Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư viện. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư viện. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Mất nước từng phần?

 Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh 

Tôi giật mình khi đọc một đoạn tin ngày 23/10/2013, dưới dòng tít Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc, nội dung như sau:

“Huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh vốn nổi tiếng là một huyện “chó ăn đá, gà ăn sỏi trong những năm trước đây. Thế rồi, ngành du lịch phát triển, các điểm du lịch mọc lên dọc bờ biển Kỳ Anh, giá đất tăng vùn vụt… Đây đó cũng là lúc người Kỳ Anh đối diện với những nguy cơ, trong đó đáng kể nhất là nguy cơ đất đai lọt vào tay người TQ, và thanh niên bị nghiện ngập.


Một người dân Kỳ Anh, yêu cầu dấu tên, buồn bã nói rằng dân Kỳ Anh đã thật sự đánh mất mình, họ không còn là chủ của mảnh đất cũng như cảm giác là người dân bản xứ, mà thay vào đó là cảm giác lép vế, thua thiệt trước sự giầu có và hách dịch của người TQ. Đặc biệt tuy mới đến Kỳ Anh sống chưa bao lâu, nhưng các nhóm người TQ ở đây đã tổ chức thành đội ngũ, băng nhóm và các ông trùm khá dữ dằn. Họ sẵn sàng xử bất kỳ người Việt Nam nào đụng đến phe nhóm của họ. Hầu như họ đã nắm hoàn toàn quyền lực và thế lực ở Kỳ Anh. Cho dù các ban ngành an ninh, công an ở Kỳ Anh vẫn hoạt động, nhưng hình như họ chẳng xem ra gì, bởi thế lực và tiền bạc của họ quá mạnh. Ông này nói thêm rằng hiện tại huyện Kỳ Anh trong con mắt ông cũng giống như một tiểu khu đặc biệt của người TQ, ở đó mọi thứ quyền lợi và quyền lực đều về tay họ, thậm chí có nhiều cán bộ, công chức ở Kỳ Anh tỏ ra lép vế với người TQ. Với đà này chẳng bao lâu nữa người TQ nghiễm nhiên trở thành ông chủ đích thực của người Kỳ Anh.

Một bà mẹ và một ông bố giấu tên cho biết thêm trước khi người TQ có mặt ở Kỳ Anh, thanh niên ở đây không biết gì về rượu chè, nay 70% thanh niên hư hỏng và nghiện ngập. Bà mẹ và ông bố giấu tên nghi ngờ tác động rất nguy hiểm của người TQ, với ý đồ không tốt”.

Đoạn tin trên cho thấy thực tế Việt Nam đã mất chủ quyền tại huyện Kỳ Anh.

TQ đã mua 3.000 ha rừng biên giới, mua một đoạn bờ biển Đà Nẵng và nơi nào đó nữa. Những nơi TQ mua (hoặc thuê dài hạn) người Việt Nam ngay cả công an cũng không vào được thì cũng giống như Kỳ Anh thôi.

Không biết lực lượng công an tỉnh Hà Tĩnh, lực lượng công an của Bộ có kiểm sát và xử lý vụ Kỳ Anh không?

Không biết Thủ tướng có biết tình hình hiện tại ở Kỳ Anh không?

 Ngoài những nơi TQ mua hoặc thuê dài hạn, họ làm chủ, họ làm gì trong những nơi ấy không ai biết.
Dựa vào khai thác Boxit, TQ đã có mặt ở Tây Nguyên chiến lược; dưới dạng vờ “nuôi cá”, họ đã khảo sát được vịnh Cam Ranh; họ đã có mặt ở Vũng Rô, Vũng Áng; thương lái TQ tự do đi nơi này, nơi nọ, “mua” thứ này, thứ khác nhằm phá hoại kinh tế địa phương. TQ trúng thầu rất nhiều công trình ở Việt Nam, họ tự do đưa ồ át lao động phổ thông vào, thành ra có hàng vạn người TQ rải khắp nước ta, rồi có những người lưu trú trái phép, định cư trái phép. Đây là một mối nguy nếu ta không cương quyết trục xuất những người TQ nhập cảnh trái phép, lưu trú, định cư trái phép ra khỏi nước ta theo luật pháp Việt Nam. Năm ngoái TQ đưa tin bắt giữ 40 người Việt Nam xâm nhập trái phép TQ. TQ làm được sao ta lại không làm được? Dù “hữu nghị” cũng phải có đấu tranh.

Giới cầm quyền TQ luôn mồm nói “Hữu nghị bền vững, hợp tác cùng thắng, cùng phồn vinh”, nhưng hành động của họ thì hoàn toàn ngược lại. Họ đã cài thế hòng bóp nghẹt ta.

Nhân dân ta cần cảnh giác, những vị có trách nhiệm cần có kế hoạch đề phòng. Theo tôi nghĩ quan trọng nhất là những nhà lãnh đạo cần quay lại với dân, thực hiện dân chủ, thi hành những chủ trương, chính sách hợp lòng dân, thật sự gắn bó với dân thành sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thì mới có thể hóa giải được âm mưu nham hiểm của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán để giữ được độc lập chủ quyền./.

N.T.V.

Nội dung bài viết không phản ánh quan điểm của Quê Choa
................................
Tên bài của Quê Choa, tên gốc:Chẳng lẽ mất nước từng phần và tiếp tục bởi những mưu đồ đen tối của họ " Bành" phương Bắc?

0

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Biển Đông - Chiến trường mới của chủ nghĩa dân tộc châu Á

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

Thứ Bảy, ngày 19/10/2013

TTXVN (Paris 18/10)

Báo Le Monde ngày 10/10 có bài viết về tranh chấp ở Biển Đông cho rằng sự vắng mặt của Tổng thống Mỹ Barack Obama tại một loạt cuộc họp cấp cao diễn ra tại Đông Nam Á đầu tháng 10 đã tạo cơ hội để Trung Quốc tự do hành động với các vấn đề của khu vực. Nội dung chính bài viết như sau:

Về phía châu Á, tất nhiên đã có những tiếng nói bầy tỏ sự lo lắng đối với chiến lược “chuyển hướng” sang châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Obama, một yếu tố tạo đối trọng với các tham vọng của Trung Quốc, về phần mình, Trung Quốc tỏ ra khoan hòa và mong muốn thúc đẩy hợp tác kinh tế trên mọi phương diện. Bắc Kinh cam kết tăng cường hội nhập thương mại với các nước Đông Nam Á và nâng gấp đôi mức trao đổi thương mại với các nước trong khu vực từ nay đến năm 2020. Còn các vấn đề lãnh thổ? Thủ tướng Lý Khắc Cường đã tuyên bố tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN tại Bandar Seri Begawan (Brunei): “Chúng ta cần cùng nhau làm việc để biển Biển Đông thành một vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác”.

Jean-Pierre Cabestan, một chuyên gia nghiên cứu thuộc Đại học Hong Kong nhận xét cuộc tấn công ngoại giao của Lý Khắc Cường cho thấy Bắc Kinh đang thay đổi chiến lược: “Có một thiện chí hòa dịu từ phía Trung Quốc. Không biết có phải là tạm thời hay không, nhưng tôi tin rằng Trung Quốc đã ý thức được các tác dụng phụ của cách tiếp cận hung hăng quá đà ngoài Biển Đông mà họ áp dụng tới nay. Người ta đã lưu ý thấy các cuộc tranh luận ở Trung Quốc, trong giới nghiên cứu, kể cả ở Trường Đảng và trong các nhóm chính thức, về cái giá của thái độ hung hăng này .

Theo Cabestan, cứ mỗi lần tham dự các diễn đàn kiểu này, Trung Quốc đều chơi chiêu bài như vậy. Các nước liên quan sẽ không tin lời hứa của Trung Quốc là thật, đặc biệt là Indonesia, quốc gia có trọng lượng ở ASEAN và có những tham vọng địa chính trị riêng. Tất cả vấn đề là ở chỗ đợi xem Trung Quốc có thiện chí với các cuộc thảo luận về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông như Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã nêu tại Bandar Seri Begawan hay không.

Sau một thời gian dài tranh luận về chủ đề này, Bắc Kinh lần đầu tiên – tại một cuộc họp với ASEAN ở Túc Châu ngày 15/9 – đã chấp nhận Bộ quy tắc ứng xử là một phần nghị sự trong các cuộc gặp chính thức giữa quan chức cấp cao Trung Quốc và những người đồng nhiệm ASEAN, cho phép bảo đảm tính liên tục trong các cuộc thảo luận và các tham vấn chính thức. Các khu vực trên Biển Đông đã thực sự trở thành một chiến trường đối đầu của các chủ nghĩa dân tộc châu Á và là nơi các mối căng thăng không ngừng gia tăng trong những năm gần đây. Tham vọng xây dựng một lực lượng hải quân biển xa đang thúc đẩy Trung Quốc phá vỡ vòng vây vật chất và chiến lược được tạo thành từ chuỗi đảo nằm ven biển gần và từ các đồng minh hoặc các nước thân cận với Mỹ.

Sự khan hiếm các nguồn hải sản hoặc những sự tước đoạt và tình cảm tích tụ của các nhân tố khu vực nằm trong quỹ đạo của Bắc Kinh là một nguồn gây xung đột thường trực. Đó là chưa kể tới cuộc chạy đua vũ trang ở cấp độ lực lượng hải quân và sự phát triển ngoạn mục các khả năng triển khai sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Andrew s. Erickson, một chuyên gia nghiên cứu về hải quân Trung Quốc thuộc Trường Chiến tranh Hải quân Rhode Island (Mỹ), từng lưu ý trên tạp chí “The Diplomat” hồi tháng 3/2013 rằng “Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) ngày càng có nhiều nguồn lực khả năng và sự bảo đảm hơn để giá trị hóa các lợi ích của Trung Quốc trên vành đai mà Bắc Kinh yêu sách, đặc biệt tại các vùng biển gần.

Theo quan điểm của Trung Quốc, mọi vấn đề chủ quyền đều không thể đàm phán và Bắc Kinh muốn giành lại “các quyền lịch sử” đối với một vùng lãnh hải mênh mông ở Biển Đông. Như vậy, vùng lãnh hải này sẽ bao gồm Biển Hoa Đông, nơi có các hòn đảo không người sinh sống trên quần đao Senkaku (Điếu Ngư) mà Nhật Bản quản lý từ năm 1972; hoặc ở Biển Đông (Biển Hoa Nam), một vùng rộng lớn hình thành theo đường lưỡi bò, được ấn định bởi cái mà người Trung Quốc gọi “đường chín đoạn”, bao gồm 3 quần đảo và dải đá ngầm lớn. Trung Quốc hiện đang kiểm soát thực tế một phần, chẳng hạn quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa), nhưng đang muốn thâu tóm toàn bộ bất chấp các nước ven biển khác, trước hết gồm Việt Nam và Philippines, tiếp đến là Brunei, Malaysia và Indonesia.

Cho đến nay, Bắc Kinh đang triển khai một chiến lược hai mặt. Đối với các nước láng giềng và các đối thủ, Trung Quốc dựa vào cái mà nhà nghiên cứu Stephanie Kleine-Ahlbrandt (Nhóm Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế – ICG) mô tả là “sự quyết đoán phản ứng”, có nghĩa là nắm bắt cơ hội từ khủng hoảng để đảo ngược nguyên trạng sao cho có lợi. Đó là trường hợp Trung Quốc đã làm với Nhật Bản sau khi Tokyo tiến hành quốc hữu hóa tháng 9/2012, quần đảo Senkaku vốn thuộc quyền sở hữu của một điền chủ Nhật Bản. Bắc Kinh đã lập tức chính thức yêu cầu Liên Hợp Quốc công nhận Điếu Ngư thuộc chủ quyền của Trung Quốc, sau đó ra lệnh cho các lực lượng tuần duyên của mình xâm nhập sâu và hầu như hàng ngày vào các vùng lãnh hải của Nhật Bản.

Theo Kleine-Albrandt, Bắc Kinh đang tìm mọi cách áp đặt một nguyên trạng mới, đó là ý đồ đồng quản lý các hòn đảo Senkaku/Điếu Ngư. Ở Biển Đông, năm 2012, Bắc Kinh lấy cớ Philippines khám xét tàu thuyền của các ngư dân Trung Quốc để giành quyền kiểm soát thực tế đảo Hoàng Nham (bãi đá cạn Scarborough) bằng các tầu riêng của mình. “Vùng biển” mà Bắc Kinh đòi chủ quyền ở Biển Đông là rất có vấn đề nếu chiếu theo các điều khoản trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982 mà Trung Quốc phê chuẩn năm 1996. Một cách khái quát, việc sở hữu đầy đủ các hòn đảo và bãi cạn liên quan có thể dẫn tới việc thiết lập các vùng đặc quyền kinh tế quan trọng, nhưng trong mọi trường hợp đều không phải là một vùng biển gần quy mô lớn như Bắc Kinh chỉ định là “lãnh hải của Trung Quốc”.

Trung Quốc đã cho xây dựng cả một cơ sở tư pháp và hành chính hỗn hợp để làm chỗ dựa cho các yêu sách chủ quyền của mình. Tháng 7/2012, Trung Quốc đã thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa ở Hoàng Sa và dựng lên ở đây một trạm đồn trú của quân đội. Tam Sa là thành phố được trao thẩm quyền quản lý đối với một vùng lãnh hải nằm bên trong “đường chín đoạn”, gồm Trường Sa (Nam Sa) và bãi ngầm Macclesfield (Trung Sa) hiện đang chịu một phần kiếm soát của các nước Đông Nam Á. Tỉnh Hải Nam mà Tam Sa trực thuộc cũng ban hành một bộ luật ủy quyền cho các đơn vị tuần duyên khám xét trên một vùng biển rộng lớn các tàu thuyền “không tôn trọng các quy định” – chẳng hạn các ngư dân nước ngoài đi vào vùng được coi là đặc quyền kinh tế của Trung Quốc.

Sự không rõ ràng về bờ biền của Trung Quốc đã gắn chặt với tư duy nạn nhân hóa phức tạp – trước các cựu thực dân, trong đó có Nhật Bản và cả các cường quốc châu Âu thông qua đường biển – và với sự bao vây cũng như “trò chơi đồng minh” của Mỹ. Đó là chiến lược “chuyển hướng” sang châu Á-Thái Bình Dương mà Hillary Clinton đã đề cập lần đầu tiên vào tháng 11/2011. Chiến lược này đã liên tục bị Bắc Kinh chỉ trích kịch liệt là âm mưu “ngăn chặn Trung Quốc”, tóm lại là một thách thức công khai đối với chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc cho dù Bắc Kinh không thể gọi rõ tên.

Chiến lược của Mỹ đã “khích lệ và tăng cường” nhu cầu của các nước châu Á về mặt an ninh. Đây chính là quan điểm – được nêu trên diễn đàn “Thời báo Hoàn cầu” tháng 3/2013 – của Lưu A Minh, chuyên gia nghiên cứu thuộc Viện khoa học xã hội Thượng Hải: “Mỹ đã khai thác nhu cầu hoặc sự lo ngại về an ninh của các nước châu Á trong một ý tưởng rằng các nước này sẽ phục vụ cho chiến lược riêng của Mỹ, trong khi sự trỗi dậy của Trung Quốc lại trở thành sự bao biện cho việc theo đuổi một chiến lược như vậy”.

