Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị coi LMCM là “một cấu thành quan trọng” của hợp tác Trung Quốc-ASEAN. Thế nhưng, “một đặc điểm nổi bật của sông Mekong chính là việc dòng chảy địa lý phản ánh thứ bậc địa chính trị ở khu vực: Một Trung Quốc quyền lực ở thượng lưu, trong khi những nước nhỏ hơn, kém phát triển hơn nằm ở hạ lưu. Có thể thấy rõ điều này qua việc các nước hạ nguồn miễn cưỡng hoặc không dám chỉ trích bất kỳ hành động khai thác nào của Trung Quốc ở thượng nguồn”, Sebastian Strangio - một nhà báo, nhà phân tích chuyên về tình hình Đông Nam Á hiện sống ở Thái Lan bình luận.

Theo “Bloomberg

Mỹ Anh (gt)

Nguồn bài đăng: http://nghiencuubiendong.vn/tin-quoc-te-tong-hop/7045-song-mekong-trong-cac-tinh-toan-a-chinh-tr-ca-trung-quc
0

Thứ Hai, 16 tháng 4, 2018

Video: Quân đội Trung Quốc trang bị tên lửa liên lục địa mới

Lực lượng pháo binh Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) mới được trang bị một lữ đoàn tên lửa với các loại tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa mới.

CCTV nói Trung Quốc sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoàn toàn đối với loại vũ khí mới này. Lữ đoàn này được trang bị tên lửa sau một thời gian thử nghiệm.

Tên lửa này có thể triển khai nhanh cho các cuộc phản công hạt nhân, hoặc các cuộc tấn công chính xác thông thường vào các mục tiêu trên đất liền hoặc các tàu chiến cỡ lớn và trung bình trên biển ở tầm trung và xa, làm cho nó trở thành trụ cột trong kho vũ khí của chiến lược của Trung Quốc.

0

Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2018

Những căn cứ hải quân mới của Trung Quốc ở nước ngoài chỉ là vấn đề thời gian

Trong quá trình phát triển hạm đội tàu chiến gồm tàu nổi và tàu ngầm, Trung Quốc sẽ xem xét những khả năng khác nhau xây căn cứ quân sự ở nước ngoài, chủ yếu gần các căn cứ hải quân của Mỹ.


Trả lời phỏng vấn của Sputnik, các chuyên gia Nga bình luận về thông tin của hãng Fairfax Media (Úc) về kế hoạch của Trung Quốc xây dựng một căn cứ hải quân ở Vanuatu. Chính phủ Vanuatu cũng như các nguồn quân sự và ngoại giao chính thức ở Bắc Kinh đã bác bỏ thông tin của hãng tin Úc.
0

Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2018

Năm bài học rút ra từ vụ Philippines kiện Trung Quốc về Biển Đông

Việc khởi kiện Trung Quốc là thời khắc lịch sử trong quan hệ đối ngoại của Philippines: Bởi đây là lần đầu tiên Philippines tìm đến luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp chính trị.


Đổi lại, nỗ lực này đã nhận được “sự đền đáp”, ít nhất là từ góc độ quan điểm pháp lý. Vào ngày 12/7/2016, hơn 3 năm sau khi khởi kiện vào ngày 22/1/2013, Manila đã đạt được phán quyết có lợi vốn làm rõ các khía cạnh quan trọng của tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Rodrigo Duterte đã gác “giải thưởng pháp lý” này vào xó tủ.
Giới chỉ trích nói rằng Tổng thống Duterte đã không tận dụng phán quyết này, song họ đã không nhìn nhận được những hạn chế tồn tại trong chính cách tiếp cận pháp lý này. Biện pháp pháp lý này đã chỉ rõ việc chuyển các tranh chấp lên một tòa án quốc tế để đưa ra một phán quyết có tính ràng buộc theo luật pháp quốc tế. Nếu Philippines cân nhắc sử dụng phán quyết này một lần nữa để giải quyết tranh chấp, thì các nhà hoạch định chính sách ngoại giao cần hiểu rõ về khả năng được tuân thủ cũng như những hạn chế của phán quyết này.

