Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thu vien. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thu vien. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Biển Đông: Đuổi lui tàu giặc sau 11 ngày bị vây hãm

(Infonet- 30/9/13) Tháng 11/1978, Hải quân đối phương đã cho tàu vây ép đảo An Bang (thuộc quần đảo Trường Sa) trong suốt 11 ngày đêm, nhưng cán bộ, chiến sỹ trên đảo đã đoàn kết, không sợ hy sinh, kiên quyết bám trận địa sẵn sàng chiến đấu, bình tĩnh đối phó với địch, buộc chúng phải rút khỏi khu vực quanh đảo.

Đảo An Bang nhìn từ xa (ảnh Lan Phương)
Đảo An Bang nhìn từ xa (ảnh Lan Phương)

11 ngày đêm đấu tranh giữ đảo

Đầu tháng 3-1978 tình hình khu vực Quần đảo Trường Sa xuất hiện nhiều diễn biến phức tạp. Trung Đoàn 146 đã cử đồng chí Cao Anh Đăng làm Chỉ huy trưởng và đồng chí Nguyễn Mã làm Phó chỉ huy cùng với cán bộ, chiến sỹ đặc công đoàn 126 hành trình theo tàu HQ 601. Đúng 20 giờ ngày 10-3-1978 ta đã triển khai xong nhiệm vụ gia cố chốt giữ đảo.

Tháng 11/1978, Hải quân đối phương đã cho tàu vây ép đảo An Bang trong suốt 11 ngày đêm, nhưng cán bộ, chiến sỹ trên đảo đã đoàn kết, khắc phục khó khăn, không sợ hy sinh, kiên quyết bám trận địa sẵn sàng chiến đấu cao, bình tĩnh đối phó với địch, buộc chúng phải rút khỏi khu vực.

Trong hơn 30 năm qua cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang luôn đoàn kết một lòng vượt qua mọi khó khăn, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ đảo. Đảo liên tục đạt danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”. Năm 2001 được Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen. Năm 2004 cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Năm 2012 đảo đạt danh hiệu đơn vị tiên tiến…

An Bang nhưng đầy bão tố

Đảo An Bang nằm ở 7 độ 53 phút 31 giây vĩ độ Bắc, 112 độ 55 phút 17 giây kinh độ Đông, là đảo nằm tận cùng phía Nam quần đảo Trường Sa, cách đảo Thuyền Chài 21 hải lý về phía Đông Bắc, cách đảo Trường Sa 72 hải lý về phía Tây Bắc.

Đảo nằm trên nền bãi san hô ngập nước, cấu trúc của đảo như một cây nấm san hô khổng lồ tạo nên, do đó khi đào công sự thường gặp những chỗ võng nước, thuỷ triều lên các hầm hào công sự rất dễ bị ngập nước. Bờ đảo được bao bọc bởi hệ thống tường chắn sóng cao 2m. Bờ Bắc, Đông và Tây của đảo là những bãi cát hẹp. Đây là đảo nhỏ chạy dài theo hướng Bắc Nam. Hàng năm từ tháng 4-7 mùa gió Tây Nam, bờ Nam của đảo được bồi thêm một bãi cát dài, từ mép nước bãi cát này đến rìa ngoài bãi san hô ngập nước khoảng 30m. Do cấu trúc san hô của đảo An Bang dựng đứng nên 4 mùa sóng vỗ, việc ra vào đảo gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm. Nhiều chuyến tàu từ đất liền đến thăm cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang vào đúng mùa sóng dữ đã không thể vào được đảo.

Đảo An Bang không có giếng nước ngọt, chất đất là cát sạn, san hô nên trồng rau xanh gặp rất nhiều khó khăn. Trước sự khắc nghiệt đó, cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang không chùn bước, góp phần tô thắm thêm truyền thống người chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng. Đoàn kết, chủ động, sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường, chắt chiu từng giọt nước ngọt để trồng cây. Vất vả gian lao là vậy song vẫn không làm giảm đi tinh thần yêu đảo, yêu biển của cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang. Đảo đã không phụ công người, trải qua hơn 3 thập kỷ cải tạo, đảo An Bang từ đảo bãi đá san hô trở thành một hòn đảo xanh tươi, rợp bóng mát của các loại cây bàng vuông, phong ba, muống biển... Năm 2012, tổng sản lượng tăng gia của đảo đạt hàng tấn rau xanh, thịt cá các loại.


Giữ vững được đảo An Bang ngày hôm nay, quân và dân Việt Nam không thể quên công lao của thế hệ chiến sĩ hải quân năm xưa đã bình tĩnh, dũng cảm không ngại hy sinh nguy hiểm để giữ đảo An Bang vững vàng cho đến ngày hôm nay. Nhìn lá Tổ quốc tung bay trên đảo, những ai biết về thế trận cân não 11 ngày đêm năm ấy không khỏi bồi hồi xúc động.

Hồng Chuyên- Lại Hà (ghi)

http://infonet.vn/Bien-dao/Chu-quyen/Bien-Dong-Duoi-lui-tau-giac-sau-11-ngay-bi-vay-ham/112876.info
1

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

Cài đặt video từ YouTube làm ảnh nền động cho blog

Một số bạn có thể đã tự hỏi làm thế nào để đưa một đoạn video phông cảnh vào phát trong nền của blog thay vì chỉ có một màu hoặc một ảnh nền nhàm chán. Chúng ta có thể làm điều này nhờ vào jQuery plugin Tubular cho phép bạn sử dụng một video từ YouTube như một ảnh nền động của một trang web/ blog.


Xem minh họa

Thủ thuật này rất độc đáo và hấp dẫn nhưng có 3 điều bạn cần lưu tâm:

- Video luôn phát ra âm thanh, nếu muốn tắt âm thanh bạn phải dùng phần mềm cắt bỏ âm thanh rồi tải lên YouTube hoặc dùng phần mềm IDM để tải video không có âm thanh từ YouTube. Khi cài đặt IDM vào máy tính, mỗi khi chơi một video clip trên YouTube, màn hình máy tính sẽ hiển thị nút "Download video from this page ?", Nhấp vào nút đó, 1 trình đơn hiện ra gồm 2 tệp tin video, tệp tin có dung lượng lớn hơn tệp còn lại chính là tệp video không có âm thanh.

- Khi người xem tải blog cũng đồng thời tải video clip về trình duyệt, điều này có thể làm mất nhiều thời gian hơn để tải blog về trình duyệt. Mặc dù vậy, bạn có thể dùng phần mền cắt video để làm giảm dung lượng của nó, sau đó tải lên YouTube để lấy làm ảnh nền cho blog của bạn.

- Nó không phù hợp với blog tin tức.

Cách thực hiện:

* Đăng nhập vào blogger.com. Vào chỉnh sửa HTML của blog.

1. Sao chép và dán đoạn mã dưới đây vào ngay trước thẻ </head> :

<script src='http://ajax.googleapis.com/ajax/libs/jquery/1.10.2/jquery.min.js' type='text/javascript'/>

<script type='text/javascript'>
//<![CDATA[
/* jQuery tubular plugin
|* by Sean McCambridge
|* http://www.seanmccambridge.com/tubular
|* Copyright 2012
|* licensed under the MIT License
|* Enjoy.
|*
|* Thanks,
|* Sean */

var videoWidth = 853;
var videoRatio = 16/9;
var defaultDiv = 'wrapper-video';

jQuery.fn.tubular = function(videoId,wrapperId) {
wrapperId = (typeof(wrapperId) == undefined) ? 'wrapper-video' : wrapperId;
t = setTimeout("resizePlayer()",1000);

jQuery('html,body').css('height','100%');
jQuery('body').prepend('<div id="yt-container" style="overflow: hidden; position: fixed; z-index: 1;"><div id="ytapiplayer">You need Flash player 8+ and JavaScript enabled to view this video.</div></div><div id="video-cover" style="position: fixed; width: 100%; height: 100%; z-index: 2;"></div>');
jQuery('#' + wrapperId).css({position: 'relative', 'z-index': 99});

var ytplayer = 0;
var pageWidth = 0;
var pageHeight = 0;
var videoHeight = videoWidth / videoRatio;
var duration;

var iframe = '<iframe id="myytplayer" width="' + videoWidth + '" height="' + videoHeight + '" src="http://www.youtube.com/embed/' + videoId + '?autoplay=1&controls=0&modestbranding=1&showinfo=0&hd=1&iv_load_policy=3&version=3&wmode=transparent&loop=1&playlist=' + videoId + '" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>';

jQuery('#ytapiplayer').html(iframe);
jQuery(window).resize(function() {
resizePlayer();
});
return this;
}

function onYouTubePlayerReady(playerId) {
ytplayer = document.getElementById("myytplayer");
ytplayer.setPlaybackQuality('medium');
ytplayer.mute();
}

function resizePlayer() {
var newWidth = jQuery(window).width();
var newHeight = jQuery(window).height();
jQuery('#yt-container, #video-cover').width(newWidth).height(newHeight);
if (newHeight > newWidth / videoRatio) {
newWidth = newHeight * videoRatio;
}
jQuery('#myytplayer').width(newWidth).height(newWidth/videoRatio);
}

//]]>
</script>

<script type='text/javascript'>
//<![CDATA[
$().ready(function() {
$('body').tubular('KVGzlhyY-Jo','wrapper-video');
});
//]]>
</script>


2. Tìm đến thẻ <body>:

Một số mẫu, thẻ <body> có dạng như dưới đây:

<body expr:class='&quot;loading&quot; + data:blog.mobileClass'>

3. Sao chép và dán đoạn mã dưới đây vào ngay dưới cả 2 thẻ <body> như vừa đề cập trên:

<div id='wrapper-video'>

4. Tìm đến thẻ </body>

Thêm thẻ </div> vào ngay trước thẻ </body> này.

Lưu thay đổi là xong. Đoạn mã màu đỏ trên là ID của video trên YouTube. ID này là các ký tự ở cuối đường dẫn của video như hình bên dưới:


Ghi chú: Nếu blog của bạn cũng đang sử dụng JQuery, thủ thuật này có thể bị lỗi. Khi đó, bạn phải xóa JQuery phiên bản khác để tránh trùng lấp hoặc lỗi.

ID của video sử dụng cho blog minh họa là qREKP9oijWI.
Link: http://www.youtube.com/watch?v=qREKP9oijWI

Video của Vibay blog tải lên YouTube (Bạn cứ yên tâm cài đặt mà không sợ bị xóa): http://www.youtube.com/watch?v=KVGzlhyY-Jo (ID: KVGzlhyY-Jo ).

Nguồn: JQuery Tubular
0

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

Biển Đông: Ứng phó diễn biến phức tạp ở Trường Sa năm 1978

(Infonet- 22/9/13) Tình hình khu vực quần đảo Trường Sa, năm 1978, có nhiều diễn biến phức tạp khiến Hải quân Việt Nam càng quyết tâm tăng cường các biện pháp bảo vệ các đảo, trong đó có Trường Sa Đông.


Hải quân VN ở Trường Sa Đông

Tháng 3-1978, tình hình khu vực quần đảo Trường Sa có nhiều diễn biến phức tạp, các nước trong khu vực tăng cường hoạt động thăm dò bằng máy bay, tàu thuyền xâm phạm các đảo chúng ta đang đóng giữ. Trước tình hình đó, Đảng uỷ Quân chủng Hải quân đã ra Nghị quyết chỉ rõ “Phải tập trung, khẩn trương mọi nỗ lực cao nhất của toàn Quân chủng vào việc chuẩn bị chiến đấu, sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành cho được thắng lợi từ trận đầu, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc”.
Chấp hành mệnh lệnh của Quân chủng ngày 04/04/1978, tàu 681 thuộc đoàn 125 đưa 19 cán bộ, chiến sỹ do đồng chí Nguyễn Trung Cang, Tham mưu trưởng Trung đoàn 146 chỉ huy lực lượng củng cố phòng ngự đảo.

Ngày 19-04-1978, một lực lượng khác ra thay cho bộ phận của đồng chí Nguyễn Trung Cang. Chỉ huy trưởng lúc này là đồng chí Bùi Xuân Nhã. Sau gần một tháng khẩn trương xây dựng trận địa, công sự chiến đấu hoàn tất, đời sống cán bộ, chiến sỹ ổn định, khắc phục khó khăn quyết tâm bám trụ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.


Vì sự bình yên, toàn vẹn của Tổ quốc, trước sóng gió biển khơi, đã có những chiến sĩ hải quân hy sinh và vẫn nằm lại đảo Trường Sa Đông. Viếng liệt sĩ Vương Văn Mão trên đảo Trường Sa Đông (ảnh Báo Lao động)

Về vị trí địa lý, đảo Trường Sa Đông cách bán đảo Cam Ranh 239 hải lý, nằm ở 80 55’ 55” vĩ độ Bắc; 1220 21 phút 12 giây kinh độ Đông, cách đảo Đá Tây 11 hải lý về phía Tây Nam, cách đảo Đá Đông 18 hải lý về phía Đông Nam. Khoảng 30 hải lý có đảo Trường Sa.

Đảo chạy dài theo hướng Đông-Tây. Trên đảo không có giếng nước ngọt. Để trồng cây và rau xanh, cán bộ, chiến sỹ trên đảo phải vận chuyển từng bao đất nhỏ trong đất liền ra, tận dụng vật liệu xây dựng che chắn bồn rau, tiết kiệm từng giọt nước ngọt ươm mầm cây xanh.

Trải qua hơn 3 thập kỷ sau ngày giải phóng với ý chí và nghị lực của cán bộ, chiến sỹ nơi đây, đảo Trường Sa Đông đã được cải tạo. Từ đảo bãi đá san hô cằn cỗi hiện nay đảo đã trở thành một hòn đảo xanh tươi, rợp bóng mát với nhiều loại cây cối. Người lính đảo Trường Sa Đông không chỉ anh hùng trong việc vượt qua khó khăn, kiên quyết giữ đảo mà còn là những con người đầy nghị lực, sáng tạo. Mới đây, cán bộ, chiến sỹ đảo Trường Sa Đông đã thiết kế thành công lò ấp trứng gia cầm, thủy cầm đầu tiên bằng đèn dầu trên quần đảo Trường Sa.