Bắc Kinh đã dựng lên một hàng rào rất cao và mọi nhượng bộ của giới lãnh đạo đối với phạm vi chủ quyền trên biển đều đẩy họ hứng chịu búa rìu của dư luận Trung Quốc. Công cuộc tái chinh phục vùng ảnh hưởng tại châu Á-Thái Bình Dương chắc chắn là một dự án dài hạn đối với Trung Quốc. Nếu muốn gạt bỏ thách thức, Mỹ buộc phải tránh bị gạt ra rìa trên lĩnh vực kinh tế và phải chứng tỏ được mình tại các hội nghị thượng đỉnh của khu vực./.

Theo Ba Sàm
0

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Vì sao châu Á ‘vung tiền’ mua vũ khí ?

Trong bối cảnh cả thế giới vẫn chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế, việc chi tiêu quốc phòng châu Á sẽ vượt qua châu Âu lần đầu tiên ngay trong năm nay đã khiến thế giới không khỏi chú ý. Giới chuyên gia đã đưa ra nhiều lý do khác nhau nhưng họ đều gặp nhau ở một kết luận: Quá trình hiện đại hóa quân sự của châu Á sẽ còn kéo dài.


Theo phân tích của chuyên gia cấp cao Felix K. Chang (Viện Nghiên cứu Chính sách đối ngoại), một phần lớn sự gia tăng chi tiêu quốc phòng của cả châu Á xuất phát từ Trung Quốc đi cùng với những tham vọng ngày càng lớn của nước này. Việc Trung Quốc đẩy mạnh hiện đại hóa quân sự và tuôn ra những tuyên bố cứng rắn đã thúc đẩy các nước châu Á khác lao vào cuộc đua.

Sự tiến bộ của Trung Quốc
Vào đầu thập niên này, phần lớn ngân sách quân sự của Trung Quốc đã được dành để chuẩn bị cho việc huy động quốc gia và duy trì lực lượng thông thường với số lượng lớn. Trong một vài năm gần đây, Trung Quốc đã bắt đầu tái phân bổ ngân sách, chuyển các nguồn lực từ các lực lượng bộ binh sang lực lượng hải quân và không quân. Cụ thể, nước này đã giảm mạnh lực lượng bộ binh với việc cho xuất ngũ hơn 1 triệu quân; kế hoạch là giảm từ hơn 120 sư đoàn xuống còn chưa tới 60 sư đoàn được trang bị đầy đủ vào cuối thập niên này. Điểm đáng chú ý, quá trình này đi kèm với việc thúc đẩy các nguồn lực giành cho nghiên cứu, phát triển và mua lại của các hệ thống vũ khí mới.

Tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc


Về hải quân, các nhà máy đóng tàu của Trung Quốc đã tiến nhanh hơn trong vòng một thập niên qua mặc dù Trung Quốc vẫn phải mua một số lượng tàu khu trục và tàu ngầm từ Nga, nhưng sau đó họ đã bắt đầu sản xuất hàng loạt sản phẩm riêng và cuối cùng đã tân trang lại một tàu sân bay cũ của Liên Xô gọi là tàu Liaoning (Liêu Ninh) vào năm 2012. Trung Quốc có thể xây dựng thêm hai tàu riêng của mình trong những năm tới.

Hải quân Trung Quốc thậm chí còn xây dựng một căn cứ hải quân mới, rất lớn ở mũi phía nam của đảo Hải Nam bao gồm một đường hầm dưới lòng đất để tấn công hạt nhân và tàu ngầm tên lửa đạn đạo.

So với cùng kỳ trước đó, lực lượng không quân của Trung Quốc bắt đầu chuyển mình, từng bước thay thế các máy bay chiến đấu cũ bằng các loại máy bay chiến đấu Su-30MKK và Su-27SK hiện đại hơn của Nga và những loại máy bay chiến đấu bản xứ J-10 và J-11.

Để tạo ra hạm đội mới của mình, Trung Quốc đã đầu tư mạnh không chỉ vào những mẫu thiết kế kỹ thuật đổi chiều với Nga, mà còn đặt nền móng cho một ngành công nghiệp hàng không vũ trụ trong nước có thể phát triển máy bay chiến đấu thế hệ tiếp theo của mình. Trong khi đó, lực lượng không quân cũng đã mua các loại máy bay đòi hỏi sẽ phải có một chiến trường "thông tin hóa" kèm theo, chẳng hạn như máy bay A-50 và Y-8W để cảnh báo sớm và trinh thám (AEW & C) và máy bay H-6U để tiếp dầu trên không.

Trung Quốc cũng đã xuất sắc trong việc phát triển công nghệ và tên lửa. Lực lượng quân sự thông thường cũng đã có tên lửa không-đối-không mới và tên lửa hành trình phóng từ dưới biển chống tàu đầu tiên. Còn lực lượng quân sự chiến lược của Trung Quốc còn nhận được không chỉ tên lửa đạn đạo mới, mà còn có cả tên lửa đủ khả năng chính xác nhắm đến mục tiêu một con tàu trên biển (nếu kết hợp với một hệ thống giám sát đại dương đủ đảm bảo độ chính xác). Lo ngại sự thống trị của Mỹ trong không gian, Trung Quốc đưa vào quỹ đạo vệ tinh quân sự riêng của mình cũng như thiết kế và thử nghiệm tên lửa chống vệ tinh, đầu tiên vào năm 2007 và sau đó có thể lặp lại sớm nhất vào năm 2013.

J-31 và những tiến bộ về công nghệ sản xuất máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã khiến nhiều nước ngạc nhiên.

Tuy nhiên, ngành công nghiệp quốc phòng Trung Quốc vẫn còn tồn tại không ít những thiếu sót. Các tàu chiến mới do Trung Quốc tự đóng đa số sử dụng động cơ tuabin khí đốt Ukraina mà được hệ thống radar tìm kiếm trên không của Nga bảo vệ. Và mặc dù Viện Thiết kế Máy bay Chengdu của Trung Quốc và Tổng công ty Máy bay Thẩm Dương đã làm giới quan sát sửng sốt khi cho ra mắt của máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ tiếp theo J-20 và J-31, nhưng hầu hết các hạm đội máy bay chiến đấu nâng cấp của Trung Quốc vẫn còn sử dụng những động cơ phản lực được Nga và Ukraina thiết kế và sản xuất.

Chưa hết, người ta còn cảm thấy rất ngạc nhiên khi biết rằng Trung Quốc đã đàm phán với Nga để mua chừng 48 máy bay chiến đấu Su-35 mới, cho dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng.

Cả châu Á cùng “vào cuộc”

Trung Quốc đã không “đơn độc”. Nhiều quốc gia châu Á khác cũng đã làm như vậy ngay từ những năm đầu của thập niên 1990 dù gần đây họ đều gặp phải những rắc rối vì khủng hoảng kinh tế.

Khi nền kinh tế của Nhật Bản vật lộn đầu tiên với hai "thập niên mất mát", các lực lượng tự vệ Nhật Bản cố gắng duy trì cơ cấu lực lượng - chủ yếu nhờ sự hỗ trợ của Tokyo đối với các công ty hàng không vũ trụ và các công ty đóng tàu để có được sự ổn định cho loại máy bay chiến đấu F-2 và tàu chiến mới.

Quân sự của Ấn Độ ở tình trạng còn tồi tệ hơn. Trong suốt những năm 1990, sức mạnh của Ấn Độ bị suy sụp trước hoạt động nổi dậy chống đối ở Kashmir, trong khi ngân sách bị teo lại do lạm phát cao và đồng tiền mất giá. Kết quả là, quân đội Ấn Độ phải chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh Kargil năm 2002 chủ yếu bằng các trang thiết bị lỗi thời.

Tàu sân bay Vikramaditya của Ấn Độ


Cuối cùng, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998 xảy ra tại Hàn Quốc và nhiều nước Đông Nam Á đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tham vọng hiện đại hóa quân sự của họ. Ví dụ như Thái Lan từng mơ ước trở thành một cường quốc hải quân châu Á. Đầu những năm 1990, Bangkok thậm chí tài trợ xây dựng mới một tàu sân bay đầu tiên của khu vực Đông Á, mang tên Chakri Naruebet, đưa vào hoạt động năm 1996. Nhưng ngay sau khi cuộc khủng hoảng, các tàu tạm dừng hoạt động tại cảng, chỉ có thể đi lại một ngày trong tháng để duy trì và hỗ trợ cho số máy bay phản lực Harrier ít ỏi còn lại. Một số phận tương tự xảy ra với máy bay chiến đấu F/A-18 và MiG- 29 hiện đại của Malaysia. Với chi phí bảo dưỡng cao nên hiếm khi có thể bay, do vậy khả năng sẵn sàng chiến đấu cũng bị ảnh hưởng.

Bước sang thập niên thứ 2 của thế kỷ 21, kinh tế châu Á đã bắt đầu hồi phục và kéo theo đó là các chương trình nâng cấp quân đội bắt đầu được tái khởi động.

Đầu tiên là Ấn Độ. Nhưng thách thức lớn nhất chính là bộ máy quan liêu và lãng phí của chính mình. Chương trình xe tăng Arjun là điển hình của sự kém hiệu quả này, thì một thực tế còn đáng lo ngại hơn là quân đội sau 27 năm chờ đợi không còn chịu đựng nổi để nhận bất cứ pháo binh mới nào. Tuy nhiên, Ấn Độ đã thành công trong việc nâng cấp cơ sở dọc theo biên giới tranh chấp với Trung Quốc và trong vịnh Bengal, sau một số chi phí quá mức, cùng với việc đưa vào sử dụng một tàu sân bay tân trang lại của Liên Xô, mang tên Vikramaditya, cũng như tàu ngầm tấn công hạt nhân mới Akula.

Cũng phục hồi từ cuộc khủng hoảng nợ vào giữa thập niên, Hàn Quốc hồi sinh kế hoạch hiện đại hóa quân sự của mình. Kể từ đó, nước này đã mua sắm xe tăng mới, xe chiến đấu bọc thép, tàu khu trục Aegis trang bị đầy đủ, và sáu tàu ngầm loại 214.

Nhìn chung, chỉ trong vòng vài năm qua hầu hết các nước châu Á khác đều tăng tốc các chương trình hiện đại hóa quân sự của họ. Indonesia cũng bắt đầu hiện đại hóa với quy mô lớn trong năm 2012 với nhiều đơn đặt hàng các loại xe chiến đấu, 3 tàu ngầm loại 209 do Hàn Quốc xây dựng, một số lượng nhỏ các máy bay chiến đấu Su-30MK2, và một lượng lớn hơn các máy bay huấn luyện và vận tải. Nhưng có lẽ điểm ngoặt ấn tượng nhất là ở Philippine mà trước đó các bộ phận của lực lượng vũ trang nhằm bảo vệ bên ngoài giảm xuống gần như không tồn tại. Sự thay đổi diễn ra vào năm 2011, khi Manila mua hai chiến hạm sắp được "nghỉ hưu" của Mỹ và bắt đầu thảo luận với Nhật Bản về 10 tàu tuần tra nhỏ. Kể từ đó, chính phủ Philippine đã lùng sục khắp thế giới cho các thiết bị quân sự, gần đây đã đàm phán mua hàng chục máy bay chiến đấu của Hàn Quốc và thậm chí còn cân nhắc mua hai tàu khu trục tên lửa Italia.

Tiêm kích đa năng Su-30 MK2 của không quân Indonesia.


Nhật Bản nằm trong số các quốc gia mới nhất tăng cường tốc độ chi tiêu quân sự. Bên cạnh việc tiếp tục chương trình mỗi năm 1 tàu ngầm tấn công và 1 khu trục mới, tốc độ này có thể tăng lên trong những năm tới.

Nhật Bản cũng đã thay thế tàu chiến cũ bằng những con tàu mạnh mẽ hơn nhiều. Hai tàu khu trục lớp Shirane từ thời 1970, mang theo ba máy bay trực thăng mỗi tàu, sẽ được thay thế bằng hai tàu 22DDH mới - "tàu khu trục máy bay trực thăng" - mỗi một tàu trong số đó trên danh nghĩa sẽ có thể mang theo cả tá máy bay trực thăng, nhưng kích thước và sự di chuyển của chúng sát hơn với những tàu tấn công đổ bộ của Mỹ Wasp, có khả năng hoạt động cho máy bay chiến đấu V/STOL và 40 máy bay trực thăng.

Tàu khu trục 22DDH đầu tiên, mang tên Izumo, đã được hạ thủy trong tháng 8/2013. Với chiến thắng của liên minh Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong cuộc bầu cử thượng viện của Nhật Bản một tháng trước đó, có thể là ông sẽ thúc đẩy thông qua các biện pháp mới để tăng tốc độ mua sắm tàu chiến và tàu bảo vệ bờ biển, sự giảm giá gần đây của đồng yên Nhật Bản có thể buộc ông phải mở rộng việc mua các máy bay chiến đấu của Mỹ.Ngoài Trung Quốc, chỉ có Singapore đã liên tục dành nguồn lực để nâng cấp tất cả ba chi nhánh lực lượng vũ trang của mình từ những năm 1990. Kết quả là quốc đảo này đã có thể chuyển đổi các lực lượng quốc phòng địa phương thành quân đội hiện đại với khả năng triển khai sức mạnh đáng kể, bao gồm không chỉ các tàu ngầm tấn công, mà còn cả tàu đệm khí đổ bộ và không chỉ có máy bay chiến đấu F-15SG và F-16C/D, mà cả máy bay được hỗ trợ hệ thống mạng AEW&C và máy bay tiếp nhiên liệu trên không. Ngày 8/9, Singapore đã chuẩn bị nhận bàn giao chiếc tàu ngầm lớp Archer thứ hai và có khả năng sẽ là quốc gia thứ hai châu Á, sau Nhật Bản, mua được tiêm kích F-35 của Mỹ.
Phần 2
“Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” – nguyên nhân dẫn đến việc phình to của ngân sách quốc phòng tại các nước châu Á chẳng giống nhau nhưng có điều, chúng lại liên quan khá nhiều đến một cái tên quen thuộc ở châu Á: Trung Quốc.


Chuyện trong nhà

Không thể phủ nhận, những chương trình hiện đại hóa quân sự có liên quan khá nhiều đến các tính toán chính trị trong nước. Ở những nước mà quân đội can thiệp vào đời sống chính trị, các chính trị gia dân sự đôi khi phải sử dụng ngân sách quốc phòng lớn hơn nhằm mua sự bình yên. Một lý do khác liên quan đến chi phí quân sự được gắn trực tiếp đến việc ủng hộ các công ty trong nước được ưu đãi, hoặc các ngành công nghiệp hoặc cung cấp việc làm địa phương. 


Tuy nhiên, điều này chỉ đúng với một quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng tương đối phát triển như Ấn Độ, Nhật Bản và Singapore. Đơn đặt hàng thường xuyên đối với các tàu chiến và tàu ngầm của Nhật Bản có thể phản ánh niềm hy vọng duy trì vị trí ngành đóng tàu của đất nước ngang với mong muốn cải thiện an ninh, đặc biệt là sau khi các đơn đặt hàng tàu thương mại chủ yếu chuyển sang các nước “giá rẻ” như Trung Quốc và Hàn Quốc.