Phán quyết của Tòa trọng tài về Biển Đông có thể đem lại một số sự hiểu biết đáng giá về tính chất phức tạp của biện pháp pháp lý để xử lý tranh chấp. Rút kinh nghiệm từ Philippines, các nước có thể cân nhắc 5 vấn đề khi tính đến con đường pháp lý để giải quyết tranh chấp.

Thứ nhất, biện pháp pháp lý chỉ có tính khả thi nếu tuyên bố chủ quyền có cơ sở pháp lý chặt chẽ và nếu vụ kiện có thể được đưa lên một tòa án có quyền hạn xét xử. Trong trường hợp của Philippines, khi khởi kiện, Manila tin rằng tuyên bố chủ quyền của họ sẽ trụ vững trước tòa, nhất là trước quan điểm của Trung Quốc. Ví dụ, các tài liệu trong hồ sơ vụ kiện của Philippines có cơ sở vững chắc trong Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS), không giống như tuyên bố chủ quyền “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh.

Ngoài ra, các nước có thể xem xét đưa tranh chấp lên hai loại tòa án: Tòa thường trực và tòa trọng tài. Trích dẫn nhận định của một học giả, bài viết cho rằng chi phí trả cho tòa thường trực ít tốn kém hơn và nhìn chung thường có uy tín hơn, khiến các phán quyết mà tòa này đưa ra có thẩm quyền cao hơn. Vì vậy, sự lựa chọn loại tòa án cần mang tính chiến lược. Trường hợp của Philippines, Manila đã lựa chọn tòa trọng tài chứ không phải tòa thường trực. Lý do là trước đó, cả Trung Quốc và Philippines đều không chấp thuận đưa vụ kiện lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) hoặc Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển. Mặc dù Philippines lúc đó có thể đàm phán một thỏa thuận đặc biệt với Trung Quốc để cùng trao quyền hạn xét xử vụ kiện cho một trong hai loại tòa án thường trực nói trên, song Manila hiểu rõ rằng Bắc Kinh sẽ khước từ một thỏa thuận như vậy, đồng thời hiểu rõ rằng cơ chế trọng tài phân xử theo Phụ lục VII của UNCLOS cho phép tiến hành vụ kiện ngay cả khi Trung Quốc sẽ từ chối tham gia. Thế nên, Manila đã chọn một tòa trọng tài để khởi kiện.

Thứ hai, biện pháp pháp lý không loại trừ các biện pháp khác để xử lý tranh chấp một cách hòa bình, và trên thực tế, có thể kết hợp với các biện pháp khác, như thương lượng, tham vấn, trung gian hòa giải, và tìm kiếm sự hỗ trợ của các cơ quan quốc tế và khu vực. Mặc dù Hiến chương Liên hợp quốc nói rằng biện pháp pháp lý là cách duy nhất để giải quyết tranh chấp nhưng trên thực tế, Philippines đã kết hợp đồng thời 2 biện pháp khác: biện pháp chính trị thông qua sự can dự đa phương của ASEAN và biện pháp ngoại giao tức là tiếp tục thảo luận song phương với Trung Quốc về các vấn đề khác.
Thứ ba, nếu các nước quyết tâm theo đuổi con đường pháp lý thì họ cần đồng thời tìm cách ngăn chặn xung đột và tìm ra các chiến lược quản lý xung đột. Bởi thực tế là ngay cả khi con đường pháp lý mang tính hòa bình và phụ thuộc vào sự chấp thuận của cả hai bên, song bên bị kiện vẫn coi hành động này là mang tính thù địch, do đó có nguy cơ hủy hoại quan hệ song phương. Đơn cử là Philippines đã hứng chịu việc Trung Quốc áp đặt các lệnh cấm nhập khẩu hàng nông sản từ Philippines.