Đến nay, cán bộ, chiến sỹ đảo Trường Sa Đông là một trong những đơn vị dẫn đầu trong phong trào tăng gia, chăn nuôi của Lữ đoàn 146. Năm 2012, đảo đã tăng gia sản xuất được hàng tấn rau xanh, thịt cá các loại...

Gần đây được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhiều công trình trên đảo như nhà ở, nơi làm việc, các công trình phục vụ sinh hoạt phục vụ chiến đấu đã được xây dựng khang trang vững chắc. Hệ thống năng lượng gió, năng lượng mặt trời được đưa vào sử dụng đã góp phần nâng cao đời sống. Các phân đội đều được trang bị tivi, hệ thống karaoke kỹ thuật số hiện đại, trạm thu phát tín hiệu vệ tinh của Đài truyền hình Việt Nam đã giúp cho cán bộ chiến sỹ trên đảo cập nhật kịp thời những thông tin trong nước và thế giới qua đó nâng cao nhận thức, niềm tin, trách nhiệm với sự nghiệp xây dựng Tổ quốc và bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc Việt Nam…

Hơn 30 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành cán bộ, chiến sỹ đảo Trường Sa Đông đã lập được nhiều thành tích xuất sắc nhiều năm được khen thưởng: Năm 1982, đảo được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, nhiều năm được Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tặng danh hiệu “Đơn vị quyết thắng” và các Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế tặng Bằng khen.

Hồng Chuyên- Lại Hà (ghi)

http://infonet.vn/Bien-dao/Bien-Dong-Ung-pho-dien-bien-phuc-tap-o-Truong-Sa-nam-1978/110867.info
0

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Ngắm máy bay L-410 sẽ được trang bị cho Không quân Việt Nam

Một website của Bộ Công thương Czech loan báo, theo nhiều chuyên gia và các tạp chí quân sự nước ngoài, Việt Nam đang đàm phán để mua 12 máy bay vận tải tầm ngắn Let L-410 của Cộng hòa Séc.

Bản tin 80 cán bộ được tập huấn về máy bay động cơ trên báo Quân đội Nhân dân hồi tháng 4 nói rõ:

Trong thời gian hai ngày tập huấn, các học viên được giới thiệu về vũ khí trang bị mới như máy bay CASA-212, L-410, DH-6, EC-255; thống nhất cách tính hệ số kỹ thuật, cách đăng ký ghi chép hồ sơ, lý lịch của Kỹ thuật hàng không khi xuất xưởng tại nhà máy và trong quá trình khai thác sử dụng tại đơn vị;

Quân đội Nhân dân

Máy bay L-410
Máy bay L-410. Ảnh: http://www.zdl.army.cz/

Theo báo Người đưa tin, cách đây ít lâu, nhân chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Alexandr Vondara, một website của Bộ Công thương Czech loan báo, theo nhiều chuyên gia và các tạp chí quân sự nước ngoài, Việt Nam đang đàm phán để mua 12 máy bay vận tải tầm ngắn Let L-410 của Cộng hòa Séc.

Loại máy bay này chủ yếu sẽ được dùng để tiếp viện lương thực, thực phẩm cho quân đội cũng như người dân ở những vùng hải đảo hay biên giới xa xôi mà các phương tiện khó có thể tiếp cận được.

L-410 đạt tốc độ đến 457 km/h và tầm bay đến 546 km, chở được 19 khách hay 1,7 tấn hàng. Khi mang thêm bình xăng phụ, hoặc không tải, tầm bay của nó có thể đạt 940 km. Biến thể UVP-E20 khác với biến thể cơ sở ở cánh quạt 5 lá cánh, động cơ mạnh hơn và khả năng cất/hạ cánh đường băng ngắn.

L-410UVP-E20 được sản xuất theo 2 biến thể: biến thể cơ sở và biến thể với buồng lái “kính” (sử dụng các màn hình hiển thị thông tin thay cho thiết bị thông thường). Biến thể đầu có đơn giá gần 2,4 triệu euro, biến thể thứ hai có đơn giá 2,6 triệu euro.

Với chi phí rẻ, cơ động và dễ điều khiển lại có thể cất/hạ cánh trên đường băng cực ngắn, bên cạnh việc vận tải, L-410 hữu dụng đối với cả việc trinh sát không ảnh, giám sát biên giới… Thậm chí, Không quân Ukraine còn sử dụng L-410 cho việc huấn luyện quân nhảy dù.

Cũng liên quan đến việc Việt Nam mua máy bay vận tải của nước ngoài, trong cuộc gặp và thảo luận với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam vào hôm 27/5 tại Hà Nội, Đại tướng Phùng Quang Thanh cho biết rằng, Không quân Việt Nam cần một loại máy bay có thể triển khai lực lượng, vận tải, sức chở tối đa 10 tấn và có một cánh cửa phía sau để đáp ứng nhu cầu của đất nước.

Theo các phương tiện truyền thông Indonesia, Việt Nam đã bày tỏ sự quan tâm tới việc mua được các máy bay CN-295 do nước này chế tạo theo giấy phép hợp tác sản xuất của Airbus Military.

Theo ông Budiman, việc chuyển giao sản xuất máy bay CN-295 mà do Airbus Military cung cấp theo đơn hàng của Việt Nam cho PT Indonesian Aerospace là rất có khả năng, bởi Airbus Military và PT Indonesian Aerospace đang có quan hệ hợp tác sản xuất máy bay.

Indonesia cũng đã được Airbus bổ nhiệm làm đại lý chính cho việc bán và bảo hành máy bay ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.

Một số hình ảnh về máy bay vận tải quân sự L-410 Việt Nam định mua:





Nguồn: http://www.nguoiduatin.vn/ngam-12-may-bay-van-tai-quan-su-l-410-viet-nam-dinh-mua-a89674.html

http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/4/37/37/238146/Default.aspx
0

Trung Quốc: Từ chi phối kinh tế, thương mại đến chi phối chính trị

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)

Thứ Sáu, ngày 6/9/2013

TTXVN (New York 5/9)

TờAl-Alam As-Siasyia(Chính trị thế giới) vừa bài phân tích về chiến lược của Trung Quốc tìm kiếm quyền chi phi thế giới, k cả các nước phương Tây, bắt đầu từ lợi thế kinh tế, thương mại, nội dung như sau:

Năm 2001, việc nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), sai lầm chết người của phương Tây, đã cho phép Bắc Kinh thực hiện đầy đủ chiến lược chiến tranh kinh tế của mình, một chiến lược không nhằm gì khác ngoài việc bảo đảm cho Trung Quôc sự bá quyền thế giới và dựa vào sự thao túng đồng tiền của mình. Chủ nghĩa bảo hộ, mà sự định giá thấp đồng nhân dân tệ đã mang lại cho Trung Quốc một lợi thế đáng kể trong buôn bán quốc tế, mang lại cho Trung Quốc khả năng gom góp những số dư khổng lồ về thương mại. Việc chấp nhận kép này, cho phép Trung Quốc xuất siêu quá mức và gia nhập WTO, thực sự là một thảm họa đối với các nước phương Tây. Cách đây hơn 10 năm, các nước phương Tây đã trải qua một chuỗi gần như liên tục những khó khăn nghiêm trọng: từ năm 2001, thâm hụt thương mại khổng lồ và không ngừng tăng trong thương mại giữa họ với Trung Quốc; từ cuối năm 2007, cuộc khủng hoảng bất động sản, ngân hàng, chứng khoán và kinh tế; từ năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công và cuộc khủng hoảng về Liên minh kinh tế và tiền tệ của châu Âu; từ năm 2011 đến nay, hai loại đồng tiền dự trữ, đồng USD và đồng euro bị truất ngôi và sự lên ngôi của Trung Quốc ở Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Đây không chỉ là sự thụt lùi, mà còn là một loạt thất bại thực sự của các nước phương Tây do việc Trung Quốc thực hiện một chiến lược nhằm làm mất ổn định các nước phương Tây để đặt cơ sở cho sự bá quyền của mình. Bằng chứng là mỗi bước thụt lùi của phương Tây đều tương ứng với một thắng lợi của Trung Quốc. Năm 2008-2009, tăng trưởng của Trung Quốc, khoảng 9% mỗi năm, liên quan rõ ràng đến sự suy thoái của các nước phương Tây trong suốt 6 quí liên tiếp. Công nghiệp chế biến của Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ. Năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ của phương Tây bắt đầu diễn ra và lan rộng do sự không nhân nhượng của chủ nợ Trung Quốc. Năm 2011, Trung Quốc có thể vui mừng trước việc đồng USD và đồng euro giảm giá mạnh, và chuẩn bị ngày càng công khai thay thế những đồng tiền này bằng đồng nhân dân tệ. Đồng thời, dựa vào 5.000 tỷ USD dự trữ, Trung Quốc tự khẳng định mình như người thay thế tất yếu của Quỹ tiền tệ quốc tế.  

Tính hám li và cuộc khủng hoảng

Từ gần 5 thế kỷ nay, trong một mức độ khá rõ ràng, lịch sử của thế giới là lịch sử châu Âu chi phối thế giới và đặc biệt hơn là lịch sử của các cuộc đụng độ do việc thực hiện các chiến lược con buôn về thặng dư thương mại. Ban đầu, cần phải “tích trữ vàng”: đây là nguồn của cải và vì vậy cũng là sức mạnh. Như Pháp, Anh đã có được vàng nhờ xuất khẩu các sản phẩm chế biến của mình và đó là bí quyết thành công. Bất kỳ nước nào tìm kiếm của cải và sức mạnh, hai yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau, đều mong muốn là người xuất siêu trong thương mại với bên ngoài; nếu nước đó đủ lớn để thực hiện chiến lược này thì khi đó nó có thể ấp ủ những dự định bá quyền. Đó là trường hợp của Anh, nước đã mất 150 năm mới có thể tự khẳng định mình trước Pháp và là nước đã thống trị thế giới trong suốt thế kỷ 19. Đó cũng là Hoa Kỳ, nước đã tiến hành một cách kiên trì trong thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20 một chính sách bảo hộ cho phép nước này tạo được những số dư thương mại ngày càng đáng kể; Nhật Bản, đến lượt mình, cũng ra sức đạt được như vậy từ năm 1950 đến 1989. Cần phải nhắc lại rằng Hoa Kỳ đã thực hiện chính sách bảo hộ thuế quan, Nhật Bản cho đến cuối những năm 1980 đã thực hiện chính sách bảo hộ tiền tệ dựa vào một tập hợp những quy định dẫn đến sự giảm giá đồng yên. Ở châu Âu, cuộc khủng hoảng những năm 1930 là sản phẩm của sự mất cân bằng lớn về thương mại giữa Hoa Kỳ có thặng dư và châu Âu bị thâm hụt và cũng là sản phẩm của chiến lược không hợp tác của Hoa Kỳ và thể hiện bằng sự phá giá đồng USD vào năm 1933 ngay giữa một hội nghị ở London. Đây là hội nghị quốc tế lớn nhằm xem xét các vấn đề về tiền tệ trên thế giới. Khi đó Hoa Kỳ đã thông báo quyết định phá giá đồng USD so với vàng. Cuộc khủng hoảng này cũng đánh dấu một sự quá độ: chuyển từ sự bá quyền của Anh sang sự bá quyền của Hoa Kỳ. Cuộc khủng hoảng hiện nay cũng mang bản chất như vậy. Nhưng lần này Trung Quốc giữ vai trò như Hoa Kỳ khi đó, trong khi thế giới phương Tây giữ vai trò như châu Âu khi đó. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng này dường như đáng sợ hơn: Hoa Kỳ là một cường quốc dân chủ, Trung Quốc là một nhà nước cực quyền.

Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, sau khi đã bị chia cắt bởi các cường quốc châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản, Trung Quốc trở thành nơi diễn ra cuộc nội chiến dẫn đến việc thiết lập chế độ Cộng sản. Chế độ độc tài và mang tính tập thể này tỏ ra là một thảm họa cả về mặt kinh tế lẫn con người, với hàng chục triệu nạn nhân. Việc Đặng Tiểu Bình được phục hồi chức vụ vào năm 1978 đánh dấu một bước ngoặt mang tính quyết định: chấm dứt chủ nghĩa tập thể, chuyển tiếp dần tới chủ nghĩa tư bản… nhưng duy trì chế độ độc tài. Cuộc đàn áp tàn bạo phong trào “mùa Xuân Bắc Kinh” vào năm 1989, khi hàng nghìn sinh viên biểu tình đòi thiết lập nền dân chủ bị thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn, là một minh chứng khủng khiếp về sự duy trì nền độc tài. Chiến lược của Trung Quốc được cơ cấu xung quanh nền kinh tế: mở cửa thương mại; phát triển sản xuất trong khuôn khổ các hợp đồng làm thuê cho các hãng nước ngoài và công ty liên doanh thầu lại cho phép chuyển giao các công nghệ. Tất cả là nhờ sự kết hợp giữa khoản tiền lương thấp một cách không ngờ với một tỷ giá hối đoái được định giá thấp. Đây là một vũ khí rất lợi hại và là kết quả của sự điều khiển thường xuyên dựa vào một sự kiểm soát tỷ giá hối đoái rất chặt chẽ và sự can thiệp của ngân hàng trung ương đối với thị trường chứng khoán. Thực tế này đã giúp ích rất nhiều trong việc đạt được thặng dư thương mại rất đáng kể cho Trung Quốc, trong khi đó, ở phương Tây, lại là thâm hụt thương mại, sự phi công nghiệp hóa và mất ổn định hóa xã hội. Kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001, những hậu quả từ chiến lược ấy của Trung Quốc thực sự là thảm họa cho phương Tây, và nó đã dẫn đến cuộc khủng hoảng bắt đầu vào năm 2007.

