Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt - Trung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt - Trung. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2020

Việt Nam bác công hàm của Trung Quốc về Biển Đông

Việt Nam bác bỏ quan điểm sai trái về yêu sách chủ quyền Biển Đông Trung Quốc đưa ra trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc hôm 17/4.

"Việt Nam đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc", ông Ngô Toàn Thắng, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao, nói trong họp báo trực tuyến thường kỳ chiều 23/4.

Trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc ngày 17/4, Trung Quốc cho rằng cộng đồng quốc tế và cả chính phủ Việt Nam đã "công nhận chủ quyền" của Bắc Kinh với cái gọi là Tây Sa và Nam Sa. Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.


Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Ngô Toàn Thắng trong họp báo ngày 23/4. Ảnh: BNGVN.

Công hàm của Trung Quốc dẫn Công thư năm 1958, cho rằng "Chính phủ Việt Nam công nhận và ủng hộ tuyên bố của chính phủ Trung Quốc về lãnh hải mà Trung Quốc đưa ra ngày 4/9/1958". Theo đó, Trung Quốc đòi có "lãnh hải 12 hải lý, áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, gồm có Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa và các đảo khác thuộc Trung Quốc".

Hồi tháng 6/2014, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia lúc đó, khẳng định Việt Nam chưa bao giờ công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông Hải nhấn mạnh Công thư năm 1958 không đề cập vấn đề chủ quyền và Trung Quốc đã tìm cách diễn giải sai văn bản này.

Đề cập việc Trung Quốc ban hành cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể ở Biển Đông, phó phát ngôn Ngô Toàn Thắng cho biết Việt Nam coi mọi hành vi phương hại đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng biển của mình đều vô giá trị, không được công nhận và Việt Nam kiên quyết phản đối.

Bộ Dân chính và Bộ Tài nguyên Trung Quốc ngày 19/4 công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 25 đảo, rạn san hô và 55 thực thể địa lý dưới biển ở Biển Đông, đồng thời công bố tọa độ của chúng. Theo Greg Poling, chuyên gia tại Trung tâm Nghiên cứu và Chiến lược Quốc tế, một số "danh xưng" này được Trung Quốc ngang ngược đặt cho các thực thể thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Liên quan đến tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và các nước khác, phó phát ngôn cho hay ngày 10/4, Việt Nam đã lưu hành công hàm tại Liên Hợp Quốc để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, mọi yêu sách biển trái với quy định UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam là không có giá trị.

Việt Nam cho rằng tất cả các quốc gia có nghĩa vụ và lợi ích chung trong việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bao gồm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế để chống lại toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.

"Trên tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng giải quyết tranh chấp với các quốc gia liên quan thông qua đàm phán cũng như các biện pháp hòa bình khác, kể cả các biện pháp quy định tại UNCLOS", ông Thắng nói.

Nguồn: https://vnexpress.net/viet-nam-bac-cong-ham-cua-trung-quoc-ve-bien-dong-4089271.html
0

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

Việt Nam phản đối Trung Quốc ngang ngược trên biển Đông


Việt Nam phản đối hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, đặc biệt là việc công bố thành lập cái gọi là huyện Tây Sa và Nam Sa để "quản lý" quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
0

Trung Quốc “tung đòn” nguy hiểm trong âm mưu độc chiếm Biển Đông

Trung Quốc đang áp dụng cùng lúc ba mũi giáp công, trong đó chiêu nguy hiểm nhất là hợp lý hoá bằng pháp lý để âm mưu độc chiếm Biển Đông.


Thiếu tướng Lê Văn Cương (ảnh: nhadautu.vn)

Nghe:

Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 18/4 ngang ngược tuyên bố chính phủ nước này đã phê chuẩn thành lập "thành phố Tam Sa" ở Biển Đông, bao gồm "quận Tây Sa" (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) và “quận Nam Sa” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam). Một ngày sau đó, Trung Quốc tiếp tục công bố cái gọi là "danh xưng tiêu chuẩn" cho 80 thực thể ở Biển Đông, bao gồm 25 đảo, đá và 55 thực thể địa lý dưới đáy biển.

Trước đó, đầu tháng 4, Trung Quốc đã đưa tàu hải cảnh, tàu dân quân biển là lực lượng vũ trang trá hình hoạt động xua đuổi các ngư dân Việt Nam đánh cá trong đặc quyền kinh tế của mình, điển hình nhất là 2/4 vừa rồi đã đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi, bắt 8 ngư dân.

Báo Giao thông đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Công an) về những diễn biến phức tạp trên Biển Đông.

Ba mũi giáp công để âm mưu độc chiếm Biển Đông

Ngày 19/4, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc ngày 18/4/2020 thông báo thành lập “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” tại “thành phố Tam Sa” trên Biển Đông. Ông có bình luận gì về động thái của Trung Quốc lần này?

Mặt trận về pháp lý là một mũi giáp công trong âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Năm 2012, khi Việt Nam công bố Luật Biển, họ phản ứng bằng cách thành lập TP Tam Sa. Tam Sa bao gồm 1 vùng rất lớn cả Trường Sa, Hoàng Sa, 1 phần đơn vị của Hải Nam (Trung Quốc).

Lần này, Trung Quốc tinh vi hơn, tách thành đơn vị hành chính riêng, Hoàng Sa riêng, Trường Sa riêng. Tức Trung Quốc đã hợp thức hoá về pháp lý tại Trung Quốc đơn vị hành chính này.

Hành động phục vụ âm mưu độc chiếm Biển Đông lần này của Trung Quốc có khác trước không, thưa ông?

Âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc là không thay đổi, chỉ là mỗi thời kỳ lãnh đạo lại có cách hoạt động, phương thức, quy mô và tính chất khác nhau. Dưới thời Tập Cận Bình, âm mưu độc chiếm Biển Đông được thể hiện và hành động quyết liệt hơn, đặc biệt là từ năm 2019 đến nay.

Trung Quốc thường song song 3 mũi giáp công trong tham vọng độc chiếm trên Biển Đông: trên thực địa, trên biển và tuyên truyền. Đầu năm nay, Trung Quốc tăng cường cả ba mũi giáp công này.

Cụ thể, từ đầu năm đến nay, Trung Quốc tăng cường hoạt động thực địa trên Biển Đông, đưa tàu hải cảnh, tàu dân quân biển là lực lượng vũ trang trá hình hoạt động xua đuổi các ngư dân Việt Nam đánh cá trong đặc quyền kinh tế của mình. Điển hình nhất là ngày 2/4 vừa rồi, đã đâm chìm tàu cá ngư dân Quảng Ngãi.

Trên mặt trận tuyên truyền, sau khi đâm chìm tàu cá Việt Nam ngày 2/4, thì từ ngày 3/4, phát thanh, truyền hình, báo chí Trung Quốc có hàng trăm bài “đổi trắng thay đen”, vu cáo 1 cách trắng trợn, lố bịch rằng: Có hàng trăm tàu cá Việt Nam đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, việc xô xát ngày 2/4 là “giọt nước tràn ly” vì Trung Quốc đã nhẫn nhịn bao lâu rồi.

Và trên mặt trận hợp pháp hoá bằng pháp lý, chính là việc công bố thành lập "quận Tây Sa", "quận Nam Sa".

Việc Trung Quốc tuyên bố thành lập hai quận để quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như vùng biển xung quanh có bất kỳ giá trị nào về mặt pháp lý hay không, thưa ông?

Đây chỉ là hành động đơn phương từ phía Trung Quốc và hoàn toàn không có giá trị pháp lý vì không phù hợp với luật pháp quốc tế và không được các quốc gia liên quan công nhận.

Việt Nam rất nhiều lần khẳng định chủ quyền lâu đời và không thể tranh cãi với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được chứng minh bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý. Mới đây nhất, trong công hàm gửi lên Liên hiệp quốc ngày 30/3, chính phủ Việt Nam đã tái khẳng định điều này.

Theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982, công ước lớn nhất về luật biển mà Trung Quốc cũng là thành viên, các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng. Những thực thể ở Trường Sa, đều thuộc dạng này. Do đó, Trung Quốc không thể tự cho mình quyền quản lý những khu vực đó.

Trung Quốc là bậc thầy về lợi dụng thời cơ

Vậy Trung Quốc sẽ đạt được gì từ việc thành lập "quận Tây Sa" và "quận Nam Sa", trong khi việc này không có giá trị pháp lý về quốc tế, thưa ông?

Trong 3 mũi giáp công như tôi nói ở trên, thì hợp thức hoá về pháp lý là bước đi cực kỳ nguy hiểm.

Vì trên thực địa, khi Trung Quốc kéo tàu đến Biển Đông, Việt Nam và các nước phản đối là họ rút. Trên truyền thông, Trung Quốc đổi trắng thay đen nhưng ngay cả người dân Trung Quốc, nhiều người cũng không nghe, không tin.

Nhưng về pháp lý, khi đã có quyết định của Quốc hội, của Chính phủ Trung Quốc, thì sẽ không dễ dàng huỷ bỏ như kiểu rút tàu về trên thực địa được.

Với Việt Nam và quốc tế, công bố này của Trung Quốc không có giá trị, nhưng lại có giá trị pháp lý ở Trung Quốc, được Trung Quốc công nhận. Điều đó dẫn tới khi ta thực hiện các quyền lợi hợp pháp trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ tuyên bố đây là hành động xâm lược, và vẫn có thể kích động người dân Trung Quốc đứng về cơ sở pháp lý nguỵ tạo này.

Vì vậy, đây là bước đi leo thang cực kỳ nguy hiểm trên Biển Đông, rất thâm độc.

Trong lúc cả thế giới đang tập trung phòng chống dịch Covid-19, thì Trung Quốc lại có những hành động gây hấn trên Biển Đông. Điều này có vẻ phi logic, thưa ông?

Trung Quốc là bậc thầy về lợi dụng thời cơ. Ở Biển Đông, Trung Quốc chỉ sợ Mỹ, sau đó đến châu Âu vì các nước châu Âu là đối tác kinh tế của họ.

Lợi dụng thời điểm cả Mỹ và châu Âu đều đang rối ren với dịch bệnh Covid-19, Trung Quốc đã dồn dập gây hấn Biển Đông cả trên 3 phương diện tuyên truyền, thực địa và hợp thức hoá pháp lý.

Chưa kể, đây là giai đoạn kinh tế Trung Quốc đang sa sút vì Covid-19, người dân bất bình. Mỗi khi có vấn đề nội bộ, Tập Cận Bình luôn tìm cách đẩy dư luận hướng ra bên ngoài, mà gây hấn trên Biển Đông là một giải pháp.

Phương án khởi kiện chưa phải lúc

Nhưng vẫn có ý kiến cho rằng, phản ứng của Việt Nam cần mạnh mẽ hơn, cần phải đưa vụ việc ra kiện tại một toà án quốc tế?

Tất nhiên trên mạng, có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tôi muốn lưu ý mọi người rằng cái đánh giá phản ứng của Việt Nam như thế nào phải căn cứ vào tình hình tình huống chính trị cụ thể, căn cứ vào trạng thái mối quan hệ hiện nay của Việt Nam với Trung Quốc nói riêng và với cộng đồng quốc tế nói chung, căn cứ vào 1 vấn đề rộng hơn là quan hệ Trung - Mỹ...

Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển thông thường thế giới cũng phải qua 2 giai đoạn, giai đoạn 1 đấu tranh bằng con đường thương lượng, song phương, đa phương bằng biện pháp hoà bình, trao đi đổi lại qua hàng trăm cuộc họp, lật đi lật lại các luật pháp quốc tế. Biện pháp này, Liên hiệp quốc khuyến khích và chúng ta đang làm theo.

Nếu làm theo phương án này mãi mà không thành công thì khởi kiện thông qua tổ chức tài phán quốc tế, như kiện toà công ký quốc tế, toà công lý về luật biển...

Chúng ta sẽ không từ bỏ 1 biện pháp nào cả, kể cả kiện không được thì đánh nhau, chúng ta cũng sẵn sàng. Người Việt Nam ta nhân hậu và yêu hoà bình, nhưng khi họ dồn chúng ta vào chân tường, chĩa súng vào chúng ta, chúng ta không thể đứng nghiêm chịu chết được. Nhưng chúng ta không muốn điều này xảy ra.

Còn bây giờ đang trong giai đoạn tận dụng tối đa đàm phán song phương, biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cái gì còn tác dụng thì chúng ta khai thác. Hiện theo tôi, phương án khởi kiện chưa phải lúc.

Nguồn: https://www.baogiaothong.vn/trung-quoc-tung-don-nguy-hiem-trong-am-muu-doc-chiem-bien-dong-d462523.html
0

Video: Phản đối Trung Quốc ngang ngược trên biển Đông


Việt Nam phản đối hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, đặc biệt là việc công bố thành lập cái gọi là huyện Tây Sa và Nam Sa để "quản lý" quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Nguồn:
1. https://www.youtube.com/watch?v=tUauyJJHZhY

2. https://www.facebook.com/Thugianv/videos/229262324950355
0

Việt Nam bác cáo buộc tấn công mạng Trung Quốc, 'gây sức ép' Facebook


TTO - Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 23-4 lên tiếng về tin đồn nói nhóm tin tặc do Chính phủ Việt Nam hậu thuẫn tấn công mạng ở Trung Quốc. Ngoài ra, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng lên tiếng về cáo buộc gây sức ép lên Facebook.

Trước đó, hôm 22-4, Hãng tin Reuters dẫn tin từ công ty an ninh mạng Mỹ FireEye nói một nhóm tin tặc tên APT32 đã tấn công mạng tại Trung Quốc.

FireEye quả quyết đây là nhóm tin tặc "do Chính phủ Việt Nam ủng hộ", tìm cách xâm nhập vào email của nhân viên thuộc Bộ Quản lý tình trạng khẩn cấp Trung Quốc cũng như chính quyền thành phố Vũ Hán.

Vũ Hán nằm tại tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc, là nơi bùng phát dịch COVID-19 đầu tiên. Và theo FireEye, nhóm tin tặc APT32 này tấn công mạng để lấy thông tin về virus corona chủng mới (SARS-CoV-2).

Trả lời phóng viên về vấn đề này, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng ngày 23-4 nói:

"Đây là những thông tin không có cơ sở. Việt Nam nghiêm cấm các hành vi tấn công mạng nhằm vào tổ chức, cá nhân dưới bất cứ hình thức nào. Các hành vi tấn công, đe dọa an ninh mạng cần bị lên án và trừng trị nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

Năm 2018, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật an ninh mạng và hiện đang hoàn thiện các văn bản pháp quy để thực thi luật nhằm ngăn chặn các hành vi tấn công mạng. Việt Nam sẵn sàng hợp tác với cộng đồng quốc tế trong đấu tranh phòng chống hành vi tấn công mạng dưới mọi hình thức".

Tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao chiều 23-4, ông Ngô Toàn Thắng cũng trả lời câu hỏi liên quan tới thông tin cho rằng Facebook đã bị làm chậm, trước sức ép phải xóa các bài đăng mang nội dung tiêu cực về Việt Nam.

"Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cơ sở hạ tầng số ở Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, hỗ trợ đầu tư về công nghệ thông tin, truyền thông trên cơ sở tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam.

Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần bảo đảm thực hiện đầy đủ các trách nhiệm về thuế, các trách nhiệm xã hội khác với cộng đồng.

Các doanh nghiệp công nghệ thông tin nên hợp tác với Chính phủ trong việc xây dựng môi trường mạng an toàn, lành mạnh", ông Thắng nói.
0

Việt Nam lên tiếng trước phát ngôn đe dọa của Trung Quốc về Biển Đông

"Việt Nam cũng đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc" về Biển Đông, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng cho biết.


Trung Quốc xây dựng công trình trái phép trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam. ẢNH: MAI THANH HẢI

Chiều nay, 23.4, tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao (tổ chức bằng hình thức trực tuyến), Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng đã trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam trước Công hàm ngày 17.4 của Trung Quốc, và phát ngôn của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng vào các buổi họp báo 20.4 và 21.4.

Theo đó, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng cho biết, như đã nêu tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao ngày 9.4, việc Việt Nam gửi công hàm tại Liên Hợp Quốc là việc bình thường, thể hiện lập trường và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.

"Trước việc Trung Quốc lưu hành một số công hàm nêu các yêu sách chủ quyền phi lý đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không phù hợp với luật pháp quốc tế; cùng các yêu sách biển ở Biển Đông, trái với quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về luật Biển 1982 (UNLCOS), Việt Nam đã lưu hành công hàm tại Liên Hợp Quốc để bác bỏ các yêu sách này, như đã được nêu trong nhiều văn bản của Liên Hợp Quốc và các cơ quan quốc tế liên quan", ông Ngô Toàn Thắng nhấn mạnh.