Thứ tư, biện pháp pháp lý rốt cục phải phụ thuộc vào việc chính các bên thực thi phán quyết, nếu chỉ dừng lại ở việc đạt được một phán quyết nghiêng về một bên, thì chưa thể coi là biện pháp pháp lý này đã kết thúc. Việc Trung Quốc bác bỏ thực thi phán quyết đã chứng minh điều này vì nó cho thấy không có quyền lực nào cao hơn để có thể buộc các nước tuân thủ các phán quyết quốc tế. Thông thường, khi một bên không sẵn sàng thực thi phán quyết, thì bên còn lại sẽ phải tìm các cách để buộc phải tuân thủ. Chính quyền Philippines ban đầu đã nỗ lực kêu gọi quốc tế gia tăng sức ép trước việc Trung Quốc không tuân thủ, song đến thời Duterte, Manila đã quyết định gạt phán quyết sang một bên để cải thiện quan hệ với Bắc Kinh, hy vọng rằng điều này cuối cùng sẽ giúp định hình môi trường khu vực thuận lợi hơn cho việc tuân thủ. Các nước khác có thể đối mặt với vấn đề tương tự như tình huống này vì ngay cả khi một bên đồng ý đưa tranh chấp lên tòa quốc tế hoặc tòa trọng tài giải quyết thì sự chấp thuận này không phải là một tấm thẻ căn cước để đảm bảo rằng bên đồng ý đó rốt cục sẽ tuân thủ phán quyết.

Thứ năm, biện pháp pháp lý không thể đảm bảo tranh chấp được giải quyết. Bản thân phán quyết của tòa trọng tài là một bước đi quan trọng tiến tới giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, song phán quyết này lại luôn được đặt trong mối quan hệ với các thực tế chính trị. Mặc dù phán quyết của tòa trọng tài về vụ kiện của Philippines mang tính toàn diện khi làm rõ các vấn đề trong vụ kiện, nhưng các tranh chấp sẽ không thể được giải quyết khi vẫn tiếp tục thiếu vắng ý chí chính trị và cam kết của các bên.

Với 5 lưu ý trên, rõ ràng bài học rút ra từ vụ kiện Trung Quốc của Philippines là biện pháp pháp lý vốn tự thân có hạn chế và tính hiệu quả của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Sự lựa chọn loại hình tòa án, cách triển khai đồng thời các biện pháp quản lý và ngăn chặn xung đột, và một chiến lược hậu phán quyết để đảm bảo sự tuân thủ là những yếu tố quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng hơn cả việc soạn thảo được các tuyên bố chủ quyền có cơ sở pháp lý chặt chẽ.

Tác giả Adcel John A.Ibarra là chuyên gia nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ quốc tế và chiến lược. Bài viết đăng trên “Foreign Service Institute.

Viết Tuấn (gt)

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/6927-nm-bai-hc-rut-ra-t-v-philippines-kin-trung-quc-v-bin-ong
0

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2018

Trung Quốc tập trận 'chuẩn bị cho chiến tranh' ở biển Đông


Chiến đấu cơ của Không quân Trung Quốc đã diễn tập trên vùng trời Biển Đông 🌊, nơi mà Bắc Kinh gọi là Biển Nam Hải, và Tây Thái Bình Dương.

Bắc Kinh thông báo tin trên hôm Chủ Nhật, 25/3/2018, và nói diễn tập là hành động tốt nhất để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh.

"Việc tập trận của lực lượng không quân là nhằm tập dượt cho các cuộc chiến trong tương lai và là công tác chuẩn bị trực tiếp nhất cho việc chiến đấu," thông cáo của Không quân Trung Quốc viết.

