Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hải quân Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hải quân Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2018

TQ sẽ xây căn cứ ngầm dùng AI ở Biển Đông

Trung Quốc đang lên kế hoạch để xây dựng một căn cứ khoa học và quân sự ngầm ở Biển Đông. Căn cứ này sẽ được vận hành bằng trí tuệ nhân tạo (AI).

Theo South China Morning Post (SCMP), dự án Hades vừa được lập tại Viện Khoa học Trung Quốc trong tháng 11, sau khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới thăm một viện nghiên cứu tại thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam.

Ông Tập đã khuyến khích những nhà khoa học và kỹ sư ở đây làm một điều chưa từng có. Các nhà khoa học tại dự án Hades dự định xây dựng một căn cứ tại vùng sâu nhất của đại dương, ở độ sâu từ 6.000-11.000 m.


Tàu ngầm Qianlong III của Trung Quốc. Các tàu ngầm tự động sẽ đóng vai trò quan trọng trong dự án này. Ảnh: Weibo.
0

Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2018

Những căn cứ hải quân mới của Trung Quốc ở nước ngoài chỉ là vấn đề thời gian

Trong quá trình phát triển hạm đội tàu chiến gồm tàu nổi và tàu ngầm, Trung Quốc sẽ xem xét những khả năng khác nhau xây căn cứ quân sự ở nước ngoài, chủ yếu gần các căn cứ hải quân của Mỹ.


Trả lời phỏng vấn của Sputnik, các chuyên gia Nga bình luận về thông tin của hãng Fairfax Media (Úc) về kế hoạch của Trung Quốc xây dựng một căn cứ hải quân ở Vanuatu. Chính phủ Vanuatu cũng như các nguồn quân sự và ngoại giao chính thức ở Bắc Kinh đã bác bỏ thông tin của hãng tin Úc.
0

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Bí mật đáng xấu hổ của tàu ngầm Trung Quốc

18/11/2012- Không có tên lửa đạn đạo nên đến nay gần như toàn bộ các tàu ngầm nguyên tử của Trung Quốc vẫn chỉ để làm cảnh. Đáng xấu hổ hơn nữa, chính bản thân các tàu ngầm của Trung Quốc cũng tỏ ra thiếu độ tin cậy.

Với tham vọng trở thành “cường quốc biển”, nhiều năm qua Trung Quốc đã rất tích cực phát triển công nghệ tàu ngầm nhưng đến nay, giới quân sự Mỹ vẫn có cái nhìn rất khinh thường đối với tàu ngầm Trung Quốc.

Sự khinh thường này không phải không có cơ sở.

Bấy lâu nay, dư luận quốc tế thường cho rằng tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc là nhắm đến vùng ngư trường rộng lớn và nguồn dầu mỏ, khí đốt dồi dào. Điều này không sai nhưng trong con mắt của các nhà quân sự thế giới, việc muốn biến Biển Đông thành “ao nhà” còn nhằm phục vụ một mục đích khác của hải quân Trung Quốc: biến vùng biển này thành một hải cảng an toàn khổng lồ cho các hạm đội tàu ngầm “ồn ào” của họ.

Và đó cũng chính là lý do vì sao Trung Quốc cố làm mọi cách để ngăn cản hải quân các nước khác xuất hiện trong vùng biển này.


Dù có đội tàu ngầm khá hùng hậu, nhưng hải quân Trung Quốc vẫn bị thế giới coi thường.

Theo các chuyên gia quân sự, các tàu ngầm nguyên tử có mang theo tên lửa đạn đạo (SSBN) của Trung Quốc hiện vẫn chưa thể khắc phục được điểm yếu chết người là độ ồn quá cao. Nếu các SSBN này muốn tiếp cận một mục tiêu nào đó, chúng rất dễ bị phát hiện và trở thành mồi ngon cho các hệ thống chống tàu ngầm vốn đã khá hiện đại của Mỹ hay phương Tây.