"Việt Nam cũng đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc", ông Thắng nói thêm.

Trước đó, ngày 10.4, Việt Nam lưu hành công hàm để khẳng định lập trường về vấn đề Biển Đông với các nước liên quan khác. Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng một lần nữa nhắc lại việc Việt Nam đã nhiều lần khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, phù hợp với quy định và luật pháp quốc tế.

Là quốc gia ven biển, Việt Nam được hưởng đầy đủ các vùng biển tại Biển Đông được xác lập trên cơ sở UNCLOS. Mọi yêu sách biển trái với UNCLOS, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam, là không có giá trị, theo ông Thắng.

Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng nhắc lại quan điểm của Việt Nam: tất cả các quốc gia có nghĩa vụ và lợi ích chung trong việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bao gồm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia, không sử dụng hoặc đe đọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế để chống lại toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.

"Trên tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng giải quyết tranh chấp với các quốc gia liên quan thông qua đàm phán cũng như các biện pháp hòa bình khác, kể cả các biện pháp quy định tại UNCLOS", ông Thắng nhấn mạnh.

Trước đó, tại buổi họp báo ngày 20.4, khi được hỏi về phản ứng trước việc Việt Nam phản đối chính quyền Trung Quốc lập 2 quận để quản lý quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã có những luận điệu ngang ngược, đe dọa đối với Việt Nam.

Theo đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp tục luận điệu sai trái về chủ quyền với cái gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa", cho rằng Việt Nam đã xâm phạm chủ quyền và lợi ích của nước này tại Biển Đông, thậm chí đe dọa Trung Quốc sẽ "sử dụng các biện pháp cần thiết" để bảo vệ quyền và lợi ích của Trung Quốc.

Nguồn: Thanh Niên
0

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

Trung Quốc sẽ trắng tay vì muốn độc chiếm biển Đông


(20/04/2020)- Trung Quốc hiện đang muốn lợi dụng tình hình phức tạp của đại dịch COVID-19 để đẩy nhanh kế hoạch độc chiếm biển Đông.

Tờ South China Morning Post ngày 18-4 đưa tin chính quyền Trung Quốc (TQ) đã bất ngờ thông báo thành lập cái gọi là hai huyện đảo Tây Sa và Nam Sa trực thuộc TP tam Sa để quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam (VN). Phía VN đã không ngừng phản đối các động thái vi phạm pháp luật mà TQ đã thực hiện suốt thời gian qua.

Sẽ còn gia tăng hành động phi pháp

Bình luận về động thái của Bắc Kinh, TS Nguyễn Thành Trung, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS), cho rằng TQ muốn gửi đi thông điệp là họ sẽ không bao giờ từ bỏ các yêu sách về chủ quyền ở khu vực biển Đông. “Rõ ràng Bắc Kinh có những bước đi cụ thể để hiện thực hóa ý đồ từ chiếm giữ bất hợp pháp thành một lãnh thổ dưới quyền kiểm soát hành chính” - ông Trung nói.

TQ đã và đang dần biến khu vực (mà TQ gọi là) TP Tam Sa thành những khu vực có người cư trú lâu dài với khoảng 1.800 người. Việc TQ vô lý thành lập hai quận mới để chính thức hóa quan điểm của họ là các thực thể mà TQ đang chiếm giữ có khả năng duy trì sự sống cho người cư ngụ.

GS Ngô Vĩnh Long, chuyên gia quan hệ quốc tế tại ĐH Maine (Mỹ), nhận định hành động lần này nằm trong chuỗi sự kiện mà Bắc Kinh đã tính toán từ trước. Mục đích của TQ là tiếp tục khẳng định chủ quyền theo yêu sách đường chín đoạn (hay đường lưỡi bò), bất chấp Tòa Trọng tài đã bác bỏ vào năm 2016.

Trong khi đó, chuyên gia quốc phòng Collin Koh thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore) thì cho rằng: “Rõ ràng là TQ đang tìm kiếm thêm lợi ích trên biển Đông trước khi Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) được ban hành. Ngay cả nếu COC không được thông qua, TQ khi đó cũng đã có một thế đứng vững chắc hơn rất nhiều trên biển Đông.


Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của VN nhưng bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Ảnh: AMTI

Lợi bất cập hại

Dù thừa nhận rằng mọi hành động của TQ đều có toan tính trước nhưng giới quan sát cũng đồng thuận rằng dịch COVID-19 tạo ra một khoảng trống để Bắc Kinh lợi dụng gây hấn ở biển Đông. Thêm vào đó, đại dịch gây ra một cuộc khủng hoảng tại TQ. Vậy nên “chuyển lửa ra biển Đông” cũng là một kế sách, tuy không còn mới nhưng là dễ hiểu với TQ.

Mặt khác, việc leo thang căng thẳng ở biển Đông cũng là giải pháp để TQ gây áp lực trên bàn đàm phán COC. Song song đó, các thông tin về việc thiết lập các cơ quan hành chính trên sẽ được TQ dùng để tuyên truyền, tạo cớ nhằm gây bất an cho lực lượng chấp pháp, ngư dân, tàu thuyền các nước qua lại biển Đông. Đầu tháng 4-2020, tàu hải cảnh của TQ đã đâm chìm tàu cá của VN, tạo ra sự bức xúc lớn không chỉ từ VN mà còn trong cộng đồng quốc tế. Việc lập ra các quận đảo có thể là bước đầu để TQ đẩy mạnh các hoạt động bắt nạt tương tự.