Giới lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng cách xây dựng quân đội truyền thống là không đủ để chống lại sức mạnh hải quân và không quân của Mỹ ở phía tây Thái Bình Dương và đã thúc đẩy hiện đại hóa PLA.


Mặc dù vậy, những toan tính chiến lược liên quan đến những thay đổi trong môi trường địa chính trị đã đóng vai trò lớn nhất trong việc tăng cường quân sự ở châu Á.

Ngay từ năm 1991, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, sau khi chứng kiến sự thành công không thể phủ nhận về vũ khí và cách tổ chức của Mỹ trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh đã nhận ra sự cần thiết phải hiện đại hóa lực lượng vũ trang của họ. Cuối cùng giới lãnh đạo Trung Quốc hiểu ra rằng cách xây dựng quân đội truyền thống là không đủ để chống lại sức mạnh hải quân và không quân của Mỹ ở phía tây Thái Bình Dương và chỉ có cách hiện đại hóa quân sự toàn diện mới có thể hy vọng ngăn chặn các nước khác tác động đến "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc.


Bị đe dọa bởi Trung Quốc?


Việc tăng tốc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc đã khiến các nước láng giềng châu Á nhận thấy sự suy giảm an ninh tương đối. Ấn Độ đã nhanh chóng phản ứng bởi những nghi ngờ trong lịch sử với Trung Quốc - kẻ thù trong cuộc xung đột biên giới năm 1962 giữa Trung Quốc và Ấn Độ và là một đồng minh của Pakistan - kẻ thù lâu năm của Ấn Độ. Và trong suốt những năm 2000, New Delhi không ngừng lo ngại về sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc với việc sử dụng (cả mục đích dân sự - quân sự) các cơ sở hạ tầng sân bay, đường sắt, và đường bộ ở Tây Tạng và những lợi ích thương mại ngày càng tăng ở Ấn Độ Dương.


Khi sức mạnh quân sự tăng lên, Trung Quốc lập tức lấn tới trong các tuyên bố chủ quyền.


Không xa lạ gì với các kế hoạch bao vây, các chuyên gia an ninh Ấn Độ đã nhận thấy Trung Quốc phát triển một "chuỗi ngọc trai" trên Ấn Độ Dương và có thể một ngày nào đó bao vây Ấn Độ. Và như vậy, ngay cả khi Trung Quốc thường nêu khẩu hiệu chống lại Mỹ, nhưng Ấn Độ cũng phải chú trọng đến khả năng quân sự của mình để đối phó với Trung Quốc và tự bản thân thấy mình cũng bị đe dọa. Ấn Độ cho xây dựng 6 tiền đồn trên núi (bao gồm cả hai tiền đồn mới) ở Arunachal Pradesh chỉ để đối mặt với 3 chốt tuần tra núi của Trung Quốc ở phía bên kia. Trong năm 2013, Ấn Độ thậm chí quyết định "về nguyên tắc" tài trợ cho một quân đoàn "tấn công" mới, để củng cố cho các đơn vị tiền tuyến một khả năng tấn công tốt hơn.


Trong những năm gần đây, nhiều nước châu Á khác đã bắt đầu phản ứng tương tự với sự tăng cường quân sự của Trung Quốc, mặc dù họ trước đó đã hoan nghênh sự trỗi dậy của Trung Quốc bởi vì những lợi ích kinh tế được mang lại. Nhưng khi Trung Quốc tự tin với việc gia tăng ảnh hưởng kinh tế và sức mạnh quân sự, Bắc Kinh bắt đầu khẳng định ưu tiên lợi ích của mình trong các tranh chấp với khu vực Đông Nam Á. Thay vì chấp nhận đối thoại đa phương, Trung Quốc dường như ngày càng đứng ngoài mối quan tâm khu vực Đông Nam Á và theo đuổi mục tiêu của mình riêng biệt hoặc chỉ thông qua đàm phán song phương. Thực tế là phương pháp tiếp cận gần đây của Trung Quốc xung đột với cả việc phân chia sử dụng sông Mekong và cả biên giới trên biển của nước này ở Biển Đông.



Vào cuối năm 2007, Bắc Kinh đã nâng cấp cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam trở thành "thành phố cấp quận" tại tỉnh Hải Nam. Sau đó, Trung Quốc đưa tuyên bố chủ quyền Biển Đông trở thành "lợi ích cốt lõi" của mình - thể hiện sự sẵn sàng chiến đấu. Một số nước Đông Nam Á công khai đối đầu với sự quyết đoán của Trung Quốc tại Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 17 vào năm 2010.


Các nước Đông Nam Á hiểu rằng cần phải tăng cường năng lực quốc phòng trước thái độ ngày càng ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.

Trung Quốc đã cảm thấy tức giận khi bị cự tuyệt. Trong năm 2012, Trung Quốc bị làm tăng thêm căng thẳng khi cho xây dựng cơ sở trên bãi cạn Scaborough mà Philippine tuyên bố chủ quyền và gây ra bế tắc hàng hải kéo dài hàng tháng. Kết quả là, mặc dù nhiều nước Đông Nam Á từng cho rằng lợi ích của Trung Quốc trong việc tăng cường quân sự là một phần của "sự trỗi dậy hòa bình" giờ đây họ cũng cẩn thận với Trung Quốc hơn rất nhiều và việc mua sắm quân sự cũng trở nên cấp bách hơn.



Một loạt sự kiện tương tự xảy ra ở Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) mà Nhật Bản kiểm soát ở biển Hoa Đông. Bắt đầu từ năm 2010, tàu tuần tra Trung Quốc và Nhật Bản đã phải đối mặt nhau trong các vùng biển xung quanh các đảo. Sau đó, Bắc Kinh tăng cường tuần tra hàng hải tại khu vực này và cho phép công dân nước mình trút sự tức giận vào những lợi ích thương mại của Nhật Bản tại Trung Quốc. Mặt khác, ngày càng nhiều người Nhật thừa nhận sự cần thiết phải tăng cường chuẩn bị quốc phòng. Kết quả là Tokyo đã triển khai thêm một phi đội máy bay chiến đấu F- 15J đến Okinawa và duy trì tuần tra bảo vệ ở gần quần đảo tranh chấp suốt ngày đêm. Tuy nhiên, nhu cầu duy trì tuần tra như thế khiến các thiết bị của các lực lượng tự vệ của Nhật Bản và bảo vệ bờ biển đã bắt đầu căng thẳng, dẫn đến nhu cầu về máy bay và các tàu mới có khả năng hơn.



Một số chuyên gia hiện nay cho rằng tăng cường quân sự của châu Á có thể dẫn đến tình trạng chạy đua vũ trang của một hoặc nhiều nước, thậm chí là giữa liên minh các nước. Cho đến nay, không một quốc gia châu Á hoặc liên minh các quốc gia có thể đủ khả năng để cạnh tranh trực tiếp với tốc độ cũng như quy mô hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc, ngăn cản sự suy giảm của nền kinh tế Trung Quốc. Tuy chưa hẳn là một cuộc chạy đua vũ trang, nhưng phần lớn việc tăng cường trang bị quân sự của châu Á có thể được mô tả như là một cuộc đuổi bắt vũ trang. Mặc dù các nước châu Á không đưa ra một khẩu hiệu đối với Trung Quốc, song họ đã cố gắng tăng cường sức mạnh quân sự - một phần thông qua việc hiện đại hóa quốc phòng và một phần thông qua các mối quan hệ gần gũi hơn với các cường quốc bên ngoài làm rào cản chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc.


Chẳng có gì nghi ngờ đó là lý do tại sao các nước châu Á như Ấn Độ, Nhật Bản, Philippine.... có lợi ích dường như rất khác nhau trong quá khứ, hiện nay lại trở nên quá quan tâm đến hợp tác kinh tế và hợp tác an ninh.


Phan Sương - Infonet.vn
0

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

Viện Khổng Tử hay cuộc xâm lăng văn hóa Trung Quốc ?

(Thanh Phương, RFI- 21.10.13) Trong bản tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc nhân chuyến viếng thăm của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường tại Hà Nội giữa tháng 10 vừa qua, hai quốc gia đã thông báo « nhất trí » thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam.

Thật ra, Viện Khổng tử đã được Trung Quốc thành lập ở rất nhiều nước khác trên thế giới. Việc thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam đã được chính phủ Hà Nội quyết định từ năm 2009, nhưng thông báo chính thức về việc thành lập viện này đã một lần nữa gây lo ngại cho giới nhân sĩ trí thức Việt Nam về nguy cơ xâm lăng văn hóa của Trung Quốc, trong bối cảnh mà phim ảnh Trung Quốc từ nhiều năm qua tràn ngập các đài truyền hình Việt Nam và văn hóa Trung Qu ốc chi phối ngày càng nhiều đời sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là trong kiến trúc đền chùa.

Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội nêu lên những nguy cơ tiềm ẩn từ Viện Khổng tử sẽ được thành lập ở Việt Nam :


Mở trình phát HTML5

RFI : Xin kính chào tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện. Thưa ông, những nước như Pháp hay Đức cũng đã có những trung tâm văn hóa ở Việt Nam như Alliance Française hay Viện Goethe. Nhưng vì sao việc thành lập Viện Khổng tử của Trung Quốc lại gây lo ngại như vậy ?

TS Nguyễn Xuân Diện : Việc thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam không phải chỉ mới được đặt ra trong chuyến viếng thăm của thủ tướng Lý Khắc Cường, mà từ năm 2009, ông Tập Cận Bình, khi ấy là phó chủ tịch Trung Quốc, khi đi thăm Việt Nam đã thúc giục Việt Nam thành lập Viện Khổng tử để tăng cường hợp tác văn hóa, giáo dục.

Theo tôi biết, trên thế giới hiện đã có hơn 40 nước có tổng cộng hàng trăm Học viện Khổng tử. Riêng Thái Lan thì đã có 13 Học viện Khổng tử. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có nét tương đồng nhau về mặt văn hóa và gần đây là người ta có nhắc đến tương đồng về chính trị, nhưng đến bây giờ mới xúc tiến mạnh việc thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam. Theo tôi biết, học viện này sẽ được đặt trong Đại học Hà Nội (Đại học Ngoại ngữ cũ).

Từ khi nhận được tin này, những nhà nghiên cứu, những nhân sĩ, trí thức rất là lo lắng. Lo lắng nhiều hơn là vui mừng. Nhiều nước đã đặt các học viện, các trung tâm văn hóa ở Việt Nam, nhưng những học viện, những trung tâm đó không gây lo ngại nhiều như Học viện Khổng tử này. Lý do là vì trong người dân Việt Nam luôn thường trực một tinh thần phản kháng, một sự tự đề kháng đối với văn hóa Trung Quốc, mặc dù là tư tưởng của Khổng tử, các thiết chế, mô hình Nhà nước theo kiểu Nho giáo của Khổng tử đã có mặt trên đất nước Việt Nam từ rất lâu rồi.

Chúng tôi rất lo lắng bởi vì Viện Khổng tử này chắc chắn không phải được lập nên để tuyên truyền về giáo lý, tinh thần triết học hay cuộc đời và sự nghiệp của Khổng tử, cũng như về Nho học : Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Tam Tòng Tứ Đức ...

RFI : Theo ông biết thì Viện Khổng tử của Trung Qu ốc ở Việt Nam sẽ hoạt động như thế nào ?

Thực chất đây sẽ là một trung tâm văn hóa và ngôn ngữ, nhằm giới thiệu, quảng bá về văn hóa Trung Quốc : thi ca, âm nhạc, ẩm thực, trà đạo..., và sẽ có những giao lưu văn hóa giữa các nghệ sĩ Việt Nam và Trung Quốc. Đằng sau đó luôn là những hoạt động tư vấn về du học, tức là kéo thanh niên Việt Nam đến Trung Quốc du học ngày càng nhiều. Đây cũng sẽ là trung tâm dạy Trung văn, tức là tiếng Hoa.

Đó là những hoạt động bề nổi, còn đằng sau nó chắc chắn sẽ là những hoạt động tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về mặt văn hóa và tư tưởng về một nước Trung Hoa hiện đại. Chính vì vậy nhiều nhà quan sát cho rằng việc thành lập Viện Khổng tử chính một sự thể hiện quyền lực mềm của Trung Quốc, hoặc có người gay gắt hơn thì nói rằng đấy là bước đầu đặt cơ sở cho việc bành trướng văn hóa.

Điều này thật đáng lo ngại, bởi vì sức ép và sự tuyên truyền văn hóa của văn hóa Trung Quốc hiện đại lên Việt Nam hiện nay rất là mạnh mẽ. Nhân dân đã không được những người làm công tác văn hóa dẫn dắt, cho nên, họ có sự sùng bái văn hóa Trung Quốc rất là quá đáng.

Ví dụ ngôi chùa đạt nhiều kỷ lục ở Việt Nam và Đông Nam Á là chùa Bái Đính ở Ninh Bình. Ngôi chùa ấy chẳng có dáng dấp gì mang bản sắc Việt Nam, mà thực chất là một ngôi chùa Tàu, mà hàng năm lại thu hút hàng triệu du khách. Các phim ảnh Trung Quốc thì chiếu tràn lan trên các kênh truyền hình trung ương và địa phương. Rồi thì việc dựng các tượng sư tử Trung Quốc ở các đình chùa, đền miếu, cũng như ở trụ sở các tổng công ty. Rồi thì hàng hóa, đèn lồng Trung Quốc cũng tràn lan.

Chính những điều đó khiến người ta lo rằng là với Viện Khổng tử, Trung Quốc coi như đã đặt một bàn chân xâm lăng văn hóa đối với Việt Nam. Chưa bao giờ sức mạnh văn hóa Việt Nam suy yếu nhiều như hiện nay. Khi nào mà chúng ta không chống lại được xâm lăng về văn hóa, thì chúng ta sẽ không còn gì là nền tảng của nước Việt Nam nữa và sẽ bị đồng hóa. Đây sẽ là một điều vô cùng nguy hiểm. Xâm lăng về văn hóa còn nguy hiểm hơn là xâm lăng về quân sự. Cho nên tôi thấy rất lo ngại.

RFI : Nhưng trong sự xâm lăng văn hóa này phải chăng cũng có sự tiếp tay của các lãnh đạo văn hóa, đã cho chiếu quá nhiều phim ảnh Trung Quốc trên truyền hình quốc gia, đến mức giới trẻ Việt Nam bây giờ thuộc sử Tàu hơn là sử Việt ?

Đúng là bây giờ trẻ con cấp 1, cấp 2, cấp 3 thuộc sử Tàu hơn là sử Việt. Văn hóa Trung Quốc ảnh hưởng rất nhiều đến ngôn ngữ thường ngày của các em. Sóng truyền hình Trung Quốc tràn lan như vậy. Không những thế các bộ phim của cũng thế. Chúng ta thấy rằng là năm 2010, phim kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tức là phim Đường tới thành Thăng Long, từ kịch bản, đạo diễn, cho đến diễn viên và vai quần chúng, cũng như bối cảnh, hậu kỳ, trang phục đều là do người Trung Quốc làm.

