Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

Bộ Ngoại giao Trung Quốc lớn tiếng đe dọa Việt Nam về Biển Đông

(21/04/2020)- Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 21/4 nói rằng họ vừa “giao thiệp nghiêm khắc” để đáp trả điều mà họ gọi là “Việt Nam tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp ở Biển Đông”, theo tin của Reuters và The Beijing News.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng

Tin cho hay ông Cảnh Sảng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nói tại một cuộc họp báo hàng ngày rằng kể từ cuối tháng 3 vừa qua, Phái đoàn Thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi một số công hàm tới Tổng Thư ký LHQ, “liên tục tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp” tại Biển Đông, cũng như “cố phủ nhận” chủ quyền và các quyền của Trung Quốc ở vùng biển này.

“Trung Quốc kiên quyết phản đối điều đó và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam”, ông Cảnh Sảng tuyên bố, vẫn theo tin của Reuters và The Beijing News.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp đến nhấn mạnh rằng bất kỳ nước nào cố phủ nhận chủ quyền và quyền chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông dưới bất kỳ hình thức nào đều là “vô hiệu” và “chắc chắn sẽ thất bại”, bản tin của Reuters và The Beijing News cho biết.

“Trung Quốc sẽ thực thi mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích của mình ở Trung Hoa Nam Hải [tức Biển Đông]”, ông Cảnh Sảng nói.

Theo quan sát của VOA, cho đến khi bản tin này được đăng, phía Việt Nam chưa đưa ra phản ứng chính thức nào về tuyên bố mới nhất của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Trước đó, như VOA đã đưa tin, Việt Nam đã phản đối những nỗ lực bành trướng của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp, bao gồm cả việc gửi tuyên bố chủ quyền đến LHQ.

Một số nhà phân tích và quan sát nhận định với VOA rằng cụm từ “mọi biện pháp cần thiết” trong tuyên bố hôm 21/4 của phía Trung Quốc là rất đáng lưu ý vì nó có hàm ý đe dọa, cũng như không loại trừ việc Trung Quốc tiến tới sử dụng biện pháp quân sự.

Đây là lần thứ hai chỉ trong vòng 4 ngày, Trung Quốc nói bóng gió đến việc sử dụng vũ lực, theo thạc sĩ Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông.

Ông Việt nhắc đến công hàm hôm 17/4 của Trung Quốc gửi đến Tổng Thư ký LHQ để phản đối Việt Nam, trong đó có đoạn: “Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp” ở quần đảo Trường Sa.

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định với VOA về những tín hiệu liên tiếp phát đi từ Trung Quốc trong ít ngày qua:

“Rất có khả năng là lúc này, Trung Quốc có thể sẽ có hành động mạnh tay hơn ở khu vực Biển Đông.

Nguồn: VOA
0

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

Facebook xoá Trường Sa, Hoàng Sa khỏi bản đồ Việt Nam

(16/04/2020)- Trong phần thiết lập chạy quảng cáo của Facebook, hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa bị xoá khỏi bản đồ Việt Nam và gộp vào đường biên giới Trung Quốc.


Facebook từng dùng bản đồ tương tự hai năm trước và phải xin lỗi người dùng Việt Nam về sự cố.

Tối 15/4, người dùng mạng xã hội phát hiện Facebook dùng bản đồ mô tả sai về chủ quyền của hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Cụ thể, trong phần tạo quảng cáo, nếu xác định khu vực là Việt Nam, sẽ không có hai quần đảo này trên bản đồ. Nhưng khi xác định khu vực Trung Quốc, hai quần đảo lại xuất hiện.

Ông Lê Quang Tự Do, Cục phó Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ Thông tin Truyền thông) cho biết Cục đã yêu cầu Facebook sửa. "Họ đã kiểm tra và thông báo đây là lỗi khi cập nhật bản đồ", ông Tự Do nói.

Người dùng mạng xã hội Việt Nam đang kêu gọi Facebook chỉnh sửa lại thông tin chính xác. Nhiều người đã vào phần nhận xét ứng dụng trong App Store và cửa hàng CH Play để phản hồi. Cộng đồng mạng đang kêu gọi nhau vào "vote" 1 sao cho Facebook.

"Facebook đang sử dụng bản đồ Openstreetmap do bên thứ ba phát triển. Đây là bản đồ mở, có thể chỉnh sửa thông tin theo mã nguồn. Bản đồ hiện tại được chỉnh sửa 4 ngày trước bởi tài khoản tên Kalc", tài khoản Cường Nguyễn bình luận.

Ngay sau đó, một người dùng khác đã vào bản đồ, "đưa" Trường Sa, Hoàng Sa về lại chủ quyền của Việt Nam, theo công ước quốc tế. Tuy nhiên, đến sáng 16/4, phần này lại bị sửa lại. Hai quần đảo không còn xuất hiện khi xác định khu vực là Việt Nam.

Chiều 16/4, đại diện Facebook cho biết đã nhận được thông tin về việc ghi sai bản đồ Trường Sa, Hoàng Sa vào lãnh thổ Trung Quốc. "Chúng tôi đã được thông báo về một lỗi kỹ thuật liên quan đến bản dùng trong các công cụ chọn mục tiêu quảng cáo tại Việt Nam. Vấn đề này đã được khắc phục. Chúng tôi rất xin lỗi vì bất kỳ sự nhầm lẫn nào đã gây ra", người phát ngôn của Facebook nói.

Tuy nhiên, bản cập nhật của Facebook chỉ không làm nổi bật đường biên giới của các quốc gia. Khi chọn xác định khu vực Việt Nam hay Trung Quốc đều không thấy hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Người phát ngôn của mạng xã hội này nói: "Facebook giữ quan điểm trung lập tại những khu vực tranh chấp lãnh thổ hoặc các vùng địa lý nhạy cảm khác".


Bản cập nhật của Facebook thêm dòng mô tả về việc không nêu nổi bật đường biên giới của quốc gia trên bản đồ, nhưng vẫn không hiện Hoàng Sa, Trường Sa khi chọn Việt Nam.

Trước đó vào tháng 7/2018, Facebook cũng gặp lỗi tương tự khi xác định sai lệch chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam. Đại diện mạng xã hội này thừa nhận đây là lỗi kỹ thuật và sửa lại bản đồ.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo, giám sát chặt chẽ việc xử lý của Facebook, kiên quyết không để xảy ra các trường hợp tương tự.

Theo VnExpress
0

Thứ Hai, 13 tháng 4, 2020

Tiềm lực của Việt Nam để chống Trung Quốc ở Biển Đông


Biển Đông là một trong những trọng tâm thảo luận tại Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) diễn ra ngày 18/11/2019 tại Bangkok, Thái Lan. Trước những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Việt Nam hiện là nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc, khác với thái độ của một số nước ASEAN có tranh chấp.(Tạp chí phát lần đầu tiên ngày 18/11/2019)

Phần âm thanh:


Tránh và không thể đối đầu trực diện với Trung Quốc, Việt Nam « kiên quyết » nhưng « khôn khéo » trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Theo một số chuyên gia, Hà Nội đang khéo léo mở ba mặt trận chống Trung Quốc : tăng cường khả năng quân sự, đấu tranh về mặt ngoại giao và giảm phụ thuộc vào Bắc Kinh.

Để đối phó với những hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam đã chi 5,1 tỉ đô la cho lĩnh vực quốc phòng trong năm 2019, trong đó 32,5% dành cho việc mua trang thiết bị quân sự. Ngân sách quốc phòng của Việt Nam dự kiến tăng hàng năm khoảng 9,43% trong giai đoạn 2020-2024, để đạt đến 7,9 tỉ đô la vào năm 2024. Tuy nhiên, tương quan lực lượng rõ ràng thiên về Trung Quốc, với ngân sách quốc phòng lên đến 228 tỉ đô la.

Ngoài ra, số quân nhân giữa hai nước cũng chênh lệch : Việt Nam có khoảng 482.000 quân nhân thường trực, trong khi Trung Quốc có gần 2,3 triệu quân. Nhiều dự liệu khác cũng cho thấy sự chênh lệnh : Việt Nam có 2.575 xe tăng so với 13.050 xe của Trung Quốc ; 6 tầu ngầm so với 76 ; 64 tầu chiến các loại so với 714 tầu, trong đó Việt Nam không có tầu sân bay, tầu khu trục.

Vậy Việt Nam có chiến lược gì để có thể kiềm chế nước láng giềng khổng lồ, đặc biệt là ở Biển Đông ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon)

RFI : Xét về thực lực quân sự, Việt Nam không thể đối đầu trực diện với quân đội Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể làm được gì để hạn chế Trung Quốc tung hoành ?

Laurent Gédéon : Trước tiên cần đặt câu hỏi là nếu trong trường hợp xảy ra xung đột giữa hai bên, thì sẽ là ở đâu ? Việc Việt Nam có đường biên giới trên bộ với Trung Quốc khiến người ta có thể hình dung đến khả năng xảy ra xung đột trên bộ. Nhưng trên thực tế, giả sử xảy ra xung đột, thì có lẽ sẽ diễn ra trên biển và có nhiều khả năng là trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nếu như căn cứ vào thực tế cuộc xung đột trên biển hiện nay, không chỉ ở Biển Đông nói chung, mà kể cả trong vùng biển của Việt Nam, và trong giả thuyết này, lực lượng hải quân Việt Nam sẽ giữ thế phòng thủ, chủ yếu chống lại hành động của quân đội Trung Quốc và sẽ tiến hành những hành động có chủ đích giúp họ giữ được lợi thế kỹ thuật, bất chấp bối cảnh bất cân xứng với đối thủ.

Chính vì thế, trong vài năm gần đây, Việt Nam đã mua nhiều trang thiết bị quân sự để cân bằng phương tiện. Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua nhiều lĩnh vực, như việc mua 6 tầu ngầm, dù chỉ mang tính chất tương đối, nhưng cũng giúp Hà Nội tăng khả năng răn đe so với lực lượng của Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam cũng triển khai nhiều phương tiện theo dõi quan trọng, trong đó có thiết bị bay không người lái, hệ thống radar thế hệ mới, các lực lượng tại chỗ và máy bay.

Quân đội Việt Nam có một bước phát triển hướng ngoại, thông qua chiến lược Chống tiếp cận/Chống xâm nhập (Anti-Access/Area Denial, A2/AD), một khái niệm chưa có trước đó ở Việt Nam. Chiến lược này nhằm bảo vệ những hòn đảo mà Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa và dọc bờ biển Việt Nam. Chiến lược này cũng góp phần vào việc tăng khả năng phòng thủ của Việt Nam, thông qua việc phát triển hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung, mà Hà Nội trang bị nhiều trong những năm gần đây.

Theo tôi, trong trường hợp xảy ra đối đầu trực tiếp với quân đội Trung Quốc, Việt Nam sẽ không giành được chiến thắng về mặt quân sự, dù quân đội Việt Nam có nhiều chiến lược. Nhưng Việt Nam có thể sẽ gây khó khăn cho Trung Quốc và sẽ khiến một cuộc tấn công của Trung Quốc trở nên kém hiệu quả hơn.

RFI : Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác quân sự với nước ngoài, liệu chiến lược này có nguy cơ trở thành con dao hai lưỡi không ?

Laurent Gédéon : Điều đáng lưu ý là Việt Nam thực hiện chiến lược ngoại giao vận động hành lang từ nhiều năm nay. Và rõ ràng là Hà Nội nhận thấy sự phát triển những mối quan hệ này như một yếu tố cân bằng, một cách bù vào mức độ chênh lệch với Trung Quốc.

Hà Nội tìm cách phát triển quan hệ, chí ít là về mặt quân sự, với nhiều đối tác như đối tác chiến lược với Nhật Bản. Một ví dụ khác là mối quan hệ với Hoa Kỳ đã được tăng cường hơn rất nhiều. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên nếu nhìn vào những điểm tương đồng về lợi ích giữa hai nước, khi mà cả hai đều lo ngại về ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Rõ ràng phía Mỹ sẽ tiếp tục và tăng cường sự năng động này trong tương lai, song song với việc số lượng trang thiết bị quân sự của Mỹ cung cấp cho Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ khi lệnh cấm vận được bãi bỏ năm 2016. Từ đó, Hà Nội đã mua nhiều máy bay không người lái, tầu tuần duyên và nhiều trang thiết bị khác. Ngoài ra, Việt Nam còn tăng cường hợp tác quân sự với nhiều nước khác, như Úc, Ấn Độ, cũng như nhiều nước châu Âu.