TQ chắc chắn sẽ tăng cường nguồn lực để quản lý hai huyện đảo mới thành lập, biến các đơn vị hành chính này thành “vùng đệm ở tuyến đầu” để giải quyết bất kỳ vấn đề nào phát sinh ở các khu vực xung quanh. Ngoài ra, hai huyện đảo sẽ giúp TQ rộng đường phối hợp và liên lạc với các lực lượng đang đồn trú trái phép trên hai quần đảo của VN.

KANG LIN, Phó Giám đốc chương trình Nghiên cứu biển Đông thuộc Viện Nghiên cứu quốc gia TQ (CNI)

Tuy nhiên, TQ có thể phải trả giá đắt hơn họ nghĩ. Chuỗi hành vi của TQ trên biển, đi cùng với những bê bối liên quan dịch COVID-19 (xuất phát từ TQ) khiến niềm tin của cộng đồng quốc tế với chính quyền Bắc Kinh suy giảm trầm trọng. Không thiếu các chỉ trích “thừa nước đục thả câu” nhắm vào lãnh đạo TQ suốt thời gian qua. Việc lập ra các quận đảo đi cùng các hành vi bắt nạt sẽ là “cọng rơm cuối làm gãy lưng con lạc đà”, khiến các nước phản ứng mạnh.

Đầu tiên sẽ là các nước trong khu vực. VN, trong vai trò chủ tịch ASEAN năm 2020 (và có thể kéo dài sang năm 2021 vì ảnh hưởng của dịch) và thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, chắc chắn sẽ có những bước đi ngoại giao quan trọng. Các nước ASEAN, trước các mối đe dọa an ninh do TQ tạo ra, chắc chắn sẽ không ngồi yên. Các “liên minh mềm”, ví dụ hợp tác về pháp lý, kinh tế, ngoại giao để đối trọng các hành xử sai trái của TQ là điều hoàn toàn khả dĩ và đang được kỳ vọng rộng rãi.

Một “nước Mỹ trên hết” ở xa khó chống lại TQ. Tuy nhiên, các sáng kiến về an ninh - quốc phòng, kinh tế với sự tham gia của các nước khu vực do Mỹ hậu thuẫn chắc chắn sẽ khiến TQ phải dè chừng.

Biển Đông là tuyến hàng hải vô cùng quan trọng, gắn liền lợi ích toàn cầu. Một khi niềm tin của các nước vào TQ suy giảm thì bằng nhiều cách khác nhau, họ sẽ có phản ứng tiêu cực với Bắc Kinh. Điển hình là việc cắt giảm đầu tư, chuyển hướng giao thương - hợp tác, lên án làm suy yếu hình ảnh “cường quốc có trách nhiệm và ảnh hưởng” mà TQ đang cố gắng theo đuổi. Mất niềm tin dễ dẫn đến việc TQ trắng tay và điều đó có vẻ không còn xa khi TQ vẫn hành xử phi pháp như lâu nay.

Biển Đông: Cách ứng phó Trung Quốc ‘xâm lấn vùng xám’

Trước một loạt hoạt động đơn phương gây rối của đội ngũ phức hợp các tàu hải cảnh, dân quân biển và tàu khảo sát hải dương Trung Quốc (TQ), biển Đông dường như đã chuyển sang giai đoạn 3 của chiến lược “xâm lấn vùng xám” mà TQ đã triển khai nhất quán từ năm 2009.

Hai giai đoạn đầu là xây dựng lực lượng (2009-2014) và cải tạo thực địa (2015-2018). Trong đó, TQ gây áp lực đơn lẻ với từng nước và chỉ tập trung ở khu vực trung tâm biển Đông. Ở giai đoạn 3, TQ lại tăng cường tần suất và mở rộng quy mô của các hoạt động xâm lấn cùng lúc sang cả năm khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ), còn gọi là “vành đai EEZ”, của các nước láng giềng Đông Nam Á.

Đây cũng là “giai đoạn nước rút” của chính phủ TQ trước thời hạn kết thúc đàm phán Bộ quy tắc ứng xử biển Đông (COC) với ASEAN vào năm 2021. Thêm vào đó, đại dịch COVID-19 bùng nổ đã gián tiếp tạo nên các “khoảng trống quyền lực” trên biển Đông do hầu hết các nước đều đang tập trung chống dịch. Đây là hai nguyên nhân khiến TQ đẩy nhanh các hoạt động đơn phương phi pháp với tâm thế “thừa nước đục thả câu”.

Dĩ nhiên tư duy “nước rút” sẽ tạo nên điểm yếu, đó là nóng vội, từ đó gây nên những tính toán nhầm lẫn. Sự kiện tàu khảo sát HYDZ-8 đi dọc theo EEZ của Việt Nam (VN) để đến hoạt động ở khu vực EEZ của Indonesia, Malaysia và Brunei lúc này sẽ như một giọt nước tràn ly. Nó gián tiếp thúc đẩy các nước láng giềng Đông Nam Á thấy rõ đã đến lúc “tối lửa tắt đèn có nhau” - một kịch bản sẽ khiến TQ thêm khó khăn trên bàn đàm phán COC nói riêng và mặt trận pháp lý nói chung.
Hơn nữa, với các nền tảng hợp tác an ninh biển đã ký kết với Philippines (tháng 5-2018), Indonesia (tháng 6-2019), Malaysia (tháng 8-2019)... VN dường như đang kiện toàn mạng lưới liên lạc và hợp tác chấp pháp trên biển của riêng các nước ASEAN. Cùng với vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN trong năm 2020, VN hoàn toàn có đủ cơ sở tiến hành ba biện pháp như sau:

Thứ nhất, phối hợp với các nước thiết lập hồ sơ những vụ vi phạm của các tàu khảo sát hải dương, tàu chấp pháp và dân quân biển TQ trên các vùng biển liên quan đến “vành đai EEZ” của các nước ASEAN trên biển Đông. Song song đó, VN đẩy mạnh cùng các nước lưu hành công hàm phản đối các vi phạm của TQ trên Liên Hiệp Quốc.
Thứ hai, phát triển các sáng kiến về tuần tra chung trên biển Đông giữa lực lượng cảnh sát biển các nước ASEAN (như Malaysia, Philippines, Indonesia...) và cân nhắc sự tham gia mở rộng của các cường quốc bên ngoài dưới sự điều phối của ASEAN.