Các nưc phương Tây trong cái bẫy của Trung Quốc

Ngay từ khi bắt đầu thực hiện, chiến lược này đã được củng cố thêm bằng sự đồng tình của nhiều hãng phương Tây. Trong khi một số công ty liên doanh chuyển giao ồ ạt công nghệ cho Trung Quốc thì những hãng khác, rất đông, thầu lại của Trung Quốc việc sản xuất trên quy mô lớn, vì họ thấy có một lợi ích rõ ràng do mức lương thấp tại Trung Quốc. Họ nhận thấy sự hấp dẫn này còn lớn hơn so với việc định giá thấp một cách khó tin đồng nhân dân tệ. Các doanh nghiệp của Trung Quốc, trái với các doanh nghiệp của Nhật Bản, không phải là những đối thủ của các hãng phương Tây. Đây chính là lý do khiến Chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ việc Trung Quốc gia nhập WTO. Kết quả là từ thời điểm ấy (2001), một số nước phương Tây, đứng đầu là Hoa Kỳ, Anh và Pháp, đã phải chịu đựng một biến động lớn phi công nghiệp hóa và thâm hụt thương mại gia tăng. Lúc đầu, các chính phủ phương Tây không nhận thấy rõ lắm mối nguy hiếm mà sự thâm hụt thương mại gia tăng gây ra đối với nền kinh tế của họ, và họ đã mặc nhiên chấp nhận hiện tượng này. Và lúc bấy giờ, họ chỉ nghĩ cách làm sao để bù đắp được sự thâm hụt trong cán cân thương mại để tăng trưởng kinh tế. Họ đã ra sức kích thích chi tiêu trong nước, cả chi tiêu tư lẫn chi tiêu công, và tùy theo mỗi nước nhấn mạnh hơn đến loại chi tiêu nào. Trong trường hợp Hoa Kỳ, nhờ những sự “đổi mới về tài chính” đúng lúc, người ta đã lợi dụng khoản nợ của các gia đình để kích thích phát triển lĩnh vực bất động sản. Vì vậy, từ năm 2003 đến 2007, số tiền tiết kiệm của các gia đình hầu như trống rỗng trong khi khoản nợ của họ, cũng như của nhà nước, lại tăng lên khi thâm hụt thương mại đạt tới mức kỷ lục, chiếm 6% tổng sản phẩm quốc nội. Với tỷ lệ tăng trưởng 3% mỗi năm, đất nước này có thể còn khiến người ta có ảo tưởng về sự phồn vinh. Nhưng việc duy trì sự tăng trưởng đòi hỏi phải tiếp tục một cách vô hạn chính sách nợ, kể cả đối với các tầng lớp nhân dân không có khả năng chi trả, vì thế, sớm hay muộn, cuộc khủng hoảng là không thể tránh khỏi. Hoa Kỳ đã phải can thiệp mạnh mẽ và đồng loạt bằng cách mua các khoản nợ tư. số nợ lên rất cao, nhất là đối với Trung Quốc, chủ nợ trái phiếu, và theo nhiều dự đoán, số nợ của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc sẽ còn tiếp tục tăng. Và vì đã đâm lao, Hoa Kỳ tiếp tục phải theo lao. Cũng vào thời kỳ đó, nợ công của một số nước châu Âu tăng chóng mặt. Cuộc khủng hoảng, mà một số người cho rằng nó chỉ là một “cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ”, đã lan rộng khắp thế giới, nhưng chủ yếu, đây được coi là một cuộc khủng hoảng nợ của các nước phát triển, và là kết quả của sự mất cân bằng thương mại thế giới, giống như nền thương mại mà lục địa già đã trải qua trong những năm 1930. Sự mất cân bằng này có một nguyên nhân chính mà đến bây giờ mọi người đều đã nhận ra, đó là chính sách phá giá đồng tiền của Trung Quốc.

Tất nhiên, lúc đầu các nước phương Tây không cưỡng nổi sự cám dỗ của khoản nợ và không thấy cái bẫy của Trung Quốc. Trong thời gian đầu, họ vẫn không thấy bất cứ một dấu hiệu xấu nào, nhất là khi sự tăng trưởng vẫn tiến triển đều đều, và các hãng cửa phương Tây vẫn kinh doanh tốt. Thặng dư thương mại của Trung Quốc, quy theo những trái phiếu của phương Tây do Trung Quốc nắm giữ, đã cho phép duy trì lâu dài mức lãi suất rất thấp, nhân tố quyết định đối với việc tiếp tục mắc nợ. Hậu quả của việc phi công nghiệp hóa được che giấu bằng tình trạng có vẻ tốt của lĩnh vực bất động sản và tài chính đang trong thời kỳ hưng thịnh nhờ vào các khoản tín dụng. Tuy nhiên, trong thời gian tiếp theo, người ta đã cảm nhận được thực tế khắc nghiệt. Khoản nợ chỉ có giới hạn, tỷ lệ thất nghiệp tăng, vốn đầu tư công nghiệp hơn bao giờ hết dồn ra nước ngoài. Khi lĩnh vực bất động sản và tài chính lâm vào tình trạng khủng hoảng, sự tăng trưởng bấp bênh, các nước ngày càng khó có thể tự tài trợ được cho chính mình, trong khi đó chủ nợ nước ngoài chính Trung Quốc ngày càng tỏ ra ngạo mạn và luôn đòi hỏi. Hiện nay tình hình vẫn như vậy. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo phương Tây vẫn tiếp tục mắc sai lầm, không chịu công nhận bản chất thực sự của tình hình tồi tệ đang ảnh hưởng tới xã hội của họ là thâm hụt thương mại với bên ngoài. Lẽ ra phải tố cáo, vạch mặt những người thực hiện cuộc cạnh tranh gian lận trong nền thương mại quốc tế thì họ lại không làm như thế, và chỉ chú tâm đến những nguyên nhân rất “vu vơ” khác.

Trong những năm trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng; các nước phương Tây đã bắt đầu bị mất ổn định do hậu quả của sự thâm hụt thương mại của mình, nhất là do sự phi công nghiệp hóa và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Cuộc khủng hoảng này đã buộc các nước phương Tây phải tăng mạnh các khoản nợ trong khi nền kinh tế của họ tiếp tục bị lún sâu vào tình trạng trì trệ và thậm chí một số nước còn lâm vào tình trạng suy thoái, chẳng hạn như Pháp vào quí 2 năm 2011. Phương Tây gặp hạn, nhưng bất hạnh ấy lại là thắng lợi của Trung Quốc. Bắc Kinh có một chiến lược rất gắn kết với nhau và chiến lược này càng thuận lợi hơn vì nó nằm trong khuôn khổ một chế độ cực quyền. Khác với các nước dân chủ, Chính phủ Trung Quốc không cần phải xem xét lại mình trong các cuộc bầu cử. Việc thực hiện chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc không kèm theo một tiến trình dân chủ hóa, mà trái lại, hệ thống cực quyền vẫn được duy trì. Sự duy trì chế độ cực quyền ở Trung Quốc đã phủ nhận niềm tin, rất phổ biến nhưng không có cơ sở, rằng sự phát triển chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến nền dân chủ. Bộ máy tuyên truyền chính thức của Trung Quốc mô tả chế độ hiện nạy như là một “xã hội hài hòa” mang màu sắc “chủ nghĩa tư bản yêu nước”. Sự kết hợp chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cực quyền rõ ràng khiến người ta nghĩ tới Đức quốc xã trước đây. Vào cuối năm 1930, được một nhà báo Đức hỏi tại sạo không tiến hành quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn như đã được thông báo, Hitler đã trả lời: “Tôi không làm như vậy bởi vì tôi thấy không cần phải như vậy. Tôi đã quốc hữu hóa con người rồi”. Trên thực tế, tất cả các nhà lãnh đạo quan trọng của các ngành kinh tế đều là thành viên của Đức quốc xã. Cũng như vậy, lãnh đạo các doanh nghiệp Trung Quốc hiện nay đều là Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc.

“Cuộc chiến tranh không giới hạn” là tiêu đề của một cuốn sách do hai viên đại tá của quân đội Trung Quốc viết, được xuất bản ở Pháp vào năm 1999. Các tác giả cuốn sách này đã giải thích rằng cuộc chiến tranh diễn ra trong tất cả các lĩnh vực: văn hóa, chính trị, kinh tế, tài chính, đôi khi cả quân sự. Điều lý tưởng là giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh ấy mà không phải chiến đấu, nhưng kẻ thù phải chấp nhận thất bại. Đúng, chiến lược hiếu chiến này không hạn chế ở lĩnh vực kinh tế, nó còn được thực hiện trong các lĩnh vực tài chính và địa chính trị, cho phép Trung Quốc không những là “công xưởng của thế giới”, mà còn mua cả thế giới: các xí nghiệp, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, đất đai, các mỏ tài nguyên thiên nhiên, không gian du lịch, trái phiếu nợ công v.v… Trở thành cường quốc tài chính hàng đầu thế giới, dựa vào lượng tiền dự trữ lên tới 5.000 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng số tiền dự trữ của toàn thế giới, Trung Quốc đang sử dụng sức mạnh tài chính vô song của mình để áp đặt các mục tiêu của mình cho các nước khác.

Nhà nước – chủ n của thế giới

Sau thắng lợi rất quan trọng của mình mà cuộc khủng hoảng của các nước phương Tây đã tạo ra, Trung Quốc đã bắt đầu những thủ đoạn cho một trận chiến lớn thứ hai và có thể có tính quyết định: hai đồng tiền chính của phương Tây là đồng euro và đồng USD từ nay nằm trong tầm ngắm của Trung Quốc. Mọi thể chế của IMF dường như vẫn không có gì thay đổi, nó bị các nước phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, những nước duy nhất có quyền phủ quyết các quyết định của thể chế này, chi phối. Nhưng giờ đây ai có thể cho IMF vay tiền để quỹ này lại cho các nước thứ ba vay? Hoa Kỳ ư, hay châu Âu? Những nước này hiện không có tiền nữa. Châu Âu thậm chí còn phải xin viện trợ của quỹ này, thoạt nghe có vẻ ngược đời, nhưng đúng là như vậy. Thế chỗ Mỹ và châu Âu, hiện tại Trung Quốc là nước duy nhất, hoặc gần như là vậy, có thể tài trợ cho IMF. Trung Quốc nắm giữ khỏang 5.000 tỷ USD, sau đó là Nhật Bản đứng thứ hai, nhưng cách rất xa, chỉ nắm giữ 1.000 tỷ USD; tiếp theo là Nga, Saudi Arabia v.v. Trong các điều kiện như thế, dù các qui chế và sự phân bổ ghế trong Hội đồng quản trị của IMF có như thế nào chăng nữa, thì chính Trung Quốc mới là người chỉ đạo. Hiện nay, IMF bị coi như nằm dưới ảnh hưởng của Trung Quốc. Ngân hàng trung ương Trung Quốc mua ngoại tệ tương ứng với thặng dư thương mại của nước này, điều đó ngăn cản việc làm tăng giá đồng nhân dân tệ và là cơ sở để ngành công nghiệp Trung Quôc cạnh tranh với bên ngoài. Sau đó ngân hàng này chuyển đối các ngoại tệ này thành trái phiếu Nhà nước của các nước ngoài, những nước này, phần lớn là do các thủ đoạn của Trung Quốc, bị thâm hụt về thương mại và vì vậy bị thâm hụt về ngân sách. Theo cách ấy, các nước này lại phải chịu ơn Trung Quốc. Ai cũng biết, Trung Quốc đã áp dụng cách thức này với các nước phương Tây và cả các nước khác, nhất là Brazil và Ấn Độ. Các nước BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc), gần đây mở rộng tới Nam Phi để thành BRICS, là nơi “kiếm tiền” của Trung Quốc.

Nhiều bài báo hoặc cuốn sách của Trung Quốc đã giải thích rằng không có mối nguy hiểm nào cả, và rằng phương Tây không nên sợ việc định giá thấp đồng nhân dân tệ cũng như sự thâm hụt thương mại của mình đối với Trung Quốc. Bắc Kinh cũng thề sống, thề chết rằng Trung Quốc không biến lợi thế của mình là chủ nợ của các nước phương Tây thành sự chi phối về chính trị. Họ bảo rằng chủ nợ và con nợ đều cần đến nhau: các khoản nợ đối với Trung Quốc chỉ là “mang tính chất khái niệm”, chứ chưa hề cần phải trả. Tuy nhiên, người ta vẫn còn nhớ khi còn đương chức cách đây chưa lâu, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã khẳng định rằng Trung Quốc là nước duy nhất có thể thỏa mãn những nhu cầu về tài chính của các nước phương Tây, nhưng “không có ai” buộc được Trung Quốc làm điều đó và rằng nếu Trung Quốc làm điều đó thì “phía bên kia” phải thực hiện 3 điều kiện: thắt lưng buộc bụng về ngân sách; chấp nhận chính sách hối đoái của Trung Quốc, công nhận Trung Quốc là “nền kinh tế thị trường”, và quan trọng hơn, phải cho phép Nhà nước Trung Quốc và các doanh nghiệp Trung Quốc mua các tài sản mà họ muốn trong các vùng lãnh thổ của “phía bên kia”.

Theo dự báo của các nhà kinh tế, Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục là nhà nước chủ nợ lớn duy nhất trên thế giới, và như vậy, các con nợ của nước này không thể làm mếch lòng chủ nợ khi họ vẫn còn phải rất cần những khoản vay mới.

***

Bài viết “Bắc Kinh nỗ lực thống trị kinh tế thế giới bằng sức mạnh mềm” của hai tác giả Heriberto Araujo và Juan Pablo Cardenal đăng trên tờ “Thời báo New York” ở Hoa Kỳ mới đây cho rằng sự kết hợp giữa một nước Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ và tình trạng trì trệ kinh tế ở châu Âu cũng như Hoa Kỳ khiến dư luận phương Tây ngày càng trở nên khó chịu. Mặc dù không đứng đầu thế giới về quân sự, nhưng Trung Quốc liên tục đứng đầu về thương mại. Các công ty và các nhà đầu tư Trung Quốc đã tìm cách mua 2 công ty phương Tây gồm Smithfield Foods chuyên sản xuất sản phẩm thịt lợn của Hoa Kỳ và Club Med chuyên kinh doanh dịch vụ nghỉ dưỡng của Pháp.