Về câu hỏi : Chiến lược này có phải là con dao hai lưỡi hay không ? Trong mọi trường hợp, đây là chiến lược cần được tiến hành một cách thận trọng bởi vì mục đích của Hà Nội là tăng cường khả năng quân sự nhưng không để bị phụ thuộc vào một hoặc nhiều đối tác. Ngoài ra, chiến lược này cũng không nên để Trung Quốc diễn giải như là một mối đe dọa. Vì vậy, Việt Nam tìm cách phát triển khả năng phòng thủ và điều chỉnh các tuyên bố trong giới hạn khuôn khổ đòi chủ quyền, như vẫn làm trong những thập niên qua, mà không bao gồm những khu vực không nằm trong những yêu sách trước đó.

Ngoài ra, về mặt thương mại, Hà Nội cũng phải tính đến việc Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trung Quốc cũng là nhà đầu tư trực tiếp lớn thứ 5 vào Việt Nam với số tiền gần 2,5 tỉ đô la trong năm 2018. Đó là một số yếu tố khiến chiến lược của Việt Nam khá là tế nhị. Chiến lược đó không phải là không áp dụng được nhưng cần được Hà Nội tiến hành một cách rất thận trọng và đó là điều mà Việt Nam đang làm một cách hiệu quả.

RFI : Việt Nam đề ra chính sách « Ba không » (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào ; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam ; không dựa vào nước này để chống nước kia), nhưng trước sự đe dọa của Trung Quốc, liệu Việt Nam có nên xem lại chính sách này không ?

Laurent Gédéon : Đây không phải là chính sách gần đây mà xuất hiện lần đầu tiên trong Sách Trắng Quốc Phòng năm 1998, sau đó thường xuyên được nhắc đến, vào năm 2004, 2009 và tiếp tục được nêu lên trong Luật Quốc Phòng mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.

Dù mang tính mệnh lệnh « Ba không » nhưng thực ra chính sách này không hoàn toàn bó buộc. Và Việt Nam đã khai thác khía cạnh này dưới góc độ « đối tác ». Có ba kiểu « đối tác », đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Cụ thể, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc ; quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Úc, Pháp và đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Đáng chú ý là không có bất kỳ đối tác nào trong số này mang tên « liên minh quân sự ».

Có thể thấy là Việt Nam tăng cường khả năng phòng thủ, cũng như hợp tác quân sự với nhiều cường quốc tham gia gìn giữ trật tự thế giới và đó là những lực lượng, với nhiều lý do khác nhau, tỏ ra ngờ vực Trung Quốc. Điều mà chúng ta có thể nói là Việt Nam vừa củng cố các phương tiện của mình, vừa phải làm việc trực tiếp với Bắc Kinh về các biện pháp xây dựng niềm tin nhằm ngăn cản Trung Quốc thống trị toàn bộ Biển Đông.

Nhưng Việt Nam cũng phải tự chuẩn bị trong trường hợp căng thẳng gia tăng. Và Hà Nội đang thực hiện điều này qua việc tăng cường quan hệ với các bên, trên thực tế, ít nhiều là những đối thủ của Bắc Kinh. Việt Nam phải tính đến việc bên cam kết mạnh nhất và có sức mạnh quân sự lớn nhất, đó là Mỹ và Hòa Kỳ lại có những mục tiêu riêng và những thách thức địa-chính trị riêng.

Và tình thế này cũng cần được cân nhắc với nhiều câu hỏi : Liệu Việt Nam có khả năng lấy lại các hòn đảo mà Hà Nội đòi chủ quyền mà không để xảy ra xung đột, mà cuộc xung đột đó lại do những nhân tố khác khởi xướng, ví dụ như Mỹ ? Liệu mâu thuẫn hiện nay giữa Bắc Kinh và Washington, nếu gia tăng thêm, có cho Việt Nam cơ hội không bị cuốn theo hay không ? Một câu hỏi khác cũng được đặt ra : Liệu những cam kết của Mỹ, trong trường hợp quan hệ với Bắc Kinh được cải thiện, có phải là « dấu chấm hết » cho những yêu sách và hy vọng của Việt Nam một ngày nào đó lấy lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường Sa ?

Có thể thấy chính sách « Ba không » không ngăn cản Việt Nam có những thỏa thuận quân sự, nhưng có vẻ không chắc cho Việt Nam bởi vì chính sách đó bị hạn chế trong những đòi hỏi chủ quyền. Có nghĩa là để lấy lại chủ quyền đối với một số hòn đảo, có thể sẽ xảy ra một cuộc xung đột vũ trang nhưng cuộc xung đột vũ trang đó sẽ kéo theo việc Việt Nam phải từ bỏ một nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của mình. Vì thế, cho đến nay, những vấn đề này được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời.

RFI : Biển Đông là một vấn đề căng thẳng trong thời gian gần đây, với sự hiện diện của tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc trong vòng nhiều tháng. Giả sử trong trường hợp xảy ra xung đột nhỏ, khẩn cấp, Việt Nam có khả năng giải quyết như thế nào ?

Laurent Gédéon : Trường hợp trên giống trường hợp Bắc Kinh điều giàn khoan đến ngoài khơi đảo Tri Tôn vào tháng 05/2014, có nghĩa là Trung Quốc dùng chính sách « sự đã rồi », nhưng không thiên về hướng đe dọa quân sự. Lần trước Việt Nam cũng đưa tầu ra bám sát và phản đối ngoại giao. Lần này, phía Việt Nam cũng kiên quyết về mặt chính trị, nhưng cũng không tìm cách dùng vũ lực đuổi tầu Trung Quốc.

Theo quan điểm của tôi, chiến lược này có lẽ là tốt nhất vì tránh được đối đầu trực diện, đẩy Việt Nam vào thế tấn công, không có lợi như thế phòng thủ. Và chiến lược này cũng cho phép Hà Nội duy trì được hình ảnh « kiềm chế, hợp pháp » trước hành động được coi là « xâm lược » của Bắc Kinh. Và hành động này mang tính tích cực trong bối cảnh hình ảnh của Trung Quốc đang bị xấu đi trên thế giới.

RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).
0

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2020

Việt Nam quyết không để Trung Quốc chiếm Biển Đông


(11/04/2020)- Trung Quốc lợi dụng Covid-19 gây căng thẳng ở Biển Đông: Liệu Việt Nam, Philippines và Malaysia có cùng nhau đoàn kết chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông?

Vụ đâm chìm tàu cá Việt Nam chỉ là để Trung Quốc phô trương cơ bắp, thị uy sức mạnh và khẳng định quyền bá chủ ở Biển Đông trong khi cả thế giới đang vật lộn chống lại đại dịch Covid-19.

Nhiều chuyên gia quốc tế nhận định, Trung Quốc đang lợi dụng đại dịch Covid-19 để làm căng thẳng tình hình ở Biển Đông, bác bỏ yêu sách chủ quyền của các quốc gia láng giềng nhỏ hơn trong Đông Nam Á trên tuyến hàng hải thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa Bắc Kinh và các nước trong khu vực.

Về diễn biến mới trên Biển Đông, theo GS. Carl Thayer và PGS. Batongbacal, với những động thái trong thời gian qua, Việt Nam đang đi đúng hướng và thậm chí có thể thắng nếu gửi đơn kiện Trung Quốc. Nhưng để chắc chắn thành công, Việt Nam cần có một chiến lược sâu rộng, kết hợp với sự ủng hộ từ các nhân tố khác. Theo đó, Việt Nam phải tiếp tục phản đối bất kỳ hành động trái với luật pháp quốc tế của Trung Quốc khi Bắc Kinh có những hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Trung Quốc muốn thị uy sức mạnh khi đánh chìm tàu cá Việt Nam?

Asia Times mới đây có bài phân tích của tác giả Richard Javad Heydarian (Giáo sư chính trị tại Đại học hàng đầu Philippines De La Salle - học giả nghiên cứu uy tín về Biển Đông) liên quan đến việc chính quyền Bắc Kinh tranh thủ chớp lấy cơ hội khi cả thế giới đang dồn sự chú ý đến coronavirus để “khẳng định chủ quyền lịch sử”, uy vũ sức mạnh và quyền bá chủ ở các vùng biển tranh chấp trên Biển Đông.

Khi các quốc gia Đông Nam Á đang vật lộn quay cuồng chống lại dịch bệnh Covid-19, đồng thời, nhóm tàu chiến và căn cứ quân sự của Hải quân Hoa Kỳ cũng đang ở trong thế yếu trước nguy cơ bùng phát và lây lan virus corona, đe dọa tính mạng nhiều người, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng của các bên thì Trung Quốc lại đang dùng mọi cách tận dụng cuộc khủng hoảng “dịch bệnh chết chóc” như thứ cơ hội chiến lược nhằm khẳng định quyền kiểm soát ở Biển Đông.

Với việc không một quân nhân nào của lực lượng Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) hay những đơn vị hữu quan khác được phát hiện nhiễm SARS-CoV-2, cường quốc châu Á này đang ngày càng “phô trương cơ bắp” thông qua loạt cuộc tập trận lớn của Quân đội, Hải quân, Không quân PLA nhằm củng cố quyền kiểm soát những thực thể tranh chấp trên Biển Đông. Theo Asia Times, mục đích mà Trung Quốc muốn hướng đến là rất đa dạng và khó lường, điển hình như gần đây nhất, Bắc Kinh muốn giám sát chiến lược Biển Đông và “đánh phủ đầu” yêu sách chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á nhỏ và yếu thế hơn.

Ngày 2 tháng 4, một tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi, Việt Nam bị phía Trung Quốc đâm chìm ở Hoàng Sa. Tàu cá mang số hiệu QNg-90617 TS, công suất 420 CV do ngư dân Trần Hồng Thọ (sinh năm 1987 ở thôn Phú Quý, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn) làm chủ phương tiện đăng ký hành nghề lặn. Tàu cá này xuất bến tại Trạm kiểm soát Biên phòng Sa Kỳ vào ngày 20 tháng 3 để ra vùng biển quần đảo Hoàng Sa hành nghề, trên tàu có 8 lao động.

Theo ghi nhận, khi bị tông chìm, có 3 tàu cá gồm tàu cá mang số hiệu QNg-90045 TS do ngư dân Đặng Tằm làm chủ phương tiện, tàu cá QNg-90399 TS do ngư dân Đặng Dũng làm chủ phương tiện và tàu cá QNg-90929 TS do ngư dân Nguyễn Thành Linh làm chủ phương tiện chạy đến để cứu hộ nhưng khi đến nơi thì không thấy phương tiện và ngư dân đi trên tàu cá QNg-90617 TS mà thấy một tàu sắt màu trắng của nước ngoài (Trung Quốc) đang xuất hiện tại đây. Ba tàu cá tiếp tục tìm kiếm nhưng không phát hiện được tàu cá QNg-90617 TS cùng các ngư dân bị nạn, nên ngư dân Đặng Tằm đã gọi điện thông báo sự việc đến cơ quan chức năng.

Trước đó, tối ngày 2 tháng 4, ông Phùng Bá Vương, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Châu (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) cũng xác nhận địa phương đã nhận tin báo của anh Nguyễn Thành Linh (chủ tàu QNg 90929) báo về phía tàu Trung Quốc đã trao trả 8 ngư dân trên tàu của anh Trần Hồng Thọ.

“Sau khi tàu của anh Thọ bị tông chìm, ba tàu của ngư dân đến cứu thì tàu Trung Quốc xua đuổi. Đến 8 giờ, tàu Trung Quốc bắt giữ trái pháp luật hai trong ba tàu đến cứu về đảo Phú Lâm. Họ giữ tại đây đến 16 giờ 30 mới trao trả 8 lao động trên tàu của anh Thọ và để hai tàu này đi”, ngư dân Nguyễn Thành Linh cho biết.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying) cáo buộc tàu đánh cá Việt Nam xâm nhập vào vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc và khẳng định chính tàu cá của Việt Nam đột ngột chuyển hướng và đâm mạnh vào ram Tàu Hải cảnh của Trung Quốc.

Bà Hoa Xuân Oánh cũng khẳng định Bắc Kinh chỉ muốn chia sẻ thực tiễn và kinh nghiệm phòng chống dịch Covid-19 của Trung Quốc với các quốc gia khác, và sẽ không biến dịch bệnh thành bất kỳ loại vũ khí hoặc công cụ địa chính trị nào.

“Chính tàu cá Việt Nam đâm vào Tàu Hải cảnh của chúng tôi và bị chìm - tất cả 8 thủy thủ đoàn đã được giải cứu”, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Trương Quân (Zhang Jun) bình luận về vụ việc này.