Thứ ba, củng cố và tăng cường hợp tác khai thác dầu khí và tài nguyên khác với các nước trong và ngoài khu vực (như Nga, Ấn Độ, Mỹ, Nhật…) ở các “vành đai EEZ” để gia tăng hiện diện lợi ích kinh tế của các cường quốc, từ đó nâng cao thế đối trọng và phản ứng quốc tế với các hành vi TQ xâm phạm “vành đai EEZ” này.

Với gói giải pháp trên, TQ càng xâm lấn trên biển Đông thì áp lực trên cả mặt trận tâm lý, pháp lý và truyền thông cho chính họ sẽ ngày càng lớn. TQ muốn duy trì phương châm “cường quốc có trách nhiệm” thì trước nhất phải ngừng ngay các hoạt động phi pháp để xây dựng lại từ đầu hình ảnh đó ở biển Đông.

ThS LỤC MINH TUẤN, nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS) ĐH KHXH&NV TP.HCM


Theo PLO
0

Bộ Ngoại giao Trung Quốc lớn tiếng đe dọa Việt Nam về Biển Đông

(21/04/2020)- Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 21/4 nói rằng họ vừa “giao thiệp nghiêm khắc” để đáp trả điều mà họ gọi là “Việt Nam tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp ở Biển Đông”, theo tin của Reuters và The Beijing News.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng

Tin cho hay ông Cảnh Sảng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nói tại một cuộc họp báo hàng ngày rằng kể từ cuối tháng 3 vừa qua, Phái đoàn Thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi một số công hàm tới Tổng Thư ký LHQ, “liên tục tuyên bố chủ quyền một cách bất hợp pháp” tại Biển Đông, cũng như “cố phủ nhận” chủ quyền và các quyền của Trung Quốc ở vùng biển này.

“Trung Quốc kiên quyết phản đối điều đó và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam”, ông Cảnh Sảng tuyên bố, vẫn theo tin của Reuters và The Beijing News.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp đến nhấn mạnh rằng bất kỳ nước nào cố phủ nhận chủ quyền và quyền chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông dưới bất kỳ hình thức nào đều là “vô hiệu” và “chắc chắn sẽ thất bại”, bản tin của Reuters và The Beijing News cho biết.

“Trung Quốc sẽ thực thi mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích của mình ở Trung Hoa Nam Hải [tức Biển Đông]”, ông Cảnh Sảng nói.

Theo quan sát của VOA, cho đến khi bản tin này được đăng, phía Việt Nam chưa đưa ra phản ứng chính thức nào về tuyên bố mới nhất của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

Trước đó, như VOA đã đưa tin, Việt Nam đã phản đối những nỗ lực bành trướng của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp, bao gồm cả việc gửi tuyên bố chủ quyền đến LHQ.

Một số nhà phân tích và quan sát nhận định với VOA rằng cụm từ “mọi biện pháp cần thiết” trong tuyên bố hôm 21/4 của phía Trung Quốc là rất đáng lưu ý vì nó có hàm ý đe dọa, cũng như không loại trừ việc Trung Quốc tiến tới sử dụng biện pháp quân sự.

Đây là lần thứ hai chỉ trong vòng 4 ngày, Trung Quốc nói bóng gió đến việc sử dụng vũ lực, theo thạc sĩ Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu lâu năm về Biển Đông.

Ông Việt nhắc đến công hàm hôm 17/4 của Trung Quốc gửi đến Tổng Thư ký LHQ để phản đối Việt Nam, trong đó có đoạn: “Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp” ở quần đảo Trường Sa.

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định với VOA về những tín hiệu liên tiếp phát đi từ Trung Quốc trong ít ngày qua:

“Rất có khả năng là lúc này, Trung Quốc có thể sẽ có hành động mạnh tay hơn ở khu vực Biển Đông.

Nguồn: VOA
0

Thứ Hai, 13 tháng 4, 2020

Tiềm lực của Việt Nam để chống Trung Quốc ở Biển Đông


Biển Đông là một trong những trọng tâm thảo luận tại Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) diễn ra ngày 18/11/2019 tại Bangkok, Thái Lan. Trước những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Việt Nam hiện là nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc, khác với thái độ của một số nước ASEAN có tranh chấp.(Tạp chí phát lần đầu tiên ngày 18/11/2019)

Phần âm thanh:


Tránh và không thể đối đầu trực diện với Trung Quốc, Việt Nam « kiên quyết » nhưng « khôn khéo » trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Theo một số chuyên gia, Hà Nội đang khéo léo mở ba mặt trận chống Trung Quốc : tăng cường khả năng quân sự, đấu tranh về mặt ngoại giao và giảm phụ thuộc vào Bắc Kinh.

Để đối phó với những hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam đã chi 5,1 tỉ đô la cho lĩnh vực quốc phòng trong năm 2019, trong đó 32,5% dành cho việc mua trang thiết bị quân sự. Ngân sách quốc phòng của Việt Nam dự kiến tăng hàng năm khoảng 9,43% trong giai đoạn 2020-2024, để đạt đến 7,9 tỉ đô la vào năm 2024. Tuy nhiên, tương quan lực lượng rõ ràng thiên về Trung Quốc, với ngân sách quốc phòng lên đến 228 tỉ đô la.