Với khoảng cách từ Biển Đông đến các mục tiêu trên lãnh thổ Mỹ là khoảng 13.000 km và tầm bắn tối đa của các tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm là 11.000 km, Trung Quốc sẽ có lợi thế rất lớn trong kế hoạch tạo ra một lực lượng “răn đe” với Mỹ chỉ với một nỗ lực nâng tầm bắn của tên lửa thay vì một nhiệm vụ khó khăn hơn rất nhiều là chế tạo ra những chiếc tàu ngầm có độ ồn thấp, có thể qua mặt hệ thống cảnh báo sớm của các tàu ngầm Mỹ hay sự phát hiện của các máy bay trinh sát hiện đại.

Nhưng công việc cải tiến và nâng tầm bắn của các tên lửa đạn đạo cũng không hề dễ dàng đối với Trung Quốc. Trong nhiều năm qua, quân đội nước này đã nỗ lực thử nghiệm và phát triển dòng tên lửa JL-2 (Julang-2), loại tên lửa đạn đạo có thể phóng từ biển (SLBM) nhưng kết quả không được như mong đợi.

Tên lửa JL-2 có trọng lượng 42 tấn, tầm bắn 8.000 km và là một phiên bản dùng cho hải quân của loại tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) DF-31. Nếu JL-2 thành công Trung Quốc có thể sử dụng trên các SSBN lớp 094 và nhắm tới bất kỳ mục tiêu nào trên đất Mỹ. Mỗi chiếc SSBN lớp 094 có thể mang theo 12 tên lửa loại này.

Đáng lẽ, JL-2 đã phải được đưa vào sử dụng từ 4 năm trước, nhưng các cuộc thử nghiệm liên tiếp thất bại nên giờ này hải quân Trung Quốc đành phải xếp chúng vào dạng “dự án treo”.


Một vụ phóng thử tên lửa đạn đạo từ tàu ngầm JL-2 của Trung Quốc được tường thuật trên đài truyền hình trung ương.

Không có SLBM nên đến nay gần như toàn bộ các SSBN của Trung Quốc vẫn chỉ để làm cảnh. Đáng xấu hổ hơn nữa, chính bản thân các tàu ngầm của Trung Quốc cũng tỏ ra thiếu độ tin cậy. Đến nay, Trung Quốc đã tự sản xuất được 2 thế hệ tàu ngầm SSBN.

Thế hệ thứ nhất được ra đời từ những năm 1980 thuộc lớp 092 nhưng nó có quá nhiều vấn đề nên không được hải quân Trung Quốc sử dụng trong các nhiệm vụ thực tế mà chỉ được dùng để phục vụ công tác huấn luyện trong những vùng biển gần bờ.

Trung Quốc chỉ sản xuất duy nhất 1 chiếc SSBN lớp 092 nhưng kể cả đến thế hệ SSBN lớp 094 cũng mang trên mình không ít những vấn đề kỹ thuật.

Có một nỗi xấu hổ nữa của các tàu ngầm Trung Quốc mà hải quân nước này cố tình giấu nhẹm đi là những chiếc SSBN lớp 093 bị giới công nghệ quốc phòng thế giới vạch mặt là “quá giống những chiếc tàu ngầm Victor III lớp SSN đã có hơn 30 năm tuổi của hải quân Nga”.

“Chỉ cần nhìn qua người ta cũng thấy chiếc tàu ngầm lớp 093 của Trung Quốc chẳng qua chỉ là chiếc Victor III có gắn thêm khoang phóng tên lửa”, một chuyên gia về tàu ngầm của Mỹ phát biểu.

Bước sang thế hệ SSBN lớp 094, thiết kế của tàu ngầm Trung Quốc vẫn gần như không có gì thay đổi nhiều và đặc biệt là thiết kế dựa trên tàu ngầm lớp SSN có trang bị thêm khoang phóng tên lửa là một “thủ thuật” mà Mỹ đã sử dụng từ những năm 1950 khi họ sản xuất những chiếc SSBN đầu tiên.

Vậy mà phải đến năm 2006, chiếc SSBN lớp 093 đầu tiên của Trung Quốc mới chính thức được đưa vào hoạt động và SSBN lớp 094 chỉ khác là có kích thước lớn hơn với lượng giãn nước lên tới 9.000 tấn.

Hối hả phát triển SSBN lớp 094 và tên lửa JL-2 với dự tính là có thể nhắm tới các mục tiêu trên đất Mỹ sẽ giúp cho Trung Quốc trở nên tự tin hơn khi “nói chuyện phải quấy” với nước này. Nhưng đến nay, sau khi những chiếc SSBN lớp 094 đã đi vào phục vụ được 3 năm, chúng vẫn phải hoạt động chay (không mang theo tên lửa hạt nhân).