Bộ phim mang tính phản văn hóa như vậy cho nên các nhà nghiên cứu, các học giả đã yêu cầu không được chiếu bộ phim đó trong đại lễ 1000 năm Thăng Long. Về sau người ta mới phát hiện bộ phim đó không chỉ mang tính phản văn hóa, mà còn phản quốc, vì những nội dung lịch sử đã bị bóp méo và làm sai lạc.

Chúng tôi lo ngại vì giới lãnh đạo văn hóa Việt Nam hiện nay hiễu một cách rất là ấu trĩ và vô cùng hạn chế về văn hóa Trung Quốc. Vì vậy, họ không phát động được trong cán bộ, công chức trên toàn quốc về việc phải có một sự đề kháng như thế nào đối với văn hóa Trung Quốc.

Hậu quả là vào những dịp Tết trong những năm gần đây, có khi cả thành phố, thị trấn thắp toàn đèn lồng Trung Quốc. Hà Nội gần đây đã phải phát động việc dẹp bỏ các tượng đá sư tử ở các đền chùa. Như vậy tức là họ cũng đã thấy được một phần rồi, nhưng những cái mà họ thấy được, nhưng so với những cái mà những người lãnh đạo cần phải có là chưa tương xứng. Chính vì vậy, những người tha thiết với truyền thống, với văn hóa Việt Nam đang rất là lo lắng.

RFI : Thưa tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, để cưỡng lại sự xâm lăng về văn hóa đó, liệu chúng ta có thể phát động một chiến dịch giống như chiến dịch kêu gọi người Việt dùng hàng Việt, để tẩy chay hàng Trung Quốc, cho dù chúng ta vẫn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp của văn hóa Trung Quốc ?

TS Nguyễn Xuân Diện : Cách đây vài năm Bộ Chính trị đã phát động phong trào người Việt dùng hàng Việt. Lúc ấy báo chí cũng làm rùm beng một vài sự hưởng ứng đó. Nhưng bây giờ chuyện ấy đã chìm đi rồi. Người ta cũng không nghĩ đến chuyện giữ gìn những phong trào đó hay phát động một lần nữa.

Nhưng trong nhân dân, nhất là trong giới trẻ đã ngấm ngầm một phong trào muốn tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, trước hết là hàng thực phẩm và thuốc chữa bệnh, nhưng đó cũng chỉ là những phong trào tự phát, chứ không phải là được phát động sâu rộng, được truyền thông Nhà nước cổ vũ, khuyến khích.

Tôi nghĩ rằng nên khơi dậy một tinh thần dân tộc và một tinh thần bài Hoa đúng mức. Bài Hoa đây không phải là bác bỏ hết những gì có nguồn gốc từ Trung Quốc, một nền văn minh lớn của nhân loại. Nằm cạnh một nền văn minh lớn như thế, Việt Nam cần tiếp thu, thừa hưởng những giá trị văn hóa, những tác phẩm lớn của Trung Quốc mà đã mang tầm mức nhân loại.

Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải giới thiệu trong dân chúng, nhất là cho lớp trẻ, những nét đẹp của văn hóa Việt Nam, những giá trị thẩm mỹ thuần Việt, những tác phẩm văn học, mỹ thuật Việt Nam, những văn hóa chùa, làng...

Muốn đem lại một sự đề kháng đối với sự xâm lăng văn hóa của bên ngoài, thì trước hết cần phải khơi dậy, giáo dục sự hiểu biết cho lớp trẻ về văn hóa của cha ông. Trong mạnh, thì ngoài mới không xâm lăng vào được. Khi người ta yêu quý những nét văn hóa đẹp đó, thì người ta mới dốc sức gìn giữ nó, tạo nên một lớp áo giáp bảo vệ trước sự xâm lăng từ bên ngoài.

Mặc dù Việt Nam đã bị Trung Quốc đô hộ cả ngàn năm, liên miên bị Trung Quốc xâm lược như vậy, mặc dù người Trung Quốc đã truyền chữ Hán vào Việt Nam, thiết lập chế độ cai trị, áp đặt văn hóa lễ nghi, nhưng đã không thể đồng hóa Việt Nam.

Lý do là vì văn hóa Việt Nam trong mấy nghìn năm qua được dựa trên một nền tảng vững bền của văn hóa Việt gốc ở Đông Nam Á, mà điểm son mà văn hóa làng, chống lại được sự xâm lăng về mặt văn hóa, giữ được những giá trị văn hóa và chính những giá trị văn hóa đó trở lại làm nên sức mạnh của dân tộc, đánh thắng được những trận lừng lẫy trong lịch sử.

RFI : Xin cám ơn tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện.

0

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

Lo lắng và nghi ngại Học viện Khổng tử


(RFA- 17.10.13) Học viện Khổng tử nhằm khuếch trương sức mạnh mềm của Trung Quốc trên khắp thế giới chưa có mặt ở Việt Nam, dù hai quốc gia có mối tương đồng lớn về văn hóa và chính trị. Thỏa thuận về Học viện Khổng Tử tại Việt Nam được đề cập đến trong tuyên bố chung ngày 15/10/2013 sau chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.

Sự kiện chính trị liền kề với đám tang của cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp là chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc, ông Lý Khắc Cường bắt đầu vào ngày 13/10 và kết thúc ngày 15/10. Có lời đồn là cờ rủ để tang tướng Giáp tại thủ đô Hà Nội đã được vội vả dựng dậy dù thời gian tang chế theo quy định chưa kết thúc, để thỏa mãn những nghi thức ngoại giao. Có vài ý kiến trên truyền thông quốc tế cho rằng chuyến đi này nhằm xoa dịu những mối căng thẳng chứ chưa giải quyết các tranh chấp giữa đôi bên.

Cuối cùng thì hai bên đã ra một bản tuyên bố chung với lời lẽ ngoại giao về quan hệ hai nước, không quên ca ngợi quan hệ giữa hai đảng cộng sản. Các cụm từ như thúc đẩy quan hệ, hữu nghị, tăng cường hợp tác… được sử dụng như mọi khi. Một vài cái tên cụ thể được nêu ra về các công ty Trung Quốc, các cửa khẩu biên giới… không có gì đặc biệt.

 

Nếu có một nghiên cứu có hệ thống về khổng giáo trong đời sống xã hội, văn hóa tinh thần của người Việt thì rất tốt, nhưng tôi cho rằng việc ấy nên để cho người Việt làm.

-GS Nguyễn Huệ Chi
Có một việc cụ thể khá đặc biệt, đó là “Thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.”

Nó đặc biệt vì theo lời của một ủy viên bộ chính trị đảng cộng sản Trung Quốc, ông Lý Trường Xuân nói với báo The Economist trong thời gian gần đây rằng Các Viện Khổng tử trên thế giới là phần quan trọng cho cơ quan tuyên truyền của Trung Quốc tại nước ngoài.

Không giống các tổ chức văn hóa như Hội đồng Anh của nước Anh, Liên minh Pháp ngữ của Pháp, hay Viện Goethe của Đức là các tổ chức độc lập, Viện Khổng Tử là một định chế của nhà nước Trung Quốc, mà mục đích được nhiều người nói rằng để khuếch trương “sức mạnh mềm” của Trung Quốc trên thế giới.

Điều đáng ngạc nhiên là hiện nay số lượng học viện Khổng Tử trên thế giới đã vượt qua con số 100, không những ở các quốc gia có nền văn hóa khác Trung Hoa, mà cả ở hai nước khá tương đồng về văn hóa là Nhật Bản và Hàn quốc, tuy nhiên chưa có Viện Khổng tử nào được thành lập tại Việt Nam, dù rằng Việt Nam hiện tại không những tương đồng về văn hóa với Trung Quốc mà còn tương đồng về chính trị nữa.

Khổng tử được xem như ông tổ của những giá trị văn hóa tinh thần của người Trung Hoa ngày nay. Ông sống cách đây hơn 2000 năm, những luận giải của ông về xã hội, về quan hệ quân vương với thần dân, về sự trung tâm của Đế chế Trung Hoa… được xem là cốt lõi của Khổng giáo, một dòng tư tưởng được truyền đến ba nước láng giềng phía đông và nam của Trung Quốc là Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam, hoặc tự nguyện trong trường hợp Nhật Bản, hoặc cùng với sự đô hộ như trường hợp Triều Tiên và Việt Nam.

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, một người có lâu năm nghiên cứu về văn học Hán Nôm nói về ảnh hưởng của Khổng giáo ở Việt Nam như sau:

“Sự ảnh hưởng của Khổng giáo ở Việt Nam rất là lâu đời, cùng với thời kỳ Bắc thuộc, giảm thiểu tối đa dưới thời Lý Trần, mạnh lên cuối triều Trần rồi rất mạnh ở triều Nguyễn.”

Dấu ấn Khổng giáo bàng bạc khắp nơi trong xã hội Việt Nam, từ sự hữu hình như bức tượng Khổng Tử giữa những hàng cột sơn màu đỏ của Văn Miếu Quốc tử giám giữa lòng thủ đô Hà Nội, cho đến sự tương đồng rất nhiều của ngôn ngữ trong nhóm từ vựng Hán Việt, cho đến những quan niệm xã hội Tam cương ngũ thường ngự trị cho đến nay trong hầu như tất các gia đình Việt Nam. Giáo sư Huệ Chi nói tiếp về sự nghiên cứu Khổng Giáo, và quan điểm của ông về sự tồn tại của một Học Viện Khổng tử tại Việt Nam:

“Nếu có một nghiên cứu có hệ thống về khổng giáo trong đời sống xã hội, văn hóa tinh thần của người Việt thì rất tốt, nhưng tôi cho rằng việc ấy nên để cho người Việt làm. Nếu như Khổng tử học viện có thể làm những việc như L’Espace của Pháp, hay Viện Goeth của Đức, nơi hội tụ những vấn đề về Văn hóa thì rất là tốt. Nhưng tất cả những gì người Tàu làm từ trước đến giờ tôi thấy không tốt.”

Sự thôn tính văn hóa

Không phát biểu về những nghi ngại như Giáo sư Huệ Chi, nhưng Giáo sư Trần Ngọc Thêm, Trưởng Khoa Văn hóa học tại Đại học Khoa học xã hội nhân văn tại Thành Phố HCM hầu như cũng có cùng quan điểm với Giáo sư Huệ Chi về sự thành lập Học viện Khổng Tử:

 

Sự cưỡng chống lại sự thôn tính về văn hóa và tư tưởng của người Tàu nơi người Việt lúc nào cũng tồn tại. Cho nên cái sự chậm chạp của Viện Khổng tử là do vậy.

-GS Nguyễn Huệ Chi
“Nghiên cứu Khổng giáo thì tốt thôi, nền văn hóa Trung Hoa là một nền văn hóa lớn, ngôn ngữ và văn hóa của họ đáng cho chúng ta học hỏi, tuy nhiên có hay không có Khổng tử học viện thì chúng ta cũng làm điều đó, cũng không cần có một viện như thế, và chúng ta cũng không thiếu tiền bạc để cần đến sự trợ giúp của họ.”

Có lẽ những nghi ngại này của giới học giả đã làm cho việc ra đời của Học Viện Khổng tử tại Việt Nam chưa thành hiện thực, dù có nhiều nhà nghiên cứu đã từng nói rằng xã hội Việt Nam về chừng mực nào đó như một xã hội Trung Hoa thu nhỏ. Hơn nữa, sự tương đồng về chính trị của hai đảng cộng sản cầm quyền dường như cũng không giúp gì cho việc khuếch trương bộ máy tuyên truyền tại nước ngoài của Trung Quốc như ông Lý Trường Xuân nói với tờ The Economist.

Giáo sư Huệ Chi nói về sự cưỡng chống lại sự thành lập Học Viện Khổng tử tại Việt nam:

"Sự cưỡng chế chống lại sự thôn tính về văn hóa và tư tưởng của người Tàu nơi người Việt lúc nào cũng tồn tại. Cho nên cái sự chậm chạp của Viện Khổng tử là do vậy, và có thể là có những người có quyền lực ở Việt Nam và cũng tỉnh táo lên tiếng về sự nguy hiểm đó.”

Trên các trang web của các Học viện Khổng tử trên thế giới, đều thấy những dòng chữ về khuếch trương văn hóa, ngôn ngữ… Một hình ảnh thân thiện của nước trung Hoa đang lên. Nhưng điều đó rõ ràng không đánh lùi được sự nghi ngại của tầng lớp trí thức Việt Nam như Giáo sư Huệ Chi. Có phải chăng sự nghi ngại đó không những bắt nguồn từ quan hệ đầy chông gai qua hàng ngàn năm giữa hai nước láng giềng, mà còn bắt nguồn từ những xung đột lãnh thổ hiện tại, mà ngay cả sự tương đồng ý thức hệ giữa hai đảng cầm quyền vẫn chưa vượt qua được.

Có thể sẽ dễ hiểu hơn câu chuyện Học viện Khổng tử ở Việt nam nếu so sánh sức mạnh mềm của ông Lý Trường Xuân, phụ trách cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản Trung Quốc, và sức mạnh cứng của Giải phóng quân Trung Quốc ngoài khơi với đường chín vạch chiếm 80% diện tích biển Đông. Sức mạnh mềm của Học viện Khổng Tử chưa biết tốt đẹp ra sao đối với người Việt, nhưng những ngư dân Việt ở miền Trung thì biết rất rõ sức mạnh cứng của những chiếc tàu hải giám Trung Hoa.

Kính Hòa, phóng viên RFA
0

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

Những điều ít được biết đến về Tướng Giáp

Vào hôm nay, 13/10/2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp về đến nơi an nghỉ cuối cùng tại quê nhà tỉnh Quảng Bình. Từ lúc ông qua đời đến nay, đã có rất nhiều bài viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Trong khuôn khổ tạp chí đặc biệt hôm nay, RFI Việt ngữ xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Carl Thayer - chuyên gia kỳ cựu về quân sự và chính trị Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales) - về một số yếu tố ít được nói đến, nếu không muốn nói là hoàn toàn vắng bóng - trong tiểu sử chính thức của Đại tướng Giáp.


Tải xuống

 RFI : Cho đến nay, các nhà báo và các nhà bình luận đã nói rất nhiều về cuộc đời của tướng Giáp. Theo quan điểm của Giáo sư, di sản chính của ông Giáp là gì ?

CarleThayer : Sự nghiệp của Tướng Võ Nguyên Giáp trải dài trên 64 năm kể từ năm 1927, khi ông bị trục xuất khỏi trường Quốc Học vì hoạt động chính trị, cho đến năm 1991 khi ông chính thức rời bỏ tất cả các chức vụ trong Đảng và Nhà nước. Sự nghiệp của ông có thể chia thành năm giai đoạn :

- 1927-1944 : Ông còn là một học sinh đấu tranh, nhà báo, một nhà tuyên truyền chính trị, một tù nhân, một giáo viên và một sinh viên sau đại học ;

- 1944-1973 : Ông giữ nhiều chức vụ trong đó có chức chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Ủy viên Bộ Chính trị ;

- 1974-1980 : Ông từ bỏ quyền kiểm soát hoạt động của quân đội và giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Ủy viên Bộ Chính trị ;

- 1980-1991 : Ông thôi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Ủy viên Bộ Chính trị ; trong thời gian này, ông phụ trách khoa học và công nghệ, dân số và kế hoạch hóa gia đình, và sau đó giáo dục ;

- 1991-2013 : Tướng Giáp rời khỏi chức vụ cuối cùng là Phó Thủ tướng chính phủ và nghỉ hưu vĩnh viễn.

