Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoa Kỳ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoa Kỳ. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2018

Donald Trump và 5 cuộc chiến định vị lại nước Mỹ và thế giới


Tác giả: Hoàng Anh Tuấn

Khi nói đến tình hình thế giới hiện nay, câu chuyện cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung và xa hơn một chút là nguy cơ đối đầu toàn diện về kinh tế, chính trị, chiến lược, khoa học kỹ thuật giữa cường quốc số một và số hai trong việc tranh ngôi bá chủ toàn cầu cùng các tác động của cuộc đối đầu này dường như đang chi phối mối quan tâm của thế giới.


Cuộc đối đầu này sẽ kéo dài bao lâu? Sau nhiệm kỳ của Tổng thống Trump hay sẽ kéo dài tới 45 năm như Chiến tranh lạnh Mỹ – Xô trước đây? Khó ai có thể dự báo chính xác, nhưng chắc chắn sẽ không kết thúc nhanh chóng.

Tỷ phú giàu nhất Trung Quốc Jack Ma đã “chuẩn bị tinh thần” cho giới lãnh đạo chính trị và kinh doanh Trung Quốc rằng Trung Quốc và thế giới cần phải chuẩn bị cho một cuộc chiến thương mại Trung – Mỹ có thể kéo dài đến 20 năm, tức sẽ kéo dài nhiều năm sau khi Trump không còn là Tổng thống Mỹ nữa.

Ở một góc độ nào đó, việc dư luận quan tâm đến khía cạnh thương mại và đối đầu chiến lược giữa hai cường quốc này là đúng nhưng chưa đủ vì nó mới chỉ phản ánh được một phần những chuyển động lớn đang chi phối cục diện thế giới hết sức phức tạp hiện nay.

Tạm thời chưa bàn đến chiến lược mới của Trung Quốc nhằm định vị lại vị thế quốc tế mới của mình và nỗ lực xây dựng một trật tự và hệ thống quan hệ quốc tế mới trong bài viết này, mà chỉ tập trung vào những chuyển động lớn từ Mỹ bắt đầu từ dưới thời Tổng thống Donald Trump.

Rất khó để hiểu chính xác Trump, ông ta muốn gì, sẽ làm gì, làm như thế nào và làm được đến đâu. Việc lãnh đạo Trung Quốc không hiểu rõ, phán đoán sai, rồi có những bước đi khiến “cuộc chiến thương mại” lúc đầu tưởng như chỉ bắt đầu từ những “xích mích” nhỏ, rồi lan ra thành cuộc đối đầu kinh tế, thương mại toàn diện… cần xem là chuyện “bình thường”.

Ngay chính trong lòng nước Mỹ, dù thích hay không thích nhưng có một thực tế là không chỉ các đối thủ, mà ngay các đồng minh chính trị cũng không hiểu Tổng thống muốn gì, còn người dân và giới doanh nghiệp thì “thấp thỏm” chờ đợi các dòng “tweets” hàng ngày của Tổng thống để phán đoán hành động tiếp theo. Chưa kể sự thể còn bị “rối bung” khi hàng ngàn tờ báo từ cánh tả tới cánh hữu lao vào bình luận, mổ xẻ, phân tích, rồi bút chiến nhằm dẫn dắt dư luận theo nhiều chiều hướng khác nhau khiến thông tin trở nên “nhiễu loạn”.

Tất cả những cái đó rất dễ dẫn dắt người đọc, dư luận đi vào các tiểu tiết, hoặc bỏ qua và không thể nhìn thấy các chiều hướng chính sách, các chuyển động lớn sẽ chi phối nước Mỹ và nền chính trị thế giới trong nhiều thập niên tới, được khái quát thành “5 cuộc đại chiến” của Trump.

Ở đây chưa bàn đến cái hay, cái dở, cái đúng, cái sai của các cuộc chiến này. Nhưng đây là thực tế những gì Trump đang làm và dù thích hay không thì nước Mỹ và thế giới cũng phải sống chung và thích ứng với thực tế này chừng nào mà Donald Trump vẫn còn là Tổng thống Mỹ.

Tìm đọc nhiều tư liệu, nhưng tôi cũng kinh ngạc khi phát hiện dường như trong lịch sử thế giới cận đại gần 500 năm qua, THẾ GIỚI CHƯA TỪNG CHỨNG KIẾN một nhân vật lãnh đạo nào của một quốc gia hùng mạnh nhất thế giới như Donald Trump lại cùng lúc phát động 5 “cuộc chiến sống mái” trên 5 mặt trận khác nhau.

Cần nhớ, trong các bài học lịch sử kinh điển, chỉ cần thắng hay thua trong một cuộc chiến, chỉ một cuộc chiến thôi, đã đủ để lưu danh muôn thuở hay chôn vùi vĩnh viễn danh tiếng bất kì một tổng thống nào của nước Mỹ.

Vậy 5 cuộc chiến đó là gì?

Cuộc chiến thứ nhất: Xác lập “giá trị bảo thủ” và tìm cách đẩy lui các “giá trị tự do”
Cuộc chiến này thể hiện qua cuộc đấu quyết liệt giữa hai phe Cộng hòa và Dân chủ qua việc đề cử Thẩm phán Brett Kavanaugh vào vị trí thẩm phán suốt đời tại Tòa án tối cao (Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ) gồm 9 người thay cho Thẩm phán Anthony Kennedy. Thẩm phán Kennedy được Tổng thống (TT) Reagan bổ nhiệm năm 1987 và về hưu năm 2018 sau 31 năm ở cương vị này.

Việc đề cử vị trí thẩm phán thứ 9 Tòa án tối cao diễn ra ngay trong nhiệm kỳ đầu của TT Cộng hòa Trump và trùng hợp với thời điểm đảng Cộng hòa đang kiểm soát đa số (dù mỏng manh) tại Thượng viện, đang giúp TT Trump lựa chọn người cùng quan điểm qua đó ghi dấu ấn, tạo ảnh hưởng bảo thủ và góp phần định vị bản sắc của nước Mỹ trong nhiều thập niên sau này. Tất nhiên, cần hiểu rõ đây không phải là những quan niệm bảo thủ hay tự do mà ta và nhiều nước khác quan niệm, mà chủ yếu liên quan đến các vấn đề xã hội, tôn giáo, thuế, tự do cá nhân và đạo đức của người Mỹ.

Vị trí Thẩm phán Tối cao Pháp viện là vị trí đầy quyền lực trong hệ thống chính trị tam quyền phân lập tại Mỹ, có quyền giải thích hiến pháp, các đạo luật của Quốc hội, sắc lệnh của Tổng thống xem có vi hiến hay không, cho ý kiến về các vụ xét xử gây tranh cãi, dư luận quan tâm thông qua hình thức bỏ phiếu.

Lấy ví dụ về sắc lệnh cấm người Hồi giáo từ 6 quốc gia Hồi giáo nhập cư vào Mỹ khi Tổng thống Trump mới lên cầm quyền. Khi đó Tối cao Pháp viện phải ra phán quyết đây là sắc lệnh không vi hiến thì Sắc lệnh này của Tổng thống mới được thực thi.

Chỉ đơn cử một việc như vậy đã giải thích tại sao cả hai phe Dân chủ và Cộng hòa một bên thì kịch liệt phản đối, còn bên kia thì ủng hộ bằng mọi giá ứng cử viên Thẩm phán Tối cao Pháp viện thông qua cuộc Điều trần đang diễn ra và tiếp theo là màn bỏ phiếu hết sức gay cấn ngay trước thềm bầu cử giữa nhiệm kỳ vào tháng 11/2018.

Và cũng cần nhắc lại là các Tổng thống Mỹ như Ronald Reagan, Bill Clinton, George Bush từng không thành công lần đầu khi các ứng viên cho vị trí Thẩm phán Tối cao Pháp viện của mình không vượt qua được vòng điều trần hoặc bỏ phiếu tại Quốc hội.

Cuộc chiến thứ hai: Chống lại ngay chính đảng đề cử mình để bảo vệ những giá trị bảo thủ cốt lõi của những người Cộng hòa theo quan điểm của Trump
Đây là điều tưởng chừng là nghịch lý, nhưng lại là thực tế. Lần ngược lại thời gian trước cuộc bỏ phiếu Tổng thống Mỹ tháng 11/2016, Trump khi đó bị những lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng hòa xem là “đứa con hoang” (pariah), đi ngược dòng chủ lưu.

Nhưng trái với hầu hết các dự báo, Trump – một người chưa hề có kinh nghiệm chính trường – lần lượt đánh bại từng đối thủ một vốn là các nhân vật lãnh đạo gạo cội và “ngôi sao” trong đảng Cộng hòa như Rand Paul, Mitch Romney, McGovern…

Thông thường trong chính trị Mỹ “cuộc chiến nội bộ” thường kết thúc khi đã có phân định thắng thua. Tuy nhiên, với Trump thì ngược lại. Với tỷ lệ ủng hộ lên tới 85% các cử tri Cộng hòa, Trump gần như không có các đối thủ nặng ký trong đảng Cộng hòa nên mạnh tay tấn công các “cây đa, cây đề”, các thiết chế mà Trump xem là “trì trệ” trong đảng Cộng hòa để xây dựng liên minh mới, thúc đẩy các ý tưởng bảo thủ và cải cách.

Còn các lãnh đạo Cộng hòa trong khi tiếp tục tận dụng ảnh hưởng của Trump để mở rộng uy tín của Đảng, thì cũng đấu quyết liệt không kém với Trump trong nội bộ đảng để chống lại một số cải cách mà họ xem là “nguy hại” cho nước Mỹ, tìm cách duy trì các thiết chế cũ cũng như dòng tư tưởng chủ lưu. Tuy nhiên, đối với nhiều nghị sĩ thì việc duy trì trật tự cũ còn là cách để họ tiếp tục duy trì ảnh hưởng và tiếp tục được hưởng các “đặc quyền, đặc lợi”.

Cuộc chiến thứ ba: Chống lại các thiết chế đã định hình và sự “trì trệ” của nước Mỹ
Nếu chỉ đọc qua về sự “trì trệ” của nước Mỹ, người đọc dễ liên tưởng đây là câu chuyện hoang tưởng, nhưng đó lại phản ánh một phần sự thật. Nước Mỹ từ lâu vốn được xem là quốc gia năng động bậc nhất, là nơi tập trung các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu hàng đầu thế giới, là nơi có nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel nhất thế giới, nơi luôn khuyến khích sự sáng tạo, các ý tưởng lạ. Tóm lại, nước Mỹ được nhìn nhận là quốc gia luôn thay đổi và biết cách “tự làm mới” mình liên tục.

Còn nhớ câu chuyện giữa những năm 1980, cách đây quãng ba chục năm, khi đó Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Mikhail Gorbachev đưa ra ý tưởng “cải tổ” và “công khai hóa” (“perestroika” and “glasnost”) đã làm thế giới phát sốt, còn nước Mỹ thì bị lo qua mặt. Khi đó có nhà báo hỏi Tổng thống Ronald Reagan là nước Mỹ có ý định thực thi “cải tổ” và “công khai hóa” như Gorbachev đang theo đuổi hay không thì câu trả lời của Reagan, đại ý là: Gorbachev đang làm cái việc mà đáng ra các nhà lãnh đạo Liên Xô phải làm từ lâu, nhưng họ đã không làm và để vấn đề tích tụ lại. Mỹ không cần “cải tổ” hay “công khai hóa” vì đây là việc Mỹ làm thường xuyên.

Kết quả là “cải tổ” và “công khai hóa” của Gorbachev thiếu một tầm nhìn và cách làm bài bản đã đưa Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ nghĩa Đông Âu đến chỗ sụp đổ, còn khẩu hiệu “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” (Make America Great Again) của Reagan cùng chính sách kinh tế Reaganomics và “làm mới lại nước Mỹ ngay trên đất Mỹ” đã giúp nước Mỹ hùng mạnh trở lại trên mọi phương diện vào đầu những năm 1990.

Quay trở lại nước Mỹ trước khi Trump lên cầm quyền. Từ góc độ của một nhà kinh doanh thành đạt trên đỉnh cao sự nghiệp và góc nhìn mới của một chính trị gia Trump cảm thấy hết sức “thất vọng” vì nước Mỹ đang trở nên già nua, xơ cứng, có quá nhiều “trì trệ”, sức ỳ, quá nhiều rào cản. Bên cạnh đó, quá nhiều thế lực hùng mạnh trong giới chính trị, kinh doanh, truyền thông… sẵn sàng liên kết, ra tay bóp nghẹt các ý tưởng mới để bảo vệ đặc quyền của mình, mà như từ ngữ ta hay dùng là lợi ích nhóm.

Lợi ích nhóm ở nước Mỹ hiện quá hùng mạnh, bám rễ quá sâu nên các nhóm này sẵn sàng liên kết, tiến hành “chiến tranh tổng lực” chống lại Trump và toàn bộ chính quyền của ông ta đến cùng. Ngược lại, để thực hiện cam kết tranh cử đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, Trump, với tác phong và cách làm “phi truyền thống”, cũng lao vào ăn thua đến cùng với nhóm lợi ích.

Đỉnh điểm là ngày 16/8/2018 vừa qua, cùng lúc 350 tờ báo trên khắp nước Mỹ, trong đó có những tờ lâu đời và nổi tiếng như Boston Globe, The New York Times, Washington Post, Philadelphia Inquirer… đồng loạt đăng xã luận, công kích chính quyền Trump, coi cá nhân và Chính quyền Trump là mối đe dọa lớn nhất đối với tự do báo chí – vốn từng được coi là một trụ cột quan trọng trong xã hội Mỹ cùng với tam quyền phân lập.

Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử và xã hội Mỹ từ xưa đến nay. Nói đến đặc quyền của báo chí Mỹ thì phải kể đến câu chuyện cách đây 36 năm, chỉ với tờ Washington Post đi tiên phong, cùng các phóng sự của hai nhà báo điều tra gạo cội là Carl Bernstein và Bob Woodward đã góp phần “hạ bệ” Tổng thống đương nhiệm Richard Nixon trong vụ Watergate. Với sức mạnh của báo chí tới mức có thể “làm nên” hay “làm tiêu tùng” (make or break) sự nghiệp của một Tổng thống như vậy nên các chính trị gia thường chọn cách “dĩ hòa vi quý” thay vì làm “mếch lòng” báo chí.