Dẫu vậy, ngay khi vừa cho hạ thủy được 2 chiếc tàu ngầm lớp 093, Trung Quốc đã tỏ ra khá “vênh vang” mặc dù họ biết thừa rằng những chiếc SSBN này có độ ồn quá lớn và một danh sách dài những điểm yếu kỹ thuật chưa thể khắc phục.

Một số nguồn tin cho biết, ngoài SSBN lớp 094, hiện Trung Quốc cũng đang rất tích cực trong việc phát triển các thế hệ tiếp theo như lớp 095 và có thể là cả lớp 096.


Sau 3 năm hoạt động, tàu ngầm của Trung Quốc vẫn chưa được trang bị tên lửa JL-2

Để phát triển và sản xuất những chiếc tàu ngầm lớp 093, 094 Trung Quốc đã mất cả một thập kỷ. Đơn cử như với mẫu SSBN lớp 094, Trung Quốc đã khởi động từ những năm 1990 nhờ vào những công nghệ mua từ Nga và một số công nghệ do họ tự phát triển được nhờ rút kinh nghiệm từ các thế hệ trước nhưng sau đó nhiều năm, những chiếc tàu ngầm này liên tục xuất hiện lỗi kỹ thuật.

Có điều, với quyết tâm “thất bại là mẹ thành công”, Trung Quốc vẫn tiếp tục theo đuổi việc xây dựng một lực lượng tàu ngầm hùng mạnh, đủ sức đối đầu với Mỹ.

Giới tình báo Mỹ gần đây báo cáo cho biết, Trung Quốc đang tập trung vào mẫu thiết kế SSBN lớp 096 hoàn toàn mới, đồng thời họ cũng đã thu được những thành tựu rất đáng kể từ các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa phóng từ mặt đất nên việc họ thành công trong việc cải biến SLBM chỉ còn là vấn đề thời gian.

Để dọn đường cho thành công này, trước tiên Trung Quốc phải giữ cho được Biển Đông, các quan chức tình báo và quân đội Mỹ nhận định.

Lê Trí (Infonet)
1

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

Thực lực Hải quân Trung Quốc qua những con số

(Dân trí-07/12/2011) - “Trung Quốc chỉ có một hàng không mẫu hạm, nhưng có lực lượng tàu chiến nổi quy mô lớn nhất châu Á, bao gồm 75 chiến hạm chủ lực, 55 tàu lưỡng cư loại lớn và vừa, khoảng 85 tàu tuần tra trang bị tên lửa…”. >> Chủ tịch Trung Quốc yêu cầu hải quân sẵn sàng cho xung đột vũ trang.


Đó là những con số được báo chí Hồng Kông đưa ra hồi tháng 8.
Còn sau khi Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Hồ Cẩm Đào hối thúc hải quân nước này “sẵn sàng cho xung đột vũ trang và đẩy mạnh hiện đại hóa hải quân như một phần trong nỗ lực bảo về nền hòa bình thế giới”, ngày 6/12, hãng tin AFP đã cho đăng những con số “chính” để minh họa thực lực của Hải quân Trung Quốc.

Theo AFP, khi 2/3 thế giới là đại dương, hải quân trở thành sức mạnh thực sự của một nước. Lực lượng Hải quân - đóng vai trò quan trọng trong mục tiêu của Trung Quốc trở thành một cường quốc quân sự trên thế giới, gồm có:

- 300.000 lính trong tổng số 2,3 triệu binh sĩ thuộc Quân Giải phóng Nhân dân (PLA), trong đó bộ binh là 1,7 triệu.

- Ba hạm đội: Bắc Hải (đóng ở Thanh Đảo), Đông Hải (ở Ninh Ba) và Nam Hải (ở Trạm Giang).

- Tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Trung Quốc, được đặt tên là Shi Lang, mới được thử chạy thử trên biển lần đầu tiên vào ngày 10/8.

- Khoảng 30 tàu nổi cỡ lớn (gồm cả các tàu khu trục trang bị tên lửa).