Ngoài ra, số quân nhân giữa hai nước cũng chênh lệch : Việt Nam có khoảng 482.000 quân nhân thường trực, trong khi Trung Quốc có gần 2,3 triệu quân. Nhiều dự liệu khác cũng cho thấy sự chênh lệnh : Việt Nam có 2.575 xe tăng so với 13.050 xe của Trung Quốc ; 6 tầu ngầm so với 76 ; 64 tầu chiến các loại so với 714 tầu, trong đó Việt Nam không có tầu sân bay, tầu khu trục.

Vậy Việt Nam có chiến lược gì để có thể kiềm chế nước láng giềng khổng lồ, đặc biệt là ở Biển Đông ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon)

RFI : Xét về thực lực quân sự, Việt Nam không thể đối đầu trực diện với quân đội Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể làm được gì để hạn chế Trung Quốc tung hoành ?

Laurent Gédéon : Trước tiên cần đặt câu hỏi là nếu trong trường hợp xảy ra xung đột giữa hai bên, thì sẽ là ở đâu ? Việc Việt Nam có đường biên giới trên bộ với Trung Quốc khiến người ta có thể hình dung đến khả năng xảy ra xung đột trên bộ. Nhưng trên thực tế, giả sử xảy ra xung đột, thì có lẽ sẽ diễn ra trên biển và có nhiều khả năng là trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nếu như căn cứ vào thực tế cuộc xung đột trên biển hiện nay, không chỉ ở Biển Đông nói chung, mà kể cả trong vùng biển của Việt Nam, và trong giả thuyết này, lực lượng hải quân Việt Nam sẽ giữ thế phòng thủ, chủ yếu chống lại hành động của quân đội Trung Quốc và sẽ tiến hành những hành động có chủ đích giúp họ giữ được lợi thế kỹ thuật, bất chấp bối cảnh bất cân xứng với đối thủ.

Chính vì thế, trong vài năm gần đây, Việt Nam đã mua nhiều trang thiết bị quân sự để cân bằng phương tiện. Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua nhiều lĩnh vực, như việc mua 6 tầu ngầm, dù chỉ mang tính chất tương đối, nhưng cũng giúp Hà Nội tăng khả năng răn đe so với lực lượng của Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam cũng triển khai nhiều phương tiện theo dõi quan trọng, trong đó có thiết bị bay không người lái, hệ thống radar thế hệ mới, các lực lượng tại chỗ và máy bay.

Quân đội Việt Nam có một bước phát triển hướng ngoại, thông qua chiến lược Chống tiếp cận/Chống xâm nhập (Anti-Access/Area Denial, A2/AD), một khái niệm chưa có trước đó ở Việt Nam. Chiến lược này nhằm bảo vệ những hòn đảo mà Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa và dọc bờ biển Việt Nam. Chiến lược này cũng góp phần vào việc tăng khả năng phòng thủ của Việt Nam, thông qua việc phát triển hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung, mà Hà Nội trang bị nhiều trong những năm gần đây.

Theo tôi, trong trường hợp xảy ra đối đầu trực tiếp với quân đội Trung Quốc, Việt Nam sẽ không giành được chiến thắng về mặt quân sự, dù quân đội Việt Nam có nhiều chiến lược. Nhưng Việt Nam có thể sẽ gây khó khăn cho Trung Quốc và sẽ khiến một cuộc tấn công của Trung Quốc trở nên kém hiệu quả hơn.

RFI : Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác quân sự với nước ngoài, liệu chiến lược này có nguy cơ trở thành con dao hai lưỡi không ?

Laurent Gédéon : Điều đáng lưu ý là Việt Nam thực hiện chiến lược ngoại giao vận động hành lang từ nhiều năm nay. Và rõ ràng là Hà Nội nhận thấy sự phát triển những mối quan hệ này như một yếu tố cân bằng, một cách bù vào mức độ chênh lệch với Trung Quốc.

Hà Nội tìm cách phát triển quan hệ, chí ít là về mặt quân sự, với nhiều đối tác như đối tác chiến lược với Nhật Bản. Một ví dụ khác là mối quan hệ với Hoa Kỳ đã được tăng cường hơn rất nhiều. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên nếu nhìn vào những điểm tương đồng về lợi ích giữa hai nước, khi mà cả hai đều lo ngại về ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Rõ ràng phía Mỹ sẽ tiếp tục và tăng cường sự năng động này trong tương lai, song song với việc số lượng trang thiết bị quân sự của Mỹ cung cấp cho Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ khi lệnh cấm vận được bãi bỏ năm 2016. Từ đó, Hà Nội đã mua nhiều máy bay không người lái, tầu tuần duyên và nhiều trang thiết bị khác. Ngoài ra, Việt Nam còn tăng cường hợp tác quân sự với nhiều nước khác, như Úc, Ấn Độ, cũng như nhiều nước châu Âu.

Về câu hỏi : Chiến lược này có phải là con dao hai lưỡi hay không ? Trong mọi trường hợp, đây là chiến lược cần được tiến hành một cách thận trọng bởi vì mục đích của Hà Nội là tăng cường khả năng quân sự nhưng không để bị phụ thuộc vào một hoặc nhiều đối tác. Ngoài ra, chiến lược này cũng không nên để Trung Quốc diễn giải như là một mối đe dọa. Vì vậy, Việt Nam tìm cách phát triển khả năng phòng thủ và điều chỉnh các tuyên bố trong giới hạn khuôn khổ đòi chủ quyền, như vẫn làm trong những thập niên qua, mà không bao gồm những khu vực không nằm trong những yêu sách trước đó.