"Nhiều loại chiến đấu cơ khác nhau đã bay qua eo biển Miyako tới Tây Thái Bình Dương để thử năng lực chiến đấu trong vùng biển quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế," phát ngôn viên Không quân Trung Quốc Thân Tiến Khoa nói.

"Chúng tôi cũng đã cử các chiến đấu cơ tới Biển Nam Hải, chủ yếu thực hiện các hoạt động tuần tra chiến đấu trên không, tập huấn xâm nhập và tấn công, nhằm nâng cao năng lực, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ."

0

Trung Quốc tập trận 'chuẩn bị cho chiến tranh' ở biển Đông


Chiến đấu cơ của Không quân Trung Quốc đã diễn tập trên vùng trời Biển Đông 🌊, nơi mà Bắc Kinh gọi là Biển Nam Hải, và Tây Thái Bình Dương.

Bắc Kinh thông báo tin trên hôm Chủ Nhật, 25/3/2018, và nói diễn tập là hành động tốt nhất để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh.

"Việc tập trận của lực lượng không quân là nhằm tập dượt cho các cuộc chiến trong tương lai và là công tác chuẩn bị trực tiếp nhất cho việc chiến đấu," thông cáo của Không quân Trung Quốc viết.

"Nhiều loại chiến đấu cơ khác nhau đã bay qua eo biển Miyako tới Tây Thái Bình Dương để thử năng lực chiến đấu trong vùng biển quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế," phát ngôn viên Không quân Trung Quốc Thân Tiến Khoa nói.

"Chúng tôi cũng đã cử các chiến đấu cơ tới Biển Nam Hải, chủ yếu thực hiện các hoạt động tuần tra chiến đấu trên không, tập huấn xâm nhập và tấn công, nhằm nâng cao năng lực, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ."

0

Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2018

Trung Quốc dùng chính sách "ngoại giao chủ nợ" để tăng cường sức mạnh trên biển

Hãng tin Reuters ngày 20/02/2018 dẫn nguồn tin từ báo chí Hoa lục cho biết chỉ riêng trong tháng này, đã có đến 11 chiến hạm Trung Quốc đi vào Ấn Độ Dương, vào lúc cuộc khủng hoảng ở quần đảo Maldives đang gay gắt.


Một góc cảng Hambantota, Sri Lanka.
0

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Trung Quốc đã biến Úc thành con rối như thế nào?

Đó là tựa cuốn sách sắp xuất bản và được dự báo sẽ gây tranh luận dữ dội. Sách cho biết hàng ngàn điệp viên Trung Quốc đang len lỏi từ nghị trường đến nhà thờ, trong cả các trường đại học và các…


Doanh nhân bất động sản hay trùm điệp viên Huang Xiangmo (bìa phải)? - Ảnh: ABC
0

Thứ Ba, 20 tháng 2, 2018

Tham vọng quân sự của Trung Quốc ở Cam Bốt và trong khu vực

Trong khuôn khổ « Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện », Trung Quốc và Cam Bốt sẽ tổ chức cuộc diễn tập quân sự « Rồng Vàng » lần thứ hai vào tháng 03/2018. Trong khi đó, Cam Bốt đã hủy bỏ cuộc tập trận « Angkor Sentinel » hàng năm với Hoa Kỳ, và nêu lý do là cần huy động quân đội để bảo đảm sự ổn định trong việc tổ chức các cuộc bầu cử trong năm 2017 và 2018.


Bộ trưởng Quốc Phòng Cam Bốt Tea Banh tiếp một chỉ huy hải quân Trung Quốc tại Phnom Penh, ngày 17/10/2016.
0

Thứ Tư, 7 tháng 2, 2018

Trung Quốc điều siêu chiến đấu cơ Su-35 xuống biển Đông

(Vibay blog - Tp. HCM) Các máy bay chiến đấu Su-35 Trung Quốc đã được điều tới Biển Đông, Không quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAAF) đã công bố vào hôm thứ Tư 07/02/2018 trong một động thái nhằm phản ứng "sự khiêu khích của Mỹ vào tháng Giêng", Global Times, tờ báo được xem là phiên bản ngôn luận đối ngoại của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cho hay.