Di sản chính của Tướng Giáp xuất phát từ vai trò tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hai (1944-1973). Ông bắt đầu chỉ huy một trung đội 34 người và phát triển lực lượng này thành một đạo quân nhân dân gồm vài trăm ngàn người trong không đầy mười năm. Tướng Giáp đồng thời kết hợp các tác phẩm quân sự của Napoleon, Clausewitz và Mao Trạch Đông với truyền thống quân sự cổ xưa của Việt Nam.

Tướng Giáp nắm vững nghệ thuật chiến tranh nhân dân bằng cách vận động dân chúng để chiến đấu và trở thành nhân công trong mạng lưới hậu cần rộng lớn của ông. Tướng Giáp biết kết hợp đấu tranh chính trị và quân sự. Mục tiêu của ông là đuổi Pháp ra khỏi Việt Nam trong một cuộc chiến tranh trường kỳ.

Chiến công lẫy lừng nhất của ông là chiến dịch dẫn đến sự thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ. Tướng Giáp dùng chiến thuật nghi binh, gửi lực lượng của mình sang Lào và rồi sau đó cấp tốc chuyển hướng tiến đến vùng thung lũng Điện Biên Phủ. Tướng Giáp đã nhanh chóng bác bỏ lời khuyên của các chuyên gia Trung Quốc tung các làn sóng người tấn công vào doanh trại quân Pháp. Ông đã sử dụng chiến thuật bao vây, với lực lượng được tiếp ứng liên tục về mặt hậu cần, cung cấp lương thực, thiết bị vật tư, vũ khí và đạn dược cho chiến trường.

Tầm quan trọng của trận Điện Biên Phủ là nó không chỉ đánh dấu sự thất bại của thực dân Pháp ở Đông Dương, mà cả của chủ nghĩa thực dân như một hệ thống trên toàn thế giới. Trong vòng tám năm sau đó, Pháp sẽ phải chịu thất bại ở Algeri.

Hai tiểu sử : Chính thức và không chính thức

RFI : Giáo sư đánh giá sao về một số « điều được che giấu » về cuộc đời của Tướng Võ Nguyên Giáp, những điều không hề xuất hiện trong tiểu sử chính thức ?

Carl Thayer : Có hai phiên bản về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trước hết là tiểu sử chính thức mang tính chất tôn vinh, gán cho ông tất cả những thành công quân sự của Việt Nam kể từ năm 1944 và miêu tả ông như một viên tướng tài ba hoàn hảo.

Phiên bản thứ hai về sự nghiệp của Tướng Giáp không mang tính chất chính thức và cho thấy rằng ông là một người kiên định – có người cho đây là tính kiêu ngạo về mặt trí thức – một người cá nhân chủ nghĩa dễ nổi giận khi bị can thiệp vào vai trò tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang của ông. Ông được mô tả như là "ngọn núi lửa dưới lớp băng tuyết" chính vì yếu tố được cho là nóng nảy đó.

Tướng Giáp có nhiều người ủng hộ nhưng cũng bị nhiều người gièm pha. Lúc còn công tác, ông thường xuyên đụng chạm với những người gièm pha và các đối thủ của ông, những người không ngần ngại chỉ trích ông. Những người phê phán ông xuất phát từ hai động cơ : Chủ nghĩa giáo điều về mặt ý thức hệ và lòng ghen tị, sợ rằng Tướng Giáp nổi tiếng sẽ làm quyền lực của họ suy yếu. Đấy là thời kỳ lãnh đạo tập thể vô danh.

Trong suốt sự nghiệp của mình, ông Giáp từng bị chỉ trích vì đã tìm kiếm một học bổng của chính quyền thực dân Pháp, có người thậm chí còn hàm ý rằng - nếu không nói là buộc tội ông - là một nhân viên Sở Mật thám Pháp.

Ông cũng bị đả kích vì học chương trình Pháp, có được bằng tú tài baccalauréat, học tại trường Trung học Albert Sarraut có uy tín, nơi ông đứng đầu môn triết học, và Trường Đại học Luật Hà Nội, nơi ông tốt nghiệp thủ khoa về kinh tế chính trị. Đối thủ của Tướng Giáp đã dùng thành tích học tập của ông để quật lại ông. Dẫu sao thì ông thành viên duy nhất trong ban lãnh đạo bên trong (tối cao) của Đảng có được một nền giáo dục phương Tây.

Các yếu tố không được phép nêu lên trong sự nghiệp của Tướng Giáp cho thấy một tập thể lãnh đạo chia rẽ và sự ganh đua rõ ràng giữa các cá nhân. Cuộc đối đầu giữa Tướng Giáp với nhà ý thức hệ Trường Chinh đã thành huyền thoại, tương tự như các cuộc đụng độ sau này của ông với Tướng Nguyễn Chí Thanh và ông Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất của Đảng Cộng sản.

Bất đồng với Trường Chinh về vai trò cố vấn Trung Quốc

Năm 1946, Trường Chinh, đứng thứ hai trong ban lãnh đạo sau Hồ Chí Minh, đã thất bại trong việc ngăn không cho ông Giáp được phong cấp Đại tướng và chức chỉ huy Quân đội Nhân dân. Trường Chinh và Tướng Giáp bất đồng về phạm vi và mức độ mà các cố vấn quân sự Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến chiến lược chiến trường của Việt Nam, và trên quyền của Tướng Giáp được đơn phương bổ nhiệm các trợ lý quan trọng.

Vào năm 1951, Tướng Giáp đã cho mở một cuộc tấn công quá sớm vào các vị trí kiên cố của Pháp ở đồng bằng sông Hồng. Chiến dịch thất bại và Quân đội Nhân dân bị thương vong nặng nề. Tướng Giáp bị buộc phải tự phê bình, cách chức một số phụ tá quan trọng, cho phép thành lập một hệ thống chính trị viên trong quân đội, và chấp nhận các cố vấn quân sự Trung Quốc ở các cấp độ khác nhau trong Quân đội Nhân dân.

Sau khi Chiến tranh Đông Dương đầu tiên (1946-1954) kết thúc Việt Nam bị chia cắt. Mặc dù Tướng Giáp đã có uy tín rất lớn, nhưng những kẻ đả kích ông vẫn tiếp tục thách thức quyền lực của ông và đặt nghi vấn về cách ông điều hành cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Bí thư Thứ nhất của Đảng là Lê Duẩn muốn đẩy mạnh việc lật đổ chính quyền miền Nam, ông Giáp thận trọng hơn và hai người kình chống nhau.

Phe gièm pha Tướng Giáp đã thành công trong việc đề bạt ông Nguyễn Chí Thanh (1959) và sau đó là ông Văn Tiến Dũng (1974) lên cấp Đại tướng. Trước lúc những người này được thăng cấp, chỉ có ông Giáp mang cấp Đại tướng mà thôi. Cả hai vị tướng mới đề bạt về sau, đều đã giành lấy quyền kiểm soát hoạt động chiến tranh trong Nam từ tay của ông Giáp.

Vào năm 1960, Tướng Giáp đã bị đẩy lùi từ hàng thứ tư xuống hàng thứ sáu trong Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba. Chủ trương chung sống hòa bình của lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev vào năm 1960 là điều đã tác hại đến nhiều người trong giới lãnh đạo Việt Nam.

Tướng Giáp, người thiên về phía Liên Xô – nước đã hỗ trợ quân sự cho Việt Nam – và có thái độ phê phán với Trung Quốc, đã không đồng nhịp với các lãnh đạo khác. Một lần nữa, ông đã bị các đồng chí chỉ trích.

Trong năm 1965, khi Hoa Kỳ tung lực lượng chiến đấu vào Việt Nam, Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh ra lệnh tung các đơn vị Quân đội Nhân dân miền Bắc vào cuộc chiến. Nguyễn Chí Thanh là người thiết kế chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 nhưng qua đời vì một cơn đau tim trước khi chiến dịch được thực hiện. Lực lượng Cộng sản miền Nam nằm vùng bị thương vong rất lớn, Tướng Giáp được phuc hồi và uy tín của ông tăng thêm.

Sau cái chết của Hồ Chí Minh vào năm 1969, một bộ ba lãnh đạo mới nổi lên : Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Vào thời điểm đó, Tướng Giáp nắm ba vai trò quan trọng : Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, ông không bao giờ lấy lại được quyền kiểm soát hoạt động của các lực lượng vũ trang. Tướng Giáp đã phản đối cả hai chiến dịch Tết Mậu Thân và chiến dịch Nguyễn Huệ 1972, và ý kiến ông đã bị bác bỏ cả hai lần.

Tháng 4 năm 1972, Tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ và đến tháng 10 năm 1973, ông được trao quyền chỉ huy của cuộc tấn công cuối cùng của cuộc chiến : Chiến dịch Hồ Chí Minh. Điểm đáng chú ý, đó là sự kiện chính một Ủy viên dân sự cao cấp của Bộ Chính trị - ông Lê Đức Thọ - chứ không phải là Tướng Giáp, là người ra chỉ thị cho Quân đội Nhân dân bắt đầu chiến dịch tấn công cuối cùng của mình bằng cách tấn công Ban Mê Thuột ở vùng Cao nguyên.

Sau năm 1975, bị gạt ra bên lề, nhưng vẫn lên tiếng

RFI : Về các hoạt động của ông sau năm 1975, một số người cho rằng ông đã hoàn toàn không còn vai trò gì, nhưng cũng có người thấy rằng người ta gạt được ông ra bên lề, nhưng không hoàn toàn bịt miệng được ông. Ý kiến ​​của Giáo sư như thế nào ?

Carl Thayer : Sau khi Việt Nam thống nhất, Tướng Giáp vẫn làm Bộ trưởng Quốc phòng cho đến năm 1980. Nhưng chính Tướng Văn Tiến Dũng là người chỉ huy quân đội Việt Nam đánh qua Cam Bốt vào cuối năm 1978 và bảo vệ miền Bắc Việt Nam vào tháng Hai - tháng Ba năm 1979 khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam để trả thù.

Rõ ràng ngôi sao của Tướng Giáp vào thời điểm đó lu mờ nhanh chóng. Năm 1976, Tướng Văn Tiến Dũng là người đọc báo cáo quân sự tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ tư, còn Tướng Giáp được phân công nói về các chính sách của Đảng về khoa học và công nghệ. Tướng Giáp cũng không thành công khi phản đối việc giao cho quân đội nhiệm vụ xây dựng đất nước sau chiến tranh. Ông đã phải cúi đầu trước nguyên tắc "tập trung dân chủ" của Đảng và bảo vệ chính sách của Đảng trước công chúng.

Tháng 2 năm 1980, Tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc phòng, nhưng vẫn giữ chức Phó Thủ tướng. Năm 1981, ông thoạt đầu bị giáng cấp từ Phó Thủ tướng thứ nhất xuống làm Phó Thủ tướng thứ ba. Đến tháng Ba năm 1982, Tướng Giáp bị loại ra khỏi Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ năm, nhưng vẫn giữ được chức Ủy viên Trung ương Đảng.

Tướng Võ Nguyên Giáp rất được lòng dân và có hậu thuẫn mạnh mẽ trong Đảng. Vào giữa những năm 1980, những người ủng hộ ông đã thất bại trong việc đưa ông lên thay thế ông Phạm Văn Đồng ở chức Thủ tướng. Cũng có rất nhiều tin đồn về việc những người ủng hộ Tướng Giáp vận động để ông trở thành lãnh đạo Đảng. Sau đó, ông Giáp lần lượt phụ trách vấn đề nhân khẩu học và kế hoạch hóa gia đình, rồi vấn đề giáo dục. Ông rời khỏi chính quyền vào năm 1991 khi về hưu trong tư cách là Phó Thủ tướng.

Rất khó đánh giá về những đóng góp của Tướng Giáp trong giai đoạn này. Việt Nam khi ấy được lãnh đạo tập thể, và cho đến năm 1986 vẫn tiếp tục đi theo mô hình kế hoạch tập trung không thành công của Liên Xô. Điều đáng nêu bật là Tướng Giáp tiếp tục hoạt động trong chính phủ cho đến năm tám mươi tuổi.

Kiên trì bảo vệ chủ quyền Việt Nam trước Trung Quốc

RFI : Có người cho rằng gần đây Tướng Giáp rất lo ngại về sự thao túng của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nhận định này có phần nào đúng hay không ?

Carl Thayer : Sự nghiệp quân sự lâu dài của Tướng Giáp cho thấy rõ là ông sẵn sàng chấp nhận sự giúp đỡ của Trung Quốc và kể cả những tư vấn, nhưng ông vẫn đấu tranh để giữ được sự tự chủ và độc lập trong hành động của Việt Nam.

Tướng Giáp nghiêng về Matxcơva nhiều hơn Bắc Kinh trong thời kỳ chiến tranh, vì sự chi viện quân bị to lớn của Liên Xô cho Việt Nam - bao gồm cả tên lửa phòng không. Mặc dù Liên Xô được cho là đã khuyên Tướng Giáp “thực hiện một vụ Afghanistan” bằng cách tấn công Cam Bốt và lật đổ chế độ Khmer Đỏ được Trung Quốc ủng hộ, Tướng Giáp vẫn chống lại việc can thiệp quân sự trên quy mô lớn.

Khi Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa quan hệ trở lại vào năm 1991, Tướng Giáp đã hoàn toàn nghỉ hưu

Trong những năm tháng nghỉ hưu, Tướng Giáp rất được biết đến với hai lần lên tiếng.

Năm 2004, ông đã viết thư cho Bộ Chính trị phê phán sự can thiệp của tình báo quân đội (Tổng Cục II) vào các công việc nội bộ của Đảng.

Năm 2009, ông thu hút sự chú ý của công luận khi viết ba thư ngỏ gửi tới các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cảnh báo tác động môi trường của dự án khai thác bauxite, do Trung Quốc tài trợ, ở Cao nguyên Trung phần. Ông đề cập đến vấn đề này với lập luận rằng đó là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia.

Sự kiện đó gây ra một dây chuyền cộng hưởng trong dân chúng nói chung, đang ngày càng lo lắng trước sự quyết đoán của Trung Quốc tại Biển Đông.

Vị anh hùng Việt Nam cần khi phải đối mặt với ngoại bang xâm lược

RFI : Giáo sư giải thích thế nào về việc Tướng Giáp được lòng dân đến như vậy ?

Carl Thayer : Tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà chiến lược quân sự tầm cỡ thế giới. Vào năm 1944 - khi ông chỉ huy một trung đội 34 người - ai có thể nghĩ được rằng trong vòng 10 năm, ông đã phát triển lực lượng lên thành một quân đội có hàng trăm ngàn binh sĩ và đánh bại được Pháp, một trong những thế lực quân sự mạnh nhất vào thời điểm đó ? Tướng Giáp đã có được uy phong rất lớn với chiến thắng tại Điện Biên Phủ, một sự kiện đã để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời ông.