Tuy nhiên, Trump thì khác hẳn, chọn ngay cách đối đầu với báo chí “không cùng phe” điển hình là CNN, Washington Post, The New York Times. Trump sử dụng con bài nhất quán ngay từ đầu là coi ba tập đoàn truyền thông lớn này cùng các bài báo chỉ trích cá nhân và chính quyền của mình là “báo chí của phe Dân chủ” và chuyên đăng “tin giả” (fake news)! Nói cách khác, Trump đánh trực tiếp vào tính chính danh và sự khách quan của báo chí “không cùng phe”.

Nhìn một cách công bằng, sự ra đời của Internet, và cùng với nó là các mạng xã hội như Facebook, Twitter, Snapchat, YouTube… trong những năm qua đã làm giảm đáng kể quyền lực của các “ông lớn” truyền thông trong khi các ông lớn này vẫn ngủ quên trên đỉnh cao quyền lực thời hoàng kim. Mặt khác, sự phân hóa Xã hội Mỹ về mọi mặt, từ câu chuyện ranh giới giàu nghèo, thu nhập, đẳng cấp, sự hình thành giới chính trị gia “xa lông” ngày càng tách rời tầng lớp “thấp cổ bé họng”… dưới tác động đa chiều của Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa đã tác động mạnh, làm báo chí mất đi sự trung lập vốn có và khiến báo chí cũng phân làn rõ rệt. Trước đây thì rất khó phát hiện, nhưng nay chỉ cần cầm một tờ báo bất kì, đọc qua vài bản tin hoặc bật xem TV vài phút là có thể nói tương đối chính xác thiên kiến chính trị của tờ báo hoặc một hãng truyền thông nào đó.

Do đó, khá dễ hiểu là 350 tờ báo cùng lúc đả kích Trump nhưng lại ít nhiều đều chia sẻ các quan điểm chính trị như nhau. Và như thường lệ, chỉ vài dòng “Tweets” với 50 triệu người theo dõi mỗi ngày, Trump dễ dàng “vô hiệu hóa” các xã luận trên. Trước đây khi mạng xã hội chưa phát triển, các Tổng thống, chính trị gia thường đứng im chịu trận. Nhưng nay, Trump cũng lên tiếng “đòi” được đối xử công bằng, không bị báo chí tấn công một chiều!

Tuy nhiên, chủ đích cuối cùng của Trump là “vô hiệu hóa” sự chỉ trích của đối thủ, khiến ông ta có vị thế áp đảo trong giới truyền thông, từ đó gây ảnh hưởng, truyền tải các thông điệp chính trị.

Trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, quản trị đất nước…. Trump cũng có những cách làm “lạ đời”, giúp tiết kiệm hàng chục triệu giờ công lao động hoặc hàng tỷ USD tiền đóng thuế của người dân, doanh nghiệp, cụ thể là:

– Trump ngay khi nhậm chức đã yêu cầu Boeing phải xem xét và đàm phán lại Hợp đồng mà Chính quyền Tổng thống Obama đã ký trước đó để mua hai máy bay “Không lực số một” (Air Force One) giao hàng vào năm 2024 vì giá quá cao. Boeing đứng trước tình thế phải đàm phán lại nếu không có nguy cơ bị hủy hợp đồng. Kết quả là cặp máy bay nay chỉ còn giá 3,9 tỷ USD, từ giá “trên trời” là 5,3 tỷ USD, tức giảm khoảng 25% giá ban đầu.

– Tương tự như vậy, Trump và Lầu Năm Góc cũng buộc hãng Lockheed Martin, nhà cung cấp máy bay chiến đấu F-35 thế hệ thứ năm phải đàm phán lại và giảm giá từ 95 triệu USD/1 chiếc F-35 mà Lầu Năm Góc trả năm 2017, xuống còn 89 triệu USD/1 chiếc cho lô hàng giao trong năm 2018 và 80 triệu USD/1 chiếc năm 2020.

Chỉ qua hai vụ đàm phán đình đám, thông điệp của Trump đối với giới doanh nghiệp rất đơn giản: Ngay cả những hàng hóa mang tính biểu tượng của Tổng thống, đến bảo vệ an ninh quốc gia chính quyền cũng sẵn sàng xem xét, thậm chí hủy đơn hàng nếu cần. Dó đó, các hãng lớn nếu muốn làm ăn với chính phủ, muốn có tương lai phải cải tiến, nâng cao chất lượng và giảm giá thành.

– Ngoài việc đơn giản hóa sắc luật thuế liên bang, ngày 30/1/2017 Trump còn ký một sắc lệnh của Tổng thống quy định, từ nay trở đi bất cứ một quy định, hay điều lệ mới nào của liên bang ra đời thì cơ quan đệ trình buộc phải vô hiệu hóa quy định hay điều lệ cũ. Mục đích của việc này là tránh biến các cơ quan công quyền thành bộ máy quan liêu, ra các “quy định trên trời”, tạo thuận lợi tối đa cho cuộc sống, sinh hoạt của người dân, cũng như hoạt động của doanh nghiệp.

Trên đây chỉ là một ít ví dụ, nhưng nó cho thấy cuộc chiến chống lại thiết chế đã định hình và gắn với nó là lợi ích nhóm với đủ loại biến tướng là hết sức khó khăn, phức tạp. Hơn nữa, đây lại là cuộc chiến nội bộ nơi các đồng minh lẫn đối thủ đều minh tường các điểm mạnh, yếu của nhau và sẵn sàng ra đòn dứt điểm đối phương bất cứ khi nào có thời cơ.

Cuộc chiến thứ tư: Duy trì địa vị siêu cường số một thế giới của Mỹ
Theo tư duy và cách làm thông thường, một quốc gia duy trì ngôi vị hàng đầu của mình bằng cách thực hiện hai bước song song: Củng cố sức mạnh quốc gia tổng hợp của mình, đồng thời chặn bước tiến và tạo khoảng cách xa nhất có thể với địch thủ bám ngay sát. Và nước Mỹ không phải là ngoại lệ.

Lịch sử của Mỹ từ khi lập quốc ngày 4/7/1776 đến nay là lịch sử bành trướng, và vươn lên không ngừng, từ một liên bang lỏng lẻo gồm 13 bang ban đầu vốn dĩ là thuộc địa của Anh Quốc thành một nhà nước liên bang hợp chúng quốc hùng mạnh nhất thế giới với 50 bang như hiện nay. Lịch sử Mỹ cũng là lịch sử đấu tranh và triệt hạ không khoan nhượng bất kỳ địch thủ thủ nào tìm cách thách thức vị trí số một của Mỹ.

Chỉ sau khoảng 100 năm lập quốc, đến đầu những năm 1870, sau khi kết thúc nội chiến Bắc Nam (1861-1865) Mỹ đã thay Anh trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, rồi trở thành siêu cường số một thế giới khoảng 70 năm sau đó sau khi kết thúc Thế chiến II năm 1945. Trong khi hầu hết các cường quốc khác bị suy yếu và tàn phá nghiêm trọng bởi chiến tranh thì Mỹ ra khỏi Thế chiến II với vị thế đặc biệt của người chiến thắng, với sức mạnh vượt trội so với bất kỳ cường quốc nào khác.

Trong khoảng thời gian 5 năm hậu chiến, GDP của Mỹ luôn chiếm tới 1/2 GDP của cả thế giới, Mỹ cũng là quốc gia duy nhất sở hữu vũ khí nguyên tử, còn đồng USD thì “hất cẳng” đồng bảng Anh, trở thành đồng tiền thanh toán, lưu trữ chủ chốt của thế giới. Với vị thế áp đảo như vậy, Mỹ dễ dàng “vẽ” trật tự của Phương Tây và phần nào đó là trật tự thế giới hòng thao túng theo ý đồ của mình: Về quân sự, Mỹ lập ra khối quân sự Bắc Đại Tây Dương; về thương mại Mỹ sử dụng ảnh hưởng để lập Hiệp định Thuế quan và Thương mại (GATT), tổ chức tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO sau này; còn về tài chính, Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lập ra các thiết chế tài chính có ảnh hưởng đến tận bây giờ như: Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD), Công ty Tài chính Quốc tế (IFC)… Mục đích tối thượng là duy trì địa vị cường quốc số một thế giới và thiết lập một trật tự toàn cầu bao trùm hầu khắp các lĩnh vực theo luật chơi do Mỹ đặt ra.

Trong 45 năm sau Thế chiến II, hệ thống quốc tế do Mỹ “cầm trịch” đã vận hành tương đối hiệu quả, giúp Mỹ “đánh bại” – dù hết sức khó khăn – được địch thủ cạnh tranh về quân sự, chiến lược và ý thức hệ là Liên Xô, khiến không chỉ Liên Xô mà cả hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu cùng lúc bị tan rã.

Về mặt kinh tế, với Thỏa ước Plaza (Plaza Accord) ký ngày 22/9/1985 tại New York để giải quyết “chiến tranh tiền tệ” giữa năm cường quốc Phương Tây, mà thực chất là nhằm vào Nhật Bản, buộc nước này phải tăng giá đồng Yên so với đồng USD và các ngoại tệ chủ chốt khác. Thỏa ước Plaza là đòn độc, đòn “tước vũ khí” quyết định khiến Nhật không thể dùng chiến thuật dumping (giảm giá), cạnh tranh không lành mạnh nhờ hỗ trợ của chính phủ để đánh bại các công ty Mỹ. Và cũng từ đây bong bóng bất động sản Nhật bị bể, kinh tế rơi vào trạng thái trì trệ suốt từ đầu những năm 1990 đến nay và từ đó trở đi Nhật không bao giờ trở thành mối đe dọa về kinh tế với Mỹ nữa.

Tuy nhiên, từ đầu những năm 1990 sau khi Liên Xô tan rã thì nước Mỹ bước vào tình trạng “phởn chí” khi không còn đối thủ ngang tầm. Học giá Mỹ nổi tiếng Francis Fukayama thậm chí còn xuất bản cuốn sách “Sự cáo chung của Lịch sử” (The End of History and the Last Man), với tuyên bố ngạo mạn về “Chiến thắng của nền dân chủ tự do” đứng đầu là Mỹ trước các “chính thể chuyên quyền”. Tiếp đó là các sai lầm chiến lược nối tiếp sai lầm khi Mỹ sử dụng lực lượng quân sự quy mô lớn tiến hành cùng lúc cuộc chiến chống khủng bố hao người tốn của và không lối thoát sau vụ khủng bố 11/09/2001 – với phí tổn khoảng 4000 tỷ USD và hàng chục ngàn sinh mạng – trên hai mặt trận là Iraq và Afghanistan.

Trong khi đó, trên một mặt trận khác, Trung Quốc thực hiện một chiến lược âm thầm, nhưng hết sức quyết liệt là thực thi cải cách mở cửa về kinh tế, xây dựng nội lực bên trong, cố gắng tránh, tìm cách không gây bất hòa hoặc đối đầu với Mỹ khi không cần thiết. Nhờ chiến lược “Thao quang dưỡng hối”, hiện đại hoá đúng đắn, cách làm bài bản, có sự chỉ huy, thống nhất và tập trung cao độ, lại tận dụng được lợi thế của người đi sau trong việc áp dụng cách mạng khoa học công nghệ nên Trung Quốc đã lớn mạnh vượt bậc chỉ trong thời gian rất ngắn. Trong giai đoạn kéo dài 25 năm từ 1990-2014, Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 10% năm, vượt Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới từ 2010. Trong giai đoạn 2004-2016 GDP của Trung Quốc tăng trưởng tới 4 lần từ 2.500 lên 10.000 tỷ USD và đuổi sát Mỹ. Đến trước giai đoạn Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền 01/01/2017, nếu như tốc độ phát triển kinh tế của Mỹ và Trung Quốc vẫn duy trì như thời gian trước đó thì theo dự báo của WB và IMF, chỉ đến năm 2025 hoặc cùng lắm là 2030 Trung Quốc sẽ vươn lên thay thế Mỹ để trở thành cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới.

Không chỉ phát triển về lượng, mà Trung Quốc còn phát triển về chất, hướng đến các tiêu chí quản trị doanh nghiệp, quản trị quốc gia thông minh, xây dựng lối sống, cách hành xử văn minh của người dân theo những tiêu chuẩn cao nhất của thế giới.

Nhờ sự lớn mạnh về kinh tế, sự phát triển về khoa học kỹ thuật vượt bậc, Trung Quốc cũng mạnh dạn, tự tin và quyết đoán trong chi tiêu quốc phòng, trong hành xử với láng giềng và trong quan hệ quốc tế cho phù hợp với vị thế mới của mình. Đáng chú ý là Trung Quốc thực hiện cùng lúc hai chiến lược lớn, đầy tham vọng là trở thành cường quốc số một thế giới về công nghệ vào năm 2025 và chiến lược Vành đai, Con đường (BRI) nhằm tạo ra một hệ thống riêng, trong đó Trung Quốc có vai trò chi phối. Chiến lược Vành đai, Con đường nếu được thực thi đầy đủ sẽ giúp thúc đẩy 6 kết nối chặt chẽ về đường không, đường biển, đường bộ, đường sắt, kết nối về mạng lưới viễn thông, kết nối về dịch vụ tài chính giữa Trung Quốc và khoảng 80 quốc gia trên thế giới, kéo dài từ Bắc Á qua Đông Nam Á, Nam Á, Trung Đông, châu Phi, một phần Tây và Đông Âu, Nga và Trung Á, những nước chiếm khoảng 1/2 dân số, 1/3 tổng GDP và 1/4 tổng thương mại thế giới. Cùng với BRI, Trung Quốc liên tiếp cho ra đời Ngân hàng Phát triển Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) củng cố và mở rộng vai trò của Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm BRICS gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi…

Dưới góc nhìn của Trump và Chính quyền mới ở Mỹ, sự vươn lên của Trung Quốc và cách thức Trung Quốc thiết lập một hệ thống riêng không khác gì cách thức Mỹ từng làm trước đây khi Thế chiến II kết thúc để xác lập và củng cố vị trí siêu cường lâu dài sau đó. Và đây là điều không thể chấp nhận được với Trump cũng như bất kỳ chính quyền nào của Mỹ trước đó.

Tuy nhiên, trong khi các vị Tổng thống tiền nhiệm hoặc né tránh, hoặc không có một chiến lược rõ ràng rồi sau đó đối phó với Trung Quốc một cách nửa vời thì chiến lược của Trump lại hết sức rõ ràng với hai bước song song: (i) Đối đầu trực diện, tìm cách làm suy yếu đối phương về mọi mặt; và (ii) “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” (Make America Great Again) thông qua việc kiên trì thực hiện khẩu hiệu tranh cử “Nước Mỹ trên hết” (America First).

Thực chất của chiến lược này là tạo khoảng cách “an toàn” giữa Mỹ và đối thủ tiềm tàng đang bám ngay sát nách, khiến đối thủ không đủ sức mạnh và khả năng để tranh chấp hay thách thức vị trí số một của Mỹ một cách hiệu quả.