0

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018

Qua mặt Mỹ, Trung Quốc lắp pháo điện từ trên tàu chiến?

Mạng xã hội Trung Quốc gần đây lan truyền những hình ảnh cho thấy nước này rất có thể đã trang bị pháo điện từ (railgun) cho một tàu chiến.

Trung Quốc lắp pháo điện từ trên tàu chiến?
0

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017

Phản kháng toàn cầu chống Trung Quốc đang gia tăng

(kbchn) - Một sự phản kháng toàn cầu (global backlash) chống lại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đang hình thành.

Ở châu Âu, lời cảnh báo ngày càng gay gắt nhắm vào lối làm ăn kiểu con buôn của Trung Quốc và tham vọng của nước này muốn thâu tóm nhanh các doanh nghiệp châu Âu có công nghệ sáng tạo…


Ở Hoa Kỳ, cộng đồng các doanh nhân, từ lâu là nền móng cho quan hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, giờ đã không còn nhất trí trong vấn đề làm thế nào theo đuổi quan hệ với Bắc Kinh. Nhiều doanh nghiệp Mỹ bị thua lỗ ở Trung Quốc. Kết quả là, nhiều vấn đề khác – chẳng hạn như hoạt động gián điệp công nghiệp của Trung Quốc, yêu cầu có tính cưỡng bức về chuyển giao công nghệ, sử dụng truyền thông do nhà nước quản lý để tuyên truyền thân Bắc Kinh ở Hoa Kỳ và những nỗ lực tác động tới các cơ sở giáo dục Hoa Kỳ… – đang thôi thúc phải có phản ứng. Thực tế, các doanh nghiệp Trung Quốc tìm cách mua các công nghệ cao của Hoa Kỳ đã phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn. Đã có những cuộc thảo luận ở quốc hội về việc buộc các đài truyền hình và mạng cáp do nhà nước Trung Quốc điều hành nhưng hoạt động ở Hoa Kỳ phải đăng ký như là cơ quan đại diện cho chính phủ nước ngoài.

Sự phản kháng này xảy ra vào lúc Bắc Kinh thể hiện một niềm tin chưa từng có trước đây vào mô hình kinh tế và chính trị của họ, trong đó kết hợp sự cai trị độc tài của đảng Cộng sản Trung Quốc với một chính sách công nghiệp đặt mục tiêu bảo đảm các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ thống trị nền kinh tế của tương lai. Mục tiêu này được thực hiện thông qua trợ cấp của chính phủ, hoạt động nghiên cứu và phát triển được chính phủ tài trợ lớn và thâu tóm công nghệ của phương Tây. Từ tháng 7-2016, trong bài diễn văn chào mừng kỷ niệm 95 năm thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã bắt đầu sử dụng cụm từ “giải pháp Trung Quốc” để khẳng định rằng Trung Quốc đã tìm ra cái gọi là “giải pháp cho cuộc tìm kiếm của nhân loại về những thiết chế xã hội tốt hơn”. Từ đó đến nay, cụm từ này lan truyền chóng mặt ở Trung Quốc và được các lý thuyết gia của đảng Cộng sản Trung Quốc chọn làm ý tưởng để đối lập với ảnh hưởng của phương Tây trên thế giới. Như một cây bút của tờ Nhân dân nhật báo – cơ quan phát ngôn của đảng – viết hôm 6-12, giải pháp Trung Quốc “vượt qua ‘chủ nghĩa lấy phương Tây làm trung tâm’ (Western centrism) và kích thích mạnh mẽ sự thăng tiến của nhiều quốc gia đang phát triển tự tin ‘đi theo con đường của riêng mình’”.