Sự được lòng dân của ông dựa trên nhiều nền tảng. Trước tiên, hàng triệu người Việt Nam đã phục vụ trong Quân đội Nhân dân khi Tướng Giáp là Tổng chỉ huy và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông là nguồn cảm hứng của họ. Các cựu chiến binh và gia đình của họ là một thành phần to lớn trong cư dân tại Việt Nam.

Thứ hai, sau Hồ Chí Minh và có thể Phạm Văn Đồng, Tướng Giáp là lãnh đạo quốc gia duy nhất nổi bật bên trên một ban lãnh đạo tập thể mờ nhạt. Ông có sức lôi cuốn, phát biểu lưu loát và truyền cảm hứng cho người dân. Ông là vị anh hùng mà Việt Nam cần có khi phải đối mặt với sự xâm lược của ngoại bang, từ năm 1946 đến 1973 và sau đó, trong những năm 2000, khi Trung Quốc đe dọa chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.

Sau thời gian làm một nhà quân sự, Tướng Giáp đã phụ trách những lãnh vực quan trọng liên quan đến sự phát triển như khoa học và công nghệ, dân số và kế hoạch hóa gia đình và giáo dục. Đó là nền tảng thứ ba của việc ông được lòng dân.

Uy tín Tướng Giáp trong dân chúng còn dựa trên sự thành công của ông trong suốt 64 năm phục vụ Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam và đất nước Việt Nam. Ông sẽ luôn luôn được tưởng nhớ như là người chỉ huy chính, đã đánh bại hai cường quốc lớn.

Rõ ràng, Tướng Giáp đã thu hút được cảm tình của cả hai thế hệ trẻ và già tại Việt Nam. Điều này được thấy qua việc người dân đủ mọi lứa tuổi thể hiện sự đau buồn, tự động đổ xô đến nhà ông để thắp nến và hương.

Tướng Giáp là hiện thân của một chính khách Việt Nam biết sử dụng trí tuệ để đưa ra các chiến thuật và chiến lược cho phép kẻ có vẻ là yếu đánh bại được kẻ mạnh.


Nguồn: RFI
1

Chính sách đối ngoại đu dây của Việt Nam

Tác giả: Dennis C McCornac - Đại học Loyola Maryland

Người dịch: Huỳnh Phan

12-10-2013

Cách tiếp cận chính sách đối ngoại mới của Việt Nam, mà một số nhà phân tích đã gán cho là ‘thêm bạn, bớt thù’, phản ánh vị trí bấp bênh như một con chim trên dây giăng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.


Trong vài tháng qua, các quan chức Việt Nam đã tổ chức một số cuộc họp cấp cao với các nhà lãnh đạo của cả hai nước này. Vào cuối tháng 7, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến Washington để thảo luận về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Tổng thống Barack Obama, làm nổi rõ mối quan hệ đã được cải thiện giữa hai cựu thù theo chiến lược ngày càng chú trọng tới châu Á của Mỹ. Hơn một tháng sau đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và nhắc lại chính sách lâu dài và nhất quán về củng cố và tăng cường quan hệ láng giềng và hợp tác với Trung Quốc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Cơn lốc ngoại giao này là bằng chứng cho thấy Việt Nam mong muốn duy trì mối quan hệ kinh tế và quân sự ổn định và bình thường với cả Trung Quốc và Mỹ, một cái gì đó đặc biệt quan trọng trong điều kiện trước đây Việt Nam đã từng có xung đột với mỗi nước này trong lịch sử, và cũng cho thấy tầm quan trọng của hai nước này đối với mục tiêu của Việt Nam muốn hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam lo lắng về sự trỗi dậy của Bắc Kinh, và chính sách đối ngoại mới của họ là hướng tới việc chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực. Nhưng về mặt ý thức hệ, Việt Nam thấy thoải mái với Trung Quốc hơn với Mỹ. Còn về mặt kinh tế, Trung Quốc là một thị trường lớn, một nguồn giúp đỡ tài chính và một mô hình phát triển. Điều này đã đặt Việt Nam ở một vị trí không dễ chịu. Một quan chức chính phủ Việt Nam đã mô tả Việt Nam như đang đánh đu trên một sợi dây, do Trung Quốc giữ một đầu và Mỹ giữ đầu kia.

Một vấn đề về chính sách đối ngoại tiếp tục gây tai họa cho mối quan hệ Việt – Trung liên quan đến việc cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa. Vấn đề quan trọng nhất đang đe dọa là nước nào có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên trong và dưới các vùng biển xung quanh hai quần đảo này. Mặc dù trữ lượng đã qua kiểm chứng chưa xác định rõ, dự báo lạc quan nhất từ Trung Quốc cho thấy nguồn tài nguyên dầu tiềm năng của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và có thể lên đến 213 tỉ thùng dầu và khu vực này cũng rất giàu khí đốt tự nhiên. Cả hai quốc gia đã dự tính tới khả năng thực hiện hành động quân sự. Nhưng bây giờ, họ đã cam kết đàm phán một cách hòa bình tìm giải pháp bất chấp sức ép của những thành phần dân tộcchủ nghĩa ở cả hai bên vẫn kiên định về các vấn đề chủ quyền.

Căng thẳng kinh tế giữa hai nước cũng có thể phá hỏng mối quan hệ. Một mặt, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, đặc biệt là do nhu cầu vô độ của Trung Quốc về hàng hóa và các nguồn tài nguyên. Duy trì tăng trưởng kinh tế cho một quốc gia gần 1,4 tỉ công dân đòi hỏi một lượng tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, phần lớn trong số đó là phải nhập khẩu. Và vì Trung Quốc lùng sục khắp thế giới xây dựng các mối quan hệ kinh tế để bảo đảm nguồn cung cấp liên tục các mặt hàng như than đá, dầu thô, quặng sắt, nên việc họ tìm chỗ giúp đỡ ngay người láng giền gần gũi cũng là việc đương nhiên.

Mặt khác, các cách biệt giữa hai nước, đặc biệt là về tầm cỡ kinh tế và quyền lực chính trị, có nghĩa là việc mở cửa thị trường không phải là một tình thế win- win đúng nghĩa. Lưu lượng hàng hóa Trung Quốc, cả buôn lậu qua biên giới lẫn nhập khẩu hợp pháp vào thị trường Việt Nam, đã tác động tiêu cực đến sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng của Việt Nam, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Mối quan ngại đặc biệt ở Việt Nam là phần lớn các hàng hoá này đều có chất lượng thấp, nguồn gốc không rõ ràng và có thể chứa các chất độc và các chất có hại khác cho sức khỏe con người. Một số sản phẩm có thể làm ra được tại Việt Nam, nhưng vẫn còn nhập khẩu vì có lợi về giá thành. Sự phụ thuộc vào nhập khẩu Trung Quốc này đã đẩy nhiều doanh nghiệp Việt Nam tới mức báo động và việc Việt Nam nương tựa quá nhiều vào thương mại với Trung Quốc dự kiến là chỉ có tăng lên theo thời gian.

Tuy nhiên, ngoài những va chạm về kinh tế và tranh chấp lãnh thổ, mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam gần đây đã được cải thiện, và tính chất hòa giải các cuộc họp mới đây giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã mở ra một giai đoạn tương đối yên tĩnh. Cả hai nước đều có vẻ mong muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ song phương tốt hơn, và việc cải thiện trong quan hệ Trung- Việt có vẻ không có khả năng gây tổn hại mối quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, bất cứ khi nào Trung Quốc hoặc Mỹ rung sợi dây mạnh bạo hơn, Việt Nam cảm thấy mình đang ở một vị trí bấp bênh hơn, không biết đầu dây nào là điểm tựa an toàn nhất. Nếu chính phủ Việt Nam muốn tiếp tục đứng thẳng thì phải tránh liên kết quá chặt với nước này mà buông lơi mối quan hệ với nước kia.

Việt Nam hiện đang ở một thời điểm tương đối độc đáo trong lịch sử của mình. Đất nước thống nhất, và có đủ tiền đề kinh tế và chính trị để giữ một vai trò quan trọng trong khu vực. Nhưng sự trỗi dậy của tình cảm dân tộc dù ở Trung Quốc hay ở Việt Nam đều có thể báo trước nhiều thời kỳ rắc rối hơn trước mặt. Và như tuyên bố của một nhà ngoại giao Việt Nam, ‘Không ai nói ra một cách công khai, nhưng cái lôi kéo mỗi cuộc họp ở Đông Nam Á bây giờ là nỗi sợ hãi về việc khu vực sẽ như thế nào với sự khống chế của Trung Quốc’.

Dennis C McCornac là Giám đốc về các vấn đề toàn cầu tại Đại học Loyola Maryland. Ông chuyên về kinh tế và có hơn 20 năm kinh nghiệm sống ở Nhật Bản và Việt Nam.

Nguồn: East Asian Forum

Tiếng Việt: http://basam.info/2013/10/13/2065-chinh-sach-doi-ngoai-du-day-cua-viet-nam/
0

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Thời gian ‘chịu đựng’ của Tướng Giáp


Tại Việt Nam sau vài ngày có nhiều bài tập trung vào các chiến tích quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013), nay bắt đầu có các bài viết trên báo chí nói về giai đoạn ông bị thất sủng.

Trên trang PetroTimes, bài mới nhất của Đại tá nhà báo Nguyễn Như Phong thuộc ngành công an nói về “một số năm tháng Đại tướng không được như ý, đặc biệt là giai đoạn Đại tướng được phân công phụ trách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình."

Tác giả nhắc lại rằng "thời ấy, cũng đã có câu vè chua chát về việc này”.
Đại tá Phong còn bình luận:

“Xưa có câu ‘điểu tận cung tàng’ nghĩa là chim hết thì cung bị xếp xó, và vận vào công việc mới của Đại tướng ngày ấy mới thấy đúng làm sao”.

“Lại nữa, vào năm 1984, khi Kỷ niệm 30 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, chẳng hiểu vì lý do gì mà người ta không mời Đại tướng lên Điện Biên dự lễ kỷ niệm,”

“Đại tướng phải lên thăm lại chiến trường xưa và bà con Tây Bắc với tư cách cá nhân. Rồi trong các hội thảo tuyên truyền về Chiến thắng Điện Biên, người ta còn "ngại" không dám nói về vai trò của Đại tướng...”

Nhà báo Nguyễn Như Phong cũng nhắc lại rằng “có một thời kỳ, khu vườn ở 30 Hoàng Diệu nom như vườn hoang, với lá cây rụng đầy, ít người quét dọn và những bức tường cỏ mọc rêu phong”.

Một giai đoạn khác

Các nhà nghiên cứu bên ngoài đã viết nhiều về thời gian quan điểm của Tướng Giáp không được các lãnh đạo toàn quyền như Tổng Bí thư Lê Duẩn, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Lê Đức Thọ chấp nhận.

Nhưng tại Việt Nam, các bài viết chính thống vẫn chỉ nhằm nêu bật các điểm son trong sự nghiệp của ông Giáp.

Nay, một số cây viết bắt đầu nhắc đến những giai đoạn này.

Chẳng hạn, từ tháng 1 năm 1980, Tướng Giáp không còn làm Bộ trưởng Quốc phòng dù vẫn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Nhà văn Nguyễn Quang Vinh mô tả tâm lý người dân quê Tướng Giáp giai đoạn này trên trang giaoduc.net:

“Ngày ông không còn giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng, người Quảng Bình buồn, có người lặn lội ra Hà Nội gặp ông để hỏi cho ra mọi nhẽ “Vì sao Bác lại bị thôi chức?” “Vì sao Bác nghỉ” – “Vì sao Bác không có ý kiến?”. Đó là sự thật.”

“ Và ông mỉm cười hiền từ: "Mình vẫn đang làm việc cho cách mạng đấy chứ. Bác Hồ nói, Dĩ công vi thượng”.

Nhưng các cây bút này cũng nhấn mạnh về tính chịu đựng cao của vị tướng có chiến công lừng lẫy.
Ông Nguyễn Như Phong viết:

“Không thể nói rằng những năm tháng đó đối với Đại tướng là "thoải mái", và càng không thể nói rằng công việc mới mà Đại tướng được giao là vừa ý đối với Người...

“Nhưng tuyệt nhiên không có nửa lời bất đắc chí, không có một lời than thân, trách phận, không có nửa lời trách cứ... Thế mới biết, sức chịu đựng của Đại tướng thật phi thường và đúng là chỉ có bậc Thánh nhân mới chịu được như thế.”

Còn ông Nguyễn Quang Vinh chi sẻ cái nhìn từ góc độ một người Quảng Bình:

“Để làm được thế, như ông, có một chữ NHẪN, nhẫn mà không hạ mình, nhẫn mà không hèn, nhẫn không cho cá nhân mình mà cho cả giang sơn.”

Dù đa số các bài báo vẫn tiếp tục ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, dùng cả từ 'Người' chữ viết Hoa vốn thường dùng cho cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số bài báo cũng nhắc đến các chi tiết 'thật' hơn về Tướng Giáp.

Chẳng hạn như chuyện ông không có tài diễn thuyết như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Lê Trọng Tấn hay ăn nói hấp dẫn kiểu bình dân như Thượng tướng Đinh Đức Thiện.

Bài của tác giả Đỗ Tuyết, cũng trên giaoduc.net có viết:

"Viết đến đây, tôi lại nhớ chuyện vài người viết rằng Cụ không phải người hùng biện. Cụ có thể nói rất sắc sảo, khi cần. Nhưng Cụ đâu có cần thành người hùng biện,"

"Các vị Đại Tướng thực thụ trong lịch sử ít khi giỏi khoa hùng biện. Họ nhường cho người khác cái tài này."

Riêng về giai đoạn gây ra bàn tán trong sự nghiệp của Tướng Giáp là làm Phó Thủ tướng kiêm phụ trách mảng dân số, kế hoạch hóa gia đình, báo Lao Động có đăng bài kể lại lời người thư ký của ông, Đại tá Nguyễn Văn Huyên như sau:

"Sự thực là thế này, thời đó Thủ tướng Chính phủ là anh Phạm Văn Đồng. Trong một buổi họp của Chính phủ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đặt vấn đề 'Trước đây tôi kiêm phụ trách mảng Dân số, kế hoạch hóa gia đình, nay anh Văn phụ trách mảng khoa học kỹ thuật, thì có lẽ anh Văn phụ trách luôn về Dân số - kế hoạch hóa gia đình?'.

“Tất cả chỉ có thế, không có bất kỳ quyết định nào về việc này, không có phân công công tác... Tôi cũng biết sau đó dân đồn um lên, đàm tiếu, chê trách này kia… Tôi nghĩ anh Văn cũng nghe được dù không thấy anh nói gì với tôi,” theo Đại tá Huyên kể lại.