Làm suy yếu đối thủ tiềm tàng về mọi mặt

Đối với Chính quyền Trump, “mối đe dọa” lớn nhất, trực tiếp nhất và “nguy hiểm” nhất hiện nay đối với vị trí siêu cường và hệ thống quốc tế do Mỹ đóng vai trò chủ đạo không còn là chủ nghĩa khủng bố hay mối đe doạ từ Nga mà là từ Trung Quốc và điều này được nêu rõ trong Chiến lược an ninh quốc gia mới công bố đầu năm 2018. Thách thức này lớn hơn hẳn so với tất cả các thách thức mà Mỹ từng phải đương đầu từ sau Thế chiến II đến nay.

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mối đe dọa của Liên Xô chủ yếu từ góc độ an ninh và quân sự chứ chưa bao giờ là thách thức kinh tế. Còn Nhật, thì chỉ tạo ra thách thức kinh tế, thương mại đối với Mỹ trong một thời gian ngắn chứ còn xét về các khía cạnh khác như dân số, chiến lược hay ý thức hệ thì Nhật lại không hề có tham vọng thách thức hay soán ngôi Mỹ.

Trái lại, trong các cường quốc lớn trên thế giới hiện nay, chỉ duy nhất Trung Quốc vừa có sức mạnh kinh tế, lẫn sức mạnh quân sự với kho vũ khí hạt nhân hùng hậu, có dân số đông nhất thế giới, có lãnh thổ đủ rộng, có ý thức hệ khác biệt, hơn nữa Trung Quốc là cường quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ và có lẽ hiện là cường quốc duy nhất, ngoài Mỹ, có tham vọng trở thành cường quốc số một thế giới.

Trong 500 năm qua, lịch sử thể giới đã chứng kiến 16 cuộc đối đầu giữa một cường quốc đã được thiết lập và một cường quốc đang trỗi dậy và tìm cách soán ngôi, trong đó 12 cuộc đối đầu kết thúc bằng chiến tranh. Thực ra, ngay từ cách đây ba năm, tác giả của bài viết này cũng đã từng đưa ra cảnh báo về “bẫy Thucydides” và cuộc xung đột “định mệnh”, “không lối thoát” giữa Mỹ và Trung Quốc.

Đặt cạnh tranh Trung – Mỹ trong bối cảnh đó thì xung đột thương mại chỉ là “câu chuyện nhỏ”, còn câu chuyện lớn hơn là sự cạnh tranh chiến lược, đối đầu trực diện về mọi mặt, trong đó Mỹ là bên đóng vai trò chủ động.

Vậy tại sao Trump lại chọn cuộc chiến thương mại (trade war) và tại sao lại vào lúc này? Trước hết đây là thời điểm kinh tế Mỹ đang ở giai đoạn tốt nhất trong hai thập niên qua, tính từ các góc độ: niềm tin của người tiêu dùng, giới doanh nghiệp; sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán cao nhất mọi thời đại; tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; tỷ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục (3,7%)… Điều này có được một mặt là do cố gắng của chính quyền Trump, nhưng cũng có yếu tố may mắn khác là kinh tế Mỹ đang ở đỉnh cao của chu kỳ tăng trưởng. Trong khi đó , kinh tế Trung Quốc đang trong giai đoạn điều chỉnh, phát triển chậm lại sau giai đoạn phát triển quá nóng theo chiều rộng. Điều này có nghĩa Trump đang ở thế thượng phong để tung các “đòn độc” mà không sợ bị ảnh hưởng nhiều đến kinh tế Mỹ.

Còn chọn lĩnh vực thương mại thì theo tính toán của chính quyền Trump, đây là lĩnh vực Trung Quốc dễ tổn thương nhất do cán cân thương mại hai bên quá chênh lệch: Năm 2017, Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc 130 tỷ USD, còn nhập khẩu khoảng 506 tỷ USD, tức thâm hụt thương mại tới 376 tỷ USD. Trump cho rằng: (i) Là nước chịu thâm hụt thương mại lớn, Mỹ trong vai người mua mới ở vị trí thượng phong; (ii) Những hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc có thể dễ dàng thay thế bằng hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác; (iii) Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn nhất của Trung Quốc, và thương mại đóng góp tới 1/3 tăng trưởng kinh tế Trung Quốc.

Tuy nhiên, đích cuối cùng của Trump là đánh vào chuỗi sản xuất, cung ứng hàng hoá của Trung Quốc, chặn việc tiếp cận công nghệ cao để đi tắt đón đầu, và buộc Trung Quốc phải mở cửa thị trường, thay đổi cơ cấu kinh tế theo ý đồ của Mỹ. Nếu chấp nhận, nhiều khả năng kinh tế Trung Quốc sẽ bị kéo lùi, rơi vào tình trạnh, suy thoái, trì trệ như của Nhật Bản 30 năm trước. Đây là lý do mà Trung Quốc không thể chấp nhận và các cuộc đàm phán Mỹ-Trung về giải tỏa chiến tranh thương mại Mỹ-Trung cho đến nay không đạt kết quả.

Có thể dễ dàng nhận thấy, nếu kinh tế Trung Quốc bị kéo lùi lại do hệ quả của chiến tranh thương mại thì có thể dẫn đến những hệ quả ghê gớm: thất nghiệp tăng, nguy cơ bất ổn xã hội tăng cao, thị trường chứng khoán giảm tốc, đồng tiền mất giá, dự trữ ngoại hối sụt giảm, nguồn tiền đố vào chi tiêu quốc phòng cũng như đầu tư cho chiến lược “vành đai, con đường” sẽ không còn được dồi dào như trước.

Điều đáng chú ý là ngược lại với dự báo của hầu hết các nhà kinh tế, Trump càng siết chặt thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ thì kinh tế Mỹ lại càng nhận được tín hiệu tốt chứ không phải theo chiều ngược lại.

Một tín hiệu nữa không tốt cho Trung Quốc là Bộ trưởng thương mại Mỹ Wilbur Ross vừa “khoe” đã tìm ra “viên thuốc độc” (poison pill) để “trị” Trung Quốc, đó là “cấy” vào Hiệp định thương mại USMCA vừa ký giữa Mỹ, Mexico và Canada (thay cho Hiệp định NAFTA) một điều khoản cho phép hai nước còn lại có thể huỷ hiệp định 3 bên và ký hiệp định thương mại tự do song phương nếu một trong ba thành viên USMCA ký hiệp định thương mại tự do với nước có nền kinh tế “phi thị trường”, hàm ý chỉ Trung Quốc. Bộ trưởng Ross còn tiết lộ, Mỹ sẽ đưa điều khoản này vào các hiệp định thương mại tự do đang đàm phán với Nhật Bản và EU, nhằm mục đích gây sức ép tối đa lên Trung Quốc.

“Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”

Về cách tiếp cận, chính sách kinh tế của Trump sau khi nhậm chức không khác mấy so với người tiền nhiệm Ronald Reagan cách gần 40 năm trước với chính sách kinh tế Reaganomics, đó là: Ở trong nước, Reagan cắt giảm chi tiêu của chính phủ nhằm giảm thâm hụt ngân sách, trong khi giảm mạnh thuế doanh nghiệp từ 48% xuống còn 34% nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu, sản xuất. Còn người dân, thuộc tất cả các giới được miễn giảm mạnh thuế cá nhân, trong đó giới giàu có, trung lưu, được hưởng lợi nhất, nhằm khuyến khích tiêu dùng trong nước. Ngoài ra Reagan còn tìm cách tăng lãi suất đồng USD trong nước rất cao, có lúc lên tới 21,5% nhằm thu hút tiền từ trong nước Mỹ và từ khắp thế giới với hai mục tiêu: (i) Tái cấu trúc và hiện đại nước Mỹ; (ii) Đổ tiền vào cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô.

Trong thời kỳ Reagan, ngoài chuyện củng cố sức mạnh kinh tế, Mỹ còn “đánh gục” Liên Xô bằng các đòn “hội đồng” như cùng OPEC phối hợp hạ giá dầu để triệt hạ nền kinh tế Liên Xô vốn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu dầu, đồng thời buộc Liên Xô phải tham gia vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ và cả khối NATO, cũng như gài bẫy để Liên Xô dính vào “cú lừa thế kỷ” về sáng kiến “Chiến tranh các vì sao” của Mỹ. Điều này đã buộc Gorbachev phải đi vào hòa dịu, giải trừ quân bị với Mỹ, rồi tiến tới “tự giải thể” khối quân sự Warsaw Pact, khối kinh tế Comecon giữa Liên Xô và các nước Đông Âu, cũng như Liên Bang Xô viết trong giai đoạn cuối những năm 1980, đầu những năm 1990.

Về cơ bản, Trump cũng có cách tiếp cận về kinh tế và quân sự tương tự Reagan, nhưng có một số điều chỉnh do bối cảnh quốc tế hiện nay, cũng như tương quan, so sánh sức mạnh tổng thế giữa Mỹ với các đồng minh, địch thủ cũng có những thay đổi căn bản.

Về kinh tế, với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết” (America First) và cách làm quyết liệt đi đôi giữa nói và làm, Trump đang tìm cách lấy lại sức mạnh kinh tế cho nước Mỹ thông qua một loạt biện pháp chính như: (i) Giảm mạnh thuế doanh nghiệp từ 35% xuống còn 21%; (ii) Giảm đồng loạt thuế thu nhập cá nhân, với tổng số thuế cắt giảm lên tới 1.500 tỷ USD trong thời gian tám năm từ 2018-2025: (iii) gỡ bỏ đáng kể các luật lệ, rào cản đối với doanh nghiệp; (iv) rút khỏi hoặc bỏ qua các hiệp định thương mại đa phương, đàm phán lại các hiệp định tự do thương mại song phương, nhấn mạnh đến yếu tố “công bằng”, đảm bảo quyền tiếp cận thị trường nước ngoài tốt hơn cho hàng hóa Mỹ; (v) Gây sức ép bằng hình thức thuế quan để ép các công ty Mỹ và công ty nước ngoài chuyển dây chuyền sản xuất, công nghệ hoặc mở nhà máy trên đất Mỹ.

Với hàng loạt biện pháp mang tính quyết liệt, và phần nào đó khá cực đoan, Trump đã ghi được bảng thành tích kinh tế khá tốt dẫu mới cầm quyền chưa được hai năm. Cụ thể là:

– Tỷ lệ thất nghiệp tính đến đầu tháng 10/2018 giảm xuống còn 3,7%, mức thấp nhất trong 50 năm qua.

– Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2017, năm đầu tiên Trump nắm quyền, là 2,3%, cao hơn rất nhiều so với tốc độ 1,5% năm 2016 trước đó. Con Quý II, tốc độ tăng trưởng đạt 4,2%, mức cao nhất kể từ năm 2014.

– Lòng tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp hiện ở mức cao nhất tính từ thời điểm năm 2000.

– Chỉ số công nghiệp Dow Jones của thị trường chứng khoán Mỹ hiện vào khoảng 26.500 điểm, tức cao khoảng 33% so với đỉnh cao 20.000 điểm dưới thời Obama.

Thành tích kinh tế này trái ngược với đà đi xuống của kinh tế Trung Quốc, cũng như thực trạng tương đối ảm đạm của hầu hết các nền kinh tế lớn khác.

Trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng, Trump không chỉ mạnh tay chi tiêu cho quốc phòng với ngân sách quốc phòng năm 2018 và 2019 lần lượt là 640 tỷ và 716 tỷ USD, tức gấp khoảng 5 lần so với ngân sách quốc phòng lớn thứ hai thế giới của Trung Quốc. Không chỉ một mình tăng ngân sách quốc phòng, Trump còn bằng mọi cách gây sức ép buộc các đồng minh chủ chốt như Hàn Quốc, Nhật, và các nước đồng minh trong NATO tăng ngân sách quốc phòng để tạo sức mạnh cộng hưởng và đã thành công ở mức độ nhất định khi một số nước châu Âu thành viên NATO đẩy nhanh mức chi ngân sách quốc phòng từ mức trên dưới 1% hiện nay lên mức 2% tổng GDP trước năm 2024. Cách lập luận của Trump rất đơn giản, nhưng hiệu quả: Nếu muốn dựa vào ô an ninh của Mỹ thì trước hết các đồng minh phải thực sự quan tâm đến củng cố quốc phòng của mình thông qua việc tăng ngân sách cho lĩnh vực này. Nếu như đến an ninh của mình mà họ cũng không quan tâm thì cũng chẳng có lý do để Mỹ phải bận tâm.

Đáng chú ý là cách tiếp cận và tìm cách xích lại gần Nga của chính quyền Trump. Trong nội bộ Mỹ, không khí và quan hệ thù địch với Nga hiện khá cao do những cáo buộc Nga can thiệp cuộc bầu cử 2016 để Trump lên nắm quyền vẫn chưa được giải tỏa. Tuy nhiên, Trump vẫn nhắm đến Nga với nhiều mục tiêu khác nhau:

Thứ nhất, Trump cho rằng Nga tuy bị suy yếu nhiều, nhưng xét từ góc độ quân sự, Nga vẫn là cường quốc quân sự duy nhất có thể đưa nước Mỹ “trở về thời kỳ đồ đá” nếu xảy ra xung đột quân sự. Do đó, để quan hệ Mỹ-Nga ở tình trạng đối đầu lâu dài sẽ không có lợi.

Thứ hai, việc xích lại gần Nga sẽ làm cho các nước châu Âu thành viên NATO lo ngại và do vậy không cần gây thêm sức ép cũng buộc họ tự tăng ngân sách quốc phòng.

Thứ ba, việc đi với Nga còn là cách để Mỹ tạo sức ép tối đa lên Trung Quốc – quốc gia được xem như địch thủ chiến lược lớn nhất của Mỹ vào lúc này. Nhìn cách Trump đi với Nga để tạo sức ép lên Trung Quốc lúc này thấy không khác mấy so với cách mà Mỹ dưới thời Nixon và Kisinger tìm cách khai thông quan hệ với Trung Quốc trong những năm 1970 để cô lập và tạo sức ép tối đa lên Liên Xô, để rồi nước này đi vào con đường thỏa hiệp với Mỹ và tự tan rã vào năm 1991.