- Khoảng 50 tàu chiến hiện đại.

- Khoảng 60 tàu ngầm thông thường và 6 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân.

- Một số ít tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo.

“Điểm nhấn” của Hải quân Trung Quốc…


Do ảnh hưởng của nhiều nhân tố như chiến lược hải quân, thực lực kinh tế và trình độ kỹ thuật, binh chủng Hải quân Trung Quốc thời kỳ đầu lấy việc phát triển tàu ngầm, không quân-hải quân và tàu cao tốc làm chủ đạo.

Nhưng sau đó, việc Trung Quốc - trước là úp mở, sau đó công khai tàu sân bay đầu tiên - cho thấy những thay đổi trong chiến lược hải dương của nước này.

Hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc (mua lại của Ukraine và được nâng cấp lại) là một trong ba hệ thống vũ trang có thể xem như tiêu biểu cho việc mở rộng tầm chiến lược của Trung Quốc, ngoài loại máy bay tàng hình đầu tiên mà Trung Quốc đang chế tạo và một loại tên lửa tầm xa có khả năng tiêu diệt các mục tiêu di động trên biển mà Trung Quốc mà giới phân tích gần đây nhiều lần nhắc đến.

Tàu sân bay có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với Hải quân Trung Quốc: có thể tổng hợp lực lượng tàu chiến của Hải quân Trung Quốc và có thể cung cấp năng lực phòng không tầm xa cho Hải quân.

Tàu sân bay cũng có thể giúp hải quân nước này nâng cao trình độ thông tin hóa cũng như có thể nâng cao năng lực tấn công tầm xa trên biển.
… những điểm “bổ sung”

Chỉ trong vòng 2 thập niên trở lại đây, Trung Quốc đã kiến tạo được một lực lượng tàu ngầm và tàu đổ bộ lớn nhất châu Á.

Theo một bản báo cáo mới ra tháng này của ông Dean Cheng, một chuyên gia về quân sự Trung Quốc tại tổ chức có tên Heritage Foundation, trong vòng mấy mươi năm trở lại đây, Trung Quốc tập trung phát triển không quân và hải quân thay vì chỉ tập trung vào bộ binh như trước đó.

Năm 2010, Trong Quốc trở thành nước đóng tàu lớn nhất thế giới với hai công ty đóng tàu nhà nước CSSC và CSIC với tổng số hơn 200.000 công nhân sản xuất ra các tàu dân dụng và quân đội.

Theo website của CSSC, về mặt cấu trúc, đây là xương sườn hỗ trợ cho hải quân Trung Quốc.

Trung Quốc cũng không ngừng tăng cường các lực lượng quân sự nhằm đảo bảo lợi ích trên biển của nước này và mỗi lực lượng được trang bị hàng chục tàu nặng từ 1-5.000 tấn, thậm chí có tàu nặng từ 130-1.500 tấn, với nhiều chiếc có trang bị vũ khí.

Đứng thứ nhất trên thế giới về số quân thường trực, đứng thứ 2 về kinh tế, thứ 3 về sức mạnh quân sự và đang không ngừng gia tăng sức mạnh này trong 2 thập niên trở lại đây.

Theo giáo sư tiến sĩ Marvin C. Ott, thuộc đại học John Hopkins, bắt đầu từ 20 năm trở lại đây, Trung Quốc đã gia tăng quân sự từ 13-15% mỗi năm.

“Trung Quốc từ lâu đã đầu tư, phát triển khả năng quân sự cũng như tăng cường chi tiêu quốc phòng 30 năm nay, đặc biệt là 20 năm trở lại đây. Cách mà Trung Quốc tăng cường khả năng quân sự cũng rất cao và đáng chú ý”, tiến sĩ Marvin C. Ott nói với hãng tin AP hồi tháng 8.

Còn theo báo cáo hàng năm vào năm 2010 của Bộ Quốc phòng Mỹ, từ năm 1989, ngân sách quốc phòng Trung Quốc tăng gần 13%/năm.

Tháng 3 năm nay, phát ngôn viên Quốc hội Trung Quốc Lý Triệu Tinh cho biết, ngân sách quốc phòng năm nay của nước này là 91,5 tỷ đôla. Tuy nhiên, tờ USA Today số ra ngày 28/7 trích nguồn viện nghiên cứu American Enterprise cho biết con số thực sự có thể là 300 tỷ USD.

