Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Châu Á-Thái Bình Dương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Châu Á-Thái Bình Dương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 3 tháng 8, 2015

Chuyên gia Mỹ : Thế chiến lần 3 sẽ nhằm chống Trung Quốc

« Đối với các chuyên gia Mỹ, trận đại chiến thế giới lần tới sẽ…nhằm đối phó với Trung Quốc ». Đó là tựa đề bài báo của thông tín viên Le Figaro tại New York, viết về cuốn sách « Hạm đội ma, câu chuyện của Thế chiến lần tới » của hai tác giả Peter Warren Singer và August Cole, xuất bản tại Mỹ. Bốn năm điều tra trong các hành lang của Lầu Năm Góc đã giúp tác phẩm dự báo chiến lược này có được nhiều chi tiết phong phú và thực tế.


Kịch bản của Đệ tam Thế chiến như sau. Một phi hành gia Mỹ bị trục xuất khỏi trạm không gia quốc tế bởi những người mà anh ngỡ là các đồng nghiệp – người Nga và Trung Quốc. Một « nhóm lãnh đạo » đế quốc lật đổ chế độ cộng sản Bắc Kinh, tuyên bổ tổng tấn công tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương.

Hawai bị hải quân Trung Quốc tiến công bất ngờ và chinh phục. Động cơ của các chiến hạm thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị virus máy tính vô hiệu hóa từ xa. Các phi cơ tiêm kích Mỹ và Nga chiến đấu trên bầu trời vùng Viễn Đông. Phi hành gia Trung Quốc và Mỹ tấn công nhau trong không gian bằng những khẩu súng laser y như trong bộ phim gián điệp Moonraker.

Phim giả tưởng Hollywood chăng? Đối với hai tác giả Peter Warren Singer và August Cole, tất cả đều rất hiện thực và có thể xảy ra trong tương lai gần. Trong trụ sở sang trọng, rộng rãi của cơ quan tư vấn New America Center đặt tại đại lộ số 20, gần tòa nhà chọc trời đầu tiên của New York, Flat Iron, hai chuyên gia quốc phòng từng là cố vấn của Lầu Năm Góc và cựu phóng viên chuyên trách của Wall Street Journal, giới thiệu kểt cấu cuốn tiểu thuyết đầu tay của họ : « Ghost Fleet » (Hạm đội ma).

Một tác phẩm đi trước thời đại, được bán ở quầy sách viễn tưởng, nhưng giá trị tiên liệu của nó nằm ở 400 ghi chú ở cuối trang, và bốn năm tích cực điều tra trong các hành lang Ngũ Giác Đài, trên các chiến hạm và căn cứ Không quân.

Kết quả gây sững sờ. Ngoài phong cách, hai tác giả trẻ là những người đầu tiên đưa ra những dự báo chiến lược, hết sức sát với thực tế. Singer cho biết bản thảo được chuyền tay ở Lầu Năm Góc. Đô đốc James Stavridis, nguyên Tổng tham mưu trưởng các lực lượng Mỹ tại Đông Âu hoan nghênh tính thực tiễn và chính xác về kỹ thuật của tác phẩm.

Singer và August không bịa ra điều gì cả. Tất cả các phát minh khoa học đều có thực, từ tàu ngầm Trung Quốc sục sạo dưới đáy biển tìm kiếm khí thiên nhiên, các máy bay không người lái – cánh tay nối dài của các phi công Mỹ và Nga, hỏa tiễn sát thương phóng từ vệ tinh, cho đến những sự cố máy tính có thể vô hiệu hóa toàn bộ Hạm đội Thái Bình Dương, hay các cuộc chiến tranh tin học ác liệt giữa các hacker Trung Quốc và các chuyên gia tin học ái quốc ở thung lũng Silicon, California.

Giả thiết và thực tại

Thời sự gần đây cho thấy hai tác giả có vẻ đúng đắn. Bắc Kinh dấn mạnh nước cờ trên vùng biển nóng, bồi đắp và xây dựng trên các hòn đảo nhỏ xa xôi, đang do Việt Nam, Philippines, Nhật Bản đòi hỏi chủ quyền. Những oanh tạc cơ bốn động cơ sơn ngôi sao đỏ bay đến thử sức lực lượng phía bắc của NATO – điều chưa từng thấy kể từ thời Brejnev.