Hiện còn quá sớm để đánh giá hết những tác động từ các bước đi của Trump trong việc củng cố sức mạnh Mỹ. Ngay cả thời Reagan, dù ra khỏi Chiến tranh Lạnh với tư cách người chiến thắng, nhưng nước Mỹ cũng “thương tích đầy mình”, chẳng hạn như nợ công cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế suy giảm… Còn Trung Quốc là cường quốc thứ hai, có nhiều sức mạnh vượt trội chứ không phải là cường quốc chỉ dựa vào sức mạnh quân sự và lệ thuộc và dầu khí như Liên Xô trước kia. Tuy nhiên, các tác động của cuộc chiến thương mại này với cả hai, đặc biệt là với Trung Quốc, với nền kinh tế thế giới và các cấu trúc khu vực và toàn cầu thì ngày càng rõ nét.

Cuộc chiến thứ năm: Xây dựng một trật tự quốc tế mới
Hoàn toàn không quá lời khi nói rằng trật tự thế giới hình thành từ thời hậu Thế chiến II đến nay với các thiết chế trụ cột như Liên Hợp Quốc, NATO, WTO, IMF, WB, cùng nhiều thoả thuận quốc tế khác… là trật tự trong đó Mỹ đóng vai trò “Kiến trúc sư trưởng”, là “người khởi xướng”, và cũng là người được hưởng lợi chính từ trật tự này. Chắc chắn Mỹ sẽ không có bất cứ vấn đề gì với hệ thống và các thiết chế này chừng nào mà vai trò và địa vị số 1 thế giới của Mỹ vẫn được duy trì và đảm bảo.

Tuy nhiên, từ đầu những năm 2000 khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ đe dọa vị thế siêu cường số 1 thế giới của Mỹ và đồng thời sức mạnh của Mỹ suy giảm tương đối so với Trung Quốc và các cường quốc khác thì Trump và ê-kíp của mình, ngay từ khi bắt đầu tham gia tranh cử Tổng thống, lại đổ lỗi cho chính hệ thống quốc tế mà Mỹ đã góp tay xây dựng nên là “tội đồ” của những yếu kém của nước Mỹ. Họ cho rằng đã đến lúc cần phải đặt lại vấn đề, xem xét lại một cách căn bản toàn bộ hệ thống quốc tế và các thiết chế cũ xem các thiết chế này có còn phù hợp với lợi ích của Mỹ nữa hay không, tức còn có giá trị trong việc giúp Mỹ duy trì ngôi vị bá chủ thế giới của mình. Theo quan điểm của chính quyền Trump, các thiết chế do chính Mỹ lập ra trước kia chỉ phù hợp với bối cảnh cũ, nhưng nay các thiết chế này đã đóng xong vai trò lịch sử, không còn phù hợp, thậm chí đi ngược lại với lợi ích của Mỹ thì Mỹ cần đặt lợi ích quốc gia của mình lên trên (America First) và mạnh tay “vứt bỏ” các cam kết không cần thiết.

Ngay từ năm 1987 học giả Mỹ Paul Kennedy đã viết cuốn sách “Sự thăng trầm của các cường quốc” (The Rise and Fall of the Great Powers) trong đó cho rằng một trong những nguyên nhân khiến các cường quốc suy vong là do đế quốc trải rộng và các cường quốc này thực thi các cam kết quốc tế vượt quá khả năng của mình. Tác giả cũng đưa ra lời cảnh báo để Mỹ không đi vào con đường tương tự. Cảnh báo này cũng trùng hợp với tư duy của Trump khi cho rằng các nước khác được hưởng lợi bởi hệ thống quốc tế hiện nay phải có nghĩa vụ đóng góp nhiều hơn và không có lý gì để Mỹ phải sử dụng tiền đóng thuế của người dân bảo vệ cho những quốc gia có mức thu nhập đầu người thậm chí còn cao hơn của nước Mỹ.

Như vậy, có thể thấy Trump thực hiện một chính sách tương đối nhất quán cả về đối nội, lẫn đối ngoại: Đó là tìm cách làm nước Mỹ mạnh lên từ bên trong và đặt lợi ích quốc gia lên trên các cam kết quốc tế. Đáng chú ý là trong quá trình xem xét lại các cam kết quốc tế của Mỹ, Trump nhận thấy nước Mỹ có quá nhiều cam kết quốc tế “vô bổ”, gây tốn kém không ít cho ngân sách liên bang.

Việc tấn công tổng lực vào một loạt các thiết chế quốc tế lớn như Liên hợp quốc, UNESCO; vào các hiệp ước, các thiết chế lâu đời với đồng minh, láng giềng như NATO, nhóm G-7, NAFTA; vào các thỏa thuận với đối tác, bạn bè như TPP (chuẩn bị bước vào giai đoạn ký kết)… ngay từ ngày đầu tiên bước chân vào Nhà Trắng đã biến Trump thành nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa quốc gia nhiệt thành, “kẻ” chủ trương ủng hộ nghĩa biệt lập, và là một trong những nhà lãnh đạo Mỹ “đáng ghét” nhất trên thế giới. Tháng 1/2018, Viện thăm dò dư luận Gallup tiến hành khảo sát ý kiến của người dân 134 nước trên thế giới và kết quả là tỷ lệ trung bình ủng hộ lãnh đạo Mỹ giảm mạnh từ 48% năm 2016 xuống còn 30% vào 1/2018.

Tuy nhiên, Trump dường như có một mục tiêu và lộ trình được lập trình từ trước nên tỏ ra không mấy bận tâm vào việc lãnh đạo hay người dân các nước nghĩ về mình hay nước Mỹ, miễn là việc mình làm phục vụ lợi ích của nước Mỹ, đặt nước Mỹ lên trên hết (America First). Dù chưa định hình rõ nét, nhưng có thể thấy sơ bộ một số bước đi chính của Trump trong việc “xoá bàn cờ làm lại”, đặt ra luật chơi mới với 5 bước đi sau:

Một là, rút nước Mỹ ra khỏi các thiết chế/cam kết quốc tế không phù hợp với lợi ích của nước Mỹ

Rõ nhất trong hai năm đầu tiên cầm quyền là Trump rút khỏi các thoả thuận “đình đám” như Hiệp định thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP đã được hoàn tất vào phút chót chỉ chờ được phê chuẩn; cắt đóng góp của Mỹ và rút khỏi Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp Quốc UNESCO; Hiệp định chống biến đổi khí hậu; rút khỏi Thoả thuận hạt nhân P5+1 ký năm 2015 với Iran; Hội đồng nhân quyền… Chính từ các hành động này nên Trump bị xem là người theo đuổi chủ nghĩa đơn phương, làm cho Mỹ bị cô lập trên quốc tế, trái với cách tiếp cận đa phương, can dự tích cực của người tiền nhiệm.

Trong quyết định rút khỏi TPP, chính quyền Trump cho rằng ngành công nghiệp chế tạo của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng và Mỹ sẽ bị mất nhiều việc làm phổ thông do doanh nghiệp sẽ tìm cách chuyển sản xuất sang những nước thành viên có lương thấp trong TPP. Còn với Hiệp định chống biến đổi khí hậu, Trump ngay từ đầu đã cho rằng các bằng chứng khoa học về biến đổi khí hậu là lòe bịp (a hoax) và không đáng tin cậy, và việc thực hiện các cam của Thỏa thuận chống biến đổi khí hậu vừa gây tốn kém cho doanh nghiệp, vừa làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ. Với Iran, Mỹ cho rằng thỏa thuận P5+1 chỉ giúp làm chậm lại chứ không thể giúp cản bước Iran nghiên cứu, sản xuất vũ khí hạt nhân. Đáng chú ý, việc áp đặt cấm vận xuất khẩu dầu của Iran còn nhằm vào Trung Quốc nước đầu tư tới 106 tỷ USD vào ngành dầu khí Iran, cũng như giúp ngành xuất khẩu dầu và khí hoá lỏng của Mỹ “cất cánh” sau khi Mỹ có đột biến về tăng sản lượng dầu đá phiến và hoàn tất việc lắp đặt đường ống dẫn dầu Keystone nối từ Alberta (Canada) tới tận Cảng Arthur (Texas) miền Nam nước Mỹ.

Hai là, gây sức ép, đàm phán lại các hiệp định/thoả thuận/định chế cũ

Đáng chú ý nhất là thành công của Trump trong việc đàm phán lại Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA với tên gọi mới là Hiệp định USMCA giữa Mỹ, Mexico và Canada ký ngày 30/9/2018 vừa qua. Các cuộc đàm phán để đi đến Hiệp định mới USMCA này cho thấy Trump quả là một cao thủ về đàm phán quốc tế. Trước hết Trump không tìm cách đàm phán ba bên đồng thời, mà tiến hành hai cuộc đàm phán riêng rẽ với Mexico và Canada, trong đó nhằm vào Mexico là mắt xích yếu nhất. Đồng thời trong suốt quá trình đàm phán Mỹ không ngừng gây sức ép, công kích công khai lãnh đạo Canada. Việc đạt được thỏa thuận trước với Mexico đã gây sức ép rất lớn và đặt Canada vào thế phải kết thúc đàm phán với điều kiện của Trump nếu không sẽ bị gạt ra rìa.

Với lợi thế có được trong tay USMCA, các bước tiếp theo của Mỹ có thể nhìn thấy trước là Mỹ sẽ tiến hành hai cuộc đám phán song phương đồng thời với Nhật và EU, trong đó Mỹ sẽ tìm cách cài tiếp “viên thuốc độc”, tức tìm cách ngăn không để cho hai nền kinh tế lớn này ký thỏa thuận thương mại tự do với Trung Quốc. Sau khi có được thoả thuận thương mại với Nhật Bản và EU, bước tiếp theo là Mỹ, lúc này đã ở thế thượng phong, gây tiếp sức ép lên Trung Quốc, buộc nước này phải mở cửa và cải cách theo các điều kiện do Mỹ đặt ra. Đối với WTO, nếu không đáp ứng các điều kiện do Mỹ đặt ra, thậm chí không loại trừ khả năng Mỹ sẽ vận động Nhật, EU và các nước khác lập ra chế định mới thay thế cho tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này.

Trong các vấn đề quân sự hay quan hệ với đồng minh trong NATO, G-7 Trump cũng tỏ ra “thờ ơ” bề ngoài, nói lấp lửng hay nước đôi vê các cam kết bảo vệ đồng minh của Mỹ. Mục đích của Trump là gây sức ép buộc đồng minh tăng ngân sách quốc phòng, chia sẻ nhiều hơn gánh nặng và trách nhiệm an ninh quốc tế với Mỹ, song song với việc ép các đồng” tự nguyện” mở cửa thị trường, thực thi các biện pháp nhằm giúp Mỹ giảm thâm hụt thương mại.

Ba là, cắt giảm cam kết tài chính, gây sức ép cải tổ các định chế quan trọng

Một trong những tổ chức quốc tế lớn nhưng nhận nhiều chỉ trích nhất của chính quyền Trump về sự quan liêu, quản lý yếu kém… là Liên Hợp Quốc (LHQ). Mỹ sở dĩ có tiếng nói quan trọng ở LHQ vì Mỹ là quốc gia đóng góp ngân sách lớn nhất, lên tới 22% tổng ngân sách hàng năm cho tổ chức này (5,6 tỷ USD năm 2017) và là thành viên của Hội đồng Bảo an.

Sự bất bình của Mỹ cũng có lý do riêng. Tuy đóng góp nhiều cho ngân sách của LHQ song ảnh hưởng của Mỹ tại đây lại không như Mỹ mong muốn, đặc biệt trong các cuộc bỏ phiếu liên quan đến tranh chấp Israel-Palestine. Ngoài ra, Mỹ thấy nhiều nước không có sự đóng góp tương xứng vào ngân sách LHQ so với tỷ lệ GDP của họ trong tổng GDP toàn cầu. Song song với sức ép về chính sách kêu gọi LHQ cải tổ trong 3 lĩnh vực là Quản lý, An ninh và Phát triển Mỹ cũng đồng thời tuyên bố cắt giảm đóng góp lên tới 5% tổng ngân sách của LHQ (285 triệu USD), chủ yếu dành cho lĩnh vực gìn giữ hòa bình bắt đầu từ năm 2018.

Bốn là, tấn công trực diện các thiết chế mới ra đời của đối phương

Đối với Mỹ hiện nay, Chiến lược Vành đai, Con đường (BRI) và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) của Trung Quốc là những thiết chế tạo ra các thách thức đối với Mỹ về nhiều mặt. Với BRI, Mỹ lo ngại sự hình thành của một thiết chế mới, một vành đai phát triển quốc tế mới không theo các chuẩn mực do Mỹ đặt ra, giảm lệ thuộc vào Mỹ và phương Tây, trong khi lại lệ thuộc vào Trung Quốc về đầu tư, công nghệ…

Với AIIB, Mỹ lo ngại nhất về (i) sự thiếu khách quan trong các quyết định cho vay, cho rằng AIIB sẽ thiên vị, chỉ cung cấp tín dụng cho những nước có quan hệ tốt với Bắc Kinh; (ii) Khả năng quản trị rủi ro không tốt, vượt quá khả năng trả nợ của những nước đi vay có thể khiến họ hoặc rơi vào tình trạng phá sản hoặc bị lệ thuộc về tài chính vào Trung Quốc; (iii) Có thể giúp nước đi vay đầu tư tăng trưởng tốt trong ngắn hạn, nhưng lại thiếu cơ sở cho phát triển ổn định và bền vững trong dài hạn.

Năm là, lập ra các thiết chế, các định chế mới

Các đề nghị lập thiết chế mới hiện nay chưa nhiều, mới thấy rõ nhất là sáng kiến về “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” thay thế cho Chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở Đông Nam Á. Có thể do chính quyền Trump còn đang bận tâm vào các vấn đề nội bộ, hoặc Mỹ cho rằng có thể tận dụng một số cơ chế cũ nhưng có những điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới cũng như lợi ích của Mỹ.

Dù mới chỉ ở dạng ý tưởng và còn thiếu nhiều chi tiết, nhưng “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” của Mỹ hiện vấp phải nhiều phản ứng trái chiều, đặc biệt từ Nga và Trung Quốc, những nước cho rằng trong khu vực hiện đang có nhiều cơ chế hữu dụng như EAS, ARF, ADMM+… để xử lý các vấn đề khu vực và không nhất thiết phải lập ra các cơ chế mới. Điều này cho thấy cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trên phạm vi khu vực và toàn cầu đang ngày một rõ nét và có thể đưa quan hệ quốc tế đến chỗ chia rẽ, phân cực như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh trước kia.

Nhìn tổng thể, cuộc chiến của Trump để xây dựng một trật tự quốc tế mới lần này chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều lần so với công việc Mỹ đã làm cách đây trên 70 năm. Khi đó Mỹ ở thế thượng phong với sức mạnh tổng hợp vượt trội so với cả đồng minh lẫn đối thủ. Còn hiện tại thì thế và lực của Mỹ, tuy mạnh nhưng không còn ở thế áp đảo, khuynh loát các quốc gia khác. Ngoài ra, các đối thủ của Mỹ cũng sẽ không ngồi yên khoanh tay chịu trận.