“Chúng tôi đã kêu gọi Việt Nam thực hiện nghiêm túc những biện pháp để tránh các sự cố tương tự xảy ra trong bối cảnh hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp ngày càng gia tăng thường xuyên ở vùng biển Hoàng Sa”, ông Trương Quân nói.

Học giả Philippines: Trung Quốc lợi dụng khủng hoảng coronavirus để dễ chiếm Biển Đông

Bình luận trên Asia Times, nhà nghiên cứu Biển Đông Richard Javad Heydarian cho biết, đại dịch coronavirus bắt nguồn từ Trung Quốc đang khiến nền kinh tế Philippines đối mặt với hàng loạt nguy cơ, thách thức, sự đình trệ và xu hướng suy thoái, cùng với những ảnh hưởng nghiêm trọng lên tình hình kinh doanh, sản xuất, đời sống xã hội nước này, càng làm tăng thêm sự tức giận và bất bình giữa những người dân Philippines cũng như giới quan chức. Tất cả đều cảm thấy Bắc Kinh đang thúc đẩy cuộc khủng hoảng để giành lấy quyền bá chủ trên các vùng biển và thực thể mà Manila tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.

“Có những lo ngại đồng thời rằng bệnh dịch coronavirus có thể làm suy yếu khả năng chiến đấu của Lực lượng Vũ trang Philippines (AFP) để bảo vệ đất nước chống lại các cuộc nổi dậy và các nhóm khủng bố ở các vùng cực nam và ngoại vi, cũng như bên ngoài Trung Quốc , phía nam Biển Hoa Đông và khu vực Tây Thái Bình Dương”, học giả Philippines bình luận.

“Trong khi Philippines đang vật lộn với tình hình Covid-19 diễn biến leo thang, Trung Quốc đồng thời đẩy mạnh quá trình quân sự hóa Đá Vành Khăn”, Asia Times cho biết.

Chưa hết, Trung Quốc cũng đang tăng cường sự hiện diện của mình xung quanh bãi cạn Scarborough, nằm cách các căn cứ quân sự Subic và Clark chiến lược của Philippines hơn 100 hải lý.

Mỹ, Philippines lên tiếng ủng hộ Việt Nam ở Biển Đông

Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, khẳng định rằng tàu Hải cảnh Trung Quốc đã có hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và đe dọa tính mạng cũng như làm tổn hại tài sản và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam.

“Hành động trên của tàu công vụ Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, gây thiệt hại về tài sản, đe doạ an toàn tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam, đi ngược lại nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc đối xử nhân đạo với ngư dân và Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp tình hình và không có lợi cho quan hệ hai nước cũng như việc duy trì hoà bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ.

Ngày 03/04/2020, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và trao công hàm phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu Hải cảnh Trung Quốc nêu trên, không để tái diễn những hành động tương tự, đồng thời bồi thường thoả đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt Nam.

Vụ việc đánh dấu lần thứ hai trong 12 tháng qua, lực lượng Hải giám, dân quân biển của Trung Quốc đã khiêu khích, đánh chìm tàu cá của những “đối thủ” quốc gia Đông Nam Á khác.

“Kinh nghiệm tương tự của chúng tôi đã cho thấy niềm tin vào tình bạn đã bị mất như thế nào qua vụ việc như vậy, và niềm tin đã được tạo ra nhiều thế nào bởi hành động nhân văn của Việt Nam trực tiếp cứu mạng sống của ngư dân Philippines của chúng tôi", tuyên bố của Bộ Ngoại giao Philippines nêu rõ.

Trong tuyên bố phát ngày 8/4, Bộ Ngoại giao Philippines nhấn mạnh rằng các ngư dân nước này cũng từng là nạn nhân của Trung Quốc và sẽ mãi ghi nhớ hành động nhân đạo của Việt Nam khi cứu vớt các ngư dân Philippines.

“Chúng tôi đã không ngừng và sẽ không ngừng cảm ơn Việt Nam về hành động đó. Và với suy nghĩ trên, chúng tôi đưa ra tuyên bố này để thể hiện tình đoàn kết”, Manila khẳng định.

Bộ Ngoại giao Philippines đồng thời cũng nhấn mạnh rằng các sự cố như vừa xảy ra với tàu cá Việt Nam khiến quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc bị xói mòn trong bối cảnh hai bên đang đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Cũng trong một động thái ủng hộ Việt Nam và chỉ trích “thói bắt nạt” của Bắc Kinh, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ngày 9/4 ra tuyên bố lên án hành động của Trung Quốc trong vụ đâm chìm tàu cá Việt Nam tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ở Biển Đông.

Theo đó, Bộ Quốc phòng Mỹ bày tỏ quan ngại sâu sắc trước thông tin về việc tàu cảnh sát biển Trung Quốc va chạm và đâm chìm một tàu cá của Việt Nam tại khu vực gần đảo Phú Lâm, Hoàng Sa.

“Hành vi của Trung Quốc trái ngược với tầm nhìn của Mỹ về một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở, trong đó tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều được bảo đảm chủ quyền, không bị ép buộc và có quyền phát triển kinh tế phù hợp với các quy tắc và chuẩn mực quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực nhằm đảm bảo tự do hàng hải và cơ hội kinh tế trong toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”, Lầu Năm Góc tuyên bố.

Đồng thời, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng nhấn mạnh đại dịch Covid-19 cho thấy rõ hơn tầm quan trọng của trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, vì điều đó tạo điều kiện cùng giải quyết mối đe dọa chung theo cách minh bạch, tập trung và hiệu quả.

Lầu Năm Góc cũng kêu gọi tất cả các bên kiềm chế những hành động gây mất ổn định khu vực, có thể làm chệch hướng nỗ lực toàn cầu tập trung đối phó với đại dịch, hoặc gây ra nguy cơ không cần thiết dẫn đến tổn thất về người và tài sản.

Việt Nam Philippines lẫn Malaysia sẽ cùng chống Trung Quốc ở Biển Đông?

Mặc dù vẫn còn đó những quan điểm khác biệt trong vấn đề Biển Đông, cả Việt Nam, Philippines lẫn Malaysia đều gắn kết nhau một cách tự nhiên trên góc độ đặt trọng tâm sâu sắc vào luật pháp quốc tế.

Sau sự kiện Trung Quốc sử dụng tuyên bố chủ quyền phi pháp ở Biển Đông để phản bác công hàm của hai nước Philippines và Malaysia, ngày 30/3, phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi công hàm bác bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp của Bắc Kinh.

“Luật lệ dựa trên luật pháp sẽ có lợi cho Việt Nam, Philippines và Malaysia hơn nhiều so với luật rừng, nơi kẻ mạnh săn đuổi và chiến thắng kẻ yếu”, đó là ý kiến khẳng đinh của PGS Jay Batongbacal - giám đốc Viện các vấn đề hàng hải và luật biển (Đại học Philippines) bình luận với Tuổi Trẻ cho hay.

Dù được ký ngày 30 tháng 3, đến ngày 7 tháng 4 thông tin về công hàm của Việt Nam mới được phổ biến. Đây cũng là quãng thời gian Bộ Ngoại giao Philippines ra tuyên bố bày tỏ quan ngại sâu sắc tới vụ việc tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Quảng Ngãi (Việt Nam) ở vùng nước gần Hoàng Sa ngày 2 tháng 4.

Theo GS Carl Thayer, lý do mà nội dung đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) rất khó được thông qua cũng là vì bản thân Bộ Quy tắc này không định nghĩa được khu vực hàng hải ở Biển Đông mà nó sẽ áp đặt tính ràng buộc, bởi ngay cả trong nội bộ ASEAN cũng chưa nhất trí về hiện trạng khu vực này.

Dẫn chứng về vấn đề này, GS Thayer cũng nhấn mạnh, trong công hàm ngày 12/12/2019, Malaysia liên tục khẳng định đó chỉ là bản đệ trình một phần, và nó "không ảnh hưởng tới việc phân định thềm lục địa" và "không ảnh hưởng tới lập trường của các nước liên quan tới tranh chấp lãnh thổ hoặc lãnh hải".

“Điều đó để ngỏ khả năng Malaysia, Philippines và Việt Nam có thể phân định khu vực chồng lấn để giải quyết tranh chấp. Philippines và Việt Nam hiện đang "cùng tông" đối với chuyện tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài (The Hague, Hà Lan) trong việc bác bỏ yêu sách của Trung Quốc. Một lập trường nhất trí của ba nước sẽ có ích cho việc cô lập Trung Quốc về chính trị nhưng không làm thay đổi hiện trạng trên thực địa”, GS Thayer nhận định.

Cũng đồng ý với quan điểm này, PGS Jay Batongbacal của Philippines cũng khẳng định, không phải Việt Nam, Philippines và Malaysia đang "đoàn kết" chống lại Trung Quốc nếu hiểu theo lẽ thông thường.

“Rõ ràng mỗi nước vẫn hành động độc lập với nhau và không nhất thiết nhất trí với từng chi tiết khi đưa ra một lập trường đơn nhất khi đối mặt với Trung Quốc”, - ông Batongbacal nhận định.

PGS Batongbacal không cho rằng động thái của các nước trong thời gian vừa qua là “đoàn kết” theo nghĩa ba nước này đã “nhất trí một cách có ý thức” để cất lên tiếng nói duy nhất, hoặc đưa ra một lập trường chung nhất trong các tranh chấp.

“Tôi nghĩ chúng ta chưa đến thời điểm cố ý và chủ động phối hợp cho các quyết định, chính sách và hành động về vấn đề này. Nhưng tôi cho rằng cái chúng ta đang chứng kiến là một sự nhất quán tự nhiên, hợp lôgic trong lập trường của mỗi bên, vốn dĩ đang là kỳ vọng vì tất cả đều cam kết với quy định pháp luật và đang đặt trọng tâm sâu sắc vào luật pháp quốc tế”, - PGS Batongbacal đưa ra quan điểm.

Theo ông Batongbacal, vì Việt Nam, Philippines hay Malaysia đều là các nước nhỏ, đang phát triển với sức mạnh quân sự và chính trị còn hạn chế hơn các nước lớn nên việc chú trọng luật quốc tế là tinh thần phù hợp. Việc tuân thủ luật pháp, bảo vệ và lên tiếng theo lẽ phải là điều kiện và nhu cầu hiển nhiên để đảm bảo lợi ích quốc gia.

“Đối với các nước này, tuân thủ luật pháp quốc tế đã được đồng thuận và áp dụng lên tất cả mọi người là yêu cầu cần thiết để họ đảm bảo sự độc lập và chủ quyền”, PGS Batongbacal nhấn mạnh.

Việt Nam không để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông: Cần cơ sở pháp lý

Liên quan đến công hàm mới nhất gửi Liên Hiệp Quốc, tại họp báo chiều ngày 9 tháng 4, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết việc lưu hành công hàm tại Liên Hiệp Quốc là điều bình thường, thể hiện lại lập trường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.

“Lập trường nhất quán của Việt Nam đã được thể hiện đầy đủ tại công hàm này”, bà Hằng nói.

Đồng thời đại diện Bộ Ngoại giao khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam là “giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, như đã được thể hiện trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982”, phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng tuyên bố.

Nhiều học giả quốc tế cũng nhận xét, công hàm ngày 30.3 của Việt Nam là động thái đúng đắn, phù hợp và cần thiết trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong vấn đề biển đảo.

GS Thayer nhấn mạnh, Việt Nam phải tiếp tục phản đối bất kỳ hành động nào của Bắc Kinh khi nước này có những hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Theo chuyên gia này, việc cung cấp “một dấu vết pháp lý trên giấy” là rất cần thiết để chứng minh tính nhất quán của Việt Nam trong lập trường về Biển Đông, đặc biệt là trong một thời gian dài.

Cả hai GS Thayer lẫn PGS Batongbacal đều cho rằng, với những động thái trong thời gian qua, Việt Nam đang đi đúng hướng và thậm chí có thể thắng nếu gửi đơn kiện Trung Quốc. Mặc dù vậy, để chắc chắn thành công, Việt Nam cần có một chiến lược sâu rộng, kết hợp với sự ủng hộ từ các nhân tố khác.

PGS Batongbacal nhận định, những vi phạm mới nhất của Trung Quốc như vụ đưa giàn khoan vào khu vực tranh chấp hàng hải, triển khai nghiên cứu khoa học trên biển ở vùng đặc quyền kinh tế của nước khác và mới đây nhất là đâm chìm tàu cá Việt Nam, tất cả đều có thể là cơ sở cho những đơn kiện trong tương lai.