Ukraina bị cắt làm đôi, trong khi điện Kremli ra sức chống lại trừng phạt của phương Tây. Kết quả là 34 hiệp định đối tác chiến lược được ký kết chỉ trong vòng một năm giữa Matxcơva và Bắc Kinh. Nhưng các tác giả cảnh báo, nếu nước Nga lao vào một cuộc xung đột với Mỹ, thì chỉ trở thành một kẻ a tòng yếu đuối của Trung Quốc: quá bạc nhược về kinh tế và dân số để có thể chống lại sự thống trị của Bắc Kinh.

Một đợt tấn công tin học quy mô mới đây vào các mạng lưới dân sự và quân sự Mỹ cho thấy sự hung hăng cực độ của các hacker, mà phía Mỹ nhận dạng là Trung Quốc. Vì sao số liệu về lương hưu của gần 4 triệu công chức Mỹ lại bị cướp đoạt? Singer lý giải: « Đó là một ví dụ cổ điển về tính toán chiến lược. Tích lũy các dữ liệu cần thiết hôm nay, để khai thác khi xung đột trong 5 hay 10 năm tới ».

Chương trình chiến đấu cơ F35, với số đầu tư khổng lồ, đã gặp trở ngại do hàng loạt sự chậm trễ và hỏng hóc đáng kể. August cho rằng : « Không có gì đáng ngạc nhiên, nếu ý thức được rằng 80% các thành phần điện tử made in China ! ».

Với giả thuyết tình hình căng thẳng ở Thái Bình Dương sẽ diễn biến xấu đi thành « chiến tranh nóng », Hoa Kỳ chẳng bao lâu sẽ thiếu hụt các chip điện tử. Để chinh phục được con rắn bảy đầu Bắc Kinh, Mỹ đành phải huy động các chiến hạm cũ kỹ lỗi thời từ lâu bị quên lãng, nhưng không hề hấn trước tin tặc. « Hạm đội ma » thực sự hiện diện.

Hai tác giả đẩy cuộc đối đầu hai phe Hồi giáo Sunni và Shia xuống hàng thứ yếu, cho rằng khó thể trở nên toàn cầu hóa như sự đối đầu Mỹ-Trung. Họ nhận định, chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo tuy tàn bạo nhưng không thể phá hoại trên toàn thế giới như trong một cuộc chiến tranh nóng giữa các siêu cường.

Theo các tác giả, công trình này mang tính thiện chí. Có thể các lãnh đạo quân sự và chính trị, bắt đầu từ Quốc hội Mỹ vốn không muốn tăng ngân sách quốc phòng, có thể mở mắt ra trước mối đe dọa trầm trọng và nghiêm túc chuẩn bị đáp trả. Le Figaro kết luận, trong các tác phẩm của Tom Clancy, nước Mỹ của siêu gián điệp Jack Ryan luôn là người chiến thắng ở hồi cuối, nhưng trên thế giới thực tại, thì không luôn như vậy.

Nguồn: RFI
0

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

Campuchia tăng cường quan hệ quốc phòng với Trung Quốc

Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia cho biết Phnom Penh và Bắc Kinh ngày càng thắt chặt mối quan hệ quốc phòng, sau chuyến thăm Trung Quốc của ông hồi đầu tháng 7.


Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia Tea Banh (thứ hai từ trái sang) bắt tay một cố vấn quân đội Trung Quốc trong một sự kiện tại tỉnh Kampong Speu hồi tháng ba. Ảnh: Reuters

Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia Tea Banh ngày 8/7 cùng một phái đoàn 23 quan chức quân sự và an ninh cấp cao thăm Trung Quốc trong 5 ngày. Hai bên cho biết chuyến thăm này là một hoạt động thường kỳ.

Trong một cuộc phỏng vấn với VOA, ông Tea Banh cho biết chuyến thăm đã thành công trong việc tăng cường hợp tác quân sự giữa hai nước. Ông so sánh mối quan hệ này còn gần gũi hơn quan hệ quân sự giữa Campuchia với Mỹ.

Campuchia và Trung Quốc vốn có quan hệ thân thiết. Năm 2013, Bắc Kinh cấp cho Phnom Penh khoản vay 195 triệu USD để mua 12 máy bay trực thăng quân đội Z-9 của Trung Quốc. Trung Quốc hồi tháng 5 cam kết cung cấp xe tải quân sự, phụ tùng, thiết bị và hóa chất cho Campuchia.