Và cũng không khó để nhận ra nhiều nước bắt đầu toan tính, tìm bước đi, lối thoát cho mình nhằm tránh rơi vào thế kẹt trong bối cảnh cuộc đối đầu, cạnh tranh địa-chiến lược Mỹ-Trung và “bóng ma” cuộc Chiến tranh Lạnh mới 2.0 với các vòng xoáy bất ổn, chia rẽ và phân cực đang ngày một hiện rõ./.

TS Hoàng Anh Tuấn là cựu Giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao Việt Nam. Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả.

Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2018/10/14/donald-trump-5-cuoc-chien-dinh-vi-my-the-gioi/
0

Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2018

Mỹ, Anh, Pháp đã không kích Syria: Hình ảnh, video

Tổng thống Hoa Kỳ đã chính thức ra lệnh tấn công Syria. Anh và Pháp là hai đồng minh sát cánh cùng Mỹ trong chiến dịch này. Tin loan lúc 21giờ, giờ Washington (8giờ Hà Nội) ngày 14/04/2018.

"Cách đây ít phút, tôi đã ra lệnh cho Quân đội Mỹ phát động tấn công chính xác vào các mục tiên có liên quan tới vũ khí hóa học của nhà độc tài Syria Bashar al-Assad", ông Trump tuyên bố trong bài phát biểu được ghi hình từ Nhà Trắng.
0

Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2016

Miền Tây hoang dã nước Mỹ - Thế giới động vật (Thuyết minh)

Tây Hoa Kỳ (tiếng Anh: Western United States, thường được gọi là American West hay đơn giản là "the West"), theo truyền thống là vùng bao gồm các tiểu bang cận tây nhất của Hoa Kỳ. Vì Hoa Kỳ bành trướng về phía tây sau khi thành lập nên ý nghĩa về Miền Tây hay Miền Viễn Tây cứ thay đổi theo thời gian. Trước năm 1800, sống lưng của Dãy núi Appalachian được xem là biên cương phía tây của Hoa Kỳ. Kể từ đó, biên cương di chuyển xa hơn về hướng tây và rồi sau đó Sông Mississippi được dùng làm mốc biên cương cận đông nhất của miền Tây.


Trong thế kỷ 21, các tiểu bang nằm trong Rặng Thạch Sơn và vùng cao nguyên thuộc Đại Bình nguyên cho đến Tây Duyên hải thường được xem là tạo nên American West. Denver, Colorado đôi khi được xem là phần đất trải rộng thuộc phía đông của miền Tây như trong phim Dumb and Dumber bắt đầu với miền Trung Tây ngay phía đông của Aurora, Colorado nơi mà Đại Bình nguyên Hoa Kỳ bắt đầu.

Ngoài việc được định hình theo vị trí địa lý, "miền Tây" cũng có ý nghĩa theo nhân chủng học. Trong lúc miền này có sự đa dạng riêng bên trong của chính nó nhưng tổng quan vùng này có cùng một lịch sử, văn hoá (âm nhạc, ẩm thực), quan điểm về thế giới, lối suy nghĩ và giọng Anh gần như tương đồng. Tuy nhiên, một vài tiểu vùng và tiểu bang như Utah và miền nam California có một số điều khác biệt với phần còn lại của miền Tây.

"Miền Tây" đã và đang đóng một vai trò quan trọng trọng trong lịch sử Hoa Kỳ; Cựu miền Tây hay Old West được lồng vào trong các chuyện đời xưa của người Mỹ.

Nguồn: Wikipedia, VTCHD, YouTube, Dailymotion
0

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

Tổng thống Barack Obama tái đắc cử


07/11/2012- Theo kết quả kiểm phiếu mới nhất, ông Barack Obama thắng cử với 281 phiếu đại cử tri. Ông viết trên twitter ngay sau khi có kết quả: "Xin cảm ơn. Tôi chiến thắng là nhờ các bạn".


Tổng thống Barack Obama nói chuyện với các tình nguyện viên khi ông tới thăm một văn phòng vận động tranh cử tại Chicago, bang Illinois. Ảnh: AFP

Kết quả này mang tới cho Obama một nhiệm kỳ tổng thống 4 năm nữa, để ông có thể tiếp tục các kế hoạch đã đề ra.

Kết quả này cũng trùng với ý kiến công chúng trên khắp thế giới, theo đó có đến 81% số người được hỏi tính chung toàn cầu "bỏ phiếu" cho ông Obama.

Độc giả VnExpress, theo thăm dò trong một tháng qua, cũng "bầu" cho Obama, với tỷ lệ 75,8%.

Sau khi Obama twitt lời cảm ơn, ngay lập tức có 88.000 lượt retwitt.


Kết quả kiểm phiếu theo CNN, cho thấy ông Obama tái cử tổng thống Mỹ.


Cuộc bầu cử gay cho thấy sự gay cấn ngay khi những kết quả đầu tiên ở từng bang được công bố. Khi một số bang đầu tiên ở đông và trung công bố kết quả, cán cân nghiêng về ứng viên Cộng hòa Mitt Romney. Điều này không gây ngạc nhiên vì trong số các đó phần lớn là trung thành với phe Cộng hòa.

Khi các kết quả tiếp theo được đưa ra, Romney vẫn tiếp tục dẫn trước nhưng với khoảng cách rất sít sao, chỉ vài cho đến chục phiếu đại cử tri. Sau đó, ông Obama vượt lên dẫn trước, rồi lại tụt xuống sau Romney. Tình thế cho thấy mức độ quyết liệt trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng.

Romney sau khi bỏ phiếu cùng vợ tiếp tục vận động ở bang chiến trường quan trọng Ohio, còn Obama sau khi chơi một trận bóng rổ đã lui về "ở ẩn" và theo dõi kết quả.

Obama thắng ở bang Ohio với tỷ lệ 50% số phiếu ủng hộ so với 48% của Mitt Romney, kết quả này dựa trên 62% số phiếu được kiểm. Tương tự, ở bang Florida, nơi có tới 29 phiếu đại cử tri, Obama giành thắng lợi 49,9%, so với Romney 49,3%. Điều này có thể dẫn đến các yêu cầu đòi kiểm phiếu lại như từng xảy ra năm 2000.

Tính trên các bang đã công bố kết quả kiểm phiếu, ông Romney tuy thua về phiếu đại cử tri nhưng lại giành được 50% phiếu phổ thông, trong khi tổng thống về sau, với 49%.

Trong khi đó các báo chí Mỹ dự đoán phe Dân chủ cũng sẽ giành đa số tại Thượng viện.

Còn một số bang chưa công bố kết quả, nhưng như vậy, Obama giành 274 phiếu đại cử tri theo con số của CNN, hay 275 theo con số của nhiều hãng truyền thông lớn khác, ông Obama sẽ tiếp tục là tổng thống Mỹ cho đến 2017.

Ông Romney, trên đường đi vận động tranh cử sau khi ông và vợ bỏ phiếu, cho biết đã viết sẵn diễn văn mừng chiến thắng. Nhưng có lẽ ông sẽ không dùng đến bài phát biểu đó. Tuy nhiên Romny cũng khẳng định không hối tiếc điều gì, bởi ông và gia đình cũng như cộng sự đã làm hết sức, chiến đấu đến những giờ phút cuối cùng.


Trong khi di chuyển đến địa điểm vận động tranh cử tối 6/11, ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa Mitt Romney rất tự tin nói rằng mình đã chuẩn bị sẵn bài phát biểu chiến thắng. Ảnh: AFP

Kinh tế là mối quan tâm lớn nhất của các cử tri Mỹ khi đi bỏ phiếu. Theo quan sát của các hãng truyền thông, số lượng cử tri đi bầu năm nay rất đông, tạo nên những hàng dài ở các điểm bỏ phiếu.

Nhiều cử tri tham gia bầu cử cho biết cuộc bỏ phiếu diễn ra trật tự và vui vẻ. "Ở̉ nơi tôi đi bỏ phiếu, mọi người xếp hàng dài, nhưng nói chung đều trật tự và vui vẻ hạnh phúc. Bang Virginia năm nay trở lại với cách bỏ phiếu bằng giấy, tôi thấy thật lãng phí và cách rách. Khi chúng tôi hỏi tại sao lại thế, các viên chức bầu cử giải thích rằng làm cách này chính xác hơn và tiện kiểm phiếu hơn", cô Aaron Maxa, bang Virginia, cho hay.

Tại bang Colorado, ông Roy D Moore Jr., 89 tuổi, dán miếng dính "I Voted" sau khi bỏ phiếu bầu cử. "Tôi sẽ còn đi bầu nữa, bốn năm sau đây", ông nói. Các quan chức bầu cử ở nơi ông bỏ phiếu cho biết số lượng cử tri xếp hàng chờ đợi đông hơn mức trung bình và mỗi người phải chờ khoảng 45 phút.

Tại một điểm bỏ phiếu ở Staten Island, New York, nơi vừa trải qua cơn bão Sandy kinh hoàng, các cử tri đến bỏ phiếu trong một chiếc lều không có hệ thống sưởi, được chiếu sáng bằng đèn flash. Giới chức bang cho biết những người phải sơ tán hoặc chưa trở về nhà do bão Sandy có thể bỏ phiếu ở bất kỳ nơi nào.

Một người đàn ông tại Massachusettes đột quỵ ngay tại điểm bỏ phiếu. Ông được các nhân viên y tế cấp cứu kịp thời và sống lại, thều thào hỏi xem ông đã bỏ phiếu hay chưa. Khi nhân viên y tế nói điều quan trọng hơn giờ là sức khỏe, thì cử tri này cãi lại rằng có hai điều quan trọng với ông, đó là "nói rằng tôi yêu vợ, và đã bỏ phiếu". Cử tri này đã bỏ phiếu trước khi ngừng thở lúc trước.


Các bang đã có kết quả ban đầu dựa trên trưng cầu ý kiến cử tri sau bỏ phiếu. Bang xanh ủng hộ Obama, bang đỏ ủng hộ Romney. Đồ họa: NYT



Phát biểu mừng chiến thắng của TT. Obama:

1

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

'Mỹ không ủng hộ đàm phán song phương Biển Đông'

03/6/12- Hai thượng nghị sĩ John McCain và Joseph Lieberman cho biết, chính phủ Mỹ không ủng hộ kêu gọi của Trung Quốc về việc tổ chức đàm phán mặt đối mặt để giải quyết các mâu thuẫn đang gia tăng ở Biển Đông.


Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain. Ảnh: inquisitr

Bộ đôi nghị sĩ hiện đang ở Malaysia trong khuôn khổ chuyến công du châu Á - Thái Bình Dương. Họ kêu gọi các cuộc thương thảo đa phương giữa các nước có liên quan ở Biển Đông theo như đề xuất của ASEAN.

Lieberman nói rằng, Mỹ không tìm cách đối đầu hay kiềm chế Trung Quốc, nhưng sẽ không đơn giản chấp thuận bất cứ điều gì Trung Quốc khẳng định. "Đó là một nguyên tắc nền tảng của chính sách đối ngoại Mỹ nhằm bảo vệ tự do và an ninh hàng hải trên biển. Chúng tôi không nhất trí với lời khẳng định rằng, Trung Quốc có chủ quyền với hầu hết Biển Đông", ông nói với báo chí hôm 1/6. "Nó đơn giản là không công bằng với các bên tuyên bố chủ quyền khác, bao gồm cả Malaysia".

Biển Đông là nơi diễn ra tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á. Trong đó Bắc Kinh khẳng định chủ quyền với hầu hết Biển Đông, kể cả những vùng sát cạnh bờ biển nước khác.

Tại Malaysia, thượng nghị sĩ McCain khẳng định rằng, không phải là Mỹ muốn can thiệp vào xung đột ở Biển Đông, mà nước này có nhiều điều hơn để làm trong tầm nhìn của nỗ lực thúc đẩy quan hệ với các quốc gia trong khu vực.

Trước đó, phát biểu tại cuộc hội thảo của Viện Nghiên cứu các vấn đề chiến lược và quốc tế (CSIS) ở Washington, ông McCain nói rằng, Mỹ cần bảo đảm rằng Trung Quốc không thể "muốn làm gì thì làm" trong lúc các nước nhỏ hơn phải chịu tổn hại. Ông nhấn mạnh, Washington cần ủng hộ các nước đối tác trong ASEAN để họ có thể hình thành một mặt trận thống nhất và thông qua đường lối đa phương để giải quyết vụ tranh chấp này một cách hòa bình.

Lời kêu gọi của thượng nghị sĩ Mỹ đưa ra trong lúc tình hình căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines tiếp diễn ở bãi đá ngầm Scarborough (Bắc Kinh gọi là đảo Hoàng Nham), nơi vụ đối đầu giữa tàu vũ trang hai nước nổ ra hôm 10/4 khi tàu hải giám Trung Quốc ngăn không cho hải quân Philippines bắt giữ những ngư dân Trung Quốc đánh cá trong vùng biển này.

Thái An (theo malaysia-chronicle)

http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/74736/-my-khong-ung-ho-dam-phan-song-phuong-bien-dong-.html

0

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

Nếu Mỹ không lãnh đạo thế giới?

25/5/12- Trong một viễn cảnh Mỹ không đủ sức lãnh đạo thế giới, khoảng trống quyền lực không thể lấp đầy, vậy các quốc gia sẽ hợp tác hay sẽ cạnh tranh khốc liệt với nhau?

Nếu quả thực có các trung tâm quyền lực đa cực tồn tại trong một thập kỷ tính từ lúc này, hãy tưởng tượng ra một viễn cảnh mà trong đó, việc thiếu vắng cường quốc toàn cầu sẽ tạo nên một cuộc khủng hoảng, hoặc một loạt khủng hoảng có tác động đến mức các cường quốc đã thiết lập và đang trỗi dậy đều buộc phải hợp tác, nhượng bộ và chia sẻ rủi ro cũng như gánh nặng về vai trò lãnh đạo.

Mô hình đó là trật tự G-20 đang thực sự hiện hữu, đó là một kiểu mô hình ‘hòa hợp giữa các quốc gia’- một cấu trúc tương tự như “Hòa hợp châu Âu’ đã tạo nên sự phối hợp giữa Anh, Đế chế Nga, Úc, Phổ, và sau đó là Pháp trong một nỗ lực để khôi phục và duy trì hòa bình của châu Âu sau Cách mạng Pháp và các cuộc chiến của Napoleon. Đó là một sự cân bằng quyền lực được thể chế hóa nhằm mang lại sự ổn định tại châu Âu từ đầu thế kỷ 19 cho tới khi chiến tranh Thế giới I bùng nổ.