Tuy vậy, cũng cần nói thêm rằng đơn kiện chỉ là một công cụ pháp lý. Biện pháp này phải được cân nhắc hết sức cẩn thận và phối hợp với những hành động ngoại giao và chính trị. Tất cả phải được tiến hành đồng thời và độc lập trong giai đoạn xét xử vụ kiện. Bên thưa kiện phải xem nó là một phần trong khuôn khổ một chiến lược rộng lớn hơn.

“Vì thế, bất kỳ động thái hay diễn biến nào trong vụ kiện cũng phải được phối hợp với chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng như chính sách ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc và các khía cạnh khác trong mối quan hệ song phương này", - PGS Batongbacal kết luận

Theo Sputnik News
0

Quần đảo Natuna – điểm nóng căng thẳng mới trên Biển Đông

(11/04/2020)- Vụ xâm nhập tháng 12/2019 đánh dấu các diễn biến mới trong vấn đề quần đảo Natuna. Bắc Kinh đã thay đổi lập trường và hiện tuyên bố quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan gần quần đảo Trường Sa. Đây không còn là vấn đề “ngư trường truyền thống”.


Các cuộc xâm nhập bất ngờ của Trung Quốc và trao đổi ngoại giao

Từ ngày 19-24/12/2019, theo báo cáo của Cơ quan hàng hải Indonesia (Bakamla), 63 tàu đánh cá Trung Quốc được 2 tàu cảnh sát biển và 1 tàu khu trục của nước này hộ tống, đã tiến vào EEZ của Indonesia xung quanh quần đảo Natuna. Từ chối rời đi theo yêu cầu của tàu Bakamla, các con tàu này kiên quyết cho rằng họ đang đánh bắt cá trong vùng lãnh hải của mình. Tàu Bakamla không còn cách nào khác ngoài việc báo cáo về vụ xâm phạm cho các bộ ngành có liên quan của Indonesia.

Ngày 30/12/2019, sau khi tham vấn nhiều bộ ngành, Bộ Ngoại giao Indonesia đưa ra một lá thư phản đối, lưu ý rằng “đã có những hành vi vi phạm EEZ của Indonesia, trong đó bao gồm các hoạt động đánh bắt cá trái phép, không báo cáo và không được kiểm soát (IUU) cùng với các hành vi vi phạm chủ quyền do tàu cảnh sát biển Trung Quốc gây ra ở vùng biển Natuna”. Bộ Ngoại giao cũng đã triệu tập Tiêu Thiên, Đại sứ Trung Quốc tại Jakarta, để thể hiện sự phản đối gay gắt trước hành động xâm phạm.

Ngày 31/12/2019, trong cuộc họp báo thường kỳ, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã phản ứng trước sự phản đối của Indonesia: “Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa cũng như có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển có liên quan gần quần đảo Trường Sa. Trong khi đó, Trung Quốc cũng có quyền lịch sử ở Biển Đông. Ngư dân Trung Quốc từ lâu đã thực hiện hoạt động đánh bắt cá ở các vùng biển xung quanh quần đảo Trường Sa, và từ lâu cũng được coi là hợp pháp. Lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc đang thực hiện nhiệm vụ của mình bằng cách tiến hành tuần tra nhằm duy trì trật tự hàng hải cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân Trung Quốc trong các vùng biển có liên quan. Đại sứ Trung Quốc tại Indonesia đã nhắc lại lập trường nhất quán của Trung Quốc với phía Indonesia”. Ông Tiêu Thiên nói thêm: “Trung Quốc muốn hợp tác với Indonesia để tiếp tục giải quyết thỏa đáng các tranh chấp thông qua đối thoại song phương và duy trì hợp tác hữu nghị cũng như hòa bình và ổn định ở Biển Đông”.

Bộ Ngoại giao Indonesia không chấp nhận trả lời của Trung Quốc, ngày 1/1/2020 đã chỉ ra rằng Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để tuyên bố quyền lịch sử liên quan đến EEZ tại quần đảo Natuna, vì khu vực này thuộc chủ quyền của Indonesia theo UNCLOS năm 1982, được cả Jakarta và Bắc Kinh cùng ký kết. Indonesia cũng bác bỏ thuật ngữ “vùng biển có liên quan”, một khái niệm không tồn tại trong bất kỳ tài liệu pháp lý nào và do đó không có cơ sở pháp lý. Bộ Ngoại giao cũng nhắc lại rằng Indonesia không có bất kỳ quyền tài phán nào chồng lấn với Trung Quốc và Jakarta sẽ không bao giờ công nhận “đường 9 đoạn” của Trung Quốc vì nó trái với UNCLOS theo phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016.

Ngày 2/1, Cảnh Sảng đáp lại tuyên bố của Bộ Ngoại giao Indonesia: “Tôi muốn nhấn mạnh rằng lập trường và các đề xuất của Trung Quốc phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có cả UNCLOS. Vì vậy dù phía Indonesia có chấp nhận hay không, không gì có thể thay đổi thực tế khách quan rằng Trung Quốc có quyền và lợi ích đối với các vùng biển có liên quan. Cái gọi là phán quyết của Tòa trọng tài về Biển Đông là bất hợp pháp, vô hiệu và không có giá trị, chúng tôi từ lâu đã làm rõ rằng Trung Quốc không chấp nhận cũng như không công nhận phán quyết này. Phía Trung Quốc kiên quyết phản đối bất kỳ quốc gia, tổ chức hay cá nhân nào sử dụng phán quyết trọng tài không hợp lệ này để làm tổn hại các lợi ích của Trung Quốc”.

Đến ngày 6/1, các tàu cảnh sát biển Trung Quốc vẫn hoạt động tại vùng biển quanh quần đảo Natuna, cách Ranai (thủ phủ của đảo Natuna Lớn) 130 hải lý, dù đã được yêu cầu phải rời khỏi EEZ của Indonesia. Quốc hội Indonesia lên án hành vi xâm phạm của các tàu Trung Quốc tại vùng biển Natuna, và báo chí Indonesia bắt đầu đưa tin về tình trạng căng thẳng leo thang. Một học giả thậm chí còn yêu cầu chính phủ triệu hồi đại sứ Indonesia ở Bắc Kinh về nước và xem xét lại tất cả các dự án với Trung Quốc. Bộ trưởng điều phối các vấn đề chính trị, pháp lý và an ninh Indonesia Mahfud MD tuyên bố rằng hành động này đã vi phạm chủ quyền của Indonesia và nước này sẽ không đàm phán với Trung Quốc về vấn đề EEZ.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Prabowo Subianto đã kêu gọi các bên giữ bình tĩnh, tuyên bố rằng Jakarta đang tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Ông nói thêm rằng Trung Quốc và Indonesia là bạn. Bộ trưởng điều phối các vấn đề hàng hải và đầu tư nước ngoài Luhut Pandjaitan, một vị tướng đã nghỉ hưu có ảnh hưởng và cũng là bạn thân của Tổng thống Joko “Jokowi” Widodo, cũng cho rằng người dân không nên phóng đại vụ việc này. Ông lưu ý rằng Trung Quốc không có ý định tạo hiềm khích với Indonesia, và Indonesia không nên làm gì nếu sự việc chỉ là các tàu cảnh sát biển của Trung Quốc đi qua EEZ xung quanh quần đảo Natuna vì hành động này phù hợp với luật pháp quốc tế; nhưng nếu các tàu đánh cá của Trung Quốc đánh bắt cá tại EEZ của Indonesia, thì hành động đó sẽ là vi phạm luật pháp quốc tế.

Có vẻ như hai bộ trưởng của Indonesia đang cố gắng hóa giải xung đột. Dù vậy, ngày 6/1/2020, Tổng thống Jokowi tuyên bố rằng “sẽ không đàm phán với bất cứ nước nào vì Natuna và EEZ tại đây chỉ thuộc về Indonesia”. Tuy nhiên, tuyên bố không nêu đích danh Trung Quốc.

Ngày 8/1/2020, một số nguồn tin cho biết người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã nói: “Tôi muốn nhấn mạnh rằng Trung Quốc và Indonesia không có tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ. Chúng tôi có các tuyên bố chồng lấn nhau về quyền và lợi ích hàng hải tại một số khu vực ở Biển Đông. Trung Quốc hy vọng Indonesia sẽ giữ bình tĩnh. Chúng tôi muốn giải quyết các khác biệt với Indonesia một cách thích đáng, đồng thời duy trì quan hệ song phương cũng như hòa bình và sự ổn định trong khu vực. Trên thực tế, hai nước đã liên lạc với nhau về vấn đề này thông qua các kênh ngoại giao”. Cùng ngày, Tổng thống Jokowi cũng đã đến thăm đảo Natuna Lớn và khẳng định lại cam kết mạnh mẽ của ông trong việc bảo vệ EEZ của Indonesia. Được biết các tàu đánh cá và tàu cảnh sát biển của Trung Quốc cũng đã rời khỏi vùng biển của Natuna sau chuyến thăm của Tổng thống Jokowi.

Để ngăn chặn bất kỳ vụ xâm phạm nào có thể diễn ra trong tương lai, Hải quân Indonesia đã tăng cường sự hiện diện ở vùng biển Natuna. Ngày 15/1/2020, một tuần sau chuyến thăm của Tổng thống Jokowi, Mahfud MD và Bộ trưởng mới phụ trách các vấn đề hàng hải và đánh bắt cá Edy Prabowo đã tới thăm Natuna Besar. Mahfud đã kêu gọi các ngư dân địa phương Indonesia cũng như người từ các khu vực khác đến đánh bắt cá ở vùng biển Natuna để cho sự hiện diện của họ có thể ngăn chặn các tàu đánh cá nước ngoài đến vùng biển này. Rõ ràng là không có nhiều tàu đánh cá Indonesia hoạt động tại đây. Mahfud cũng tuyên bố rằng các tàu đánh cá Indonesia sẽ được Hải quân nước này bảo vệ trong khi đánh bắt cá. Người phát ngôn của Hải quân Indonesia cũng đảm bảo với họ rằng các tàu đánh cá Trung Quốc sẽ bị bắt giữ nếu họ quay trở lại vùng biển Natuna.

Vấn đề Natuna trong nhiệm kỳ tổng thống của Jokowi

Không có nhiều sự cố đến thế dưới thời Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono (SBY), các con tàu Trung Quốc bị bắt giữ thường được thả sau khi hai bên tiến hành các hoạt động ngoại giao ngầm.

Khi Jokowi trở thành tổng thống vào tháng 10/2014, số vụ xâm nhập do các tàu đánh cá nước ngoài đã gia tăng, tới mức Jakarta đã bắt đầu lo ngại về chủ quyền của mình. Điều này được thể hiện rất rõ sau khi Susi Pujiastuti trở thành Bộ trưởng phụ trách các vấn đề hàng hải và ngư nghiệp. Bà quyết định đưa ra một chính sách cứng rắn hơn và các tàu nước ngoài liên quan đến hành vi đánh bắt cá trái phép tại EEZ của Indonesia đã bị tịch thu, nhiều tàu thậm chí bị đánh chìm.

Bà cũng bắt đầu tập trung chú ý vào EEZ của Indonesia xung quanh quần đảo Natuna. Ngày 19/3/2016, một tàu tuần tra Indonesia đã bắt giữ một tàu đánh cá Trung Quốc xâm nhập vào vùng biển Natuna. Tuy nhiên, một tàu cảnh sát biển Trung Quốc đã nhanh chóng xuất hiện và đâm vào con tàu tuần tra của Indonesia để giải cứu tàu đánh cá này. Bộ trưởng Pujiastuti công bố tình tiết này với báo chí và phản đối Bắc Kinh. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đã phản hồi bằng cách tuyên bố rằng ngư dân Trung Quốc chỉ đang làm những công việc thường nhật trong ngư trường truyền thống của họ.