Nguồn: BBC
0

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

Giây phút cuối cùng của Đại tướng tại Viện quân y 108

(VNE- 10/10/13) Khoảnh khắc cuối cùng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên dương gian tại Viện Quân y 108, nơi ông đã điều trị suốt hơn 1.500 ngày, được khắc họa qua lời kể của những y bác sĩ đã trực tiếp chăm sóc ông. Đại tá Nguyễn Văn Nhựa, bác sĩ riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cho biết trước khi đi họp Hội nghị Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã vào thăm Đại tướng vào trưa 4/10 khi ông đã hôn mê. Đại tướng trút hơi thở cuối cùng vào hồi 18h09 cùng ngày. Thời khắc Đại tướng ra đi có đầy đủ Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương, lãnh đạo và các y bác sỹ Bệnh viện 108, gia đình ở bên cạnh. Con trai út của Đại tướng là anh Võ Hồng Nam chia sẻ: "Ba tôi như người đã đi hết quãng đường, như ngọn đèn đã cạn dầu để rồi ra đi một cách nhẹ nhàng. Bên cạnh ông những giây phút cuối có đầy đủ con, cháu và những người thân cận nhất".
Nguồn: VnExpress.
0

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Huyền thoại Võ Nguyên Giáp qua góc nhìn sử học

(RFI-06/10/2013) Đại tướng Võ Nguyên Giáp trút hơi thở cuối cùng chiều ngày thứ Sáu, 04/10/2013. Báo chí trong nước và quốc tế đồng loạt nhắc đến ông như một trong những bậc thầy chiến tranh kiệt xuất của thế kỷ XX, người có vai trò lớn trong việc làm thất bại tham vọng trở lại Đông Dương của đế quốc Pháp và các nỗ lực bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa của Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, sự ra đi của tướng Giáp gây nhiều xúc động.


Một ngày sau khi ông mất, Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam ra quyết định tổ chức quốc tang tướng Giáp trong hai ngày 12 và 13/10, như đòi hỏi của một số cựu tướng lĩnh, dù Võ Nguyên Giáp không nằm trong danh sách các lãnh đạo thuộc hàng tứ trụ. Tại Việt Nam, sự ra đi của tướng Giáp gây nhiều xúc động, cho dù công chúng đều biết việc ông liên tục điều trị tại bệnh viên trung ương quân đội ở Hà Nội từ nhiều năm nay, sự im lặng kéo dài của ông và khả năng sớm muộn ông sẽ ra đi.

Suốt cuộc đời mình, cho đến khi mất, tướng Giáp luôn nhận được một tình cảm đặc biệt từ một bộ phận đông đảo người Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ mang trên mình vầng hào quang của người tổng tư lệnh với những chiến thắng lẫy lừng, còn có một vầng hào quang khác bao phủ hàng chục năm trời kỳ lạ, khi ông nửa bị thất sủng, nửa vẫn được tin dùng.

Võ Nguyên Giáp không chỉ là một nhà quân sự xuất chúng. Trong giai đoạn trước và sau khi nghỉ hưu, ông dành nhiều thời gian để viết hồi ký về chiến tranh và tổng kết lý luận về chiến tranh. Đặc biệt điều mà công chúng rộng rãi ít để ý, đó là việc ông được coi là một trong những người đầu tiên dựng nên « tư tưởng Hồ Chí Minh » (trong những năm đầu thập niên 1990), tên gọi chính thống ở Việt Nam để chỉ hệ thống các nguyên tắc, quan điểm mang tính hành động của người mà ông luôn tự coi mình là một học trò trung thành, vào thời điểm Khối Liên Xô sụp đổ và chế độ cộng sản Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng ý thức hệ nghiêm trọng nhất kể từ khi ra đời. Gần mười năm sau, trong một xuất bản năm 2002 (bài "Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh"), nhà nghiên cứu Lữ Phương đã nhắc đến việc tạo ra khái niệm « tư tưởng Hồ Chí Minh » và đồng thời cũng chỉ trích việc xưng tụng « tư tưởng Hồ Chí Minh ». 

Trong những năm cuối đời, tên tuổi Võ Nguyên Giáp tiếp tục là nguồn động viên đối với nhiều trí thức, nhân sĩ Việt Nam, đặc biệt khi ông viết thư phản đối dự án khai thác bô xít tại Tây Nguyên, do Trung Quốc đầu tư. Phong trào phản đối bô xít quyết liệt, có tiếng nói của ông, sau đó buộc chính quyền phải hủy bỏ một phần kế hoạch, bị đánh giá là hết sức nguy hiểm cho môi trường và an ninh quốc gia.

Nếu như cách đối nhân xử thế, hay nói cách khác « đức độ » trong quan hệ con người của Võ Nguyên Giáp được một bộ phận đông đảo công chúng nhìn nhận, thì vai trò và thái độ của ông đối với tiến trình dân chủ hóa và việc xây dựng một thể chế chính trị thực sự của dân, do dân, vì dân tại Việt Nam, là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Một số người so sánh ông với tướng Trần Độ (1923-2002), người thực sự đứng về phía đổi mới trước hết trong văn nghệ, và sau này chủ trương triệt để đoạn tuyệt với chế độ độc đảng, độc tôn ý thức hệ Mác-Lênin.

Trong giới những người yêu quý và ngưỡng mộ Võ Nguyên Giáp, lan truyền giai thoại cho rằng trong nhà ông có treo chữ « Nhẫn », và nhờ thế, ông sống qua được suốt những năm tháng đầy biến động. Dù điều này bị thư ký của Võ Nguyên Giáp (đại tá Nguyễn Huyên) chính thức phủ nhận, bởi chữ « Nhẫn » có thể được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa tốt là « Kiên nhẫn » và nghĩa xấu « Nhẫn nhục ». Ngay cả cho đến khi qua đời, ắt hẳn nhiều bí ẩn vẫn bao trùm lên hình ảnh vị lão tướng nay đã đi vào lịch sử.

Trong tạp chí đặc biệt của RFI về đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng tôi hân hạnh có cuộc phỏng vấn với nhà sử học Dương Trung Quốc. Sau đây, xin mời quý vị nghe tiếng nói của một người đã có thời gần gũi với tướng Giáp trong tư cách một đồng nghiệp nghề sử.

Toàn bộ phần phỏng vấn với nhà sử học Dương Trung Quốc (Hà Nội)
 
06/10/2013
 
 

RFI : Thưa nhà sử học, vừa rồi chúng tôi chính thức được biết tin đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua đời. Mặc dù mọi người cũng đã chờ đợi, nhưng dẫu sao cũng là bất ngờ. Xin ông cho biết cảm nghĩ của ông trước sự kiện này.

Dương Trung Quốc : Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một nhân vật của lịch sử, mà đối với chúng tôi còn rất gần gũi, là một đồng nghiệp tiêu biểu của giới sử học hiện đại. Ông vừa là người làm nên lịch sử, và là người tổng kết lịch sử. Có thể nói, chính vì thế, đối với chúng tôi, cho dù ở tuổi đã rất thọ, và ai cũng biết rằng một thời gian dài, sức khỏe ông cũng đã rất là yếu, nhưng sự ra đi của ông đương nhiên cũng cảm thấy một sự đột ngột.

Sự ra đi có thể nói của người thuộc thế hệ cuối cùng, mà chúng tôi thường hay gọi là « thế hệ vàng ». Thế hệ sống vào thời điểm rất nhiều thử thách của lịch sử, và đã góp phần tạo ra những bước đi rất dài của lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự đánh giá về cái giai đoạn lịch sử này có thể còn khác nhau, nhưng ai cũng phải thừa nhận rằng, đó là bước đi rất dài của lịch sử, mà trong lịch sử ấy, đương nhiên Võ Nguyên Giáp sẽ là một tên tuổi không thể nào quên.

RFI : Thưa ông, để nói về câu chuyện đại tướng Võ Nguyên Giáp và lịch sử, xin ông cho biết thêm quan điểm của ông về vai trò của đại tướng Giáp đối với lịch sử, cụ thể là của Việt Nam và lịch sử nói chung.

Dương Trung Quốc : Tôi thấy, nếu chúng ta nghiên cứu kỹ, đại tướng Võ Nguyên Giáp không thuộc thế hệ đầu tiên, gắn liền với cái công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Thật ra ông tham gia vào những hoạt động chính trị từ rất sớm, nhưng vẫn thể hiện là một người trí thức đang đi tìm một con đường để đáp ứng một cái cao vọng, là giành lấy độc lập cho dân tộc, như rất nhiều người khác thuộc thế hệ ông ấy.

Nhưng có thể nói ông thực sự trở thành một Nhân vật, vào thời điểm mà lịch sử mà cuộc cách mạng giải phóng Việt Nam gắn liền với những biến cố của thế giới. Đó là khi cuộc chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ, và cơ hội cho dân tộc Việt Nam giành độc lập khỏi chế độ thực dân Pháp và đồng thời cũng chấp dứt chế độ phong kiến. Có thể nói, ở cương vị của một người hoạt động cách mạng sớm được đặt vào vị trí của một nhà lãnh đạo quân sự, mà rõ ràng đối với cuộc cách mạng này, vai trò của lực lượng vũ trang là hết sức quan trọng. Bởi vì, nếu nó có thể thành công nhanh chóng trong việc giành được độc lập dân tộc, thì để bảo vệ nền độc lập ấy, có thể nói người ta chứng kiến những cuộc chiến tranh triền miên, và đương nhiên cái vị thế của một nhà chính trị, nhưng lại giữ cương vị của một người đứng đầu lực lượng vũ trang, luôn luôn có một vai trò quan trọng trong nhận thức về lịch sử của mọi người.

RFI : Thưa ông, đại tướng Võ Nguyên Giáp mặc dù rất cao tuổi, nhưng trong giai đoạn cuối đời, cũng đã có những tham gia, được nhiều người đánh giá là có tính tích cực đối với sự chuyển đổi, hay nói cách khác, sự đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn rất kịch tích ở đầu thế kỷ XXI này. Rất mong được biết nhận định của ông.

Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ ở một góc nhìn hơi nghề nghiệp một chút. Đúng là ông trải qua những thời kỳ, có thể dùng chữ « oanh liệt », nhưng đồng thời cũng trải qua những thử thách rất là to lớn. Điều này thường xẩy ra trong những bước thăng trầm của lịch sử, đặc biệt ở những nhân vật đã từng có vai trò quan trọng ở những bước chuyển đổi. Nhưng có lẽ hơn nhiều người, là ông đã dành được khá nhiều thời gian để làm được việc tổng kết lịch sử, với tư cách là nhà lịch sử, một cái nghề mà ông đã xác định được ngay từ khi còn trẻ. Có thể nói rất ít chính khách lớn nào, mà có thể dành được thời gian tổng kết và đã viết nhiều pho sử, theo đúng nghĩa đen của chữ.

Chúng tôi thường hay khái quát, không biết có chính xác hay không, là hình như những người « không thành đạt trọn vẹn » trên con đường chính trị, thì lại thường là những người có đóng góp to lớn về tổng kết lịch sử, như một Đào Duy Anh, như một Trần Văn Giàu, như một Trần Huy Liệu chẳng hạn. Tôi cho rằng, trong cái rủi cũng có cái may. Vì thế mà đến nay chúng ta còn có được trong tay nhiều tác phẩm ông để lại. Tôi cho đó là cái đóng góp rất lớn của ông đối với lịch sử.

Và có lẽ một lợi thế khác, mà trời cho, là ông có được một tuổi thọ rất cao. Cho nên là chính vì thế mà ông không những có mặt trong những thời kỳ chiến tranh cách mạng, mà ngay trong quá trình chuyển đổi rất cơ bản, thì ông cũng có cơ hội được tham gia. Và trong chừng mực nào đó, ta hiểu là có những đối thủ chính trị, thì hầu như những đối thủ đó đã qua đời trước ông. Vì thế tôi cho là đấy cũng là một ngẫu nhiên của lịch sử, mà nó tạo cho một Võ Nguyên Giáp có một tuổi thọ, nhưng đồng thời có cả những độ dài, độ chín muồi trong những đóng góp của ông về lịch sử dân tộc Việt Nam và việc tổng kết lịch sử Việt Nam.

RFI : Vừa rồi ông có nói đến đại tướng có "sự không thành đạt" nhất định trong cuộc đời mình. Xin ông cho biết thêm về ý này.

Dương Trung Quốc : Tôi muốn hiểu sự thành đạt hiểu theo nghĩa thông thường, hiểu theo nghĩa thăng tiến trong vị trí chính trị - xã hội. Chắc ai cũng biết rằng, sau khi ông ấy đã có mặt ở trong những giai đoạn lịch sử hết sức quan trọng, mà sau đó ông cũng ở những thời điểm, mà rõ ràng ông đã ở trong những vị trí rất khiêm tốn trong hệ thống chính trị ấy. Nhưng ông đã biết cách sử dụng cái thời gian, cái hoàn cảnh để tiếp tục cống hiến cho xã hội, cho đời sống, bằng chính những hoàn cảnh của mình. Và tôi cho rằng đấy là bài học rất rõ, ít nhất là đối với các chính khách ở Việt Nam. Bởi vì khi tôi nhắc đến câu chuyện của Trần Huy Liệu, Đào Duy Anh hay là của Trần Văn Giàu chẳng hạn, thì chắc chắn nếu như những con người ấy thành đạt trong chính trị, thì thứ nhất, đơn giản là họ không có thời gian để làm cái tổng kết và có thể họ cảm thấy lịch sử chỉ là cái gì thuận chiều, mà không thấy cái khắc nghiệt, và cái « quy luật » của lịch sử. Vì thế thường là tổng kết của họ sâu sắc hơn những người thành đạt, hiểu theo nghĩa là (chính trị) chính thống.

RFI : Thưa ông, với những người không chuyên, những người hiểu biết ít về lịch sử, đặc biệt là thế hệ trẻ, về những « tổng kết » về lịch sử mà đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thực hiện, xin ông cho biết một đôi tác phẩm, mà theo ông là có dấu ấn.

Dương Trung Quốc : Thứ nhất, với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, có mặt trong những giai đoạn lịch sứ lớn, có thể nói ông là một trong những người sớm có ý thức tổng kết lịch sử ấy bằng chính trải nghiệm cuộc đời của mình, dưới hình thức những hồi ức đi suốt gần như tất cả các giai đoạn, từ khi ông tham gia vào các hoạt động chính trị ở Việt Nam. Và có thể nói điều đó rất hiếm có trong các chính khách lớn ở Việt Nam. Cái thứ hai là, với tư cách những người cầm quân, ông đã viết nhiều, đặc biệt là « chiến tranh nhân dân », « chiến tranh du kích », có thể nói đấy là những nét độc đáo, đặc trưng, không những đóng góp cho lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, mà đánh giá của những nhà lịch sử chiến tranh trên thế giới (về điểm này) rất cao. Đương nhiên, đây là cuộc chiến tranh chung của cả một dân tộc, hay là của một đảng cách mạng, đảng chính trị.

RFI : Thưa ông, ông nói phần cuối đời, mặc dù tuổi cao, nhưng tướng Giáp vẫn có một số đóng góp nhất định. Vậy xin ông cho biết cụ thể những đóng góp về những lĩnh vực nào ?