Ảnh minh họa

Nhưng kịch bản này đặc biệt khó khả thi bởi vì có quá ít bối cảnh có thể hình dung được sẽ tạo ra sự sợ hãi ở mức độ rộng lớn và duy trì nó trong khoảng thời gian dài. Hãy tưởng tượng ra ở châu Âu, các thị trường tài chính tan chảy mạnh hơn và kéo dài hơn so với ‘khoảnh khắc Lehman’ của Mỹ. Các quốc gia lớn như Tây Ban Nha và Italy quá lớn để có thể rút chân ra khỏi thị trường và đánh mất niềm tin của các nhà đầu tư. Các ngân hàng của Đức và Pháp bị phá sản sau các nợ xấu tại các quốc gia này. Khu vực đồng tiền chung sụp đổ, và châu Âu vỡ ra thành từng mảnh. Mỹ và Trung Quốc mất đi một đối tác thương mại then chốt và hàng trăng ngàn công ăn việc làm mà khu vực này có thể tạo ra.

Tất nhiên vẫn rất khó để hình dung ra sự tàn phá này sau đó lại tạo ra một sự hợp tác nào đó. Như với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các tác động của một cú sốc thậm chí mạnh hơn thế đối với hệ thống có thể kéo dài hơn ở một số nơi, và để cầm cự được thì phải tận dụng các điểm yếu của người khác, chứ không phải từ việc phối hợp để củng cố hệ thống thương mại quốc tế.

Hãy tưởng tượng ra một vấn đề thậm chí còn mang tính toàn cầu hơn: có thể nhu cầu ngũ cốc trên thế giới ngày một tăng cao hơn rất nhiều so với nguồn cung, và một loạt thảm họa do thời tiết gây nên khiến cho giá lương thực tăng vọt trên khắp Nam và Đông Nam Á, Bắc Phi và nhiều nước Mỹ Latinh, các nước thuộc Liên Xô cũ.

Giả dụ các cuộc biểu tình ở Nga khiến cho chính quyền đáp trả một cách cứng rắn – đến nỗi mất đi thiện cảm từ người dân. Các cuộc nổi dậy tràn ra khỏi biên giới Ấn Độ. Venezuela, Thái Lan và cả Ai Cập cũng rơi vào tình trạng bất ổn. Trung Quốc cũng không ngoại trừ.

Và trong bối cảnh đó, các cú sốc về lương thực sẽ luôn tác động mạnh tới các cường quốc đang nổi và thế giới đang phát triển hơn là ảnh hưởng tới Mỹ, châu Âu, Nhật; bởi vì người dân ở các quốc gia phát triển phải chi trả rất ít phần trăm thu nhập của họ cho các loại lương thực chủ yếu. Một lần nữa, mô hình này có vẻ như không gây ảnh hưởng tới ai cả, hoặc nói cách khách là lịch sử cho thấy các cuộc chiến về lương thực có vẻ như tạo nên xung đột tương tự như mức tạo nên hợp tác.

Cuối cùng, vẫn rất khó có thể hình dung ra một cuộc khủng hoảng đủ lớn để tạo nên một sự hợp tác lâu dài từ các cường quốc đã thiết lập và cường quốc đang nổi, và sự phức hợp của các mối đe dọa mà các ngoại trưởng của châu Âu ở thế kỷ 19 phải đối mặt trở nên nhạt nhòa hơn so với những thách thức trong kỷ nguyên G-0.

Lê Thu (Theo FP)

http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/vietnamnet.vn/Quoc-gia-nao-se-lanh-dao-the-gioi/8540055.epi
0

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Bản tuyên ngôn sức mạnh Mỹ dành cho Châu Á

26/2/12-Theo mạng Asia Times, mới đây Mỹ đã đẩy mạnh chiến lược châu Á- Thái Bình Dương của mình bằng một chuyến viễn du thu hút sự chú ý qua khắp khu vực này của Tổng thống Barack Obama và sự tham gia của Mỹ vào một số hội nghị cấp cao. Được quảng bá như là một nỗ lực nhằm mở rộng thương mại và hỗ trợ nền kinh tế Mỹ đang trì trệ, phần lớn sự chú ý mang tính ngoại giao trên thực tế là dành cho các vấn đề an ninh. Điều này là đặc biệt đúng ở Đông Nam Á, nơi chiến lược tái can dự của Mỹ dường như hướng tới đẩy mạnh sự cạnh tranh với Trung Quốc.


Người ta cho rằng sự chú trọng của Oasinhtơn vào châu Á đã bắt đầu vào những ngày đầu tiên cầm quyền của Chính quyền Obama. Ngoại trưởng Hillary Clinton lựa chọn thực hiện chuyến công du nước ngoài đầu tiên cua mình đến châu Á, một bước đột phá từ quá khứ mà châu Âu thường được ưu tiên. Việc này được tiếp theo sau bởi sự tham gia của Mỹ trong các diễn đàn khu vực bao gồm Diễn đàn khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) – hay còn gọi là ARF, Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng ASEAN, và gần đây nhất là Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS). Mỹ cũng đã bổ nhiệm đại sứ tại ASEAN và Obama đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác với tổ chức này, một chuyển biến then chốt hướng tới tăng cường mối quan hệ Mỹ-ASEAN.

Mỹ cũng tăng cường sự tham gia của mình trong các sáng kiến an ninh khu vực. Bên cạnh các cuộc diễn tập quân sự thường niên Hổ mang vàng được tổ chức ở Thái Lan, Mỹ đã đấy mạnh sự hợp tác và tham gia các cuộc diễn tập với các quân đội Malaixia, Xinhgapo, Philíppin và Inđônêxia. Sau lệnh cấm kéo dài một thập kỷ, Mỹ đã bắt đầu lại sự tiếp xúc về mặt quân sự với các lực lượng, đặc biệt Kopassus của Inđônêxia vào năm 2010. Mỹ cũng đã bắt đầu các cuộc diễn tập quân sự không trực tiếp chiến đấu với Việt Nam. Trong chuyến thăm gần đây của Obama đến Ôxtrâylia, hai nước đã tuyên bố các kế hoạch để cuối cùng đóng một lực lượng đặc nhiệm lính thủy đánh bộ Mỹ gồm 2.500 quân tại thành phố Darwin ở phía Bắc Ôxtrâylia.

Những động thái này nhấn mạnh chính sách tái can dự của Obama hướng tới châu Á, và đặc biệt là Đông Nam Á. Một bài báo của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton vào đầu tháng 11/2011 được đăng trên tạp chí Chính sách đối ngoại đã trình bày rõ ràng ý định của Mỹ hồi phục lại các cam kết kinh tế, chính trị và an ninh đối với khu vực này. Sử dụng thuật ngữ “ngoại giao được triên khai về phía trước”, Clinton đã trình bày một chính sách chủ động tích cực được đặc trưng bởi việc củng cố các liên minh an ninh song phương, thiết lập sự hiện diện quân sự ở nước ngoài, tham gia các thể chế đa phương, gia tăng thương mại và đầu tư, củng cố các mối quan hệ với các cường quốc khu vực đang nổi lên, kể cả Trung Quốc, và thúc đẩy nhân quyền và chế độ dân chủ.

Ưu tiên hàng đầu về an ninh

Hành động tiếp theo bài báo này là các chuyến thăm của Obama và Clinton đến một số nước Đông Nam Á như là một phần của tuần các sự kiện lấy tiêu điểm là châu Á, bao gồm Hội nghị Hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương ở Hawaii vào ngày 12-13/11/2011, và kết thúc tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á ở Bali, Inđônêxia vào ngày 18-19/11/2011. Mặc dù được xúc tiến như là “khẳng định lại sự hiện diện về mặt ngoại giao của Mỹ và tạo dựng những mối quan hệ đối tác kinh tế mới, các vấn đề an ninh đã được ưu tiên tại nhiều hội nghị song phương và đa phương.

Obama đã tóm tắt những ý định của mình trong chuyến thăm của ông đến Ôxtrâylia vào ngày 16/11/2011: “Bằng chuyến thăm của tôi đên khu vực này, tôi đang làm rõ rằng Mỹ đang tăng cường cam kết của mình với toàn bộ khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Tuyên bố của ông diễn ra sau tuyên bố mở rộng sự hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực này thông qua lực lượng đặc nhiệm lính thủy đánh bộ Mỹ luân phiên đóng ở các căn cứ quân sự của Ôxtrâylia. Trong khi 2.500 binh lính là một sự triển khai khiêm tốn họ đánh dấu sự mở rộng dài hạn đầu tiên sự hiện diện quân sự của Mỹ ở châu Á kể từ Chiến tranh Việt Nam.

Sự triển khai này có những tác động rõ ràng đối với Đông Nam Á. Sự có mặt của lính thủy đánh bộ sẽ cho phép Mỹ triển khai sự hiện diện của mình vào khu vực này mà trên thực tế không thực hiện hành động có thể mang tính khiêu khích — và có thể không được lòng dân — là đóng quân ở khu vực này. Mỹ đã từ bỏ các căn cứ của mình ở Thái Lan vào giữa những năm 1970 và ở Philíppin vào đầu những năm 1990, mặc dù Mỹ sử dụng các căn cứ hải quân ở Xinhgapo.

Từ Ôxtrâylia, quân đội Mỹ sẽ dễ dàng tiếp cận khu vực này để tham gia các cuộc diễn tập, huấn luyện, giúp đỡ các nỗ lực nhân đạo, và có mặt để giúp duy trì cơ cấu an ninh khu vực. Nước này cũng đặt quân đội của mình trong tầm hoạt động dễ dàng tới Biển Nam Trung Hoa, đem lại biện pháp răn đe và sự ủng hộ về mặt tinh thần cho các nước Đông Nam Á bằng các tuyên bố đối với khu vực này. Ngoài lính thủy đánh bộ ở Ôxtrâylia, Mỹ cũng có kế hoạch triển khai các tàu chiến ven bờ mới đến Xinhgapo.

Trong bài báo của mình, bà Clinton đã viết về việc đổi mới và củng cố các liên minh với Thái Lan và Philíppin. Bà đã đến thăm cả hai nước trong chuyến công du gần đây của bà khắp khu vực này. Clinton đặt ra một sức nặng tượng trưng đằng sau những ý định được viết ra của bà về việc tăng những chuyến viếng thăm của các tàu đến Philíppin và việc huấn luyện các lực lượng chống khủng bố của Philíppin khi bà khẳng định lại mối quan hệ quân sự mạnh mẽ giữa Mỹ và Philíppin trên boong một chiếc tàu chiến của Mỹ ở Vịnh Manila.

Chủ nghĩa tượng trưng này chắc chắn là có tác động đến người Philíppin, những người bất hòa với -Trung Quốc về cái mà Manila xem là phần chủ quyền Biển Nam Trung Hoa của mình. Trong bài diễn thuyết của mình trên boong chiếc tàu chiến này, Clinton đã đề cập đến Biển Tây Philíppin, từ ngữ mà Manila dùng để chỉ Biển Nam Trung Hoa. Trong khi đó, các cuộc thao diễn quân sự chung gần đây của Mỹ với Philíppin đã chuyển từ những chương trình chủ yếu trên đất liền sang những chương trình tập trung hơn vào chiến tranh hải quân và đổ bộ.

Đưa ra một diện mạo ít gây hấn hơn về sự hiện diện quân sự mở rộng ở khu vực này, Clinton đã lưu ý trong bài báo của mình rằng nó sẽ đem lại những lợi thế “mang tính sống còn”, bao gồm sự hỗ trợ của Mỹ dành cho các hoạt động nhân đạo cũng như đem lại “bức tường bảo vệ vững chắc chống lại các mối đe dọa hay những nỗ lực phá hoại hòa bình và sự ổn định khu vực.”

Trong khi quân đội Mỹ chắc chắn sẽ có thể giúp đỡ nhân đạo khẩn cấp trong tương lai như nó đã thực hiện trong thảm họa sóng thần năm 2004 và sẵn sàng giúp đỡ sau cơn bão lốc Margis năm 2008 ở Mianma, và các cuộc diễn tập huấn luyện với các quân đội Đông Nam Á đã được tổ chức trong một thời gian, có một sự suy đoán lớn rằng những lời hứa hẹn về an ninh gần đây của Mỹ và những cam kết quân sự được tăng cường là một phần của chiến lược lớn hơn nhằm vào Trung Quốc.

Các vùng biển rắc rối

Ở trung tâm của sự suy đoán này là Biển Nam Trung Hoa. Gọi quyền tự do hàng hải và sự ổn định là lợi ích “mang tính sống còn”, Clinton đã viết trong bài báo của bà rằng ngoại giao Mỹ đã góp phần vào những nỗ lực đa phương lâu dài trong các bên yêu sách đối địch đảm bảo các tranh chấp được giải quyết một cách hòa bình và phù hợp với những nguyên lý đã được thiết lập của luật pháp quốc tế. Trong khi ở Philíppin – và vào cùng thời điểm Obama tuyên bố đóng quân ở Ôxtrâylia – bà Clinton đã ký kết một tuyên bố với người đồng nhiệm Philíppin kêu gọi các cuộc đàm phán đa phương nhằm giải quyết các vấn đề biển.

Những nước khác có yêu sách đối với khu vực biển này, đang ngày càng nghi ngờ các động thái của Trung Quốc ở cả Biển Nam Trung Hoa lẫn ở các nơi khác, đã mô tả những hành động gần đây của Trung Quốc ở các khu vực có thể có nhiều dầu lửa và khí đốt là hung hăng. Câu thần chú của Bắc Kinh là cam kết với hòa bình và sự ổn định khu vực thông qua hành động không gây hấn trái ngược với việc thiếu tính minh bạch về chương trình và các hoạt động quân sự của mình như các vụ quấy rỗi gần đây của các tàu hải quân Trung Quốc đối với các tàu nghiên cứu của các nước khác.

Quả thật, sự hiện diện quân sự nhiều hơn về phía trước của Mỹ ở khu vực này được diễn tả như là một phản ứng được sự ủng hộ của các nước khu vực trước thái độ bị xem là hung hăng của Trung Quốc ở khu vực biển này. Trung Quốc đã khăng khăng rằng nước này muốn thảo luận về những yêu sách lãnh thổ gây tranh cãi chỉ trên cơ sở song phương và từ chối “quốc tế hóa” vấn đề này trong các diễn đàn như ARF và EAS.