Người châu Âu và Hoa Kỳ có xu hướng nghi ngờ sự quyết đoán của Bắc Kinh trên biển Đông, tranh chấp lãnh hải với Nhật Bản và các vụ tấn công mạng của các công ty phương Tây, nhưng tất cả những vấn đề đó không quan trọng bằng một hiện tượng mà ít người nhận thấy thật đáng lo ngại hơn: Bắc Kinh đã và đang nỗ lực đẩy thế giới vào chủ nghĩa tư bản nhà nước Trung Quốc. Bằng cách mua các công ty, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng cơ sở hạ tầng và cho vay trên toàn thế giới, Trung Quốc đang theo đuổi một hình thức thống trị kinh tế bằng sức mạnh mềm không ai có thể ngăn chặn. Nguồn tài chính phong phú của Bắc Kinh cho phép Trung Quốc trở thành một lực lượng có thể thay đổi cuộc chơi ở tất cả các nước phát triển cũng như đang phát triển, một nguy cơ đe dọa phá hủy ưu thế cạnh tranh của các công ty phương Tây, làm mất công ăn việc làm ở châu Âu và Hoa Kỳ, ngăn chặn những lời chỉ trích tình trạng vi phạm nhân quyền và dân chủ tại Trung Quốc. Rõ ràng, dựa vào các khoản tiền gửi ngân hàng của hơn một tỷ người tiết kiệm trên cả nước, Chính phủ Trung Quốc có thể mua các tài sản chiến lược trên toàn thế giới. Điều này có thể diễn ra bởi vì các khoản tiền gửi bị hạn chế ở mức lãi suất thấp hơn tỷ lệ lạm phát và kiểm soát vốn nghiêm ngặt nhằm ngăn chặn người gửi tiền tiết kiệm đầu tư tiền bạc của họ vào các khoản đầu tư có thể kiếm lời nhiều hơn ở nước ngoài. Do đó, hiện nay Chính phủ Trung Quốc đang kiểm soát các đường ống dầu khí chạy từ Turkmenistan đến Trung Quốc và từ Nam Sudan đến Biển Đỏ. Một đường ống dẫn dầu khác chạy từ Ấn Độ Dương đến thành phố Côn Minh, chảy qua Myanmar, dự kiến sẽ được hoàn thành sớm trong nay mai và một đường ống dẫn dầu khác từ Siberi chạy đến phía Bắc Trung Quốc đã được xây dựng. Trung Quốc cũng đầu tư các khoản tiền rất lớn vào xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện các dự án thủy điện lớn như đập Merowe trên sông Nile ở Sudan, dự án lớn nhất của Trung Quốc tại châu Phi và đập Coca Codo Sinclair của Ecuador trị giá 2,3 tỷ USD. Ngoài ra, các công ty trực thuộc nhà nước Trung Quốc cũng đang xây dựng hơn 200 con đập khác trên khắp hành tinh.

Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới và vượt Hoa Kỳ trở thành quốc gia có tổng thương mại lớn nhất thế giới năm 2012. Chỉ mấy năm qua, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại hàng đầu của nhiều nước như Australia, Brazil và Chile khi Bắc Kinh tìm kiếm các nguồn tài nguyên như quặng sắt, đậu nành và đồng. Mức thuế xuất nhập khẩu thấp hơn và nền kinh tế bùng nổ của Trung Quốc giải thích mức tăng trưởng cấp số nhân này. Bằng cách chủ yếu mua các nguồn tài nguyên và lương thực, Trung Quốc bảo đảm chắc chắn 2 trong số các động cơ kinh tế của đất nước: đô thị hóa và khu vực xuất khẩu, được cung cấp các nguồn cần thiết. Tại châu Âu và Bắc Mỹ, tuy sự xuất hiện của Trung Quốc mới diễn ra gần đây, nhưng các số liệu cho thấy đầu tư hàng năm của Trung Quốc tại Liên minh châu Âu tăng từ 1 tỷ USD/năm trước năm 2008 lên hơn 10 tỷ USD trong 2 năm qua. Và tại Hoa Kỳ, đầu tư của Trung Quốc tăng từ mức chưa đến 1 tỷ USD năm 2008 lên mức cao kỷ lục 6,7 tỷ USD năm 2012. Năm ngoái, châu Âu là địa chỉ chiếm 33% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc. Thông qua các khoản trợ giá và các nguồn tài chính ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc tạo lợi thế cho các công ty trực thuộc nhà nước lớn hơn nhiều các đối thủ cạnh tranh. Từ năm 2008, suy thoái kinh tế cho phép Trung Quốc thâm nhập các thị trường phương Tây để săn lùng công nghệ, bí quyết và các thỏa thuận mà trước đây Bắc Kinh không thể tiếp cận. Các tài sản của phương Tây không được bán trước đây nay đã được phép bán và các khoản đầu tư của Trung Quốc góp phần tạo nên khả năng thanh toán tiền mặt cần thiết. Xu hướng này sẽ tiếp tục tăng trong tương lai khi đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc tăng mạnh trong những năm tới. Theo dự kiến, đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc sẽ đạt khoảng 1000 đến 2000 tỷ USD vào năm 2020. Điều này có nghĩa các công ty trực thuộc nhà nước Trung Quốc đang giữ vị trí độc quyền ở trong nước có thể thực hiện chương trình bành trướng quốc tế đầy tham vọng và cạnh tranh với các công ty khổng lồ toàn cầu. Tình trạng bất công này thể hiện rõ nhất trong ngành công nghiệp sản xuất thép và tấm thu năng lượng mặt trời, khu vực Trung Quốc đã phát triển từ một nước nhập khẩu thành nhà sản xuất lớn nhất thế giới và chỉ trong vài năm đã xuất khẩu. Trung Quốc có thể tung ra các loại sản phẩm với giá cả thấp hơn giá thị trường trên khắp thế giới, từ đó phá hủy các ngành công nghiệp và việc làm ở các nước phương Tây cũng như nhiều khu vực khác. Đây là mối đe dọa thực sự đối với Hoa Kỳ và các nước khác. Nhưng hầu hết các chính phủ phương Tây dường như không giải quyết chủ nghĩa bành trướng của nhà nước Trung Quốc như một ưu tiên trước mắt. Ngược lại, các chính phủ châu Âu đang đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế lại coi Trung Quốc là một quốc gia có thể giúp đỡ bằng cách mua các khoản nợ chủ quyền hoặc chào đón các khoản đầu tư để tạo công ăn việc làm ở các nước. Công ty Cosco trực thuộc nhà nước Trung Quốc hiện đang quản lý kho vận hàng hóa chính ở bến cảng Piraeus lớn nhất Hy Lạp gần Aten theo một hợp đồng nhượng quyền kéo dài 35 năm. Và Quỹ lợi ích quốc gia (CIC) của Trung Quốc mua 10% cổ phần của sân bay Heathrow ở thủ đô London năm 2012 cũng như gần 9% cổ phần của công ty “Thames Water” của Anh. Các công ty trực thuộc nhà nước Trung Quốc như: công ty Three Gorges Corporation và State Grid là các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu trên lĩnh vực phát điện của Bồ Đào Nha và CIC cũng mua 7% cổ phần của tập đoàn viễn thông Eutelsat Communications của Pháp. Tại bến cảng Hy Lạp, Trung Quốc có thể tăng gấp 3 công suất bất chấp những lời chỉ trích của các công đoàn địa phương về điều kiện lao động ngày càng tồi tệ. Nhưng vẫn còn quá sớm để đánh giá tác động của Trung Quốc trong các khoản đầu tư khác.

Thực tế các công ty Trung Quốc có thể đầu tư vào các lĩnh vực ở châu Âu nhưng Trung Quốc lại đóng cửa hoặc hạn chế các công ty châu Âu đầu tư vào các khu vực tương tự tại Trung Quốc. Ví dụ Đức chiếm gần một nửa kim ngạch xuất khẩu của Liên minh châu Âu (EU) sang Trung Quốc. Nhưng chắc chắn Berlin không thể thay đổi sự cạnh tranh không bình đẳng, nền tảng chính sách của Trung Quốc. Hơn nữa, thiếu đòn bẩy và sự lãnh đạo của Brussels có nghĩa EU không thể hành động mạnh mẽ để buộc Trung Quốc áp dụng các biện pháp tạo nên một sân chơi bình đẳng hoặc đảm bảo có đi có lại trên thị trường nội địa của Trung Quốc. Hiện nay Hoa Kỳ là nước duy nhất đang giải quyết vấn đề bằng cách thúc đẩy thỏa thuận Thỏa thuận Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), một thỏa thuận thương mại khu vực bị các nhà phê bình ở Bắc Kinh và những nơi khác chỉ trích là một chính sách do Hoa Kỳ đứng đầu để ngăn chặn Trung Quốc. TPP chỉ chấp nhận các nước đáp ứng các tiêu chuẩn cao của Hoa Kỳ về các vấn đề như: cạnh tranh tự do, tiêu chuẩn lao động và môi trường, quyền sở hữu trí tuệ. Do không đáp ứng các tiêu chuẩn đó, Trung Quốc sẽ phải cải cách hoặc có nguy cơ bị cô lập trong khu vực. Hơn nữa, Hoa Kỳ đã gây khó khăn cho tập đoàn viễn thông khổng lồ Hoa Vĩ của Trung Quốc bằng cách không cung cấp cho tập đoàn này các hợp đồng của các công ty viễn thông hàng đầu của Hoa Kỳ. Đây không chỉ là vấn đề lo ngại an ninh quốc gia mà còn gửi đến Bắc Kinh một thông điệp rõ ràng rằng Chính phủ Hoa Kỳ sẵn sàng ngăn chặn một trong những công ty thành công nhất của Trung Quốc. Mặc dù các công ty phương Tây phàn nàn về các rào cản đối với việc mua sắm công, đấu thầu và nỗ lực cạnh tranh trong các lĩnh vực bị hạn chế ở Trung Quốc, nhưng các công ty Trung Quốc được đối xử rất ưu đãi ở châu Âu, mua lại các tài sản chiến lược và các công ty

lớn như Volvo và nhà sản xuất thiết bị Putzmeister của Đức. Nhận thức chung ở châu Âu là Trung Quốc không thể tránh khỏi thực trạng hiện nay, do đó lựa chọn duy nhất của châu Âu là thỏa hiệp – chấp nhận tất cả mọi thứ từ môi trường đầu tư hào phóng đến từ bỏ vấn đề chỉ trích nhân quyền của Trung Quốc trong chương trình nghị sự. Một quan chức cấp cao của châu Âu nói: “Chúng tôi không có cây gậy nào. Chúng tôi chỉ có thể đưa ra củ cà rốt và hy vọng tốt đẹp nhất”. Khu vực Greenland, một lãnh thố giàu tài nguyên khoáng sản chủ yếu do Đan Mạch kiểm soát, là một ví dụ. Năm ngoái, Quốc hội Greenland thông qua đạo luật cho phép người nước ngoài đến lao động ở đây và được hưởng mức lương thấp hơn lương tối thiểu của người lao động địa phương. Nhưng đại diện Trung Quốc tuyên bố các ngân hàng và các công ty nhà nước Trung Quốc sẽ đầu tư thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản của Greenland chỉ khi nào các quy định của khu vực được sửa đổi cho phép hàng nghìn công nhân người Trung Quốc có mức lương thấp đến làm việc trong khu vực. Lãnh thổ Bắc Cực không có nhiều lựa chọn thay thế. Không nước nào có thể trở thành đối tác chiến lược của Greenland để phát triển tương lai của khu vực, vì nhiều rủi ro kinh doanh liên quan đến khu vực Bắc Cực và quy mô đầu tư cần thiết ở một lãnh thổ lớn hơn Mexico, nhưng không hề có một tuyến đường cao tốc. Một công ty dầu lửa của Hoa Kỳ không thể thực hiện nhiệm vụ đó một mình. Ngược lại, hệ thống tư bản nhà nước Trung Quốc cho phép các công ty nhà nước phối hợp với nhau để vừa khai thác dầu khí đồng thời xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản. Do đó, các nhà lãnh đạo của Greenland chấp nhận điều kiện của Trung Quốc bởi vì họ có thể tin rằng những dự án tốn kém đó sẽ không bao giờ được thực hiện nếu Trung Quốc không tham gia. Chỉ Trung Quốc có tiền, nhu cầu, kinh nghiệm và quyết tâm chính trị để biến các ý tưởng thành hiện thực. Hơn nữa, không có đủ công nhân có tay nghề cao ở Greenland để thực hiện các dự án như vậy, Chính phủ Greenland buộc phải áp dụng một trường hợp ngoại lệ của luật pháp để cho phép người lao động Trung Quốc được mức lương thấp hơn mức lương tối thiểu của người lao động địa phương, từ đó được hưởng lợi nhờ cơ sở hạ tầng mới và các khoản tiền thuê mỏ. Nhận thấy Trung Quốc có túi tiền quá lớn, lực lượng lao động dư thừa và nhu cầu tài nguyên thiên nhiên vô hạn, do đó Chính phủ Greenland chuẩn bị thông qua và áp dụng một đạo luật thích hợp để đáp ứng các yêu cầu của Trung Quốc. Thậm chí Đan Mạch, hiện đang nắm giữ quyên lực ở Greenland trên các lĩnh vực như nhập cư và chính sách đối ngoại, quyết định không can thiệp.