Vụ việc đã ngay lập tức trở thành một vấn đề quốc gia và dư luận Indonesia đã trở nên thù địch với Trung Quốc. Bắc Kinh nhanh chóng và lặng lẽ cử một đặc phái viên tới gặp Jokowi, bỏ qua Bộ Ngoại giao. Người phát ngôn của Jokowi sau đó đã tuyên bố rằng đây là một sự hiểu lầm và tranh chấp này đã tạm thời được giải quyết. Ngày 27/5/2016, khoảng 2 tháng sau khi vụ việc diễn ra, lại có một cuộc xâm nhập khác. Jakarta đã lên tiếng phản đối, và Bắc Kinh đã trả lời bằng lập luận tương tự như trên. Lần này, Jokowi buộc phải thể hiện rằng ông nghiêm túc về việc bảo vệ chủ quyền của Indonesia. Ông đã tới quần đảo Natuna trên một con tàu chiến Hải quân cùng một số bộ trưởng nội các và tổ chức một cuộc họp nội các nhỏ trên tàu. Quốc hội Indonesia đã thảo luận về vấn đề Natuna và phê duyệt ngân sách để phát triển một căn cứ quân sự ở đây. Ngày 17/6/2016, một vụ xâm phạm khác đã xảy ra nhưng lần này Hải quân Indonesia đã chuẩn bị sẵn sàng và bắt giữ thành công tàu đánh cá Trung Quốc.

Jakarta bắt đầu phát triển căn cứ quân sự ở Natuna và tăng quân số. Năm 2017, nước này đổi tên phần phía bắc của vùng EEZ Indonesia ở Biển Đông thành biển Bắc Natuna. Jakarta đã phớt lờ sự phản đối của Bắc Kinh đối với việc đổi tên. Sau đó, vùng biển Natuna đã không xảy ra sự cố gì trong ba năm rưỡi qua.

Không ai rõ tại sao các hoạt động của Trung Quốc lại leo thang đột ngột tại EEZ xung quanh quần đảo Natuna vào tháng 12/2019; các tàu đánh cá Trung Quốc đã bắt đầu xuất hiện với số lượng lớn hơn nhiều so với trước đây. Một nhà quan sát cho rằng Trung Quốc muốn lợi dụng tình trạng bất ổn của Mỹ để khẳng định bá quyền ở Biển Đông trong khi nhiều người khác lại cho rằng Bắc Kinh chỉ muốn thử chính quyền mới của Jokowi, vốn đang bận tâm tới tăng trưởng kinh tế và việc chuyển thủ đô của Indonesia từ Jakarta tới Đông Kalimantan. Thời điểm này quả thực rất thú vị, sau khi Susi Pujiastuti từ chức Bộ trưởng phụ trách các vấn đề hàng hải và ngư nghiệp và sau chuyến thăm của Prabowo tới Bắc Kinh ngày 15-17/12/2019.

Mặc dù Bộ trưởng Quốc phòng Prabowo vốn nổi tiếng là có thái độ cứng rắn, nhưng phản ứng ban đầu của ông trước hành vi xâm phạm của Trung Quốc tương đối ôn hòa, tương tự như Bộ trưởng phụ trách các vấn đề hàng hải và đầu tư Luhut Pandjaitan. Dường như cả hai vị bộ trưởng đều muốn xoa dịu căng thẳng ở Natuna vì chủ nghĩa dân tộc ở Indonesia đang trỗi dậy và Chính quyền Jokowi không muốn điều đó làm chệch hướng sự tập trung vào phát triển kinh tế. Luhut có thể quan tâm hơn đến tình hình kinh tế và thu hút đầu tư của Trung Quốc vì hiện ông đang giám sát danh mục đầu tư. Trung Quốc cũng đáp ứng rất nhiệt tình những cử chỉ này. Đại sứ Trung Quốc tại Jakarta đã nói với giới báo chí rằng sự cố Natuna sẽ không ảnh hưởng đến đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia.

Thay đổi lập luận ở cả hai phía?

Từ các tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc trước và sau vụ xâm nhập tháng 12/2019, rõ ràng Trung Quốc hiện đang công khai tuyên bố rằng một phần vùng biển xung quanh quần đảo Natuna thuộc chủ quyền và quyền tài phán của nước này. Trung Quốc tái khẳng định rằng họ có quyền lịch sử đối với Biển Đông và các vùng biển liên quan gần quần đảo Trường Sa, và những vùng biển đó là khu vực đánh bắt cá của Trung Quốc từ trước đến nay. Trước khi vụ xâm nhập tháng 12/2019 diễn ra, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã liên tục sử dụng cụm từ “ngư trường truyền thống” làm căn cứ cho sự hiện diện của các tàu đánh cá Trung Quốc.

Xuyên suốt những phản hồi của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đối với Indonesia, điều đáng lưu ý là Trung Quốc chưa bao giờ sử dụng thuật ngữ “đường 9 đoạn”. Thay vào đó, họ sử dụng thuật ngữ “quyền lịch sử”. Tất nhiên, nhiều nhà quan sát sẽ ngay lập tức nhớ tới “đường 9 đoạn” trong đó lấy lịch sử làm căn cứ để tuyên bố chủ quyền đối với 90% Biển Đông. Khái niệm “đường 9 đoạn” bị phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016 bác bỏ vì mâu thuẫn với UNCLOS năm 1982. Trung Quốc cực lực phản đối phán quyết của Tòa trọng tài vì cho rằng đó là “thiên vị và bất hợp pháp”, và phàn nàn về việc Indonesia sử dụng phán quyết này để bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Điều thú vị là, trong một phản hồi với Indonesia vào ngày 2/1/2020, Trung Quốc tuyên bố rằng lập trường và các đề xuất của Bắc Kinh “phù hợp với luật pháp quốc tế và UNCLOS”.

Trung Quốc quả quyết cho rằng họ không có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Indonesia mà chỉ có các tuyên bố chồng lấn về một số vùng biển xung quanh quần đảo Natuna. Có vẻ như Trung Quốc công nhận chủ quyền của Indonesia đối với quần đảo Natuna và vùng lãnh hải kéo dài 12 hải lý của quần đảo này, nhưng không công nhận EEZ kéo dài 200 hải lý của Indonesia.

Đối với Jakarta, chủ quyền của Indonesia bao gồm quần đảo Natuna, vùng lãnh hải 12 hải lý và EEZ 200 hải lý của quần đảo này. Chủ quyền này được thừa nhận theo UNCLOS được Jakarta và Bắc Kinh đồng ký kết. Do đó, Indonesia coi sự hiện diện của các tàu đánh cá và tàu cảnh sát biển Trung Quốc ở EEZ xung quanh Natuna là hành vi xâm phạm chủ quyền của Indonesia.

Trên thực tế, tháng 7/2010, các nhà ngoại giao Indonesia đã gửi một lá thư cho Tổng thư ký Liên hợp quốc để chất vấn về căn cứ pháp lý của “đường 9 đoạn”. Họ lập luận rằng “đường 9 đoạn” đã vi phạm UNCLOS mà Trung Quốc là một trong những bên ký kết, và do đó không thể được chấp nhận. Indonesia cũng đề nghị Tổng thư ký lưu hành lá thư cho tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc. Trung Quốc chọn cách không phản hồi lá thư này.

Điều thú vị là khi phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016 được công bố, trong đó bác bỏ căn cứ pháp lý của “đường 9 đoạn”, Bộ Ngoại giao Indonesia đã áp dụng lập trường trung lập. Họ chỉ tuyên bố rằng Indonesia sẽ giữ vững các nguyên tắc của UNCLOS và không đề cập đến phán quyết của Tòa trọng tài. Tuy nhiên, Jakarta đã thay đổi lập trường sau vụ xâm nhập tháng 12/2019 và viện dẫn phán quyết này. Điều này đã chọc tức Bắc Kinh.

Kết luận

Vụ xâm nhập tháng 12/2019 đánh dấu các diễn biến mới trong vấn đề quần đảo Natuna. Bắc Kinh đã thay đổi lập trường và hiện tuyên bố quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan gần quần đảo Trường Sa (cụ thể là các vùng biển thuộc EEZ của quần đảo Natuna). Đây không còn là vấn đề “ngư trường truyền thống”.

Jakarta đã bác bỏ yêu sách quyền chủ quyền của Bắc Kinh và lần đầu tiên đã đề cập đến phán quyết của Tòa trọng tài. Sự cố tháng 12/2019 cũng khiến Indonesia có lập trường cứng rắn hơn và đẩy mạnh xây dựng quân sự ở vùng biển xung quanh quần đảo Natuna. Nếu và khi có một vụ xâm nhập khác, một cuộc đụng độ công khai có thể diễn ra, và những làn sóng bài Trung Quốc và người Hoa ở Indonesia có thể một lần nữa được khơi gợi.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG
0

Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2020

Bắc Kinh đẩy nhanh năng lực điều binh khẩn cấp khắp Biển Đông

Đó là lo ngại được đặt ra đối với việc Trung Quốc vừa công bố sắp thử nghiệm trên biển dòng máy bay đổ bộ AG600.


Thủy phi cơ AG600 sắp được bay thử nghiệm trên biển

Vừa “thoát” dịch bệnh, tăng tốc hoàn thiện máy bay đổ bộ

Tối 8.4, trang tin ECNS, của China News Service - hãng thông tấn lớn thứ hai của Trung Quốc, dẫn nguồn từ Đài truyền hình trung ương nước này (CCTV) đưa tin Tập đoàn công nghiệp hàng không Trung Quốc (AVIC) đang điều động nhân sự tại một cơ sở ở Kinh Môn (tỉnh Hồ Bắc) để đẩy nhanh quá trình hoàn thiện máy bay đổ bộ AG600.

Chương trình làm việc được thúc đẩy ngay khi tình hình dịch bệnh Covid-19 ở Hồ Bắc được kiểm soát. Nhờ đó, theo truyền thông Trung Quốc, thủy phi cơ đổ bộ AG600 đã có bước tiến mới. CCTV dẫn lời người đứng đầu căn cứ của AVIC ở Chu Hải cho hay máy bay AG600 đã sẵn sàng thử nghiệm bay huấn luyện trên biển.

Bay thử nghiệm lần đầu trên đất liền vào năm 2017 và bay thử nghiệm lần đầu ở một hồ chứa nước vào năm 2018, AG600 được Bắc Kinh kỳ vọng hoàn thành bay thử nghiệm trên biển trong năm nay. Lâu nay, việc bay thử nghiệm trên biển thường có nhiều thách thức hơn trên đất liền, nhất là việc cất và hạ cánh của thủy phi cơ do mặt biển thường có nhiều biến động.

Theo kế hoạch, chiếc AG600 đầu tiên sẽ được bàn giao cho quân đội vào năm 2022.

Lý giải động cơ của Trung Quốc

Trả lời Thanh Niên ngày 9.4, TS Satoru Nagao (Viện Nghiên cứu Hudson, Mỹ) nhận định: “Đến nay, hầu hết các quốc gia đã kết thúc các chương trình phát triển thủy phi cơ đổ bộ. Các nước còn theo đuổi phương tiện này chỉ gồm Nhật Bản, Nga và Canada”.

“Thế thì tại sao giờ đây Trung Quốc cũng muốn phát triển thủy phi cơ đổ bộ?”, TS Nagao đặt vấn đề và giải đáp: “Thủy phi cơ đổ bộ là loại khí tài đáp ứng chiến lược của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Indo - Pacific)”.


Tàu đổ bộ Type-075 của Trung Quốc

Cụ thể, trong quá khứ thời Thế chiến 2, loại máy bay này có vai trò rất hữu dụng lúc Mỹ khai thác ở Indo - Pacific khi có thể cất và hạ cánh phần lớn địa điểm ở vùng biển rộng lớn, để đáp ứng nhiều nhiệm vụ như chiến đấu chống tàu ngầm, chống tàu chiến nổi, vận tải, tuần tra… Thủy phi cơ cũng cho phép cất và hạ cánh dễ dàng trên biển để có thể kiểm soát các đảo, bãi đá nhỏ.

“Chính vì thế, Trung Quốc phát triển thủy phi cơ AG600 nhằm phát triển khả năng tiếp cận nhanh các đảo nhỏ, bãi đá...”, TS Nagao nhận định. Và thực tế thì đây cũng chính là đặc điểm của Biển Đông mà Trung Quốc đang nuôi tham vọng bá quyền.

Lý giải trên là phù hợp khi chính trang tin ECNS cũng cho rằng AG600 có thể hoạt động trong nhiều điều kiện, đặc biệt là khả năng chở theo 30 binh sĩ, vũ khí để đổ bộ khẩn cấp trên biển.

Với tầm bay hơn 4.000 km cùng tốc độ hành trình khoảng 500 km/giờ, AG600 khi đồn trú ở đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) của Việt Nam, mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép, có thể nhanh chóng vươn đến mọi khu vực ở Biển Đông. Vì thế, theo ECNS, với việc biên chế AG600, Bắc Kinh có thể sử dụng phương tiện này để sẵn sàng tiếp viện cả binh sĩ lẫn vũ khí đến Biển Đông khi cần thiết.