Mianma cũng dường như quyết định rằng tốt hơn là làm cân bằng mối quan hệ với Trung Quốc và các mối quan hệ tốt đẹp hơn với Mỹ. Sự thù địch đối với ảnh hưởng kinh tế và chính trị ngày càng tăng của Trung Quốc ở đất nước này đã lên đến đỉnh điểm vào thảng 10/2011 với sự đình chỉ dự án đập thủy điện gây tranh cãi được Trung Quốc hậu thuẫn ở miên Bắc nước này.

Đồng thời, một vài cuộc họp cấp cao giữa các quan chức Mianma và các quan chức ngoại giao Mỹ, và chuyến thăm của bà Clinton đến đất nước này vào tháng 12/2011, đã để lại cho những người quan sát Mianma ấn tượng rằng sắp có một mối quan hệ mới và thân mật hơn giữa Oasinhtơn và Nâypiđô.

Nhiều nước ASEAN coi trọng khả năng của Mỹ đóng vai trò đối trọng với Trung Quốc, nhưng không muốn bị đặt vào thế bị buộc phải lựa chọn giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn. Một phần sức hấp dẫn của Mỹ là việc Chính quyền Obama ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực đang phát triển. Các nước ASEAN hy vọng rằng ảnh hưởng của Oasinhtơn sẽ giúp khuyến khích Trung Quốc hành động theo các luật lệ và quy tắc mà nước này giúp thúc đẩy trong các diễn đàn quốc tế chứ không chỉ là các luật lệ và quy tắc được Bắc Kinh đặt ra.

Phản ứng thầm lặng

Phản ứng của Bắc Kinh trước lập trường quyết đoán hơn của Oasinhtơn nhìn chung là thầm lặng. Một loạt cảnh báo nghiêm khắc đã được đưa ra mới đây trước những tuyên bố của Obama, kể cả thông qua phương tiện truyền thông, nhưng chúng phần lớn là mang tính thông lệ.

Oasinhtơn bị buộc tội tìm cách gây ra những sự căng thẳng về quân sự ớ khu vực này bằng tuyên bố đóng quân của mình ở Ôxtrâylia. Hãng thông tấn nhà nước Tân Hoa Xã mới đây đã bình luận rằng “Mỹ cảm thấy Trung Quôc gây ra một mối đe dọa ngày càng gia tăng đối với sự bá quyền của mình. Do đó, mục đích chiến lược hướng về phía Đông của My trên thực tế là nhằm trói buộc và kiềm chế Trung Quốc và đối trọng với sự phát triển của Trung Quốc”.

Những cảnh báo này và những cảnh báo trên báo chí khác không mạnh mẽ như mong dợi đối với một hành động quyết đoán như vậy của Oasinhtơn đi vào một khu vực mà Trung Quốc ngày càng quan tâm mạnh mẽ. Quả thật, Bắc Kinh có vẻ gần như mất cảnh giác bởi phạm vi và tính quyết đoán của đường hướng mới của Oasinhtơn, mặc dù phản ứng của nước này có thể bị giảm nhẹ là do mối bận tâm với các vấn đề lãnh đạo kế tiếp. Rõ ràng là Trung Quốc muốn tránh bất cứ tranh chấp lớn nào về mặt ngoại giao cho tới khi những vấn đề này được giải quyết.

Các quan chức và các nhà phân tích Trung Quốc cũng phải cân nhắc những hành động đáp lại của họ nhằm tránh phản ứng quá mạnh mẽ đối với những thông điệp có ý nghĩa đối với thính giả trong nước Mỹ trong thời gian tiến gần tới cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2012 hơn là nhằm trực tiếp vào Bắc Kinh. Obama bị các ứng viên đối thủ của đảng Cộng hòa buộc tội là quá mềm mỏng về vấn đề Trung Quốc, một điệp khúc phổ biến ở cả hai phe phái chính trị khi gần đến cuộc bầu cử của Mỹ.

Bắc Kinh cũng có thể phần nào bị sửng sốt vì sự ủng hộ đáng kể ở khu vực này dành cho Oasinhtơn. Theo một thông báo của một quan chức Mỹ, 16 trong số 18 nhà lãnh đạo có mặt tại EAS đã lên tiếng mạnh mẽ chỉ trích thái độ hiện nay của Trung Quốc ở khu vực này. Bài học mà Bắc Kinh có thể đúc kết ra được từ hội nghị này là lập trường cứng rắn về Biển Nam 1 rung Hoa sẽ chỉ có thể dẫn đến việc những nước yêu sách khác gia tăng dựa vào Mỹ, một kịch bản mà Bắc Kinh rõ ràng là muốn tránh.

Thừa nhận sự khó chịu của Trung Quốc trước các hành động của Mỹ mà có thể được lý giải như sự bao vây, ngày 17/11/2011 Obama đã hứa hẹn sẽ tìm kiếm sự hợp tác lớn hơn với Bắc Kinh. Hai ngày sau, ông đã gặp Thủ tướng Ôn Gia Bảo trong một cuộc họp không định trước sau Hội nghị EAS ở Bali, rõ ràng là theo yêu cầu của Trung Quốc. Nghe nói Ôn Gia Bảo đã chỉ trích Obama vì đã nêu ra vấn đề Biển Nam Trung Hoa tại EAS, nói rằng vấn đề này cần phải được giải quyết một cách trực tiếp “thông qua sự bàn bạc và đàm phán thân thiện”.

vẫn còn phải xem xem liệu Mỹ có thể cư xử phù hợp với lời lẽ và những kế hoạch của nước này về tăng cường cam kết an ninh hay không. Dưới ánh sáng các vấn đề tài chính, sự suy thoái kinh tế và những sự cắt giảm ngân sách do kết quả của việc đó tại Lầu Năm Góc gần đây của Mỹ, các nhà lãnh đạo khu vực quan ngại rằng Oasinhtơn không thể duy trì cam kết đã được tuyên bố của nước này với khu vực.

vẫn thấy nhức nhối vì việc Mỹ có vẻ đã sao lãng khu vực này để có lợi cho các cuộc chiến tranh ở Irắc và Ápganixtan trong thời George W.Bush làm tổng thống, các nhà lãnh đạo ASEAN cần những sự đảm bảo được khuyến khích bởi những hành động cụ thể rằng sự hiện diện an ninh của Mỹ là thực sự thườg xuyên. Nếu Oasinhtơn do dự về những cam kết đó Mỹ có nguy cơ bị mất tính hợp pháp của mình ở khu vực này và sự tin tưởng về mặt ngoại giao mà Chính quyền Obama có thể giành lại được thông qua những lời hứa hẹn tái can dự của mình./.

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

http://anhbasam.wordpress.com/2012/02/28/ban-tuyen-ngon-suc-manh-cua-my-danh-cho-chau-a/
0

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

Lầu Năm Góc bác tin tàu chiến Iran cập cảng Syria

Ngày 21/2, Lầu Năm Góc khẳng định không có dấu hiệu nào cho thấy hai tàu chiến Iran đã cập cảng Syria hồi cuối tuần qua.

Khẳng định trên hoàn toàn trái ngược với thông tin mà kênh truyền hình Press TV của Iran phát đi trước đó.

Người phát ngôn Lầu Năm Góc George Little khẳng định: "Chúng tôi hoàn toàn không nhận thấy tàu nào của Iran cập cảng Syria," đồng thời cho biết Mỹ tin rằng trên thực tế, các tàu này "đã không cập cảng ở Syria."

Theo ông Little, các tàu chiến của Iran đã đi qua kênh đào Suez và hiện dường như chuẩn bị quay về.

Trước đó, kênh Press TV đưa tin hai tàu chiến của Iran đã cập cảng Tartous của Syria hôm 18/2 vừa qua.

Các tàu chiến này được cho là sẽ hỗ trợ huấn luyện cho lực lượng hải quân Syria./.

(Vietnam+)

Iran dự định phóng vệ tinh tự tạo trong vài tháng tới

Giám đốc cơ quan vũ trụ Iran Hamid Phazely tuyên bố, trong vài tháng tới Iran sẽ phóng vệ tinh “Fajr” do nước này sản xuất lên quỹ đạo. Theo kế hoạch, việc phóng vệ tinh sẽ được tiến hành trong những tháng đầu tiên sau Lễ năm mới bắt đầu vào 20/3/2012. Theo ông Phazely, vệ tinh do Iran chế tạo được trang bị các camera và bộ cảm biến để kiểm tra hoạt động của các thiết bị trên các vệ tinh đã được phóng lên quỹ đạo trước đó.

http://vietnamese.ruvr.ru/2012_02_21/66585833/
0

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

Đánh giá tương lai quân sự Mỹ

16/2/12-Tờ Diplomat đã đăng tải cuộc phỏng vấn của phó tổng biên tập báo này Harry Kazianis với nghị sĩ Mỹ James Langevin về “trục xoay” của Mỹ tới Thái Bình Dương, về tái cơ cấu quốc phòng và những mối đe doạ an ninh quốc gia mới nổi lên.

Trả lời câu hỏi liệu Mỹ có đi đúng hướng khi thay đổi từ tập trung vào các nỗ lực chống nổi dậy tới một vai trò mạnh mẽ hơn ở châu Á - Thái Bình Dương, kèm theo đó là kết quả và thách thức nào chờ đợi nước này phía trước; nghị sĩ Langevin thừa nhận nước này đã "bỏ quên" quá lâu các lợi ích ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương khi dồn tài lực vào hai cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan. Ông khẳng định, chuyển hướng tập trung tới các chương trình và khả năng để liên kết và củng cố các đồng minh lâu dài của Mỹ ở Thái Bình Dương, chuẩn bị cho quân đội đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng đang diễn ra trong môi trường an ninh toàn cầu chính là điều tối quan trong để duy trì ưu thế quân sự Mỹ trên mọi lĩnh vực trong nhiều thập niên tới.

Theo ông, để đảm bảo sự thành công tầm khu vực cũng như toàn cầu, điều cần thiết là Mỹ phải dẫn đầu trong các khả năng công nghệ bao gồm những hệ thống không người lái, các hệ thống chiến thuật và chiến lược dưới nước, tăng cường an ninh mạng để giải quyết các mối đe doạ hiện tại và đang nổi lên.

Bàn về chuyện tranh luận quan hệ giữa Mỹ - Australia trở nên thắt chặt hơn trong chuyến công du của Tổng thống Barack Obama cũng như quyết định triển khai lực lượng Mỹ tại căn cứ Darwin, nghị sĩ Mỹ khẳng định đây là động thái thích hợp như một phần của chiến lược lớn hơn mà Mỹ thực thi để tăng cường những quan hệ của nước này tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Theo Harry Kazianis, có những lập luận rằng, các nỗ lực ngoại giao và quân sự Mỹ tại Thái Bình Dương không gì hơn là nhằm che đậy cái gọi là "ngăn chặn Trung Quốc". Ông đưa ra câu hỏi về phản ứng của nghị sĩ Mỹ trước lời buộc tội như vậy cũng như những gì có thể làm để xoa dịu căng thẳng với Bắc Kinh. "Điều quan trọng là vì lợi ích của công dân Mỹ mà chúng ta nuôi dưỡng mối quan hệ làm việc tốt đẹp với Trung Quốc, quốc gia giờ đây trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Cùng lúc đó, các thực tiễn thương mại và quan điểm chính sách đối ngoại của họ không nhất thiết phải tương đồng với chúng ta. Duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ ở Thái Bình Dương là một phần nhằm đảm bảo và tiếp tục sự ổn định trong khu vực để bảo vệ không chỉ các lợi ích Mỹ mà còn cả những lợi ích của đồng minh", nghị sĩ Mỹ trả lời.

Ông nhấn mạnh rằng, căng thẳng hai bên có thể giảm bớt bằng cách mở ra nhiều cơ hội hơn để làm viêệ cùng nhau trong nhiều lĩnh vực cùng quan tâm như chống cướp biển, đối phó với thảm hoạ, tìm kiếm cứu hộ. Tuy nhiên, nghị sĩ Langevin đề cập tới điều kiện là chỉ khi Trung Quốc cởi mở để thay đổi một số chính sách hiện nay vẫn còn gây rắc rối cho Mỹ cũng như đồng minh của Mỹ.


Trước những vấn đề về cắt giảm ngân sách quốc phòng, chuyện ứng viên Cộng hoà tranh cử tổng thống Mỹ Mitt Romney lập luận rằng, cắt giảm như vậy sẽ tác hại đến các khả năng Mỹ trong phô trương sức mạnh... nghị sĩ Mỹ tham gia phỏng vấn cho rằng, kế hoạch được phát triển dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ của Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta cung cấp một khuôn khổ bền vững và khả thi để giảm bớt chi tiêu của Lầu Năm Góc theo cách đảm bảo được rằng, Mỹ vẫn là quân đội mạnh nhất trên thế giới và tăng cường an ninh quốc gia. Ông dẫn lời Đô đốc Mullen đã nói, gánh nặng nợ nần của quốc gia cũng chính là thách thức an ninh lớn nhất.

"Chúng tôi đơn giản là không thể được đảm bảo nếu không tìm ra những con đường đối phó với nợ nần trong dài hạn. Đặc biệt khi chúng tôi rút lực lượng khỏi Iraq và ngày càng có nhiều người trở về hơn từ Afghanistan, thì Mỹ có thể và phải tìm thấy hiệu quả hơn. Ví dụ, chúng tôi có thể giảm bớt kích thước và sự hiện diện của quân đội ở châu Âu trong khi duy trì - và thậm chí là gia tăng - các khả năng của họ khi chúng tôi rời khỏi những cuộc chiến tranh trên bộ kéo dài. Chúng tôi phải chấp thuận thực tế là, không có cách nào để chúng tôi hiện diện mọi nơi ở mọi lúc và hướng các nguồn tài nguyên của chúng tôi vào những nỗ lực quan trọng nhất, trong khi vẫn tiếp tục mục tiêu của tổng thống là củng cố liên minh để có giành chiến thắng ở những nơi như Libya với sự can dự ít hơn của Mỹ", ông nói.