Trong lễ khánh thành một tuyến đường do Trung Quốc tài trợ tại tỉnh Kampong Som vào tháng trước, Thủ tướng Campuchia Hun Sen cho rằng quan hệ Campuchia - Trung Quốc đang ở mức cao nhất từ trước tới nay và hai quốc gia đang hướng tới quan hệ đối tác toàn diện. Ngân quỹ phát triển của Trung Quốc dành cho Campuchia năm 2015 là 140 triệu USD, tăng lên từ mức 100 triệu USD năm ngoái.

Ông Tea Banh khẳng định viện trợ của Trung Quốc không đi kèm với ràng buộc, Trung Quốc không can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Ông từ chối tiết lộ Campuchia sẽ nhận được khoản viện trợ bao nhiêu từ chuyến thăm mới nhất của mình.

Nguồn: VnE
0

Thứ Năm, 2 tháng 4, 2015

Trung Quốc “lạnh người” giữa các hạm đội hùng hậu

Trung Quốc được cho là đang bị kẹp giữa hạm đội hải quân hùng mạnh nhất Châu Á – Hạm đội số 7 của Mỹ và một lực lượng hải quân mạnh hàng đầu khu vực của Nhật Bản.


Nỗ lực của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe nhằm thúc đẩy việc cho phép Tokyo có thể đến trợ giúp một đồng minh trong trường hợp đồng minh đó bị tấn công sẽ mở đường cho mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn, gắn bó hơn giữa lực lượng Mỹ và Nhật Bản ở khắp khu vực Châu Á, một chỉ huy hàng đầu của Mỹ hôm qua (31/3) đã cho biết như vậy. Đây chắc chắn sẽ là một tin không vui đối với Trung Quốc khi nước này đang ra sức tăng cường sức mạnh hải quân nhằm mục đích vươn tầm xa hơn và tìm kiếm vị thế bá chủ ở Châu Á.

Mỹ và Nhật Bản sẽ mở rộng các hoạt động đào tạo và thực hiện nhiệm vụ chung trên khắp khu vực kéo dài từ Nhật Bản xuyên suốt đến khu vực Biển Đông và đến Ấn Độ Dương. Biển Đông đang chứng kiến những cuộc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải quyết liệt và nóng bỏng giữa Trung Quốc với các nước láng giềng xung quanh gồm Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và vùng lãnh thổ Đài Loan. Trung Quốc đang đòi độc chiếm vùng biển chiến lược và giàu tài nguyên này.

Cả Mỹ và Nhật Bản đều không có tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải ở Biển Đông nhưng Hạm đội số 7 của Mỹ đang hoạt động trong khu vực này. Một sự hiện diện thêm nữa của hải quân Nhật Bản ở đây sẽ khiến Bắc Kinh “đứng ngồi không yên”.

Chính phủ của Thủ tướng Abe có kế hoạch đệ trình lên Quốc hội dự luật cho phép Nhật Bản được thực hiện quyền phòng thủ tập thể vào những tháng tới. Dự luật này đã được nội các Nhật Bản thông qua hồi năm ngoái và chỉ còn đợi sự phê chuẩn của Quốc hội. Hiện tại, liên minh cầm quyền của Thủ tướng Abe đang chiếm đa số trong Quốc hội và vì vậy khả năng cao là dự luật nói trên sẽ nhận được sự thông qua của Quốc hội.

"Dự luật về phòng thủ tập thể sẽ giúp Hạm đội Số 7 của Mỹ và Lực lượng Phòng vệ Hàng hải của Nhật Bản dễ dàng tiến hành các cuộc tập trận và dễ dàng hoạt động ở khắp khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương hơn", Đô đốc Robert Thomas – chỉ huy lực lượng của Mỹ cho biết trên chiếc tàu chỉ huy hạm đội của ông này – tàu USS Blue Ridge, ở Yokohama.

Nhật Bản “có khả năng và năng lực thực hiện các chiến dịch ở vùng lãnh hải và không phận quốc tế ở bất kỳ nơi đâu trên toàn cầu”, ông Thomas cho biết tại cuộc họp báo chung với Đô đốc Eiichi Funada – Chỉ huy Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản.

Sự kết hợp của lực lượng hải quân Mỹ và Nhật Bản đã khiến Trung Quốc phát sốt. Ngay khi thông tin trên được đưa ra, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc – bà Hua Chunying đã lên tiếng nói rằng, liên minh Mỹ-Nhật Bản “không nên vượt quá phạm vi mối quan hệ song phương và cũng không nên gây hại đến an ninh lợi ích của các nước trong khu vực ".