Thậm chí tình hình trên cũng đang xảy ra ở các pháo đài, chẳng hạn Canada. Đến nay Tổng thống Obama vẫn không phê duyệt dự án đường ống dẫn dầu Keystone, từ đó làm cho chính phủ bảo thủ của Thủ tướng Stephen Harper chuyển hướng sang Trung Quốc để Canada có thể trở thành một thị trường xuất khẩu các khoản dầu thô dự trữ khổng lồ. Ngành công nghiệp dầu lửa đặt trụ sở tại Calgary đang nỗ lực vận động Thủ tướng Harper áp dụng một chiến lược đa dạng hóa mới, trong đó có kế hoạch xây dựng một đường ống dẫn dầu gây tranh cãi chạy đến phía Tây British Columbia, bất chấp mọi phản đối mạnh mẽ của các tổ chức môi trường, công chúng và các cộng đồng thổ dân đầu tiên ở Canada. Hiện nay Canada đã ký một Thỏa thuận Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư Nước ngoài (FIPA) với Trung Quốc, theo đó thỏa thuận cho phép chính phủ áp dụng các biện pháp bảo hộ đầu tư hào phóng cho người Trung Quốc. Do Trung Quốc là trung tâm của các cuộc tranh luận về FIPA và tuyến đường ông dẫn dầu phía Tây, Chính phủ Canada chấp thuận công ty dầu lửa nhà nước Trung Quốc CNOOC tiếp quản tập đoàn năng lượng khổng lồ Nexen của Canada trị giá 15,1 tỷ USD. Quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của Canada. Hiện nay Chính quyền Harper  xem ra có vẻ rất thận trọng trong việc chỉ trích hồ sơ vi phạm nhân quyền và dân chủ của Trung Quốc. Thực tế cho đến gần đây Canada vẫn là một trong những tiếng nói mạnh nhất về việc xử lý những người bất đồng chính kiến của Chính phủ Trung Quốc, điều này không chỉ là một Sự thay đổi 180 độ mà cũng là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc có thể gạt bò chương trình chính trị của các nước và khu vực, kể cả phương Tây, sang một bên. Tại Australia, tổng số tiền đầu tư từ Trung Quốc đến cuối năm 2012 đạt hơn 50 tỷ USD. Riêng năm 2012, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Australia tăng 21% so với năm 2011 và đạt 11,4 tỉ USD, đưa Trung Quốc trở thành một đối thủ quan trọng trong ngành công nghiệp khai thác khoáng sản của Australia. Đáng chú ý, Trung Quốc cũng vượt Hoa Kỳ trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Đức (về số lượng thỏa thuận). Các công ty Trung Quốc đang tìm kiếm và mua lại các công ty của các nước, chắng hạn công ty sản xuất máy bơm bê tông Putzmeister của Đức, có thế mạnh về công nghệ và trở thành các nhà lãnh đạo thế giới trên các thị trường thích hợp. Việc tiếp quản các công ty toàn cầu của các nước cũng cho phép Trung Quốc tiếp thu các bí quyết của phương Tây về các mối quan hệ giữa thương hiệu, tiếp thị, phân phối và khách hàng. Bên cạnh đó, đối mặt với suy thoái kinh tế, các công ty châu Âu đang gặp khó khăn, như tập đoàn sản xuất ô tô Volvo của Thụy Điển, nhanh chóng hoan nghênh các đối tác Trung Quốc hiện sẵn sàng bơm số lượng vốn khổng lồ và toàn quyền kiểm soát các công ty. Các khoản vay mà Bắc Kinh tung ra thế giới thậm chí quan trọng hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay Trung Quốc cung cấp các khoản vay lớn cho các nước như: 40 tỷ USD cho Venezuela và hơn 8 tỷ USD cho Turkmenistan. Ngân hàng chính sách của Trung Quốc (Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và Ngân hàng Xuất nhập khẩu của Trung Quốc) là cơ quan chủ chốt hỗ trợ chiến lược “Đi khắp toàn cầu” của Trung Quốc. Cơ quan cung cấp các khoản vay trị giá nhiều tỷ USD cho nước ngoài để buộc các nước mua hàng hóa giá rẻ Trung Quốc; cung cấp tài chính xây dựng cơ sở hạ tầng và bắt đầu triển khai các dự án trong ngành công nghiệp khai khoáng cũng như các ngành công nghiệp khác. Rõ ràng hành động của Trung Quốc hoàn toàn ngược lại với phương Tâv, thường tuyên bố các khoản viện trợ phải đi kèm với các điều kiện cải thiện nhân quyền và hoạt động kinh doanh minh bạch. Các khoản cho vay của Trung Quốc rất quan trọng đối với các nước đang đối mặt với mối đe dọa cắt giảm tài chính từ các chủ nợ phương Tây, Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Chẳng hạn khi chính phủ Ecuador, Venezuela, Turkmenistan, Sudan và Iran đang gặp nhiều khó khăn tài chính, Trung Quốc đã nhảy vào mà không hề kèm theo bất cứ điều kiện chính trị hoặc đạo đức nào. Do đó, từ năm 2009-2010, Tmng Quốc trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới với tổng số các khoản cho vay đạt tới 110 tỷ USD, lớn hơn Ngân hàng Thế giới. Nhưng điều quan trọng mà thế giới cần biết là thực tế đứng sau sự bành trướng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc là nhà nước Trung Ọuốc có thể đang phát triển đúng hướng trên một số lĩnh vực, nhưng khi các công ty trực thuộc nhà nước Trung Quốc vươn ra nước ngoài và tìm cách áp dụng các quy tắc bắt nguồn từ một chế độ độc đoán, vấn đề nguy hiếm nhất là: vì nhu cầu kinh tế các nước phương Tây sẽ phải chơi theo các quy tắc của Bắc Kinh. Khi Trung Quốc trở thành một bên tham gia toàn cầu và một đối thủ cạnh tranh khốc liệt trên các thị trường Hoa Kỳ và châu Âu, chế độ chính trị và hệ tư tưởng tư bản nhà nước của Trung Quốc sẽ tạo nên mối đe dọa, Do đó các chính phủ phương Tây phải thường xuyên gắn với những gì là cốt lõi của sự thịnh vượng như các quy định luật pháp, tự do chính trị và cạnh tranh lành mạnh. Các nước phương Tây không được nghĩ đến cái lợi trước mắt. Từ bỏ cam kết về nhân quyền, hoặc phục tùng khi đối mặt với chủ nghĩa tư bản nhà nước tham lam của Bắc Kinh sẽ gây tổn hại đến lợi ích lâu dài của các nước phương Tây. Và đã đến lúc Chính phủ Trung Quốc cần phải thích ứng với thế giới chứ không thể đi theo con đường khác./.



Nguồn: http://basam.info/2013/09/10/2026-trung-quoc-tu-chi-phoi-kinh-te-thuong-mai-den-chi-phoi-chinh-tri/
0

Thứ Năm, 5 tháng 9, 2013

Những khía cạnh quân sự trong chiến lược "xoay trục" của Mỹ sang châu Á

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)

Chủ Nhật, ngày 1/9/2013

(Tạp chí Asian Affairs, tháng 10-12/2012)

Tóm tắt: Đây là lần thứ 3 các nhà hoạch định chính sách ca Hoa Kỳ đã cân nhắc việc xoay trục sang châu Á. Tuy nhiên, ln này thì khác hn, vì rõ ràng cơ sở lực hấp dẫn của nền kinh tế toàn cầu đang chuyn từ Tây sang Đông. Với tư cách là quốc gia hùng mạnh nhất ở châu Á-Thái Bình Dương, Hoa Kỳ một lợi ích quốc gia quan trọng hơn cả trong việc duy trì sự thịnh vượng và trật tự của khu vực này.

Nhưng Washington D.C thừa nhận rng mình không còn có thể áp đặt được nữa các giải pháp đi với các chính phủ lớn trong khu vực. Một chiến lược mới của Hoa Kỳ đối với châu Á-Thái Bình Dương sẽ phải tính đến những giới hạn hết sức nghiêm ngặt được áp đặt vào các chính sách đi ngoại và quốc phòng của Hoa Kỳ do sự suy thoái kinh tế tương đi của Hoa Kỳ. Điu này có nghĩa là Washington sẽ phải thuyết phục các bạn bè và đồng minh của mình đảm nhận trách nhiệm lớn hơn đối với an ninh khu vực. Cái gọi là hệ thng liên minh do Hoa Kỳ bảo trợ San Francisco sẽ phi được thay đi, để làm cho đáp ứng hơn với nhng vấn đề mà Hoa Kỳ và các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực phi đi mặt, Bài viết được đề xuất của Lầu Năm Góc như một sự phàn ứng đi với việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc và là nguồn gốc của sự tái đảm bảo cho các bạn bè và đồng minh của Washington D.C trong khu vực.

Việc Chính quyền Obama nâng tầm khu vực châu Á – Thái Bình Dương lên thành “một trong những ưu tiên chiến lược hàng đầu của chúng ta” có khả năng là quyết định chiến lược quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong hai thập kỷ qua. Bài viết này sẽ xem xét những gì mà chính quyền này sẽ phải làm để biến khát vọng này thành một chiến lược có hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác khu vực và thúc đẩy những lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ đồng thời tránh một “cuộc chiến tranh bá quyền” với Trung Quốc. Tác giả bài viết này sẽ chú trọng vào các yếu tố quân sự của việc xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ, mặc dù đây chỉ là một yếu tố của bất cứ chiến dịch mới nào của Hoa Kỳ nhằm tăng cường vị thế của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á.

Trước hết là một lưu ý có tính khuyên răn, Hoa Kỳ vẫn có nhiều việc phải làm ở châu Á – Thái Bình Dương. Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự đang gia tăng đều đặn của mình, và những cơ hội do sự bận rộn của Hoa Kỳ ở Trung Đông tạo ra, để thách thức ảnh hưởng của Washington D.C ở khu vực châu Á. Hoa Kỳ cũng đã bị các chính phủ châu Á chỉ trích mạnh mẽ – trong đó có cả các bạn bè và đồng minh chủ yếu của Hoa Kỳ trong khu vực – về việc xử lý cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và về vai trò của nước này trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2008. Ở mức độ cơ bản hơn, Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng đòn bẩy đối với những tài sản kinh tế của mình ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và tài trợ cho việc ứng phó quân sự đầy tham vọng với việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc, vì việc này sẽ bị hạn chế nhiều bởi các vấn đề kinh tế trong nước. Trong những hoàn cảnh này, bất cứ chiến lược quân sự nào đối với châu Á – Thái Bình Dương sẽ phải đặt ưu tiên rất cao vào việc hỗ trợ tích cực cho các bạn bè và đồng minh của chúng ta trong khu vực. Đây sẽ là một trong những lý do giải thích tại sao các công cụ quyền lực mềm như hoạt động ngoại giao và hợp tác kinh tế sẽ có tầm quan trọng như các chính sách quân sự trong chiến lược “xoay trục” của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu coi nhẹ những phương tiện lâu dài mà Hoa Kỳ có thể dựa vào khi Hoa Kỳ “xoay trục” sang châu Á. Ngay cả nếu những dự đoán trường hợp tồi tệ nhất trở thành sự thật, và Lầu Năm Góc phải cắt giảm chi phí một nghìn tỉ USD trong thập kỷ tới, Hoa Kỳ vẫn sẽ có khả năng dựa vào các nguồn tài lực quân sự khác thường ở khu vực châu Á. Quan trọng hơn, Washington D.C có thể tìm được lòng tin và phương hướng từ thực tế rằng hầu hết các chính phủ châu Á – Thái Bình Dương vẫn coi trật tự quốc tế tự do là sự đảm bảo tốt nhất của họ cho sự thịnh vượng và an ninh và vẫn chấp nhận việc không thể thiếu được sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong trật tự này. Nếu xử lý một cách thích hợp, Hoa Kỳ sẽ có khả năng sử dụng sức hấp dẫn vốn có của tầm nhìn của mình về trật tự quốc tế tự do để tạo dựng lại vị thế và ảnh hưởng của mình với mức rủi ro thấp nhất trong một cuộc đối đầu với Trung Quốc.

Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Hoa Kỳ không phải là sự bá quyền của Hoa Kỳ, và như John Ikenberry đã lưu ý, “các biện pháp gây sức ép đòi thay đổi – và tổ chức lại trật tự này – đang gia tăng”. Trong những hoàn cảnh này, Hoa Kỳ sẽ cần phối hợp với các bạn bè và đồng minh của mình trong khu vực không chỉ để tạo cơ hội cho châu Á trong hệ thống quốc tế này mà còn tạo cơ hội cho Trung Quốc ở khu vực châu Á. Điều này sẽ không chỉ đòi hỏi phải có một ý thức về một tương lai chung, mà còn đòi hỏi sự hiểu biết chính xác của Washington D.C về những cách thức mà các bạn bè và đồng minh trong khu vực nhìn nhận lịch sử về sự dính líu của Hoa Kỳ trong khu vực.

Sự “xoay trục” và vòng cung: Chiến lược của Obama trong bối cảnh lịch sử

Đây là lân thứ ba giới hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đã tranh luận về những điều thuận lợi và bất lợi của một chiến lược đặt trọng tâm chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ vào châu Á-Thái Bình Dương. Kết hợp với nhau, cả ba cuộc tranh luận về chính sách này có thể được coi là một tiến trình điều chỉnh dần dần của Hoa Kỳ về bản sắc của mình với tư cách là một quốc gia Thái Bình Dương. Trong giai đoạn đầu, một cuộc tranh luận sôi nổi mang tính quốc gia đã diễn ra cả về sự khôn ngoan và đạo đức của việc triển khai sức mạnh của Hoa Kỳ vào châu Á. Sau gần 50 năm lập luận, Hoa Kỳ đã lao vào Thái Bình Dương vào cuối thế kỷ 19 – thôn tính Hawaii năm 1898, khởi đầu một cuộc chiến tranh tàn bạo ở Philippines năm 1899, và triển khai 4.000 quân đến Trung Quốc năm 1900 để giúp đỡ dập tắt cuộc nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn. Các chiến dịch xuyên Thái Bình Dương này bị Liên đoàn chống Đế quốc và các tổ chức khác của Hoa Kỳ công kích như là sự phản bội những giá trị Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có tốt hơn so với các nước châu Âu phi đạo đức nếu nước này tìm cách trở thành đế chế, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, ở châu Á?

Cuộc Chiến tranh Philippines là một “sáng kiến” liều lĩnh nhất và tốn kém nhất trong thời kỳ này. Chiến dịch quân sự, diễn ra từ 1899 đến 1902, đã gây thương vong trên 4.000 quân Hoa Kỳ – một thiệt hại nhiều hơn đáng kể so với chiến dịch kéo dài cả thập kỷ của Hoa Kỳ ở Ápganixtan, vào thời điểm khi dân số Hoa Kỳ vào khoảng 1/4 dân số hiện nay. Tuy nhiên người Hoa Kỳ không nhớ đến cuộc chiến tranh này cho đến khi nó trở thành một nguồn nghiên cứu đối với các nhà vạch kế hoạch quan tâm đến chống nổi dậy. Tuy nhiên, Michael Hunt và Steven Levine nhẳc nhở chúng ta rằng cuộc chiến tranh này có những tác động lâu dài đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ:

“Bất kể khó áp đặt đến đâu và gây tranh cãi đến mức nào ở trong nước, vị thế đế quốc mà Hoa Kỳ đã tạo ra ở Philippines có những kết quả mạnh mẽ đóng góp quan trọng cho các cuộc chiến tranh sau này ở Thái Bình Dương. Hãy xem Philippines cùng với Hawaii và Guam đã chứng tỏ những tuyên bố của Hoa Kỳ là một cường quốc Thái Bình Dương và nuôi dưỡng sự thèm khát phát triển hơn nữa vị thế của Hoa Kỳ trong khu vực”.