Hiện Trung Quốc có đường băng ở 3 bãi đá Vành Khăn, Xu Bi và Chữ Thập, mà nước này đang chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Tuy nhiên, với nhiều bãi đá khác thì Bắc Kinh đã xây dựng hạ tầng, nhưng khó có thể thiết lập đường băng, nên AG600 chính là giải pháp để kết nối đến các bãi đá này.

Phân tích sâu hơn trong tổng thể chiến lược, TS Nagao chỉ ra rằng Bắc Kinh có thể phát triển một năng lực đổ bộ bao gồm nhiều phương tiện khi kết hợp AG600 với các loại tàu đổ bộ mang máy bay trực thăng Type-075 và tàu vận tải đổ bộ Type-071.

Mới đây, đầu tháng 4, truyền thông Trung Quốc rộ tin vừa hạ thủy chiếc tàu đổ bộ Type-075 thứ hai. Đây là tàu đổ bộ có độ choán nước toàn tải xấp xỉ 40.000 tấn, dài khoảng 237 m và có thể mang theo 30 trực thăng chiến đấu đa nhiệm Z-8 và Z-9.

Trong tương lai, Bắc Kinh đang kỳ vọng phát triển máy bay tiêm kích cất cánh đường băng ngắn hạ cánh thẳng đứng để trang bị cho lớp tàu Type-075 nhằm biến loại tàu này thành tàu sân bay như cách Mỹ đang thực hiện với tàu đổ bộ lớp America, lớp Wasp.

Bên cạnh đó, tàu Type-071 vừa có thể chở vũ khí, bao gồm cả tàu đổ bộ đệm khí, mang theo gần 1.000 lính cũng đóng vai trò đổ bộ quan trọng. Chính vì thế, khi kết hợp thủy phi cơ AG600 với các loại tàu đổ bộ Type-075 và Type-071 thì Trung Quốc có thể hình thành năng lực tác chiến đổ bộ cả đường không lẫn đường biển.

Ngoài ra, việc sở hữu AG600 còn được cho là nhằm đóng vai trò hậu cần đối với hoạt động của tàu sân bay, đặc biệt đối với công tác giải cứu phi công gặp nạn. Nếu phi công gặp nạn, AG600 có thể bay nhanh hơn so với máy bay trực thăng để đến địa điểm cần giải cứu.

Siêu thủy phi cơ đổ bộ của Nhật

Trong khi Trung Quốc vẫn đang hoàn thiện AG600, Nhật đã sở hữu dòng thủy phi cơ đổ bộ hiện đại ShinMaywa US-2. Theo một số báo cáo thì nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, hay Ấn Độ đều đang tỏ ý muốn đặt mua US-2 từ Nhật, bởi thực tế chứng minh US-2 có khả năng hoạt động khá ưu việt, cất và hạ cánh trên biển ngay cả giữa thời tiết xấu, như sóng cao đến 3 m. Tuy nhiên, để sở hữu US-2 thì thách thức khá lớn là phải trả mức giá đến hơn 100 triệu USD, theo một số tạp chí chuyên ngành.

Việt Nam đã sẵn sàng đến đâu cho cuộc chiến pháp lý với Trung Quốc ?

Chiều 9.4, tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao được tổ chức bằng hình thức trực tuyến, đại diện DPA (hãng thông tấn của Đức) đã gửi câu hỏi về tiến độ hoàn thiện các thủ tục pháp lý để kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.

Cụ thể, đại diện DPA nêu: Trước đây, Việt Nam nhiều lần cho biết không loại trừ khả năng kiện Trung Quốc liên quan đến những đòi hỏi về chủ quyền của nước này ở Biển Đông. Vậy tiến trình chuẩn bị hồ sơ pháp lý đã hoàn thành chưa? Liệu Việt Nam có tiến hành các thủ tục khởi kiện Trung Quốc sau khi Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc (LHQ) ngày 30.3 đã gửi Công hàm phản đối lập trường của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông?

Trả lời câu hỏi này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết lập trường nhất quán của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, như đã thể hiện trong Công ước LHQ về luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).

“Việc lưu hành Công hàm tại LHQ là bình thường, thể hiện lập trường và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam”, bà Hằng nói, đồng thời nhấn mạnh: “Lập trường nhất quán của Việt Nam cũng đã thể hiện đầy đủ tại Công hàm này. Theo đó, Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, phù hợp với luật pháp quốc tế; đồng thời, khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển được xác định theo UNCLOS 1982”.

Cũng tại buổi họp báo, bình luận về việc truyền thông Trung Quốc cho biết nước này chuẩn bị đưa thủy phi cơ cỡ lớn ra Biển Đông, bà Hằng nêu rõ: “Quan điểm nhất quán của Việt Nam là duy trì hòa bình ổn định, an ninh an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông là lợi ích và trách nhiệm của các nước trong và ngoài khu vực. Chúng tôi mong muốn các nước tăng cường hợp tác, đóng góp tích cực vào mục tiêu nói trên”.

Vũ Hân/ Thanh Niên
0

Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2020

Vụ đâm chìm tàu cá Quảng Ngãi: Việt Nam yêu cầu Trung Quốc bồi thường



VTC Now | Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ và bồi thường vụ đâm chìm tàu cá Quảng Ngãi tại khu vực đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
0

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2020

Việt Nam phản đối trạm nghiên cứu Trung Quốc ở Trường Sa

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam, khi được hỏi về hai trạm nghiên cứu Trung Quốc vừa triển khai ở Trường Sa.

"Mọi hoạt động tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa phải được sự cho phép của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực cũng như nỗ lực của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)", bà Lê Thị Thu Hằng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, nói trong họp báo trực tuyến ngày 26/3.

Bà Hằng trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam đối với việc Trung Quốc triển khai hai trạm nghiên cứu trên đá Chữ Thập và đá Subi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.


Hình ảnh vệ tinh đá Chữ Thập đầu năm 2018. Ảnh: CSIS.

Hôm 20/3, Xinhua đưa tin Trung Quốc đưa vào hoạt động hai trạm nghiên cứu mới mang tên Yongshu và Zhubi tại cái gọi là quần đảo Nam Sa, là tên Bắc Kinh gọi quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hai trạm này thuộc Trung tâm Nghiên cứu về Đảo và Đá thuộc Viện Khoa học Trung Quốc (CAS), có các phòng thí nghiệm để hỗ trợ nghiên cứu về sinh thái, địa chất và môi trường.

"Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế", bà Hằng nói.

Nhắc đến việc Đài Loan diễn tập bắn đạn thật quanh đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa hôm 24/3, người phát ngôn cho biết đây là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo này, đe dọa hòa bình, ổn định, an toàn, an ninh hàng hải, gây căng thẳng và làm phức tạp tình hình ở Biển Đông.

"Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Đài Loan không được tiến hành hoạt động diễn tập trái phép nêu trên cũng như lặp lại vi phạm trong tương lai", bà Hằng nói.

Ba Bình là đảo có diện tích tự nhiên lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Đài Loan chiếm trái phép hòn đảo và triển khai một đơn vị cảnh sát biển đồn trú ở đây, đồng thời thường xuyên tiến hành các cuộc diễn tập bắn đạn thật phi pháp.

Việt Anh/ VnExpress
0

Thứ Hai, 23 tháng 3, 2020

Trung Quốc ngang nhiên khánh thành 2 trạm nghiên cứu mới ở Trường Sa


Trong lúc thế giới chạy đua kiểm soát đại dịch virus corona, Trung Quốc đã đưa vào hoạt động hai trạm nghiên cứu trên Đá Subi và Đá Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Hai cơ sở nghiên cứu này, đặt dưới sự quản lý của Trung tâm Nghiên cứu Tổng hợp Đảo và Đá thuộc Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS), bao gồm nhiều labo về sinh thái học, địa chất học và môi trường, theo Tân Hoa Xã.

Trong bản tin hôm 20/3, Tân Hoa Xã nói hai trạm nghiên cứu mới đi vào hoạt động có thể hỗ trợ các nhà khoa học điều tra thực địa, lấy mẫu và nghiên cứu khoa học tại "Nam Sa", cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.


Đá Chữ Thập ở Trường Sa nhìn từ trên cao. Ảnh: People’s Daily.

Một nhà nghiên cứu Trung Quốc được dẫn lời trong bản tin cho biết "cơ sở nghiên cứu tổng hợp về rạn san hô và biển sâu" nay đã được thiết lập với hai trạm nghiên cứu mới cùng một trung tâm nghiên cứu được xây dựng trước đó trên Đá Vành Khăn ở Trường Sa.

Đá Vành Khăn, Đá Chữ Thập và Đá Subi là 3 trong 7 thực thể bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp ở Trường Sa của Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Bắc Kinh đã bồi lấp, xây đảo nhân tạo và quân sự hóa biến các thực thể này thành tiền đồn ở Biển Đông.

Với việc xây dựng các trạm nghiên cứu, CAS có kế hoạch "thúc đẩy năng lực khai phá và cung cấp các sản phẩm về khoa học và công nghệ biển để đáp ứng nhu cầu của cả Trung Quốc và các nước ven biển Đông", theo Tân Hoa Xã.

Các cơ sở này cũng sẽ góp phần "cải thiện năng lực quan sát thực địa và thí nghiệm về sinh thái học, địa chất học, môi trường, vật liệu và tối ưu hóa năng lượng từ biển trong môi trường biển nhiệt đới".

Collin Koh, một trong những chuyên gia về an ninh biển hàng đầu khu vực, nói việc Trung Quốc khánh thành hai trạm nghiên cứu mới vào lúc này là một diễn biến nghiêm trọng.

"Một số người có thể nghĩ rằng dịch virus corona đang diễn ra sẽ khiến Bắc Kinh không thể để mắt đến các điểm nóng trên biển này", ông Koh, nhà nghiên cứu tại Trường Quan hệ Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, nói với báo Inquirer.

"Sự thật là tình hình hoàn toàn ngược lại. PLA (Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc) được động viên để duy trì sự sẵn sàng chiến đấu bất chấp virus corona".

"Sử dụng cái mà họ gọi là sáng kiến 'khoa học phục vụ dân sinh' để khẳng định yêu sách là cách họ thường làm và cũng là cách mà tất cả chúng ta thường không để ý", ông nói.

"Tuy nhiên cùng lúc, những hệ quả mang tính chiến lược sinh ra từ đó cũng quan trọng không kém".

Ông Koh tin rằng Trung Quốc sẽ duy trì sự nhất quán trong hoạt động của họ tại vùng biển tranh chấp. Tuy nhiên, vì dịch bệnh đang lây lan trên toàn cầu, hành động của họ có thể không được chú ý.

Theo Zing News
0

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2019

Chính ủy QK7 nói về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa

Một Video xuất hiện trên mạng xã hội quay lại cảnh Trung tướng, Chính ủy Quân khu 7 Phạm Văn Dỹ phát biểu trước hàng chục quan khách và ông Dỹ khẳng định Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam.



Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=NVOoDc07oao
0

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2019

Nghi vấn tàu ngầm TQ bị tàu đánh cá Việt ép phải nổi lên


Hôm 16/10 trên mạng xã hội xuất hiện một bức ảnh chụp một tàu ngầm 094 nổi lên bên cạnh một tàu đánh cá VN.
0

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2019

Biển Đông: Chứng lý không thể chối cãi của Việt Nam

Nếu kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về những hành vi ngang ngược trên Biển Đông thì khả năng thắng của Việt Nam còn cao hơn Philippines năm 2016.


Vị trí của bãi Tư Chính/Nam Côn Sơn so với các đảo trên Biển Đông
Nguồn: Phan Văn Song/Đồ họa: Du Sơn


Việt Nam và thế giới đang theo dõi và quyết liệt phản đối nhóm tàu Trung Quốc tiến hành thăm dò địa chấn trái phép tại khu vực bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam cũng như thông tin về hành vi quấy rối hoạt động khai thác dầu khí hợp pháp tại lô 06-01 Bồn trũng Nam Côn Sơn. Đến nay, trong các tuyên bố ngày 19 và 25.7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán như đã được xác lập trong Công ước LHQ về luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế”, đồng thời nhấn mạnh: “Vị trí của lô 06-01 nằm hoàn toàn trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”.

Tuy nhiên trong bối cảnh Trung Quốc nhiều lần xâm phạm chủ quyền Việt Nam và tạo nên các sự đã rồi như xâm chiếm, cải tạo các đảo, đá và thực thể trên Biển Đông, Việt Nam cần xem xét tất cả giải pháp, trong đó có giải pháp pháp lý, tức kiện ra tòa. Một trong các biện pháp là sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc ở Phụ lục VII của UNCLOS liên quan đến bãi Tư Chính và Nam Côn Sơn. Đây là cách mà Philippines làm năm 2016 và đã thắng kiện.