Sự phản kháng cũng hình thành khi nhiều người ở phương Tây lo ngại rằng Trung Quốc đang thắng cuộc cạnh tranh toàn cầu giành tài nguyên, thị phần và ảnh hưởng tư tưởng. Trong khoảng thời gian tổng thống Trump họp thượng đỉnh ở Trung Quốc hồi tháng 11, báo chí Hoa Kỳ đầy những nỗi lo lắng rằng Trung Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ trong cuộc đua lãnh đạo toàn cầu. “Tại sao Trung Quốc thắng năm 2017 và ông Donald Trump đã giúp họ thực hiện điều đó như thế nào” là một nhan đề trên trang web của đài CNN ngày 3-11. “Trung Quốc đã thắng” là cách tạp chí Time đưa lên trang bìa tiêu đề một bài của nhà phân tích chính trị Ian Bremmer. USA Today cũng vậy.

Điều thú vị là phản ứng tiêu cực với sự trỗi dậy của Trung Quốc lại trái ngược với các báo cáo rằng Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của ông Trump đã không còn khả năng hợp tác với các đồng minh truyền thống của Mỹ. Nhưng trong các tuần lễ gần đây, chính phủ của ông Trump đã tham gia cùng Liên minh châu Âu (EU) bác bỏ yêu cầu của Trung Quốc rằng theo các điều khoản mà nước này tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì Trung Quốc cần được cấp quy chế nền kinh tế thị trường – một quy chế giúp bảo vệ Trung Quốc khỏi thuế chống bán phá giá. Tại hội nghị các bộ trưởng WTO ở Buenos Aires (Argentine) tuần trước, Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản đã đối đầu với Trung Quốc về sự miễn cưỡng của nước này trong việc giảm bớt sản xuất công nghiệp và những cung cách buôn bán có vấn đề khác.

Trong chuyến công du châu Á hồi tháng 11, tổng thống Trump bắt đầu sử dụng cụm từ “Ấn Độ-Thái Bình Dương” chứ không phải là “châu Á-Thái Bình Dương” như một cách báo hiệu cho khu vực này về ý định của Hoa Kỳ đưa cả Ấn Độ vào nỗ lực cân bằng sức nặng đang tăng lên của Trung Quốc về quân sự và kinh tế. Bên lề hội nghị Cấp cao Đông Á tại Manila, các quan chức Hoa Kỳ đã gặp gỡ các đối tác từ Úc, Nhật Bản và Ấn Độ, làm hồi sinh cái sẽ được biết tới như là “bộ Tứ” (the Quad) – một tập hợp lỏng lẻo bốn nền dân chủ duyên hải đang lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Ngoài ra, cái ấn tượng được cảm nhận rộng rãi rằng ông Trump thắng cử dẫn tới sự suy yếu ảnh hưởng của Hoa Kỳ cũng đã thôi thúc các quốc gia châu Á tiếp tục tìm phương thức an toàn để kháng cự lại Trung Quốc khi không có Hoa Kỳ. Chẳng bao lâu sau ngày bước vào Phòng Bầu dục, ông Trump đã kéo nước Mỹ ra khỏi hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định thương mại quy tụ 12 quốc gia bên bờ Thái Bình Dương. Động thái đó được coi là báo hiệu cho cái chết của TPP, nhưng không phải như vậy. Lo ngại rằng cái chết của hiệp định này sẽ cho phép Trung Quốc áp đặt các điều kiện của họ lên quan hệ kinh tế ở châu Á, 11 nước còn lại đã tiếp tục tiến về phía trước với một hiệp định sửa đổi. Bên cạnh đó, quan hệ song phương giữa các nền dân chủ châu Á vẫn tiếp tục vững mạnh và đang được cải thiện. Nhật Bản đã giữ một vai trò quan trọng, nếu không nói là thiết yếu, trong việc khích lệ Ấn Độ gia tăng ảnh hưởng ở châu Á. Nhật đã giúp điều phối một hội nghị cấp cao ở New Delhi, giữa Ấn Độ và các thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó tập trung vào cách làm thế nào Ấn Độ có thể giúp các quốc gia này bớt lệ thuộc vào Trung Quốc về thương mại và đầu tư.