Hunt và Levine cũng cho rằng “những hành động glành thêm lãnh thổ này là … một thách thức trực tiếp đối với tương lai của Nhật Bản với tư cách là một cường quốc khu vực loại một có những lợi ích trong việc mở rộng những giải pháp thương mại và đối ngoại của mình”. Chiến dịch mở rộng đế chế của Nhật Bản vào những năm 1930, lên đến đỉnh điểm trong cú sốc Trân Châu Cảng, mở ra giai đoạn “xoay trục” thứ hai “của Hoa Kỳ sang châu Á. Vào các giai đoạn sau đó của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai, giới hoạch định chính sách của Hoa Kỳ phát triển các kế hoạch về các căn cứ được triển khai phía trước khắp Thái Bình Dương để đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ một lần nữa trở thành “gã khờ bị ăn đấm” bởi một cường quốc châu Á đang nổi lên. Chiến lược này đã được điều chỉnh sau chiến tranh cho phù hợp với những đòi hỏi về sự răn đe hạt nhân và thực tế chiếm đóng quân sự của Hoa Kỳ ở Nhật Bản. Vấn đề đối với các nhà vạch kế hoạch quốc phòng sau chiến tranh là liệu những sáng kiến khác hẳn nhau này có nên được đưa vào một chiến lược lớn hơn và đầy tham vọng hơn nào đó về an ninh châu Á-Thái Bình Dương hay không. Nhưng những lập luận ủng hộ hệ thống liên minh đa phương ở châu Á dựa trên hai thực tế. Thứ nhất, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ vẫn được chỉ đạo bởi một nhóm người mà nguồn gốc sắc tộc và văn hóa của họ là khắp Đại Tây Dương, và những người vẫn coi châu Âu là trung tâm của hệ thống quốc tế. Thứ hai, ngay cả các nhà hoạch định chính sách phần nào đồng tình với lập luận cho rằng châu Á nên được coi là ưu tiên hàng đầu đã gặp nhiều khó khăn trong việc lý giải về cách thức mà một hệ thống an ninh gắn kết về địa chiến lược có thể được thành lập và quản lý trong một khu vực rất rộng lớn, rất phức tạp, và rất xa lạ đối với Hoa Kỳ. Trong những hoàn cảnh này, Washington D.C lựa chọn cái gọi là hệ thống các hiệp ước phòng thủ hai bên và ba bên San Francisco tạo điều kiện thuận lợi cho sự hiện diện quân sự và chính trị của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình Dương mà không khóa chặt Hoa Kỳ vào một liên minh đa phương như NATO.

Trong Chiến tranh Lạnh, việc bảo vệ do hệ thống San Francisco đem lại có thể làm cho Nhật Bản, đồng minh quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong khu vực, tập trung chú ý vào các vấn đề kinh tế không có lợi cho các vấn đề quốc phòng, phù hợp với Học thuyết Yoshida, Do những hoàn cảnh đặc biệt của mình, Nhật Bản trở thành “nhà nước hậu hiện đại” thành công nhất ngoài cộng đồng châu Âu. Năm 2004, Robert Cooper giải thích rằng Nhật Bản hậu hiện đại “có những giới hạn tự áp đặt về chi phí và những khả năng quốc phòng. Nước này không còn quan tâm đến việc glành lãnh thổ hay sử dụng vũ lực”. Tuy nhiên, Cooper tiếp tục lưu ý: “Không may đối với Nhật Bản, đây là một quốc gia hậu hiện đại được bao quanh bởi các nước được khóa chặt vào một kỷ nguyên trước đó”. Ông dự đoán rằng “nếu Trung Quốc phát triển theo một cách không hứa hẹn… Nhật Bản có thể buộc phải trở lại chủ nghĩa hiện đại phòng thủ”. Việc thích nghi với một tư thế của chủ nghĩa hiện đại phòng thủ này đang diễn ra ở Nhật Bản hiện nay, và chính xác vì những lý do mà Cooper dự đoán.

Trong khi đó, ở Đông Nam Á, sự bảo vệ quân sự của Hoa Kỳ đã cho phép, và những trải nghiệm lịch sử với chủ nghĩa thực dân đã khuyến khích, các chính phủ tập trung vào những mối quan tâm trong nước của riêng mình và củng cố các thể chế mới và các cách ứng xử để xử lý các vấn đề địa phương. Sự phát triển của ASEAN như một “Khu vực Hòa bình, Tự do, và Trung lập” là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình này. Các nước thành viên ASEAN can dự vào nhiều trong số hành vi ứng xử đặc trưng của các nhà nước hậu hiện đại, nhưng họ đã phát triển những đặc tính này ngoài những đặc tính an ninh truyền thống (có nghĩa là hiện đại) hơn đặc trưng bởi quyền lực cứng và sự tự lực quân sự. Trong những hoàn cảnh này, các nước ASEAN thấy mình thích ứng dễ dàng hơn với những đòi hỏi của chủ nghĩa hiện đại phòng thủ so với Nhật Bản trong một môi trường an ninh đang thay đổi. Nhưng Washington D.C không thể đương nhiên cho rằng những nồ lực của mình nhằm tăng cường sức mạnh và ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ được các chính phủ Đông Nam Á hoan nghênh, đặc biệt nếu các chính sách của Hoa Kỳ buộc họ phải lựa chọn giữa Washington D.C và Bắc Kinh.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc – Những lựa chọn của Hoa Kỳ

Lịch sử cũng đã tạo ra những rào cản đáng kể đối với sự hợp tác Mỹ – Trung. Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã chuyển mối quan hệ của mình với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ một tình trạng thù địch rõ ràng sang mối quan hệ đối địch lẫn lộn. Không may, vào thời điểm George H.W. Bush lên cầm quyền năm 1989, các mối quan hệ Mỹ-Trung không phát triển thành mối quan hệ song phương tích cực và có hiệu quả hơn. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Bush đã báo hiệu điều quan trọng rằng ông đã chấp thuận một mối quan hệ được cải thiện và mở rộng của Hoa Kỳ với Trung Quốc bằng cách thực hiện một chuyến thăm chính thức tới Bắc Kinh. Ông đã có một số lý do để lạc quan về những quan điểm của mình. Bush không được đầu tư về mặt tình cảm về vấn đề Đài Loan như người tiền nhiệm của ông. Quả thực, chính Bush, với tư cách là người được đề cử là phó tổng thống năm 1980, đã đến thăm Trung Quốc để “làm yên lòng Đặng Tiểu Bình rằng bất chấp sau khi đề cập đến điều này trong một bài phát biểu trong chiến dịch vận động tranh cử, ông ấy (Ronald Reagan) không tin vào hai Trung Hoa (Trung Hoa Đại lục và Trung Hoa Dân quốc) và rằng ông ấy sẽ tôn trọng thông cáo Thượng Hải”. Người ta cũng có thể lập luận rằng vào thời điểm Bush lên cầm quyền, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày càng nhận rõ các xu hướng ở Đài Loan (dân chủ hóa, và ảnh hưởng chính trị đang gia tăng của người gốc Đài Loan) sẽ làm cho các quan hệ hai bờ Eo Biển trở thành có vấn đề và ít khả năng đoán trước hơn nếu không thể đạt được một số thay đổi đáng kể. Bush cũng là một người thực dụng hơn nhiều so với hoặc Jimmy Carter hoặc Ronald Reagan, và có xu hướng chấp thuận ưu tiên cao hơn cho những cân nhắc chiến lược so với hồ sơ nhân quyền của Trung Quốc và cam kết lâu dài của Bắc Kinh với chủ nghĩa cộng sản. Về cơ bản hơn, Bush chấp nhận rằng Trung Quốc đã có đòi hòi nào đó là ở bên thắng cuộc trong cuộc Chiến tranh Lạnh – như điều mà James Mann gọi là một “đồng minh ngầm”- và rằng Trung Quốc có thể đóng một vai trò quan trọng trong thời kỳ quá độ hòa bình đi tới một trật tự quốc tế hậu Xôviết.

Thật không may, Tổng thống Bush chưa bao giờ có cơ hội để thử thách những giới hạn của sự hợp tác chiến lược với các bên đồng chức Trung Quốc. Vào thời điểm Bush lên cầm quyền, ban lãnh đạo Bắc Kinh đang can dự vào các cuộc đấu tranh quyền lực quyết liệt trong nước về nhịp độ và phương hướng cải cách. Mấy tháng sau, khi xe tăng của PLA lăn bánh trên quảng trường Thiên An Môn, Bush trở nên không thể can dự một cuộc đối thoại thực sự với Trung Quốc. Các mối quan hệ Mỹ-Trung đã bị kẹt trong tình trạng gò ép từ đó. Những thay đổi lớn duy nhất về phía Trung Quốc từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh là sự tiến bộ mạnh mẽ về kinh tế của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và những cải thiện đi kèm về những khả năng quân sự của Trung Quốc.

Học thuyết về quan hệ quốc tế cũng không tạo điều kiện dễ dàng lắm khi chúng ta ứng dụng nó vào tình hình Mỹ-Trung. Hầu hết các cuộc chuyển giao quyền lực cuối cùng đều đi đến một cuộc đấu đá, và trong rất nhiều trường hợp đó là một cuộc chiến tranh mà không bên nào mong muốn. Trong trường hợp mối quan hệ Mỹ-Trung, cả hai bên tiếp tục bày tỏ cam kết mạnh mẽ về những thỏa hiệp chung, nhưng theo những điều kiện riêng của họ. Một lập luận điển hình của Hoa Kỳ khẳng định rằng “Hoa Kỳ cần tập trung mở rộng một chương trình nghị sự chung với Trung Quốc, bằng cách chấp nhận một tình thế buộc Trung Quốc phải tuân thủ các quy tắc”. Mặt khác, Trung Quốc không tạo điều kiện dễ dàng cho Hoa Kỳ phát triển một tình thế dễ thỏa hiệp hơn. Bắc Kinh đã hỗ trợ giọng điệu “phát triển hòa bình” bằng chiến dịch đầy ấn tượng là hiện đại hóa quân sự, được tiếp sức bởi tỉ lệ gia tăng chi phí quốc phòng trung bình là 12% mỗi năm. Nếu các xu hướng hiện nay ở Trung Quốc và Hoa Kỳ tiếp diễn, Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm dự đoán rằng Bắc Kinh sẽ vượt Hoa Kỳ về chi phí quốc phòng vào năm 2035.

Một số nhà bình luận đã tìm cách làm yên lòng từ sự hội nhập ngày càng tăng của Trung Quốc vào nền kinh tế toàn cầu. Không tính đến mối đe dọa do Trung Quốc tăng cường khả năng triển khai sức mạnh quân sự vượt ra ngoài biên giới nước này gây ra, các nhà bình luận này lập luận rằng Bắc Kinh có lợi ích đang gia tăng trong hệ thống quốc tế có trật tự và có thể đoán trước được. Những người lạc quan như Edward Steinfeld cũng đã khẳng định rằng Trung Quốc đang trên đường đi tới “chủ nghĩa độc đoán đang tự lỗi thời” và rằng “thời điểm nước này là một đối thủ hiện tại đã đi đến chỗ kết thúc”. Tuy nhiên, các chuyên gia khác của Hoa Kỳ nhìn nhận sự tiến bộ kinh tế của Trung Quốc hoàn toàn khác hẳn: như là đâu máy hiện đại hóa quốc phòng của Trung Quốc, là nguồn gốc của chính sách đối ngoại ngày càng rộng mở và quyết đoán của Trung Quốc. Và là mối đe dọa trực tiếp đối với các nguyên tắc khác nhau của thương mại tự do và hợp tác kinh tế quốc tế. Các nhà bình luận cũng lưu ý rằng tình huống đảm bảo hủy hoại kinh tế lẫn nhau hiện tồn tại giữa Washington D.C và Bắc Kinh không phải là một nhân tố đảm bảo sự ổn định đáng tin cậy, vì nó khuyến khích mỗi nước cho rằng – phù hợp với lôgích của chính sách bên miệng hố chiến tranh – họ có thể đẩy bên kia đi rất xa mà không mất sự kiểm soát.

Tình hình tương tự diễn ra đối với sự cân bằng quân sự giữa Washington D.C và Bắc Kinh. Một mặt, sự cân bằng chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là rất ổn định, vì không có nước nào muốn xảy ra chiến tranh hạt nhân. Tuy nhiên, mặt khác sự cân bằng chiến lược ngày càng chịu sức ép do những phát triển không tương xứng về các khả năng và học thuyết phòng thủ của hai nước. Vì Hoa Kỳ là một nước lớn nguyên trạng đã có một loạt công cụ quân sự đầy ấn tượng để đe dọa Trung Quốc, hầu hết sự thay đổi gây mất ổn định xuất phát từ PLA. Washington D.C đã đặc biệt lưu ý về việc Trung Quốc phát triển các khả năng chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (A2/AD), bao gồm các hệ thống chống vệ tinh động năng và phi động năng, tên lửa hành trình thông thường và tên lửa đạn đạo, tàu ngầm, và các khả năng chiến tranh trên mạng ngày càng hiện đại. Các nhà vạch kế hoạch quốc phòng của Hoa Kỳ đặc biệt lo ngại về những bối cảnh mang tính học thuyết đối với các hệ thống mới này, vì họ có xu hướng đặt ưu tiên cao vào việc tấn công trước và dựa vào yếu tố bất ngờ để glành được lợi thế chiến lược. Những đề nghị về chính sách của Hoa Kỳ nhằm chống lại khả năng A2/AD đang gia tăng của Trung Quốc sẽ được thảo luận sau đây trong bài viết này.