“Với số tiền ấy và với lượng nhân công rẻ trong nước, Trung Quốc có thể làm được một khối lượng vũ khí khổng lồ”, USA Today bình luận.

Với việc du nhập, nâng cấp và sản xuất nhiều vũ khí, những năm gần đây, sức mạnh quân sự Bắc Kinh đã vươn lên những vị trí cao trên thế giới. Theo Global Fire Power, Trung Quốc đang đứng thứ 3 sau Mỹ và Nga so về sức mạnh quân sự. Năm 2010, vị trí này của Trung Quốc là thứ nhì.

… và thực hư

Tuy nhiên, giới phân tích quân sự phương Tây cho rằng song song với những điểm mạnh, quân sự Trung Quốc cũng có những giới hạn.

Mặt khác, theo ông Nathan Hughes, Giám đốc phân tích quân sự tổ chức STRATFOR, mặc dù có số quân chính thức đông đảo, nhưng quân đội Trung Quốc hiện nay có trình độ kỹ thuật khá thấp, đặt ra dấu hỏi về khả năng ứng dụng thiết bị.

Thêm vào đó, các chuyên gia cho rằng rất nhiều vũ khí chế tạo tại Trung Quốc lấy từ phiên bản của Nga mà Trung Quốc mua từ những năm 1980 nên mắc những lỗi lạc hậu hoặc dễ dàng bị vũ khí “đàn anh” khống chế.

Giới phân tích nhận định tổng số tàu chiến trên thế giới sẽ giảm trong những năm tới vì kỹ thuật phức tạp và liên tục thay đổi khiến giá thành tàu chiến trở nên đắt đỏ hơn, buộc các nước phải sử dụng ít tàu chiến nhưng có tính năng đa dụng hơn.

Ví như về chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, hãng tin Reuters ngày 14/7 từng dẫn lời các nhà phân tích khẳng định hải quân Trung Quốc còn phải mất nhiều năm mới có thể có sự hiện diện đáng kể về hàng không mẫu hạm tại các vùng biển ở châu Á, vốn là vùng hoạt động của hải quân Mỹ kể từ Chiến tranh Thế giới thứ II.

Sang thế kỷ mới, tấn công trên biển trở thành một trong những mô hình quan trọng của tác chiến hải quân hiện đại. Tàu sân bay có khả năng khống chế trên biển cực lớn, hỏa lực mạnh, là vũ khí lý tưởng để đối phó với hải tặc và thế lực khủng bố trên biển.

Thế nhưng, giới chuyên gia nói rằng hàng không mẫu hạm của Trung Quốc chủ yếu được sử dụng trong huấn luyện mà thôi vì việc điều hành hàng không mẫu hạm đòi hỏi kinh nghiệm mà phải cần thời gian mới có thể tích lũy được.

Hải quân Mỹ cho đến nay vẫn được coi là lực lượng chủ đạo nhất trên thế giới, đối mặt với một loạt yêu cầu như cuộc khủng hoảng ở Libya, nạn hải tặc cũng như đòi hỏi sự hiện diện của lực lượng này ở trên biển để đáp ứng nhu cầu triển khai nhanh lực lượng trên bộ.

Nguyễn Viết
Tổng hợp
0

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

‘Học thuyết Hồ Cẩm Ðào’ đòi chủ quyền biển Ðông đầy tham vọng của Bắc Kinh

MD Nalapat - 07/09/2011.
Suốt một phần tư thế kỷ sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bắt đầu hành trình tăng trưởng cao từ năm 1982, châm ngôn ‘nói năng nhẹ nhàng’ của Ðặng Tiểu Bình đã được tuân thủ. Khác với Hoa Kỳ và các nước đồng minh NATO, Trung Quốc chưa hề dính líu đến một cuộc chiến nào kể từ khi cuộc xung đột ngắn ngủi với Việt Nam năm 1979. Biên giới trên bộ mênh mông tiếp giáp với nước Nga đã được giải quyết, mặc dù giàn xếp trong trường hợp biên giới Trung – Ấn đã tỏ ra là kém khẩn cấp hơn. Thực vậy đã hơn hai chục vòng đàm phán kể từ năm 2001 mà vẫn chưa đem lại một tiến bộ nào đáng kể.