Dương Trung Quốc : Có thể có một may mắn, là năm 1988, khi Hội sử chúng tôi được phục hồi, ông cũng là Chủ tịch danh dự của Hội sử học Việt Nam. Nhờ đó, mà chúng tôi có nhiều cơ hội được gần gũi ông. Trước hết là trong những công việc liên quan đến lịch sử, đến giáo dục, đến truyền thống… Nhưng qua đó cũng thấy được tính chất tổ chức, cũng như tính chất trách nhiệm rất lớn của ông, không bỏ qua những vấn đề của đời sống và sẵn sàng góp tiếng nói của mình vào tiếng nói chung, như là một sự « phản biện » xã hội của một người có cả một bề dày lịch sử và một uy tín xã hội rất lớn. Tôi lấy ví dụ như, từ cái chủ trương xây nhà Quốc hội mới (năm 2007) chẳng hạn, hay liên quan đến những công trình lớn, chủ trương lớn, như thủy điện Sơn La (khởi công 2005, hoàn thành 2012, công suất 2400 MW, nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam). Ông bàn rất kỹ về vấn đề cao độ của đập, với phân tích của một nhà quân sự. Hay những việc liên quan đến chủ trương khai thác bô xít ở Tây Nguyên (với đầu tư của Trung Quốc, gây một làn sóng phản đối dữ dội tại Việt Nam từ năm 2009).

Ông luôn luôn đứng ở vị thế của một người có tinh thần trách nhiệm, với tất cả trải nghiệm và uy tín của mình, thẳng thắn nêu ra những quan điểm của ông. Nhưng tôi nghĩ ông là con người hết sức "có ý thức tổ chức", và ông làm đúng công việc mình cần phải làm, và tạo ra một dư luận xã hội đồng thuận cao. Còn tất nhiên, kết quả chúng ta đều biết rồi, cũng chỉ giới hạn là một tiếng nói thức tỉnh thôi.

RFI : Trở lại với câu chuyện « thế hệ vàng » mà ông vừa nói, thì đại tướng Võ Nguyên Giáp là người cuối cùng hay một trong những người cuối cùng của thế hệ này ?

Dương Trung Quốc : Chắc chắn đứng về mặt tuổi tác (so với những người thuộc) thế hệ cùng thời, thì có thể nói ông là người cuối cùng. Hơn một trăm linh ba tuổi thì khó có ai theo kịp về mặt sinh học thôi. Đối với những người thanh danh trong lịch sử thuộc thế hệ như ông, thì càng hiếm. Nên tôi nghĩ là người cuối cùng thì cũng không sai.

RFI : Thưa ông, có một câu hỏi nữa là : Thế hệ các trí thức và chính trị gia gọi là « thế hệ vàng » này có sự tiếp nối hay không, hay là có một sự hụt hẫng ?

Dương Trung Quốc : Khi chúng ta nói đến thế hệ vàng, thì không chỉ nói về các chính khách. Có thể nói là một thế hệ có một hoàn cảnh lịch sử chung, đó là họ đã tiếp nhận được, và vẫn còn giữ được những giá trị của nền quốc học cổ điển, cho dù đầu thế kỷ XX đã mai một rồi, đồng thời lại tiếp nhận được cả một nền văn minh phương Tây, cho dù đó là thời kỳ thuộc địa. Và cộng với đó là một khao khát cho mục tiêu dành độc lập, cũng như vươn tới những giá trị về dân chủ. Chính vì thế, chúng ta thấy xuất hiện, nẩy nở, không chỉ trong lĩnh vực chính trị, kiểu như đại tướng Võ Nguyên Giáp, hay như các chính khách cùng thời. Mà tôi thấy ngay trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, chúng ta cũng thấy cũng có một thế hệ, mà những thế hệ sau này gần như không còn được những phẩm chất ấy nữa. Tôi nói đây không phải là so sánh hơn kém, mà là hoàn cảnh lịch sử khi đó. Và sự kế thừa tôi nghĩ là có phần nào đó bị đứt đoạn.

RFI : Có liên quan đến thế hệ những nhân vật xuất sắc của thế hệ trước, mà vẫn còn sống, như giáo sư Hoàng Tụy chẳng hạn, không phải là người cao tuổi như đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhưng là người có nhiều đóng góp trước kia trong giáo dục, và bây giờ tiếp tục chủ trương trong việc chấn hưng giáo dục. Những con người đó có thể gọi là những người tiếp nối « thế hệ vàng » hay không ?

Dương Trung Quốc : Đương nhiên tôi nói sự đứt đoạn này là do những hoàn cảnh lịch sử tạo ra, do những bước ngoặt lịch sử. Thí dụ như từng thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, với mục tiêu dành độc lập dân tộc, cho đến thời kỳ xây dựng một xã hội được gọi là mới, nhưng phải nói là vẫn còn đầy những dấu hỏi, như hiện nay. Một sự tìm tòi. Sự tìm tòi có thể là cần thiết, nhưng mà rõ ràng có những yếu tố mà tạo nên sự hụt hẫng. Vì thế mà, không phải tự nhiên ta thấy dường như thế hệ như giáo sư Hoàng Tụy đã cố gắng vượt qua cái đó. Và thường ông là tiếng nói "phản biện" nhiều hơn là tiếng nói đồng thuận với "sự phát triển" hiện nay.

RFI : Tức là ông muốn nói đến là thế hệ tiếp nối đó, thì cũng phần nào tiếp tục được của cái thời trước, ý ông có phải thế không ạ ?

Dương Trung Quốc : Tôi hoàn toàn nghĩ như thế. Vì cái động lực lớn nhất của cái thời kỳ mà lịch sử đã chứng minh là tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước. Còn bây giờ, rõ ràng có rất nhiều động lực mới, mục tiêu mới, có thể nó chưa tạo được niềm tin, chưa tạo được sự đồng thuận. Tôi nghĩ sự phản biện của những người như giáo sư Hoàng Tụy, vào những vấn đề rất cụ thể của đời sống, đương nhiên là những vấn đề rất quan trọng, vấn đề giáo dục. Tôi cho là tiếng nói của sự kế thừa.

RFI : Thưa nhà sử học, có một vấn đề mà các nhà nghiên cứu cũng nói nhiều, nhưng mà công chúng cũng có thể ít người để ý đến, tức là vai trò của đại tướng Võ Nguyên Giáp trong việc nghiên cứu và phục dựng, điều mà sau này vẫn gọi là « tư tưởng Hồ Chí Minh ». Cuối những năm 1980, đầu 1990, có một số người cho rằng ông là người đầu tiên làm việc này. Xin ông cho biết cụ thể về việc này.

Dương Trung Quốc : Tôi có may mắn là lần đầu được tiếp xúc trực tiếp với đại tướng, thì ngoài mối quan hệ trong hội Sử ra, thì lúc đó tôi là phó viện trưởng Viện Sử học Việt Nam. Lúc đó, đại tướng có một chuyến đi sang Ấn Độ. Và theo tôi nhận thức, thì chính bài phát biểu tại Ấn Độ có thể là bài sớm nhất và hết sức sâu sắc về tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực ra tôi cũng chỉ đóng góp vào khâu chuẩn bị về mặt tư liệu, với tư cách là ở Viện Sử học mà thôi. Nhưng tôi thấy đại tướng rất là quan tâm đến bài viết này. Và sau này chúng tôi nhớ rằng, bài viết này được đăng tải và theo nhận thức của chúng tôi, đó là bài viết đầu tiên khởi động cho việc nghiên cứu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là thời điểm khoảng đầu năm 1990, lúc đó ông còn ở cương vị phó thủ tướng.

RFI : Cũng nhân câu chuyện này, về việc khôi phục tư tưởng Hồ Chí Minh, thì sau đó dường như "Cương lĩnh" của đảng Cộng sản Việt Nam (1991) lấy đó làm tư tưởng chính thức, và sau đó, 10 năm sau, thì trở thành một môn học trong nhà trường.

Dương Trung Quốc : Ta nhớ rằng, đó là thời điểm mà lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội đang khủng hoảng, với sự sụp đổ từng bước của các nước Đông Âu, và sau đó là Liên Xô. Cho nên cái việc ra đời của cái « tư tưởng Hồ Chí Minh », tôi nghĩ cũng là một giải pháp để điều chỉnh lại những quan điểm liên quan đến lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Bởi vì đại tướng Võ Nguyên Giáp có vai trò rất lớn trong chuyện này, xin ông cho một đôi nét về cái hệ quả của chuyện này đến đường lối chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm về sau.

Tôi nghĩ, nếu ra đặt vấn đề, nó như là sự khởi đầu, thì ta thấy không ngạc nhiên, khi cái người đặt nền tảng xây dựng cho nó chính là Võ Nguyên Giáp. Cho đến bay giờ, trong người dân, cũng như đánh giá chính thức của Nhà nước, vẫn cho ông là người học trò trung thành nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tất cả những giai đoạn lịch sử và những biến cố quan trọng nhất. Vì thế tôi nghĩ rằng, việc mà tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành trong thời kỳ, mà sự khủng hoảng của lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội, chính là điều chỉnh lại đường lối của cách mạng Việt Nam. Nó vẫn không từ bỏ con đường chủ nghĩa xã hội, nhưng nó muốn tìm lại những giá trị, trong đó có cả những giá trị truyền thống… và rõ ràng là nó góp phần làm cho người dân có thể giải thích được những cái thất bại của « học thuyết xã hội chủ nghĩa » (của khối Liên Xô cộng sản) trên thế giới, đang diễn ra vào thời điểm đó, như là những sai lầm mà Việt Nam muốn tiếp tục con đường ấy, thì tự phải điều chỉnh mình và tìm lại những giá trị của chính mình.

RFI : Sau này, sau khi « tư tưởng Hồ Chí Minh » được khẳng định, và trở thành một môn học, thì cái ý thức hệ theo kiểu cực đoan « Xít-ta-lin » như người ta gọi hồi xưa, thì bị loại bỏ dần dần ra khỏi ý thức hệ chính thống, về mặt lý thuyết ?

Dương Trung Quốc : Cái điều chỉnh quan trọng nhất, chính là nhận thức về thực tiễn Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều nhớ rằng, năm 1924, khi Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sang nước Nga nghiên cứu về học thuyết Mác-Lênin, thì có một tài liệu lưu trữ mà các nhà nghiên cứu đảng Cộng sản Pháp cũng phát hiện, và hiện nay nằm trong "Toàn tập Hồ Chí Minh". Đó là bản "báo cáo về Bắc Kỳ và Trung Kỳ" năm 1924. Có thể nói là ngay từ thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc có quan điểm là cần nhìn vào thực tế Phương Đông nói chung, và thực tế Việt Nam nói riêng, để khắc phục những yếu tố xa thực tế trong đường lối chính trị của Quốc tế Cộng sản lúc đó, về quan niệm đấu tranh giai cấp. Tôi nhớ rất rõ là trong văn bản ấy, Nguyễn Ái Quốc nói là cần phải nhìn nhận thực tiễn của Việt Nam, Việt Nam không phải là Châu Âu, thời điểm đó không phải là thế kỷ thứ 18, khi học thuyết của Mác hình thành. Bởi vậy, cho nên đấu tranh giai cấp hình như nó chưa thích hợp với thực tiễn của Việt Nam, và điều đó nó thể hiện rất rõ ở cả hai chiều hướng, ở trong những sai lầm của đảng Cộng sản Đông Dương, khi mà đặt đấu tranh giai cấp như hòn đá tảng, thì chính cái đó dẫn đến thất bại trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Và nếu nhìn vào cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, thì rõ ràng là tư tưởng của Hồ Chí Minh muốn nhìn Việt Nam trong hoàn cảnh của nó, dưới ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, chứ không phải là/thay vì đấu tranh giai cấp. Đã có những thành công rất rõ rệt trong thời kỳ Cách mạng tháng 8.

Tiếc rằng sau này, do nhiều tác động, thì gần như là những quan điểm ấy, có những lúc phải lùi bước trước những khuynh hướng tả khuynh trong phong trào cộng sản quốc tế nói chung, và ngay trong đường lối cách mạng Việt Nam nói riêng. Vì thế tôi cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhận thức lại thực tiễn của Việt Nam, và chấp nhận những giá trị mang tính chất truyền thống, và đây chính là vấn đề dân tộc.

RFI : Có một câu hỏi cuối cùng, nếu được ông cho phép. Trong cuộc đời của đại tướng Võ Nguyên Giáp, mọi người đều rất quan tâm đến giai đoạn lịch sử mà ông nói là thăng trầm, kéo dài tới hai ba mươi năm (từ những năm 1960 đến những năm 1990). Thì theo ông, câu chuyện này có thể trở thành một đề tài nghiên cứu lịch sử (của những nhà khoa học Việt Nam) được không ? Ở Việt Nam, dường như là giới sử học ít có thể làm việc được về điều này ?

Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ là bản thân mỗi một nhân vật lịch sử hay một hiện tượng lịch sử là cả một nhận thức, nó cũng phản ánh phần nào cái nhu cầu của đời sống chính trị, đời sống văn hóa của xã hội đương thời. Cho dù nó có thể xuất hiện trên những phương tiện thông tin đại chúng, hay là trong các cuộc sinh hoạt sử học hay không, thì tôi nghĩ nó vẫn tồn tại như một vấn đề, mà thực ra nghiên cứu về những sự kiện đó, nó không chỉ liên quan đến cá nhân một con người mà nó cũng phản ảnh những đặc trưng của một thời kỳ lịch sử, mà chắc là quốc gia nào, hay lịch sử của dân tộc nào cũng có những cái tương tự như vậy.

Riêng đối với tướng Võ Nguyên Giáp, thì tôi nghĩ là, chính thời gian ủng hộ ông. Không những ông được sống thọ hơn nhiều người khác, mà điều quan trọng hơn là cùng với thời gian là, gần như là, cái uy tín của ông ngày càng cao. Ngày càng cao, không chỉ bằng những đóng góp trong quá khứ, mà tôi nghĩ ngay là những gì ông đóng góp, khi ông đã ở tuổi rất cao rồi. Việc này càng khẳng định điều đó, nó tạo ra một cái vị thế của ông trong đời sống xã hội, đời sống tinh thần. Nói cách khác, có thể thấy ông không phải là người thành đạt, đạt tới cái đỉnh cao quyền lực, nhưng mà rõ ràng ông đã đạt tới đỉnh cao về mặt uy tín, và nhất là cái lòng người. Tôi nghĩ đấy là cũng là một hiện tượng xã hội, mà sau này cũng đáng để nghiên cứu.

RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà sử học Dương Trung Quốc đã dành thời gian cho tạp chí đặc biệt về đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Tin bài liên quan

Tin về Tướng Giáp : Internet qua mặt báo chí chính thức Việt Nam

Tướng Võ Nguyên Giáp: Từ nguyên khí đến vĩnh hằng

Tang lễ Đại tướng Võ Nguyên Giáp gây bối rối cho chính quyền

Kỷ niệm với Tướng Giáp trong thời ''sửa sai'' Cải cách ruộng đất

Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời

Võ Nguyên Giáp : Một nhà sử học thẳng thắn

Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu ngừng dự án khai thác bauxite tại Tây Nguyên

Tại Việt Nam, ưu tư hàng đầu của tướng Võ Nguyên Giáp vẫn là an ninh quốc gia

Công luận thế giới tiếp tục quan tâm đến cuộc chiến chống bauxite của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp

“Triết học Mác-Lê”, “Tư tưởng Hồ Chí Minh”: Môn bắt buộc ở đại học?

Stalin là lãnh tụ tài ba hay bạo chúa khát máu ?

Tại Việt Nam, « Sách giáo khoa hiện nay làm học sinh không tin cậy vào môn lịch sử »

Lễ hội đền Trần : Hào quang quá khứ, lo âu hiện tại

0