Do nhịp độ hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc chưa có khả năng giảm bớt, và vì điều này sẽ thúc đẩy sự gia tăng tựơng ứng về sự mất an ninh của Hoa Kỳ, phận sự của cả hai bên là dựa vào hoạt động ngoại giao để giữ cho cuộc cạnh tranh của họ trong tầm kiểm soát. Zbigniew Brzezinski đã lập luận về một hiến chương toàn diện để vẫn “làm bạn” với Trung Quốc. Nhưng như Robert Ross đã nhận xét: “Những lợi thế địa lý và sự năng động kinh tế của nước này, và tầm quan trọng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc và Đông Á, đặt Trung Quốc vào cuộc cạnh tranh trực tiếp với Hoa Kỳ. Thực tế chiến lược này đảm bảo rằng Washington D.C và Bắc Kinh sẽ không thể phát triển một mối quan hệ hữu nghị, hay thậm chí chủ yếu mang tính hợp tác trong vòng 15 đến 20 năm tới”.

Không có lý do giải thích tại sao Hoa KỲ không nên tìm kiếm hình thức hiểu biết toàn diện với Trung Quốc mà Brzezinski khuyến cáo. Nhưng nỗ lực của Tổng thống Obama nhằm “điều chinh lại” các mối quan hệ Mỹ-Nga khiến cho chúng ta không có lý do gì để lạc quan, và mối quan hệ Trung – Mỹ tạo ra những rào cản cao hơn đáng kể. Hai thập kỷ sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, các vấn đề đã gây cản trở các mối quan hệ Mỹ-Trung trong suốt Chiến tranh Lạnh – vị thế của Đài Loan, cuộc đối đầu Bắc-Nam trên bán đảo Triều Tiên, và những bất đồng cơ bản về các nguyên tắc chính trị, kình tế, và nhân quyền – vẫn chưa giải quyết được.

Vì dường như không có khả năng Washington D.C sẽ có thể đề ra một giải pháp toàn diện với Bắc Kinh mà có thể là cơ sở cho một tạm ước Hoa Kỳ nên theo đuổi một chiến lược tốt thứ hai là điều chỉnh cho thích nghi với sức mạnh của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương đồng thời phát triển các phương thức mới về hợp tác an ninh với các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực.

Tiến ti một chiến lưc “xoay trục” cua Hoa Kỳ: các nguồn lý tưởng và vật chất

Washington D.C sẽ tiếp tục dựa vào hệ thống đồng minh hai bên và ba bên San Francisco đã được thành lập trong Chiến tranh Lạnh với những nỗ lực nhằm tái đảm bảo. Và lôi kéo sự ủng hộ từ các bạn bè và đồng minh châu Á – Thái Bình Dương. Trong 6 thập kỷ qua hệ thống San Francisco này thường được mô tả là mối quan hệ nghèo nàn của NATO. Hệ thống này chắc chắn đã trải qua những thăng trầm trong quãng thời gian đó, nhưng bất chấp lịch sử xáo động của nó, hệ thống San Francisco đã Tồn tại và thích nghi. Hiện nay, hệ thống San Francisco còn lại này vẫn là nền tảng cho sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình Dương, nhưng nó cần sự sửa đổi và tăng cường đáng kể. Phần này sẽ đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống San Francisco, sử dụng một thể thức đã được sử dụng 4 thập kỷ trước bởi Joseph Nye, người đã lập luận rằng tất cả các tổ chức trong khu vực có thể được đánh giá theo phương diện các nguồn lý tưởng và vật chất. Các nguồn lý tưởng nói về sự đánh giá mà các nước thành viên của một tổ chức khu vực đưa ra về tổ chức đó. Các nguồn vật chất nói về khả năng của tổ chức đó trong việc hoàn thành những nhiệm vụ mà nó cam kết. Nếu chúng ta áp dụng các chuẩn mực của Nye vào mạng lưới an ninh do Hoa Kỳ bảo trợ ở châu Á – Thái Bình Dương, chúng ta phát hiện ra vấn đề sau:

Các nguồn lý tưởng: nhng điều thuận lợi

* Sự đánh giá cao ngày càng tăng giữa các chính phủ then chốt trong khu vực về sự hiện diện của Hoa Kỳ ở châu Á -Thái Bình Dương. Bất chấp những gánh nặng lịch sư đã được đề cập ở trên, nhiều bên tham gia trong khu vực coi việc “xoay trục” của Hoa Kỳ sang châu Á là sự lựa chọn ít tồi tệ nhất vào thời điểm khi Bắc Kinh bắt đầu sử dụng “sức mạnh đe dọa kết hợp” nhằm gây ảnh hưởng đến những quyết định như quy chế về Biển Nam Trung Hoa.

* Như đã được đề cập ở trên, bất chấp những đòn nặng nề đánh vào trật tự quốc tế tự do (đáng chú ý nhất là các cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 và năn 2008) các chính phủ then chốt châu Á vẫn coi phiên bản nào đó của trật tự này là sự đảm bảo tốt nhất cho an ninh và thịnh vượng của họ. Điều này sẽ tiếp tục tạo cho Washington D.C những lợi thế đáng kể so với Trung Quốc khi các chính phủ châu Á đang tính toán những chiến lược lâu dài của họ.

* Ngay cả trong tình hình hạn chế kinh tế nghiêm trọng, Washington D.C có thể sẽ tiếp tục tạo dựng danh tiếng của mình là một nhà cung cấp những lợi ích chung trong khu vực và trên thế giới.

Các nguồn lý tưởng: những điều bất lợi

* Washington D.C phải làm việc với, và xoay quanh, những thói quen và những sở thích hậu hiện đại còn lại trong các chính phủ châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt ở Nhật Bản và Đông Nam Á. Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đôi khi phản ứng trước những hành vi ứng xử như vậy với thái độ thất vọng, phàn nàn về sự ưu tiên quy trình so với sản phẩm và lời nói trên hành động. Nhưng việc gây sức ép buộc các chính phủ này phải tiến hành những điều chỉnh hơn nữa và nhanh hơn theo những tư thế của chủ nghĩa hiện đại phòng thủ có thể mang đến kết quả ngược lại.

* Trung Quốc đã hoàn toàn thành công trong thập kỷ qua trong những nỗ lực của riêng mình nhằm tạo ra sự nổi bật hơn với tư cách là một bên tham gia có ảnh hưởng trong khu vực. Để hoàn thành được việc này, Bắc Kinh đã dựa vào hoạt động ngoại giao “bạn bè với mọi ngưòi” được tăng cường bởi sự hợp tác kinh tế. Trong nhiều trường hợp nước này có thể gạt Washington D.C ra ngoài lề bởi những sự lôi kéo những bản sắc chung của châu Á và thời kỳ hậu thực dân.

Có một vài sự thật hiển nhiên mà không ai muốn bàn đến có thể làm phức tạp thêm các mối quan hệ của Hoa Kỳ với các chính phủ then chốt châu Á – Thái Bình Dương trong tương lai. “Sự thật bị phớt lờ lớn nhất” là những lo ngại của châu Á về nguy cơ xảy ra cuộc xung đột qua Eo biển Đài Loan. Washington D.C cam kết bảo vệ Đài Loan trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công từ đại lục. Nhưng chưa rõ các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ lý giải thế nào về những nghĩa vụ của họ trong những hoàn cảnh này. Và bất cứ tuyên bố hay chính sách nào của Hoa Kỳ buộc các chính phủ trong khu vực phải công khai đối đầu với những vấn đề như vậy có thể có những hậu quả tiêu cực đối với mọi quốc gia trừ Trung Quốc.

Các ngun vật cht: điu thuận lợi

*Mặc dù nói về việc kéo quá căng lực lượng và cắt giảm ngân sách, Hoa Kỳ có thể vẫn sử dụng các nguồn tài lực quân sự làm giảm những khả năng của Trung Quốc. Một kiểm toán sơ bộ của Bộ chỉ huy Thái Bình Dương làm nổi bật lên 6 nhóm tàu sân bay chiến đấu, 180 tàu chiến và 1.500 máy bay được sự yểm trợ của 100.000 quân. Trên thực tế, các phương tiện của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ gia tăng trong tương lai gần, phù hợp với một kế hoạch được công bố gần đây nhằm định hình lại sự hiện diện trên biển toàn cầu của Hoa Kỳ từ sự phân chia theo tỉ lệ 50/50 đến 40/60 giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Điều này sẽ tạo cho Hoa Kỳ một bước đệm ít nhất 10 năm để đề ra một tạm ước với Trung Qưốc hoặc phối hợp với các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực để phát triển một cơ cấu an ninh khu vực mới để điều chỉnh cho thích hợp, và đương đầu với PLA.

* Như đã được đề cập ở trên, hầu hết bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực đều lặng lẽ điều chỉnh cho phù hợp với những tác động của sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách gia tăng chi phí quốc phòng của họ và phát triển các tình hình hợp tác an ninh mới với các nước láng giềng của họ và với Hoa Kỳ. Những nỗ lực gần đây của Nhật Bản để phát triển những khả năng này đòi hỏi một chiến lược “phòng thủ năng động” là trường hợp nổi bật. Tokyo cũng bắt đầu phát triển những dàn xếp an ninh “tiểu đa phương” mới vừa là phương tiện để thúc đẩy hệ thống San Francisco vừa là cách để tăng cường vị thế của họ như một cường quốc trung lập trong khu vực. Những ví dụ gây ấn tượng nhất về sự hợp tác tiểu đa phương của Tokyo là hợp tác với Canberra. Hai chính phủ đã ký Tuyên bố chung về hợp tác an ninh (năm 2009) và một Hiệp định mua sắm và trao đổi dịch vụ (năm 2010) để tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác an ninh. Những sáng kiến này có thể được hiểu là những phản ứng đối với một ý thức đang gia tăng về khả năng dễ bị tổn thương và dễ bị tác động chiến lược của cả hai nước. Trọng khi đó, các nước thành viên ASEAN đã gia tăng ngân sách quốc phòng của họ khoảng 13,5% năm 2011, trong khi đồng thời phát triển các hình thức hợp tác quốc phòng mới giữa họ và với Washington D.C.

Các nguồn vật chất: điều bất lợi

* Đúng vào thời điểm Washington D.C đang tìm kiếm những cơ hội mới cho sự hợp tác an ninh khắp châu Á – Thái Bình Dương, Washington cũng đang điều chỉnh cho thích nghi với những sức ép buộc phải thương lượng lại những dàn xếp quốc phòng lâu dài với các đồng minh quan trọng nhất của mình. Ở Hàn Quốc, việc tái triển khai các lực lượng của Hoa Kỳ đến các khu vực ít dân cư hơn, việc giảm toàn bộ quy mô lực lượng của Hoa Kỳ, và những kế hoạch trao quyền chỉ huy cho Seoul vào năm 2015 là sự minh họa đầy đủ. Một tiền trình điều chỉnh khó khăn và có dụng ý hơn đã diễn ra ở Nhật Bản trong hơn một thập kỷ. như đã được thể hiện bằng tuvên bổ gần đây về những kế hoạch rút khoảng 9.000 lính Hoa Kỳ khỏi Nhật Bản trong mấy năm tới.

* Việc Trung Quốc có khả năng lấy tác dụng đòn bẩy từ các hoạt động kinh tế của mình ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương là sự kiềm chế nữa đối với chiến lược xoay trục đầy tham vọng của Hoa Kỳ. Thương mại song phương của Trung Quốc với các chính phủ châu Á đã tăng khoảng 47% trong 6 tháng đầu sau khi Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc – ASEAN đi vào hoạt động vào 1/1/2010, và đầu tư của Trung Quốc ở khu vực đã tăng gấp đôi trong 3 năm qua. Các mối liên kết kinh tế này mang lại cho Bắc Kinh đòn bẩy quyền lực mềm mà Washington D.C không thể hy vọng sánh được ở Đông Nam Á.

* Những diễn biến đã gây chú ý nhất từ các chuyên gia quốc phòng Hoa Kỳ có liên quan đến việc cải thiện đều đặn khả năng tiến hành chiến tranh và triển khai sức mạnh của Trung Quốc, đặc biệt việc PLA tăng cường khả năng can dự vào các hoạt động A2/AD. Phần tiếp theo của bài viết này sẽ khảo sát cuộc tranh luận đang gia tăng trong giới hoạch định chính sách của Hoa Kỳ về những lựa chọn của Hoa Kỳ để ứng phó với khả năng A2/AD đang gia tăng của Trung Quốc.

Những lựa chọn giữ cân bằng bên ngoài

Những kinh nghiệm có tính khuyên răn về các cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam kết hợp với sự áp chế của khoảng cách và những sự nhạy cảm của các đồng minh then chốt trong khu vực thuyết phục Washington D.C phát triển và duy trì một chiến lược cân bằng bên ngoài ở khu vực Thái Bình Dương. Trung Quốc hiện nay đang phát triển các khả năng quân sự và ủng hộ những học thuyết nhằm thách thức một yếu tố then chốt của chiến lược đó – khả năng của Hoa Kỳ hoạt động không bị trừng phạt ở mức tương đối trong khắp vùng biển này. Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ lo ngại rằng khi Trung Quốc phát triển các khả năng A2/AD của mình, các bạn bè và đồng minh then chốt của Hoa Kỳ sẽ bắt đầu phân vân có phải Osinhtơn vẫn sẵn sàng và có khả năng hỗ trợ những cam kết an ninh của mình hay không. Điều này đã khiến cho Lầu Năm Góc đưa ra một khái niệm hoạt động mới là Không-Hải Tác chiến (ASB) nhằm hướng dẫn việc phát triển và triển khai các hệ thống có khả năng “tấn công chiều sâu theo mạng lưới, được kết hợp nhằm gây rối, phá hủy và đánh bại … các mối đe dọa A2/AD”. Trong khi đó Văn phòng phụ trách Không-Hải Tác chiến của Lầu Năm Góc đã nhấn mạnh rằng ASB “không phải là một khái niệm nhằm vào bất cứ kẻ thù tiềm tàng đặc biệt nào”, không nghi ngờ rằng trọng tâm chủ yếu của việc vạch kể hoạch ASB là Trung Quốc. Quả thực, các nhà hoạch định chính sách không thể giải thích lý do căn bản về ASB mà không có một số đề cập cụ thể về việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc. Một ví dụ có căn cứ là trong một bài báo được công bố gần đây của Tướng Norton Schwartz, Tham mưu trưởng Lực lượng Không quân, và Đô đốc Jonathan Greenert, phụ trách các Hoạt động tác chiến Hải quân: “Đặc biệt lo ngại là nỗ lực bên bỉ của một số nước nào đó nhằm phát triển, dự trữ, và phổ biến vũ khí chính xác tầm xa tiên tiến. Những vũ khí tiên tiến này có thể được kết thành mạng lưới và kết hợp với các hệ thống giám sát tinh vi ngoài đường chân trời. Tên lửa đạn đạo tầm xa chống tàu chiến như DF-2ID của Trung Quốc, tên lửa hành trình tầm xa như DH-10 của Trung Quốc, và tên lửa đạn đạo cơ động và phòng không cải tiến, bao gồm những biến thể S-300/400/500 của Nga và HQ-9 của Trung Quốc, cho phép những kẻ thù tiềm tàng đe dọa quyền tự do hoạt động của không quân và của hải quân trong vòng hàng tràm dặm từ bờ biển của họ”.