Nếu đưa ra tòa thì khả năng thắng của Việt Nam sẽ còn cao hơn vì khu vực bãi Tư Chính và Nam Côn Sơn cách Ba Bình, đảo lớn nhất ở Trường Sa hơn 200 hải lý. Đảo lớn gần nhất với Tư Chính và Nam Côn Sơn là Trường Sa Lớn, mà đây chỉ là đảo lớn thứ tư ở Trường Sa. Phán quyết năm 2016 đã khẳng định Ba Bình không tạo cho Trung Quốc cơ sở để đòi quyền về EEZ hay thềm lục địa, vì vậy các thẩm phán giờ đây khó có thể cho rằng Trường Sa Lớn có vùng đặc quyền kinh tế. Do đó, có thể nói bãi Tư Chính/Nam Côn Sơn không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của một thực thể nào đang thuộc quần đảo Trường Sa. Ngược lại, vùng Tư Chính/Nam Côn Sơn nằm hoàn toàn trong các vòng tròn 200 hải lý từ các đảo Dinh, Phú Quý, Côn Sơn của Việt Nam.

Kết quả của phiên tòa sẽ khẳng định quyền chủ quyền của Việt Nam, cũng như giới hạn hay ít nhất sẽ làm rõ bán kính ảnh hưởng trong các tuyên bố phi lý của Trung Quốc đòi quyền về EEZ từ các thực thể đang tranh chấp ở Trường Sa. Từ đó, đóng khung vùng biển có khả năng bị tranh chấp, dẫu sao vẫn nhỏ hơn nhiều so với đường chữ U chiếm hơn 80% Biển Đông của Trung Quốc. Kết quả này cùng với kết quả phiên tòa giữa Philippines và Trung Quốc năm 2016 một lần nữa khẳng định sự vô lý và phi pháp của yêu sách đường chữ U.

Dĩ nhiên chiến thắng pháp lý trước Trung Quốc cũng không phải là chiến thắng sau cùng vì họ sẽ khó từ bỏ tham vọng lâu đời của mình. Tuy nhiên nó sẽ khẳng định lập trường chính nghĩa rõ ràng của Việt Nam, được công nhận bởi bạn bè quốc tế. Tranh thủ dư luận quốc tế cũng là điều quan trọng trong giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, góp phần làm thất bại mưu đồ tung hỏa mù, biến cái không tranh chấp thành tranh chấp của Trung Quốc. Ngoài ra, thêm một phán quyết bất lợi từ Tòa trọng tài quốc tế sẽ khiến Trung Quốc e dè hơn trong các hành vi xâm lấn trên Biển Đông.

Trong giải quyết tranh chấp, kiện là cách văn minh và duy lý, văn minh hơn cái cách mà Trung Quốc đang làm. Lâu nay, về ngoại giao, chúng ta có phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, ngụ ý cần kiên định, nắm những nét lớn và không sa vào những diễn biến tức thời. Nếu vậy thì có thể thấy rằng những diễn biến trên Biển Đông từ ít nhất 10 năm nay khẳng định nét quan trọng là tham vọng ngày càng lớn của Trung Quốc. Ngoài ra, còn có vế thứ hai ít được nhắc đến hơn là “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm”, tức cần biết tâm của người dân là gì để lấy làm tâm của mình. Trong vấn đề Biển Đông, tâm của người dân có lẽ chưa bao giờ rõ hơn.

Nguồn: Thanh Niên
0

Báo Mỹ: Trung Quốc múa gậy ở Biển Đông

Hôm 28/7 báo The Hill của Mỹ có đăng bài “Trung Quốc múa gậy ở Biển Đông” của James Holmes – một chuyên gia về hàng hải thuộc trường Naval War College.



Trước hết, tác giả James Holmes cho rằng cuộc tranh chấp giữa Iran và Vương quốc Anh, mỗi nước đã giam giữ một tàu chở dầu của nhau đang khiến thế giới chú ý và quên mất chuyện Trung Quốc tạo sóng ở Biển Đông. Tác giả tự hỏi tại sao hai chuyện nóng trên biển lại xảy ra trong thời gian quá gần nhau như thế. Phải chăng là có kẻ lợi dụng điểm nóng ở chỗ khác để hành động của mình bớt bị chú ý.

Hành động của Trung Quốc ở gần bãi Tư Chính được tác giả cho rằng “Trung Quốc đang cố gắng củng cố quyền kiểm soát 80 đến 90% Biển Đông, bao gồm cả vùng biển được phân bổ cho các nước láng giềng Đông Nam Á theo “hiến pháp đại dương” chính là Công ước về Luật Biển (UNCLOS).

Đây là một chiến lược hành động dài hơi của Trung Quốc. Trở lại năm 2009, Bắc Kinh đã đệ trình bản đồ lên Liên Hợp Quốc khẳng định “chủ quyền không thể chối cãi của họ” trên vùng biển trong “cái đường chín đoạn của họ” (ngoặc kép là cách mỉa mai của tác giả), bao quanh 80 đến 90% Biển Đông. Chủ quyền có nghĩa là một chính phủ được thực thi luật pháp trong không gian địa lý được phân định theo biên giới. Nói cách khác, đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền quyết tuyên bố quyền ra lệnh cho tàu và máy bay Trung Quốc và nước ngoài có thể và không thể làm gì trong đường chín đoạn - giống như luật pháp Trung Quốc chi phối những gì công dân và người nước ngoài được làm trong biên giới Trung Quốc trên đất liền.

Bài báo cũng khẳng định rất mạnh mẽ Trung Quốc đã sai khi xâm phạm chủ quyền nước khác khi dẫn chi tiết: Trong tháng này, tàu thăm dò dầu khí Trung Quốc Haiyang Dizhi 8 đã đậu gần bãi Tư Chính. Giáo sư danh dự Carl Thayer, chuyên gia Việt Nam từ Đại học New South Wales, giải thích, vùng nước xung quanh bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), một vành đai 200 hải lý ngoài khơi (tính từ đường cơ sở) được phân chia cho các quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS.

Từ đó, James Holmes khẳng định: "Đặc quyền là đặc quyền, Hà Nội, chứ không phải Bắc Kinh, mới duy nhất được hưởng quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên từ cả dưới nước và đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đáy biển trữ lượng khoảng 45 triệu thùng dầu và 172 tỷ feet khối khí đốt có thể khai thác". (lưu ý tác giả khẳng định rõ một lần nữa bãi Tư Chính là vùng biển của Việt Nam).

Hiện tại bãi Tư Chính, Việt Nam đang rất kiềm chế và làm đúng phần việc của mình. Bài báo trên The Hill viết: Bãi Tư Chính không có các tàu chiến mang tên lửa hù dọa nhau và cũng không có máy bay chiến đấu bay lượn trên bầu trời dọa dội bom. Thay vào đó, như báo cáo từ tờ Straits Times có trụ sở tại Singapore, lực lượng bảo vệ bờ biển 2 bên đã đối mặt quanh Haiyang Dizhi 8. Tàu cảnh sát biển hiện diện ở đây chứ không phải là tàu chiến. Cảnh sát được vũ trang nhẹ hoặc không vũ trang thường hoạt động trong khu vực nằm dưới quyền tài phán của nước mình. Họ thi hành luật pháp quốc gia, giải cứu người đi biển khỏi nguy hiểm và thực hiện các công việc hành chính. Ít khi họ tham gia chiến đấu.

James Holmes viết “Bắc Kinh và Hà Nội đang cố gắng gửi thông điệp rằng họ có quyền đưa ra các quy tắc điều chỉnh với những gì xảy ra ở vùng biển ngoài khơi Việt Nam (lưu ý tác giả lần thứ 3 trong bài khẳng định bãi Tư Chính là vùng biển của Việt Nam).

ại sao không điều hải quân tàu xám - cây gậy lớn - để phát đi thông điệp đó? Vâng, hải quân chiến đấu cho những thứ đang tranh chấp; Tại sao phải thừa nhận có tranh chấp? Cảnh sát biển quản lý vùng biển thuộc về mình. Bằng cách triển khai các tàu vệ bờ biển vỏ trắng - cây gậy nhỏ - cả hai đã tuyên bố, và trên thực tế hiện trường, rằng họ đang thực thi luật pháp ở vùng biển nơi họ có quyền làm như vậy”.

Như vậy, theo cách viết của James Holmes trong trường hợp này thì cảnh sát biển và các lực lượng chấp pháp của chúng ta đã cư xử đúng với nhiệm vụ và bổn phận của mình trong vùng đặc quyền kinh tế của nước nhà. Còn Trung Quốc thì ráng đóng kịch hành động tại một nơi không thuộc về họ.

Trong tâm thế của kẻ làm việc bất minh, Trung Quốc vẫn đặt tay lên cây gậy lớn tức là phòng trường hợp dùng sức mạnh quân sự. Việc này được James Holmes mô tả là Trung Quốc thủ sẵn lực lượng máy bay, tên lửa trên bờ và hải quân phía sau sẵn sàng yểm trợ. Trên thực tế là ngay trước đó, Trung Quốc đã tập trận rầm rộ và phóng thử tên lửa trên Biển Đông gây lo ngại cho các nước láng giềng.

Với kiểu tay múa gậy nhỏ (cảnh sát biển), tay dứ gậy lớn (hải quân), James Holmes đánh giá Trung Quốc có tùy chọn leo thang từ đấu gậy nhỏ sang gậy lớn nếu thuận lợi. Còn Việt Nam có ít lựa chọn như vậy. Theo James Holmes, nếu Cố Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt có sống lại dù không bao giờ chấp nhận mục tiêu của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng ông cũng phải ngả mũ trước chiến thuật múa gậy nhỏ, dứ gậy to của Trung Quốc. Tổng thống Theodore Roosevelt là người rất thích câu châm ngôn “Nói năng nhẹ nhàng và cầm cây gậy to sẽ giúp bạn đi xa” và từ cây gậy đã trở thành thuật ngữ chính sách ngoại giao của Mỹ sau này.

Để đối phó với Trung Quốc mưu mô thâm hiểm như vậy, thì tác giả trong phần kết bài cho rằng Việt Nam cần phải tìm kiếm cho mình những đồng minh dám liều chơi tới cùng (nguyên văn là: allies bearing brickbats).

Vụ Bãi Tư Chính

Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và do đó hoàn toàn không nằm trong vùng biển tranh chấp song Trung Quốc lại cho rằng bãi này nằm trong cái gọi là “Đường 9 đoạn” - một yêu sách phi lý đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế tuyên là vô hiệu nhưng Bắc Kinh hoàn toàn phớt lờ. Gần đây, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 (Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc đã có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông này.

Ý kiến của Bộ Ngoại giao Việt Nam

Về phía Việt Nam, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng hôm 25/7 khẳng định:

"Về vụ việc nghiêm trọng này, chúng tôi đã đề cập nhiều lần trong các phát biểu trước đây. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đã được xác lập tại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) bằng các biện pháp hoà bình, trên cơ sở của luật pháp quốc tế".

Theo người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng, với mục tiêu trên, Việt Nam đã có nhiều hình thức giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.

"Duy trì hoà bình, ổn định và tự do hàng hải, hàng không, đề cao thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia như được xác lập tại UNCLOS 1982 là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế. Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới", bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh.

Nguồn: The Hill, Sputniknews

Link: https://thehill.com/opinion/national-security/454402-china-swings-a-small-stick-in-the-south-china-sea

0

Biển Đông: Vì sao Việt Nam không kiện TQ ra toàn án quốc tế?


Vì sao Việt Nam không kiện Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biển Đông? Phân tích của nhà báo người Mỹ gốc Việt Đỗ Dzũng, cộng tác viên báo Người Việt, STBN.

Nguồn: Nua Vong Trai Dat TV
0

Hành động của Trung Quốc 'đẩy Việt Nam vào vòng tay của Mỹ'


Tư liệu: Bộ ngoại giao Việt Nam tuyên bố về biển Đông trên Twitter (@PressDept_MoFA)

Trung Quốc và Việt Nam lẽ ra là những đối tác tự nhiên của nhau bởi vì hai nước chia chung ý thức hệ cộng sản, nhưng theo một chuyên gia của Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore (ISEAS Yusof Ishak) thì những hành động của Bắc Kinh trên Biển Đông đang đẩy Việt Nam, một nước cựu thù trở thành một đồng minh của Mỹ.