"Chúng tôi hy vọng rằng mối quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và Mỹ cùng sự phát triển của mối quan hệ này có thể đóng một vai trò chủ động, mang tính xây dựng đối với hoà bình, sự phát triển và ổn định của khu vực”, bà Hua đã nói như vậy tại một cuộc họp báo thường kỳ ở thủ đô Bắc Kinh.

Bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, việc Nhật Bản hướng tới một vị trí quân sự lớn hơn trong khu vực được đón chào nhiệt thành bởi nhiều nước trong khu vực và đặc biệt là Mỹ. Washington đang thúc đẩy các đồng minh, trong đó có Australia, phải hành động nhiều hơn khi Trung Quốc đang ngày càng trở nên hung hăng, hiếu chiến trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải trong khu vực.

Nhật Bản và Mỹ nói rằng, vào cuối tháng 6 tới, hai nước này sẽ quyết định về một bộ hướng dẫn, chỉ đạo mới cho mối quan hệ liên minh kéo dài nhiều thập kỷ giữa hai nước. Theo đó, Nhật Bản sẽ được trao cho một vai trò nổi bật hơn.

Hạm đội hải quân mạnh nhất Châu Á - Hạm đội Số 7 của Mỹ vẫn là đối trọng chính đối với sức mạnh hải quân ngày càng tăng của Trung Quốc ở khu vực Châu Á. Tập trung xung quanh một nhóm tàu chiến sân bay hoạt động ngoài khu vực Nhật Bản, Hạm đội Số 7 của Mỹ gồm 80 tàu, 140 máy bay và 40.000 thuỷ thủ. Với lực lượng hùng hậu này, Hạm đội Số 7 của Mỹ trở thành lực lượng hải quân hùng mạnh nhất ở Tây Thái Bình Dương.

Trong khi đó, Hải quân Nhật Bản có trong tay khoảng 120 tàu, trong đó có 40 tàu khu trục và một lực lượng tàu ngầm gồm 20 chiếc.

Sự kết hợp giữa Hạm đội Số 7 của Mỹ với Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản chắc chắn sẽ khiến Trung Quốc không khỏi cảm thấy “lạnh người”.

Trong một diễn biến khác có liên quan đến Trung Quốc, Vùng lãnh thổ Đài Loan vừa tiếp nhận một chiếc tàu tên lửa lớn nhất từ trước đến nay. Con tàu này đã chính thức được đưa vào biên chế của quân đội Vùng lãnh thổ Đài Loan ngày hôm qua (31/3) sau một buổi lễ do Nhà lãnh đạo Ma Ying-jeou chủ trì. Động thái này diễn ra khi mà Vùng lãnh thổ Đài Loan đang nỗ lực hiện đại hoá quân sự nhằm đáp trả với mối đe doạ từ Trung Quốc.

Nhà lãnh đạo Đài Loan đã khen ngợi “tốc độ và khả năng tàng hình” của tàu chiến mới tại buổi lễ với sự tham gia của hàng trăm sĩ quan hải quân. Ông Ma phát biểu, chiếc tàu chiến mới của họ “phản ánh quyết tâm của quân đội Đài Loan trong việc bảo vệ an ninh” của vùng lãnh thổ này.

Được trang bị 16 tên lửa, tàu chiến mới sẽ giúp củng cố năng lực phòng thủ của Vùng lãnh thổ Đài Loan.

VnMedia
0

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Không quân Myanmar nhận máy bay K-8 mới từ Trung Quốc

Bộ Quốc phòng Myanmar đã ký với HAIC (Công ty công nghiệp hàng không Hồng Đô) hợp đồng mua 60 máy bay K-8. Hợp đồng với Mynamar chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 cung cấp 12 máy bay. Giai đoạn 2 chuyển giao công nghệ, thiết bị, dụng cụ cho khách hàng. Giai đoạn 3 sẽ chế tạo 48 máy bay trên lãnh thổ Myanmar theo hợp đồng sản xuất theo giấy phép.


Máy bay này được thiết kế cho nhiệm vụ huấn luyện phi công cũng như thực hiện các phi vụ tấn công hạng nhẹ.

K-8 có thể vũ trang một khẩu pháo 23mm, dưới cánh máy bay có 5 giá treo vũ khí có thể mang tổng tải trọng tối đa 1 tấn, bao gồm các loại rocket không có điều khiển, bom rơi tự do hoặc thùng nhiên liệu phụ. K-8 được trang bị hệ thống điện tử khá đơn giản bao gồm radar đo độ cao, hệ thống liên lạc radio và hệ thống định vị chiến thuật KTU-709.