Điểm thứ nhất cần được đưa ra về ASB là sẽ phải mất vài năm trước khi Bắc Kinh phát triển các loại khả năng A2/AD trên thực tế có thể làm xói mòn những cam kết răn đe mở rộng của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình Dương. Và như đã được đề cập ở trên, hầu hết các nước láng giềng của Trung Quốc đã lặng lẽ, nhưng đầy tham vọng, phát triển các lực lượng và các học thuyết quân sự của mình. Nếu được xử lý một cách thích hợp, Hoa Kỳ và các bạn bè và đồng minh khu vực của Hoa Kỳ có thể tiếp tục sử dụng tiến trình cân bằng khôn khéo và dần dần này để tăng cường an ninh châu Á -Thái Bình Dương.

Điểm thứ hai phải được xem xét là trong một kỷ nguyên khó khăn về kinh tế, bất cứ học thuyết quân sự mới nào của Hoa Kỳ mà đòi hỏi các hệ thống vũ khí mới kỹ thuật cao sẽ là điều “khó thuyết phục” ở trong nước. Một nghiên cứu gần đây đã kết luận rằng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (DOD) sẽ chi 267,9 tỉ USD cho các chương trình ASB từ năm 2010 đến năm 2016. Máy bay sẽ chiếm 61,7% khoản chi phí này, với máy bay F-35 chiếm phần lớn nhất trong ngân sách (82 tỉ USD). Hơn nữa, trong khi khẳng định với độc giả rằng người ta đã “thông báo về tài chính” của ASB mà Tướng Schwartz và Đô đốc Greenert thừa nhận rằng “sự dư thừa và vượt trội nào đó là cần thiết trong các lĩnh vực cụ thể”. Những “lĩnh vực” này đặc biệt hẳn sẽ là các mục tiêu dễ dàng để cắt giảm ngân sách.

Các cuộc tranh cãi về chi phí của ASB cũng sẽ trở nên phức tạp hơn bởi các hoạt độna chính trị quan liêu, khi Lục quân đội và các bạn bè của nó trong Quốc hội thách thức mục tiêu ưu tiên dành cho sáng kiến Không lực – Hải quân chung này trong một môi trường ngân sách được mất ngang nhau. Douglas MacGregor và Young Kim đưa ra lập luận tiêu biểu trên tờ Tập san các lực lượng vũ trang:… “không có quân viễn chinh kết hợp của Hoa Kỳ và các lực lượng lục quân liên minh. ASB có nguy cơ trở thành cái tương đương với cuộc chiến tranh bao vây thời trung cổ trong thế kỷ 21. Do quy mô và tầm sâu của Trung Quốc, nên văn hóa độc đoán của nước này và các thể chế hỗ trợ an ninh trong nước, các lực lượng tấn công không quân và hải quân của Hoa Kỳ có thể hết đạn được điều khiển chính xác rất lâu trước khi họ hết các mục tiêu để tấn công hoặc đạt được những điều kiện thuận lợi để đi đến hồi kết có thể chấp nhận được. Nếu không có một kế hoạch thực tế phối hợp các lực lượng lục quân của Hoa Kỳ và liên minh từ các nước trong khu vực như Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản và thậm chí Nga, và các lực lượng lục quân hùng mạnh cỏ khả năng đe dọa sự tồn tại của chế độ Trung Quốc và sự gắn kết quốc gia trong nước từ nhiều hướng, thì khả năng đạt được sự kết thúc xung đột với điều kiện có lợi cho những lợi ích của Hoa Kỳ và đồng minh là rất thấp đến mức không có”.

Những lập luận của MacGregor và Kim đưa chúng ta tới lý do thứ ba, và quan trọng nhất, để lo ngại về Không-Hải Tác chiến. Chúng tập trung chú ý của chúng ta vào những gì có thể thực sự diễn ra nếu chiến sự nổ ra giữa Trung Quốc và một lực lượng của Hoa Kỳ được huấn luyện và trang bị để tiến hành Không-Hải Tác chiến. Hầu hết các kịch bản gắn với ASB đặt ưu tiên cao vào các cuộc tấn công chính xác tầm xa chống lại tên lửa và các hệ thống chỉ huy và kiểm soát của PLA được bố trí ở đại lục Trung Quốc. Quá thường xuyên những kịch bản này không lưu ý đầy đủ về chính nguy cơ thực sự của một phản ứng quá mức của Trung Quốc. Như T.X. Hummes đã lập luận: “Không-Hải Tác chiến đòi hỏi các cuộc tấn công sớm và lặp đi lặp lại vào đại lục Trung Quốc cũng như trên mạng Internet và trên không gian. Trung Quốc có thể hiểu nhầm các cuộc tấn công vào các hệ thống thông thường A2/AD là những nỗ lực nhằm che mắt Trung Quốc và phá hoại khả năng chỉ huy và kiểm soát các lực lượng hạt nhân của nước này. Đây là một hình thức leo thang rất nguy hiểm”.

Không-Hải Tác chiến thường được giải thích là sự kế tiếp khái niệm Không-Lục Tác chiến đã được phát triển trong Chiến tranh Lạnh để ứng phó với lợi thế quân sự thông thường đáng kể của Liên Xô trên mặt trận trung tâm của NATO. Điều tương tự là rõ ràng: Việc dựa vào các hệ thống vũ khí mới và một học thuyết tấn công thọc sâu mới nhằm bù đắp cho sự bất lợi quân sự nào đó. Nhưng những khác biệt giữa Không-Hải Tác chiến và Không-Lục Tác chiến thực sự là điều bổ ích hơn. Không-Lục Tác chiến được thiết kế cho tình hình trong đó NATO và Hiệp ước Yacsava là hai con bọ cạp trong một cái chai – sẵn sàng cho cuộc chiến tranh tổng lực ngay lập tức, áp sát chống lại nhau dọc theo Fulda Gap và North German Plain. Không gì có thể so sánh được trong trường hợp quan hệ Mỹ-Trung, và cả hai phía vẫn dường như cam kết tránh một tình huống như vậy.

Một số khía cạnh của Không-Hải Tác chiến là tương đối không gây tranh cãi và nhạy cảm. Những khía cạnh này bao gồm những nỗ lực đa dạng hóa và tăng cường sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực. Việc triển khai theo kế hoạch tới 9.000 lính thủy đánh bộ đến Guam, việc mở một căn cứ mới gần đây cho 2,500 lính thủy đánh bộ ở miền Bắc Australia, các cuộc thương lượng đang diễn ra giữa Washington D.C và Canberra về sự tiếp cận quân sự của Hoa Kỳ tới quần đảo Cocos ở Ấn Độ Dương, và các cuộc đàm phán giữa Washington D.C và Manila về những khả năng sử dụng các cơ sở của Philippines dành cho máy bay giám sát hoặc các tàu hải quân của Hoa Kỳ là những ví dụ hay về những điều chỉnh khiêm tốn phù hợp với lôgích của Không-Hải Tác chiến. Nhưng còn quá sớm để làm gia tăng những căng thẳng Mỹ-Trung bằng sự phát triển và công bố những khả năng mới về các cuộc tấn công thọc sâu có độ chính xác cao chống lại các thiết bị của PLA trên đất liền của Trung Quốc.

Washington D.C cũng nên thận trọng về bất cứ sáng kiến Không-Hải Tác chiến nào buộc các bạn bè và đồng minh trong khu vực công khai đối mặt với các kịch bản quân sự gây tranh cãi. Khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh qua Eo biển Đài Loan là ví dụ rõ ràng nhất vì đây vừa là một nguồn gốc cụ thể gây đau đầu cho các đồng minh then chốt của Hoa Kỳ vừa là một kịch bản cho cuộc xung đột Mỹ-Trung luôn được những người đề xướng Không-Hải Tác chiến viện dẫn nhiều nhất. Đơn giản là còn quá sớm, và quá nguy hiểm, để Hoa Kỳ hối thúc các đồng minh then chốt công khai ủng hộ học thuyết hoạt động tác chiến gây tranh cãi này. Điều này đặc biệt đúng đối với Nhật Bản, quốc gia luôn được nhắc đến như một yếu tố không thể thiếu trong bất cứ học thuyết ASB nào.

Trong bản báo cáo đầy ảnh hưởng của họ ủng hộ Không-Hải Tác chiến, Jan Van Tol, Mark Gunzinger, Andrew Krepinevich và Jim Thomas đưa ra một phần lập luận của họ với tiêu đề “Cần có ý thức về tình trạng khẩn cấp”. Trái lại, bài viết này đã lập luận rằng ASB cần được tiếp cận một cách thận trọng, và trước đó cần tham vấn rộng rãi các bạn bè và đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực.

ASB cũng không phải là lựa chọn duy nhất đối với Hoa Kỳ. T.X. Hammes đã lập luận một cách thuyết phục rằng chiến lược Kiểm soát Ngoài khơi là theo hướng leo thang ít hơn, ít tốn kém hơn, ít khả năng gây rối hơn đối với các mối quan hệ liên minh của Hoa Kỳ ở châu Á -Thái Bình Dương, “về mặt tác chiến, nó sử dụng các phương tiện sẵn có hiện nay và các biện pháp hạn chế để ngăn không cho Trung Quốc sử dụng vùng biển bên trong Chuỗi đảo thứ nhất, bảo vệ hải phận và không phận của chuỗi đảo thứ nhất, và chi phi không phận và hải phận bên ngoài chuỗi đảo này. Sẽ không tiến hành các hoạt động thâm nhập không phận của Trung Quốc… Thay vào đó, chiến lược này sử dụng biện pháp bóp nghẹt kinh tế để làm cho Trung Quốc kiệt sức đến mức nước này phải tìm cách kết thúc chiến tranh”.

Vào thời điểm khi Trung Quốc ngày càng lo ngại về sự phụ thuộc đang gia tăng của nước này vào các nguồn cung cấp năng lượng của nước ngoài và thương mại trên biển, một chiến lược Kiểm soát Ngoài khơi đã gửi đi một thông điệp răn đe mạnh mẽ cho Bắc Kinh. Nhưng nó gần như không gây mất ổn định tiềm tàng như mối đe dọa của các cuộc tấn công trực tiếp chống Trung Quốc đại lục. Nó cũng không đòi hỏi Hoa Kỳ làm nhiều hơn những gì nước này đang làm hiện nay, vì hầu hết các phương tiện trên đất liền, trên biển và trên không mà Hoa Kỳ cần để đe dọa Trung Quốc bằng biện pháp bóp nghẹt từ từ đã có sẵn. Cuối cùng Hoa Kỳ không cần công khai đe dọa Trung Quốc bằng một chiến lược Kim soát Ngoài khơi, vì các nhà vạch kế hoạch quốc phòng của Trung Quốc đã bận rộn với “vấn đề Malacca” này. Quả thực,

Hoa Kỳ có lẽ sẽ không thể thuyết phục được Trung Quốc rằng nước này không phải lo ngại về khả năng này trong tương lai có thể nhìn thấy trước.

Việc đe dọa Trung Quốc bằng biện pháp kiểm soát trên biển chắc chắn là rủi ro. Nhưng như T.X Hammes thừa nhận: “Không có một chiến lược ‘hay’ nào cho một cuộc xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc”. Tuy nhiên chiến lược Kim soát Ngoài khơi là linh hoạt hơn nhiều, có thể kiểm soát được, và khả thi hơn so với Không-Hải Tác chiến. Washington D.C cũng dễ dàng thích nghi hơn nhiều với chiến lược “xoay trục” lâu dài đặt ưu tiên cao vào việc làm yên lòng, và tìm kiếm sự ủng hộ từ các bạn bè và đồng minh trong khu vực.

Kết luận

Năm 1995 William Tow và tác giả bài viết này dự đoán rằng “đôi khi trong tương lai không quá xa Hoa Kỳ sẽ không còn ở vào vị trí đảm bảo sự ổn định của châu Á – Thái Bình Dương bằng những hành động đơn phương và sự hiện diện quân sự ở phía trước nữa”. Tương lai không quá xa đó đã đến. Nhưng Washington D.C có thể có được sự tái đảm bảo đáng kể từ các xu hướng đang diễn ra trong khu vực chứng tỏ rằng hầu hết các chính phủ ở châu Á – Thái Bình Dương thừa nhận cần phải phối hợp với Hoa Kỳ để “tạo cơ hội cho Trung Quốc” mà không gây phương hại cho độc lập hoặc an ninh của họ. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đã đề cập đến thách thức mà Hoa Kỳ phải đối mặt khi “giúp đỡ các nước khác tự bảo vệ họ” và ông kết luận một cách đúng đắn rằng một chiến lược như vậy “phải chứa đầy những liều lượng mạnh về sự khiêm tốn và chủ nghĩa thực dụng”, bài viết này đưa ra lý lẽ cho thêm hai đòi hỏi nữa – lòng kiên trì và niềm tin ./.


Nguồn: http://basam.info/2013/09/07/2019-nhung-khia-canh-quan-su-trong-chien-luoc-xoay-truc-cua-my-sang-chau-a/
0