Đó là ý kiến của Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore (ISEAS Yusof Ishak) trong một bài bình luận đăng trên báo South China Morning Post ngày 25/7/2019.

Bài báo lược qua những diễn biến mới đây trên Biển Đông.

Đối đầu trên biển

Căng thẳng không ngừng leo thang giữa hai nước anh em xã hội chủ nghĩa sau khi Trung Quốc điều tàu khảo sát địa chất Hải dương 8 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, cản trở các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam liên doanh với các nước khác trên các vùng biển thuộc thềm lục địa Việt Nam, theo định nghĩa của Công ước Quốc tế về Luật biển 1982.

Hà nội tố cáo Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại bãi Tư Chính, lọt thỏm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý được quốc tế công nhận, trong khi Bắc Kinh vẫn đơn phương tuyên bố chủ quyền trên hầu hết diện tích Biển Đông.

Việt Nam lần này phản ứng mạnh mẽ và công khai một cách bất thường. Một mặt gửi tàu cảnh sát biển tới bãi Tư Chính để thách thức tàu hải cảnh Trung Quốc, mặt khác chính thức phản đối Trung Quốc, và còn kêu gọi “tất cả các bên liên quan trong cộng đồng quốc tế hãy góp phần duy trì trật tự, hòa bình và ổn định trên Biển Đông”.

Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê thị Thu Hằng cho biết Việt Nam đã liên lạc với phía Trung Quốc và “mạnh mẽ đòi Trung Quốc phải ngưng mọi hoạt động bất hợp pháp, rút tàu ra khỏi các vùng biển của Việt Nam.”

Ngày hôm sau, dường như để đáp ứng lời kêu gọi của phía Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra tuyên bố bày tỏ quan tâm về “hành động cậy mạnh đe dọa Việt Nam và ngăn cản các hoạt động từ lâu của Việt Nam, thăm dò và khai thác tài nguyên dầu khí ở Biển Đông”. Tuyên bố của Mỹ hối thúc Bắc Kinh hãy “ngưng hành vi bắt nạt của mình và tự chế, tránh các hoạt động có tính cách khiêu khích và gây bất ổn.”

Tuyên bố của Mỹ muốn chỉ ra rằng các quyền lợi của Hà nội và Washington giờ đã tụ về một điểm. Hai bên đều muốn thách thức các tuyên bố chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông, mà cả hai nước cho là quá tham lam. Việt Nam lẽ đương nhiên muốn bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hàng hải của mình trong Biển Đông, trong khi Hoa Kỳ đang tìm cách kiềm hãm cao vọng bành trướng của Trung Quốc trong khu vực, thách thức vị thế cường quốc số 1 của Hoa Kỳ.

Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp đặt nghi vấn về tính hợp lý của chính sách đối ngoại của Trung Quốc, ông nói vào thời điểm khi mà cường quốc đang lên ở Châu Á cần đến các nước bạn và đồng minh để đối phó với những sự đối đầu của Hoa Kỳ, thì Bắc Kinh lại đẩy Việt Nam ra xa, vào vòng tay của Mỹ.

Ông đặt câu hỏi, tại sao Việt Nam phải cân nhắc những sự nhạy cảm về an ninh của Trung Quốc, trong khi nước này không lý gì tới những quan tâm an ninh chính đáng của Việt Nam? Trong khi đó thì Hoa Kỳ đang mở rộng vòng tay, mời gọi Việt Nam tham gia một cấu trúc an ninh liên kết khu vực, có thể giúp Việt Nam mặc cả với Trung Quốc và được hưởng những lợi ích qua các nỗ lực của Hoa Kỳ tăng sức cho các đối tác khu vực, về cả mặt kinh tế lẫn quân sự, để kiềm hãm Trung Quốc.

Nguy cơ xung đột

Hệ thống truyền thông ABC của Úc bày tỏ lo ngại về nguy cơ xung đột bùng nổ trong khu vực vì những sự xung đột ở cả Biển Đông và biển Hoa Đông. Bài báo “‘Ready to fight’: Tensions escalate in South China Sea”, tạm dịch “Sẵn sàng úng chiến: Căng thẳng leo thang ở Biển Đông” đăng ngày 26/7, viết:

“Châu Á đã nhảy vọt một bước tới gần thảm họa. Máy bay chiến đấu của 4 nước đối đầu nhau trên không phận một hòn đảo đang tranh chấp. Việt Nam đang thách thức một tàu trinh sát có hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và Philippines kêu gọi Hoa Kỳ, nước đã ký hiệp ước phòng vệ hỗ tương, hãy bảo vệ Philippines.”

Nguồn: VOA Tiếng Việt
0

Chuyên gia Biển Đông: Trung Quốc chép lỗi sai của bản đồ Anh để tạo 'đường 9 đoạn'

Chuyên gia Bill Hayton dẫn chứng tài liệu cho thấy "đường 9 đoạn" là một yêu sách rất mới, xuất phát từ việc Trung Quốc sao chép lỗi sai trong bản đồ của Anh.


Trung Quốc xây dựng trái phép tại đá Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam tháng 10/2017. Ảnh: CSIS.

Yêu sách "đường 9 đoạn" của Trung Quốc có nguồn gốc từ sự thiếu hiểu biết và nhầm lẫn nghiêm trọng về Biển Đông của Trung Quốc trong giai đoạn 1933 - 1947, học giả Bill Hayton từ viện Chatham House của Anh khẳng định tại Hội thảo về Biển Đông lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược Mỹ (CSIS) tổ chức tại Washington ngày 24/7.

Hayton dẫn các tài liệu và minh chứng lịch sử từ Trung Quốc cho thấy Trung Quốc chỉ bắt đầu quan tâm đến Hoàng Sa từ năm 1909, sau khi có thông tin Nhật Bản chiếm đóng và khai thác đảo Pratas, nằm gần Đài Loan. Đầu tháng 6/1909, Trung Quốc bắt đầu tổ chức đoàn khảo sát đi Hoàng Sa (nơi Việt Nam đã xác lập chủ quyền từ thế kỷ 17) và nêu yêu sách với quần đảo. Tuy nhiên, sau chuyến khảo sát và nhiều năm sau đó, Trung Quốc không quan tâm và có bất cứ động thái gì để thể hiện "chủ quyền" với quần đảo này, thậm chí Trung Quốc còn coi Hoàng Sa là cái "bẫy chết người", thường xuyên làm đắm tàu thuyền nước ngoài.

Cho tới ngày 14/7/1933, sau khi Pháp, lúc đó là chính quyền bảo hộ cho Việt Nam, khẳng định có chủ quyền với các thực thể ở Trường Sa, nội bộ Trung Quốc hoàn toàn không hay biết về sự tồn tại của Trường Sa, vẫn nhầm tưởng Trường Sa và Hoàng Sa là một. Trong một văn bản Bộ Hải quân Trung Quốc gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 19/7/1933 nhằm xác minh thông tin về việc Pháp khẳng định chủ quyền với Trường Sa, bộ này khẳng định "sau khi khảo sát, không thấy có đảo nào ở 10 độ vĩ Bắc, 150 độ kinh Đông giữa Việt Nam và Philippines".

Tuy nhiên, vì nghi ngờ kết luận trên của Bộ Hải quân, chính phủ Trung Quốc lúc đó thành lập một "Uỷ ban điều tra về bản đồ đất nước" và đã tiến hành 25 cuộc họp từ giữa năm 1933 đến cuối năm 1934. Ủy ban này lập nên một danh sách 132 đảo được coi là của Trung Quốc ở Biển Đông.


Bill Hayton tại hội thảo của CSIS ở Mỹ ngày 24/7. Ảnh: CSIS.

Theo Hayton, danh sách này được sao chép và biên dịch hoàn toàn từ tiếng Anh sang tiếng Trung từ một Bản đồ Thuỷ Văn về Biển Đông do Anh vẽ năm 1906. Trong bản danh sách sao chép đó, các tên đảo được phiên âm sang tiếng Trung từ tên tiếng Anh. Ví dụ, bãi James Shoal được dịch và phiên âm thành Bãi Tăng mẫu, Vanguard Bank (bãi Tư Chính của Việt Nam) thành Bãi Tiền vệ (sau này đổi tên thành Vạn An Bắc).

Trong quá trình sao chép và phiên âm, Trung Quốc vô tình sao chép cả các lỗi và nhầm lẫn từ Bản đồ Thuỷ Văn của người Anh mà không hay biết. Nhiều thực thể trong danh sách không tồn tại trên thực địa vẫn được Trung Quốc đưa vào danh sách.

Cho tới năm 1933, Trung Quốc chưa bao giờ quan tâm, có yêu sách, và cũng chưa bao giờ khảo sát toàn bộ Biển Đông.

"Tuy nhiên, người Anh biết rõ các nhầm lẫn của mình nên đã nhận ra các nhầm lẫn y hệt trong danh sách đảo mà Trung Quốc sao chép", Bill Hayton nói.

Một bằng chứng khác về việc Trung Quốc hoàn toàn không có thông tin về các thực thể ở Biển Đông là Trung Quốc đã máy móc dịch tên đảo và hiểu sai hoàn toàn bản chất các thực thể ở Biển Đông. Bãi ngầm, trong tiếng Anh gọi là "shoal", đã được Trung Quốc dịch thành Bãi (滩 - Tan) và hiểu đó là các đảo, bãi nổi.


Bản đồ quần đảo châu Á, do Công ty Eastward Stanford xuất bản năm 1918.

Vì nhầm tưởng các bãi ngầm Tăng Mẫu (James shoal) và Vạn An Bắc (Vanguard bank) là bãi nổi, năm 1936, Bạch Mai Sơ, một nhà địa lý học Trung Quốc đã vẽ một đường nét liền bao quanh các "đảo" trên Biển Đông, lấn sâu xuống phía nam và phía tây Biển Đông để thể hiện cái gọi là chủ quyền ở Biển Đông của Trung Quốc. Bản Đồ của Bạch Mai Sơ sử dụng có nguồn gốc từ bản đồ năm 1918 của Anh về Biển Đông.

"Sự thiếu hiểu biết và sai lầm nghiêm trọng của Trung Quốc về Biển Đông đã khiến 'đường 9 đoạn' có hình thù như hiện nay", Hayton nhận định.

Trịnh Tư Ước và Phó Giác Kim, hai sinh viên giúp Bạch Mai Sơ vẽ đường chữ U liền đoạn sai lầm nói trên, đã được tuyển dụng vào Bộ Nội vụ Trung Quốc vào năm 1946 và được giao nhiệm vụ xác lập biên giới quốc gia sau khi Thế chiến II kết thúc. Dựa trên bản đồ đường chữ U sai trái mà họ hỗ trợ vẽ năm 1936, họ đã tiếp tục dựng lên bản đồ đường chữ U 11 đoạn đầu tiên cho chính phủ Trung Quốc vào năm 1947.


Bản đồ đường chữ U đầu tiên Bạch Mai Sơ xuất bản năm 1936 là đường quy thuộc các "đảo" ở Biển Đông. Ảnh: Bill Hayton.

Yêu sách này cũng đã liên tục thay đổi trong nửa đầu thế kỷ 20. Hayton cho rằng nếu vào những năm 1930 - 1950, Trung Quốc thực sự hiểu biết về trạng thái địa lý các thực thể trên Biển Đông, đường chữ U mà Trung Quốc vẽ ra ở Biển Đông có thể bé hơn nhiều lần so với đường chữ U hiện nay.

"Minh chứng lịch sử nêu trên cho thấy cái gọi là yêu sách 'đường 9 đoạn' hiện nay của Trung Quốc là một yêu sách rất mới xuất phát từ sự thiếu hiểu biết và các nhầm lẫn của Trung Quốc về Biển Đông", theo Bill Hayton. Hayton thậm chí còn cho rằng "đường 9 đoạn" còn ít tuổi hơn cả bố mẹ của ông, "chứ không phải đã có từ nghìn đời nay như Trung Quốc thường nói".

Hayton cho rằng nhầm lẫn của Trung Quốc trong lịch sử là nguồn gốc chính của tranh chấp Biển Đông hiện nay. Vì vậy, một hướng tìm giải pháp cho tranh chấp Biển Đông hiện nay là làm rõ sự thật lịch sử.

"Đài Loan là nơi lưu trữ tất cả các hồ sơ của Trung Quốc những năm 1930 - 1940. Họ có thể nắm giữ chìa khoá quan trọng cho tranh chấp Biển Đông hiện nay", Hayton gợi ý.

Trường An/ VnExpess (từ Washington D.C)
0