Về các vấn đề song phương khác liên quan đến Ấn Độ, [chẳng hạn] như hành động của Liên Hiệp quốc chống lại các nhân viên Pakistan bị cáo buộc trong vụ tấn công ở Mumbai năm 2008, New Delhi không hề nhận được bất cứ một lời an ủi nào từ Bắc Kinh. Trong khi đó, Bắc Kinh đã thay thế Ấn Ðộ như một đối tác chính của cả hai nước Nepal và Sri Lanca, giống như họ đã làm với Pakistan và Bangladesh.

Kể từ khi Hồ Cẩm Ðào giữ quyền lãnh đạo Ðảng Cộng sản Trung Quốc năm 2002, Bắc Kinh đã từ bỏ sự dè dặt ban đầu. Những ngày gần đây, Bắc Kinh đã công khai các quyền lợi của họ như các cường quốc NATO. Thực vậy, đặc biệt trên biển Đông và biển Hoa Đông, ông Hồ Cẩm Đào, đã thúc đẩy một dạng như Học thuyết Monroe (*) trong đó, không chỉ cho Trung Quốc các quyền lợi cơ bản, mà còn thống trị các vùng biển đó đối với các nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền.

Kể từ năm 2009, định nghĩa về “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc (các lợi ích mà vì chúng, Trung Quốc có thể tiến hành chiến tranh) đã mở rộng từ chuỗi đảo đầu tiên cho đến chuỗi đảo thứ hai trên biển [xung quanh] Trung Quốc, và vì vậy đưa Phillippines vào vùng “cốt lõi”, có khả năng bao gồm cả Malaysia, Indonesia và dĩ nhiên là cả Việt Nam. Với việc định nghĩa mở rộng về “lợi ích cốt lõi” như thế của Trung Quốc, không có gì phải ngạc nhiên khi gần đây hải quân Trung Quốc đã chặn một tàu hải quân Ấn Ðộ khi con tàu này đang rời khỏi bến cảng Việt Nam như tin tức đã đưa hồi tuần trước. Quả thực, năm 2011 cho thấy, có sự gia tăng các biến cố do Trung Quốc đòi vị thế đặc quyền trên biển Ðông (nguyên văn: biển Nam Trung Hoa). Hải quân của cả hai nước Việt Nam và Phillippines đã nhiều lần bị hải quân siêu việt hơn của Trung Quốc thách thức.

Ít nhất ông Hồ [Cẩm Đào] cũng đáng được khen ngợi về sự minh bạch trong các hành động của ông. Dưới sự chỉ đạo của ông ta, Trung Quốc đã chính thức báo cho Hội nghị Liên Hợp quốc về Luật Biển (cơ quan của Liên Hợp quốc giám sát các đường biên giới trên biển), rằng toàn bộ biển Đông là một phần của Trung Quốc và rằng Bắc Kinh “hoàn toàn có chủ quyền” đối với các đảo trên biển Ðông. Bằng cách sắp xếp vấn đề này là vấn đề nội bộ của Trung Quốc, Bắc Kinh giúp chủ thuyết mới này tránh khỏi một sự tranh cãi chính thức tại các diễn đàn như hội nghị các bộ trưởng quốc phòng ASEAN.

Tất cả điều đó đang được Ấn Ðộ quan sát với mức báo động gia tăng. Ấn Độ là nước xem chính mình liên tục bị đẩy sang một bên do năng lực tiềm tàng của quân đội Trung Quốc gia tăng nhanh. Nhưng thực tế là quân đội Trung Quốc, đặc biệt là hải quân, không tập trung vào Ấn Ðộ nhiều như Hoa Kỳ. Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh hải quân, gồm cả việc hạ thuỷ một tàu sân bay cũ gần đây, để bảo vệ sự tiếp cận với các tuyến đường thủy, nối Trung Quốc với Châu Phi, châu Âu và vùng Trung Ðông.