Langevin bày tỏ sự ủng hộ với các ưu tiên mà Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đặt ra như: Làm cho các lực lượng Mỹ nhỏ hơn và gọn hơn, với sức mạnh đỉnh cao là sự linh hoạt, nhanh nhẹn, sẵn sàng triển khai với các tiến bộ công nghệ và sáng tạo; Cân bằng lại thế trận và sự hiện diện toàn cầu của Mỹ, tập trung vào Thái Bình Dương và Trung Đông - nơi có những thách thức lớn nhất cho tương lai; Củng cố các đồng minh chủ chốt, xây dựng quan hệ đối tác và phát triển các cách thức sáng tạo để duy trì sự hiện diện của Mỹ ở những nơi khác trên thế giới; Thay đổi quy mô và cơ cấu các lực lượng bộ binh, không quân và hải quân để có thể đối đầu thành công và đánh bại bất kỳ kẻ xâm lược nào cũng như đáp ứng được bản chất thay đổi của chiến tranh; Đảm bảo các khoản đầu tư vào những lực lượng đặc biệt và công nghệ mới như tình báo, giám sát và hệ thống do thám không người lái, các khả năng không gian và không gian ảo để có thể huy động và triển khai nhanh chóng.

Đánh giá về việc Trung Quốc gia tăng quân sự có thể là một mối đe doạ với lợi ích Mỹ, nghị sĩ Langevin khẳng định, mối đe doạ nổi lên mà ông quan tâm là trong lĩnh vực không gian mạng. "Trong khi quân đội có những bước tiến dài để bảo vệ các tài sản của mình, thì những quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc và Nga và những nhóm trong nước họ đã có được quyền tiếp cận những thông tin nhạy cảm, lấy đi các nghiên cứu và phát triển trị giá hàng trăm tỉ đô la của doanh nghiệp Mỹ, đạt được khả năng gây tổn thất cho có sở hạ tầng quan trọng của chúng ta".

Ông thừa nhận: "Cũng nên nhận thức về sự mở rộng hải quân của Trung Quốc để đảm bảo rằng, các lợi ích Mỹ sẽ được bảo vệ". Ông giải thích đó là lý do vì sao ông ủng hộ việc duy trì ở mức độ thích hợp các tàu ngầm và thúc đẩy sự gia tăng số lượng các tàu ngầm Virginia đang được xây dựng.

James R. Langevin làm việc trong Uỷ ban Vũ trang Hạ viện Mỹ nơi ông phụ trách Tiểu ban đặc trách các nguy cơ khẩn cấp

http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/tuanvietnam.vietnamnet.vn/Danh-gia-tuong-lai-quan-su-My/7886731.epi
0

Mỹ lập kế hoạch xây dựng “Đại liên minh hải quân” ở khu vực biển Đông

15/2/12-Vào lúc dư luận thế giới tập trung vào tình hình Eo biển Hormuz thì chính quyền Obama và giới chuyên gia chiến lược lần lượt đưa ra những sách lược liên quan đến điểm nóng tại châu Á-Thái Bình Dương. Đề tài chính sách của Mỹ tại châu Á-Thái Bình Dương là duy trì sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ và những ưu tiên quốc phòng của thế kỷ 21.


Siêu hạm Independence (LCS2) của Hải quân Mỹ có thể sẽ đến biển Đông



Một tuần sau khi Tổng thống Obama thông báo chính sách châu Á-Thái Bình Dương (5/1/2012), nhóm chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu về an ninh mới của Mỹ (CNAS) công bố bản phúc trình 115 trang, kêu gọi Washington theo đuổi chính sách “hợp tác ưu tiên” tại Nam Hải (Biển Đông), thúc giục Mỹ gia tăng sức mạnh hải quân để bảo vệ tự do giao thông ở Biển Đông và giúp các nước Đông Nam Á bảo vệ độc lập.

Theo nhận định của bản phúc trình, Mỹ không thể để cho Trung Quốc thực hiện tại Biển Đông chính sách của Liên Xô trước đây tại châu Âu thời Chiến tranh lạnh, gọi là “Phần Lan hóa”, tức là ép Phần Lan phải trung lập. Trên thực tế, biện pháp tăng cường sức mạnh quân sự tại Biển Đông và quyết tâm củng cố thế mạnh quân sự tối ưu của Mỹ không phải vì mục đích tấn công Trung Quốc. Mục tiêu chính là tiến hành một cách “có hiệu quả” chủ trương hợp tác “kinh tế và ngoại giao” với Bắc Kinh, trong đó Mỹ là “siêu cường lãnh đạo” tại châu Á-Thái Bình Dương.

Song song với Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), chiến lược “Biển Đông” sẽ cho phép Mỹ đặt Trung Quốc vào một nước cờ hiểm hóc. Một mặt, Bắc Kinh ở thế khó xử, đối đầu cũng không phải dễ, mà hợp tác theo luật chơi từ kinh tế đến nhân quyền theo kiểu Mỹ thì phải cải cách. Mỹ sẽ chứng tỏ với Đông Nam Á là các quốc gia nhỏ không cô đơn trước thế mạnh bành trướng của Bắc Kinh.

Đề nghị của CNAS là Mỹ sẽ tăng cường sức mạnh của hải quân từ 285 tàu chiến hiện nay lên 346 tàu chiến trong tương lai.

Trung Quốc đang phát triển khái niệm quốc phòng đẩy lùi Mỹ ra khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc, tức là đẩy lui Mỹ ra khỏi Biển Đông. Ngược lại, Mỹ cũng đang phát triển một khái niệm mới là phối hợp hải quân với không quân để đối phó với Trung Quốc. Đồng thời thiết lập “Đại liên minh hải quân”.

http://www.toquoc.gov.vn/Sites/vi-vn/details/8/o-cua-chau-a/101780/cap-nhat-bien-dong-v.aspx
0

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012

Tổng thống Obama công bố ngân sách năm 2013

14/2/12-Bộ Quốc phòng Mỹ ngày 13/2 đã đệ trình bản ngân sách quốc phòng 613,9 tỷ USD cho năm tài chính 2013 bắt đầu từ tháng 10 tới.

Theo Lầu Năm Góc, các khoản ngân sách cần thiết bao gồm 525,4 tỷ USD chi cho các chương trình quốc phòng cơ bản và 88,5 tỷ USD chi cho hoạt động tác chiến, chủ yếu ở Afghanistan.

Bộ Quốc phòng Mỹ cũng cho biết ngân sách đề xuất đã phản ánh việc rút quân chiến đấu khỏi Iraq vào 12/2011.

Lầu Năm Góc buộc phải áp dụng các chiến lược quốc phòng được đưa ra hồi đầu năm, trong đó, Mỹ chuyển trọng tâm quốc phòng sang khu vực châu Á Thái Bình Dương và tiến hành cắt giảm 259 tỷ USD ngân sách trong 5 năm tiếp theo và 487 tỷ USD trong 10 năm tới.

Đây là lần đầu tiên Mỹ giảm ngân sách quốc phòng cơ bản kể từ sau các vụ tấn công khủng bố nhằm vào nước này ngày 11/9/2001. Áp lực tài chính đã buộc giới lãnh đạo quân sự Mỹ phải cắt giảm chi tiêu khoảng 487 tỷ USD cho các dự án trong 10 năm tới, một nhiệm vụ được họ miêu tả là khó nhưng có thể thực hiện được.

WASHINGTON (AP) - Tổng Thống Barack Obama hôm Thứ Hai công bố ngân sách $3.8 ngàn tỉ cho năm 2013, trong đó mức thâm thủng giảm bớt được $4 ngàn tỉ cho thập niên sắp đến. Tuy nhiên kế hoạch của tổng thống ít hạn chế các chương trình y tế, món chi phí có thể dẫn đến thâm thủng trong tương lai.

Phe Cộng Hòa lập tức công kích dữ dội, cho là đi theo vết xe cũ của đề nghị từng bị bác bỏ trước đây. Trận chiến về ngân sách có vẻ như là một đề tài chính trong chiến dịch vận động tranh cử tổng thống vào mùa Thu.

Tổng thống sẽ giảm được thâm thủng chừng $1.5 ngàn tỉ nhờ tăng thuế đánh vào giới giàu có, kể cả bãi bỏ trừ thuế cho một số doanh nghiệp lớn. TT Obama phủ nhận sự tố cáo của Cộng Hòa cho đây là cuộc đấu tranh giai cấp. Trong thông điệp về ngân sách, tổng thống nói: “Ðây không phải là đấu tranh giai cấp mà chính là vì phúc lợi quốc gia.”

Thông điệp của tổng thống giống như điều ông đã nhắc đến trong Thông Ðiệp Thường Niên Toàn Quốc, khi bênh vực đề nghị tăng thuế đánh vào người giàu. Tổng thống thêm rằng, kiểm soát được sự thâm thủng ngân sách là gánh nặng trách nhiệm ai ai cũng cần phải chia sẻ. Tổng thống tiếp:

“Ðây tôi muốn nói về sự chọn lựa công bằng, có lợi không những chỉ cho những ai đã thành tựu tuyệt vời trong vài thập niên qua, mà còn có ích cho cả giai cấp trung lưu, những người đã vật lộn để leo được vào hạng trung lưu và kinh tế nói chung.”

Trong khi giới chức chính phủ bênh vực toàn thể kế hoạch như là một sự tiếp cận kinh tế có cân bằng, phe Cộng Hòa lại tấn công, cho đó là sự thất bại do không kiểm soát được thâm thủng ngân sách, như TT Obama đã từng hứa vào năm 2009, rằng sẽ cắt mức thâm thủng xuống còn phân nửa vào cuối nhiệm kỳ.

Lãnh tụ Cộng Hòa Thượng Viện Mitch McConnell, tiểu bang Kentucky nói: “Ðây chẳng phải là ngân sách gì cả mà là một hồ sơ vận động tranh cử. Tổng thống đang trốn tránh trách nhiệm dìu dắt và đang dùng ngân sách để gây phân hóa.”

Dân Biểu Cộng Hòa Paul Ryan, chủ tịch Ủy Ban Ngân Sách Hạ Viện nói, TT Obama đã tránh né “trách nhiệm nắm bắt vấn đề ngân sách thực sự của đất nước.”

DB Ryan đang chuẩn bị một đề nghị ngân sách thay thế đề nghị của TT Obama, đề nghị này tương tự với đạo luật từng được Hạ Viện chấp thuận hồi năm ngoái nhưng thất bại ở Thượng Viện, nơi nhiều dân cử chống lại phần thay đổi quan trọng của Medicare.

Phe Cộng Hòa thách thức con tính vạch ra trong đề nghị ngân sách của TT Obama, nói rằng ngân sách đó hai lần được kể là làm giảm thâm thủng, vốn đã được chấp thuận trong cuộc mặc cả ngân sách hồi Tháng Tám, đồng thời cũng nhận tiết kiệm được $848 tỉ nhờ chấm dứt cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, dù rằng số tiền này sẽ không được đem ra chi tiêu.

Kế hoạch chi tiêu mới của tổng thống dự liệu ngân sách năm nay thâm thủng khoảng $1.33 ngàn tỉ, đánh dấu bốn năm liên tiếp thâm thủng nằm ở trên mức $1,000 tỉ.

Kế hoạch chi tiêu dự liệu làm giảm thâm thủng xuống còn $901 tỉ trong năm 2013, bắt đầu vào ngày 1 Tháng Mười. Ðiều này phản ảnh mức chi tiêu $3.8 tỉ cho năm tới, tăng 0.2% so với năm nay, và một sự gia tăng thu nhập cho chính phủ chừng 17.5% từ tiền thuế.

Mức thâm thủng dự liệu được đưa xuống dần dần còn $575 tỉ trong năm 2018, được xem là cao hơn mọi thâm thủng nào khác trước khi TT Obama nắm nhiệm sở. Mức thâm thủng này có thể thấp hơn tổng số nền kinh tế khoảng 3%, tuy nhiên, nằm ở mức mà các kinh tế gia xem là có thể cầm cự được.

Ðề nghị ngân sách của TT OBama được cắt xén sít sao với phương pháp tiếp cận kinh tế ông từng vạch ra hồi Tháng Chín, khi trình lên “siêu ủy ban” của Quốc Hội nhưng không được chấp thuận về khoản ít nhất $1.2 ngàn tỉ chi tiêu thêm, để duy trì cho những cắt giảm chưa trở nên hiệu lực vào Tháng Giêng tới.

Dự thảo ngân sách của TT Obama gắn liền với mức giới hạn của biểu quyết ngân sách hằng năm, đã được chấp thuận hồi Tháng Tám, được vạch ra nhằm tiết kiệm $1,000 tỉ trong thập niên tới. Ngân sách mới của tổng thống cũng hướng đến mức thuế $1.5 tỉ cao hơn, chủ yếu là cho phép việc giảm thuế có từ thời TT Bush hết hiệu lực vào cuối năm nay đối với gia đình kiếm được $250,000 mỗi năm trở lên.

Trong quá khứ, TT Obama cũng từng đề nghị bỏ việc giảm thuế cho người giàu, đồng thời đem áp dụng qui tắc của tỉ phú Warren Buffett, đòi hỏi gia đình làm được trên $1 triệu mỗi năm phải đóng thuế lợi tức ít nhất 30%.

TT Obama cũng áp đặt một mức thuế mới trị giá $61 tỉ trong thời hạn 10 năm đối với các ngân hàng lớn, nhằm thu hồi lại phí tổn của việc cứu nguy tài chánh (financial bailout), đồng thời bỏ tiền ra để giúp chủ nhân những căn nhà đang đứng trước tình trạng bị ngân hàng xiết nợ. Ðề nghị của tổng thống cũng giúp thu thêm được $41 tỉ trong mười năm, bằng cách chấm dứt giảm thuế đối với các công ty khai thác dầu hỏa, khí đốt và than đá, đồng thời nhận đã tiết kiệm đáng kể từ sự chấm dứt cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan.

Ngoài ra cũng tiết kiệm được $25 tỉ qua việc cắt giảm chi phí trong ngành Bưu Ðiện, gồm việc ngưng giao thư vào ngày Thứ Bảy.

Trong số những khu vực nhắm đến để tăng chi tiêu, TT Obama để nghị tiêu thêm $476 tỉ vào các dự án giao thông, gồm nỗ lực mở rộng dịch vụ hỏa xa trong các đô thị.

Ðể tạo công ăn việc làm trong ngắn hạn, TT Obama đề nghị đầu tư “ứng trước” $50 tỉ cho khu vực giao thông, $30 tỉ cho việc tân tiến hóa ít nhất 35,000 trường học, và $30 tỉ để giúp các tiểu bang mướn thêm giáo viên và cảnh sát, nhân viên cấp cứu và cứu hỏa. Phe Cộng Hòa ở Quốc Hội chống lại chi tiêu thêm để kích thích kinh tế, điều mà họ đã từng cản trở trong quá khứ.

Về Medicaid, chương trình săn sóc y tế của chính phủ dành cho người nghèo và tật nguyền, số tiền sẽ tăng gấp đôi từ $225 tỉ trong năm nay lên đến $589 tỉ vào trước năm 2022. (TP)

Tổng hợp từ internet
0