Phản ứng kháng cự lại Trung Quốc không chỉ bó hẹp trong các nước dân chủ. Ngay cả những quốc gia có quan hệ gần gũi với Trung Quốc trong lịch sử cũng đã bắt đầu nổi giận với cách đối đãi cậy quyền cậy thế xuất phát từ Bắc Kinh như là một phần của chương trình hạ tầng “Một vành đai, một con đường”. Trong lúc Trung Quốc cố gắng giới thiệu chương trình này như là phiên bản Trung Quốc của kế hoạch Marshall, càng ngày nó càng được coi như một thứ gì đó họ hàng với chủ nghĩa thực dân phương Tây hơn là với sự hào phóng phương Tây. Sri Lanka hiện mắc nợ các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc hơn 8 tỉ đô la Mỹ. Tuần trước, chính phủ nước này đã phải giao hải cảng chiến lược Hambantota cho Trung Quốc thuê 99 năm như là một phần kế hoạch thoát ra khỏi bẫy nợ nần – một động thái mà những người phê phán nói rằng sẽ đe dọa chủ quyền quốc gia của đất nước. Ở Ấn Độ, các học giả đề cập tới động thái của Trung Quốc như là “chính sách ngoại giao bẫy nợ”. Ngay cả Pakistan, có lẽ là đối tác nước ngoài gần gũi nhất của Trung Quốc, cũng có vẻ như đang suy nghĩ lại việc nhận tiền từ Bắc Kinh. Express Tribune, một nhật báo Pakistan, tường thuật rằng chính phủ nước này đã hủy bỏ một dự án thủy điện trị giá 14 tỉ đô la sau khi Bắc Kinh nói rõ rằng họ muốn sở hữu dự án sau khi xây dựng nó. Nepal cũng đã công bố rằng nước này hủy bỏ một dự án thủy điện do Trung Quốc tài trợ cũng với những lý do tương tự.

Cho đến nay, phản ứng của Trung Quốc đối với mối lo ngại ngày càng tăng về sức mạnh của Trung Quốc có xu thế nghiêng về hướng công kích. Ở Úc, đại sứ quán Trung Quốc cảnh cáo chính phủ Úc không nên gây thiệt hại cho “sự tin tưởng lẫn nhau” khi nước này xem xét thông qua các đạo luật nhằm bảo vệ hệ thống chính trị của Úc trước ảnh hưởng của đồng tiền nước ngoài. Sau khi thủ tướng Úc Malcolm Turnbull lưu ý “các báo cáo đáng lo ngại về ảnh hưởng của Trung Quốc”, thì đại sứ quán Trung Quốc lưu ý các quan chức Úc không được đưa ra “những nhận xét vô trách nhiệm”. Đại sứ quán Trung Quốc cũng cáo buộc báo chí Úc ngụy tạo những tin tức về “cái gọi là ảnh hưởng của Trung Quốc và sự thâm nhập vào nước Úc”.

Trong nhiều thập niên, các chính phủ nối tiếp nhau ở Washington đã làm việc vì một nước Trung Quốc vững mạnh hơn. Nhưng giờ đây khi Trung Quốc đã mạnh mẽ hơn thì Hoa Kỳ, cùng với nhiều nước khác trên khắp thế giới, đã không còn dám chắc rằng, đó là điều mà họ mong muốn.

John Pomfret: The global backlash against China is growing
Washington Post, 19 December 2017

Người dịch: Huỳnh Hoa

(*) John Pomfret từng là trưởng văn phòng báo Washington Post tại Bắc Kinh. Ông cũng là tác giả sách “The Beautiful Country and the Middle Kingdom: America and China, 1776 to the Present”.
0