Trung Quốc quan tâm đến tàu sân bay bắt đầu từ năm 1980, khi nhà chiến lược quân sự Lưu Hoa Thanh tham quan chiến hạm USS Kitty Hawk. Ấn tượng bởi những khả năng của nó, ông Lưu nói với ban tham mưu quân đội Trung Quốc rằng “tàu sân bay thích hợp cho các bệ phóng đổ bộ đất liền vì sự linh động của nó“. Kể từ đó, Trung Quốc đã mua bốn tàu sân bay không được trang bị, chiếc cuối cùng (Varyag của Liên xô) đã biến thành chiến tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc.

Một khi số lượng nhân sự thỏa đáng về phi đoàn và thủy thủ đoàn được huấn luyện cho tàu sân bay, hải quân Trung Quốc dự kiến sẽ đưa thêm ba tàu sân bay nữa vào hoạt động có thể sớm hơn hoặc đến năm 2020. Trung Quốc đã nắm vững cách chế tạo máy bay chuyên chở bằng tàu mà Ấn Ðộ chưa làm được. Thật vậy, Trung Quốc không ngừng gia tăng khả năng nội tại của quân đội, điều này trái ngược với tình trạng Ấn Ðộ, nơi mà hải quân, không quân và bộ binh với một mức độ ít hơn, vẫn còn dựa vào kỹ thuật và trang thiết bị nước ngoài.

Với một số giàn phóng tên lửa đang nhắm vào Ðài Loan, rõ ràng là vai trò của các tàu sân bay Trung Quốc sẽ không tham gia hoạt động trong eo biển Ðài Loan, mà vai trò [của các tàu sân bay này] là để thực thi đòi chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông như ông Hồ [Cẩm Đào] đã chỉ thị hồi năm 2003, khi ông kêu gọi “tăng cường bảo vệ chủ quyền và quyền lợi trên biển” của Trung Quốc.

Mặc dù Trung Quốc đã gia tăng chi tiêu quân sự rất nhiều, nhưng thực ra Hoa Kỳ vẫn chi tiêu nhiều hơn Trung Quốc gấp mười lần, trong khi đó ngân sách toàn bộ của NATO đã vượt xa chi tiêu [quốc phòng] của Trung Quốc. Nhưng [có] sự khác biệt là NATO ra trận với quân đội rất tốn kém.

Mỗi binh sỹ [NATO] tham gia chiến đấu, ước tính tốn khoảng một triệu đô la mỗi năm. Với cái giá đó, Trung Quốc có thể cho ít nhất chín người lính ra trận, thậm chí những người lính này được trang bị vũ khí, thiết bị tối tân hàng đầu. Dĩ nhiên, trang bị vũ khí tồi hơn thậm chí còn rẻ hơn. Một cuộc chiến có thể làm kiệt quệ ngân khố của NATO nhanh hơn nhiều so với Trung Quốc.

Ðó cũng chính là điều mà Ấn Ðộ tỏ ra lợi thế. Nước khổng lồ của châu Á có nền kinh tế với qui mô tương tự như nền kinh tế mà Trung Quốc đang có; liên minh giữa NATO và Ấn Ðộ sẽ gia tăng đáng kể toàn bộ khả năng [của liên minh đó]. Nhưng quan hệ đối tác đó dường như không nằm trong tầm mắt. Vì thế, Trung Quốc dường như có chỗ đứng cho học thuyết của ông Hồ Cẩm Đào rõ ràng, như James Monroe và Hoa Kỳ tận hưởng hồi năm 1823. (Ðiều lo ngại này của tác giả có vẻ như đã được trả lời khá đầy đủ trong bài phân tích về sự điều chỉnh cơ cấu an ninh của Mỹ ở Ấn Ðộ – Thái Bình dương).

MD Nalapat giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hoà bình UNESCO tại Ðại học Manipal và là cựu biên tập viên của tờ Thời Báo Ấn Ðộ.

———

Ghi chú:

(*) Học thuyết Monroe là một chính sách của Hoa Kỳ từ năm 1823, trong đó tuyên bố rằng các nước châu Âu cố gắng hơn nữa, nhằm thuộc địa hóa đất đai hoặc xen vào các nước châu Mỹ, sẽ được coi là hành động xâm lược, đòi hỏi sự can thiệp của Hoa Kỳ.

Hình minh hoạ. Photo courtesy: Richard Porter’s Blog

Nguyễn Trùng Dương dịch từ The National
0