Ngoài ra, về mặt thương mại, Hà Nội cũng phải tính đến việc Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trung Quốc cũng là nhà đầu tư trực tiếp lớn thứ 5 vào Việt Nam với số tiền gần 2,5 tỉ đô la trong năm 2018. Đó là một số yếu tố khiến chiến lược của Việt Nam khá là tế nhị. Chiến lược đó không phải là không áp dụng được nhưng cần được Hà Nội tiến hành một cách rất thận trọng và đó là điều mà Việt Nam đang làm một cách hiệu quả.

RFI : Việt Nam đề ra chính sách « Ba không » (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào ; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam ; không dựa vào nước này để chống nước kia), nhưng trước sự đe dọa của Trung Quốc, liệu Việt Nam có nên xem lại chính sách này không ?

Laurent Gédéon : Đây không phải là chính sách gần đây mà xuất hiện lần đầu tiên trong Sách Trắng Quốc Phòng năm 1998, sau đó thường xuyên được nhắc đến, vào năm 2004, 2009 và tiếp tục được nêu lên trong Luật Quốc Phòng mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.

Dù mang tính mệnh lệnh « Ba không » nhưng thực ra chính sách này không hoàn toàn bó buộc. Và Việt Nam đã khai thác khía cạnh này dưới góc độ « đối tác ». Có ba kiểu « đối tác », đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Cụ thể, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc ; quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Úc, Pháp và đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Đáng chú ý là không có bất kỳ đối tác nào trong số này mang tên « liên minh quân sự ».

Có thể thấy là Việt Nam tăng cường khả năng phòng thủ, cũng như hợp tác quân sự với nhiều cường quốc tham gia gìn giữ trật tự thế giới và đó là những lực lượng, với nhiều lý do khác nhau, tỏ ra ngờ vực Trung Quốc. Điều mà chúng ta có thể nói là Việt Nam vừa củng cố các phương tiện của mình, vừa phải làm việc trực tiếp với Bắc Kinh về các biện pháp xây dựng niềm tin nhằm ngăn cản Trung Quốc thống trị toàn bộ Biển Đông.

Nhưng Việt Nam cũng phải tự chuẩn bị trong trường hợp căng thẳng gia tăng. Và Hà Nội đang thực hiện điều này qua việc tăng cường quan hệ với các bên, trên thực tế, ít nhiều là những đối thủ của Bắc Kinh. Việt Nam phải tính đến việc bên cam kết mạnh nhất và có sức mạnh quân sự lớn nhất, đó là Mỹ và Hòa Kỳ lại có những mục tiêu riêng và những thách thức địa-chính trị riêng.

Và tình thế này cũng cần được cân nhắc với nhiều câu hỏi : Liệu Việt Nam có khả năng lấy lại các hòn đảo mà Hà Nội đòi chủ quyền mà không để xảy ra xung đột, mà cuộc xung đột đó lại do những nhân tố khác khởi xướng, ví dụ như Mỹ ? Liệu mâu thuẫn hiện nay giữa Bắc Kinh và Washington, nếu gia tăng thêm, có cho Việt Nam cơ hội không bị cuốn theo hay không ? Một câu hỏi khác cũng được đặt ra : Liệu những cam kết của Mỹ, trong trường hợp quan hệ với Bắc Kinh được cải thiện, có phải là « dấu chấm hết » cho những yêu sách và hy vọng của Việt Nam một ngày nào đó lấy lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường Sa ?

Có thể thấy chính sách « Ba không » không ngăn cản Việt Nam có những thỏa thuận quân sự, nhưng có vẻ không chắc cho Việt Nam bởi vì chính sách đó bị hạn chế trong những đòi hỏi chủ quyền. Có nghĩa là để lấy lại chủ quyền đối với một số hòn đảo, có thể sẽ xảy ra một cuộc xung đột vũ trang nhưng cuộc xung đột vũ trang đó sẽ kéo theo việc Việt Nam phải từ bỏ một nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của mình. Vì thế, cho đến nay, những vấn đề này được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời.

RFI : Biển Đông là một vấn đề căng thẳng trong thời gian gần đây, với sự hiện diện của tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc trong vòng nhiều tháng. Giả sử trong trường hợp xảy ra xung đột nhỏ, khẩn cấp, Việt Nam có khả năng giải quyết như thế nào ?

Laurent Gédéon : Trường hợp trên giống trường hợp Bắc Kinh điều giàn khoan đến ngoài khơi đảo Tri Tôn vào tháng 05/2014, có nghĩa là Trung Quốc dùng chính sách « sự đã rồi », nhưng không thiên về hướng đe dọa quân sự. Lần trước Việt Nam cũng đưa tầu ra bám sát và phản đối ngoại giao. Lần này, phía Việt Nam cũng kiên quyết về mặt chính trị, nhưng cũng không tìm cách dùng vũ lực đuổi tầu Trung Quốc.

Theo quan điểm của tôi, chiến lược này có lẽ là tốt nhất vì tránh được đối đầu trực diện, đẩy Việt Nam vào thế tấn công, không có lợi như thế phòng thủ. Và chiến lược này cũng cho phép Hà Nội duy trì được hình ảnh « kiềm chế, hợp pháp » trước hành động được coi là « xâm lược » của Bắc Kinh. Và hành động này mang tính tích cực trong bối cảnh hình ảnh của Trung Quốc đang bị xấu đi trên thế giới.

RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).
0

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

[TV 3] Tin Biển Đông: Đối đầu Bãi Tư Chính



Bã Tư Chính: Tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất số 8 của TQ đang được các tàu đánh cá vỏ thép "Quỳnh Tam Sa Ngư" bảo vệ. Những tàu này được cho là thuộc lực lượng dân quân biển Trung Quốc.
0