Ban đầu, máy bay K-8 được trang bị 2 động cơ phản lực TFE731-2A-2A do Honeywell Aerospace của Mỹ sản xuất, tuy nhiên, Mỹ không cho phép xuất khẩu loại động cơ này qua một nước thứ 3, do đó, nhiều khả năng biến thể xuất khẩu cho Venezuela được trang bị động cơ WS-11 do Trung Quốc sản xuất.

Tuy mới được biên chế hoạt động chưa đầy 3 năm nhưng đã có 3 chiếc K-8 của Không quân Venezuela bị rơi do các sự cố kỹ thuật. Phần lớn các sự cố kỹ thuật dẫn đến rơi máy bay đều do trục trặc của động cơ. Những tai nạn trên cho thấy chất lượng động cơ WS-11 do Trung Quốc sản xuất thực sự có vấn đề.

Tuy nhiên, chi phí thấp cùng dịch vụ hậu mãi khá chu đáo nên mặc dù chất lượng không cao nhưng K-8 vẫn nhận được sự quan tâm của các lực lượng không quân không có nhiều kinh phí để mua các máy bay huấn luyện hiện đại của Nga hay phương Tây.


Theo Adian Defense News, An Ninh Thủ Đô, Soha News
0

Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

"NATO Châu Á" trong tập trận Cope North 2015

Một loạt chiến đấu cơ của Mỹ và các đồng minh thân thiết Nhật, Hàn Quốc, Australia, New Zealand và Philippines đã gầm rú trên bầu trời Tây Thái Bình Dương xung quanh vùng lãnh thổ Guam của Mỹ trong phần diễn tập chiến đấu trong khuôn khổ cuộc tập trận định kỳ hàng năm nhằm đối phó với Trung Quốc và các mối đe dọa tiềm năng khác.



Cuộc tập trận Cope North được tổ chức nhằm mục đích huấn luyện cho các lực lượng không quân Mỹ và đồng minh có thể chiến đấu bên cạnh nhau trong trường hợp xảy ra một cuộc khủng hoảng quân sự. Cuộc tập trận này cũng được cho là lời nhắc nhở rõ ràng với Bắc Kinh rằng, liên minh của Mỹ trong khu vực Châu Á rất mạnh và vững chắc. Theo kế hoạch, cuộc tập trận Cope North sẽ sớm có thêm sự tham gia của nhiều nước trong khu vực.







0

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

Việt Nam với vũ điệu tango chiến lược của New Delhi và Bắc Kinh

Việt Nam quan tâm đến việc có hiện diện quân sự thường trực của Ấn Độ ở Đông Nam Á. Hải cảng và căn cứ không quân với tầm quan trọng chiến lược tại Cam Ranh trên bờ Biển Đông sẽ mở lối tiếp cận cho tàu chiến, máy bay của Hải quân và Không quân Ấn Độ.

Những chi tiết này của hợp tác quân sự-kỹ thuật đã được thỏa thuận trong quá trình những cuộc đàm phán Ấn-Việt cách đây chưa lâu. Trong chuyến công du của Tổng thống Ấn Độ Pranab Mukherjee đến Việt Nam vào giữa tháng Chín, New Delhi đã thể hiện sự sẵn sàng đảm nhận khâu đào tạo các phi công Việt Nam để điều khiển chiến đấu cơ đa năng Su-30, chuẩn bị thủy thủ đoàn tàu ngầm và cung cấp cho Hà Nội cả các tên lửa hành trình siêu âm độc đáo BrahMos. Cũng như có thể dành khoản tín dụng 100 triệu USD để mua sắm các loại vũ khí hiện đại, - như thông tin của chuyên viên Vladimir Shcherbakov từ báo Nga "Quan sát viên quân sự độc lập”.

"Ấn Độ từ lâu đã mở rộng hiện diện của mình ở châu Á-Thái Bình Dương. Đông Nam Á là khu vực tiếp giáp lợi ích của các quốc gia ở Ấn Độ Dương. Mà trong khi phấn đấu củng cố qui chế là một cường quốc thế giới, Ấn Độ luôn quan tâm đến việc mở rộng liên hệ với vùng này. Phát triển tiếp xúc theo tuyến hợp tác quân sự-kỹ thuật là một trong những phương hướng quan trọng nhất của chiến lược đó”.

Theo ý kiến của quan sát viên quân sự Nga, về phần mình Việt Nam cũng rất quan tâm đến hợp tác với Ấn Độ trong lĩnh vực quốc phòng. Với quân đội có cơ số đông hàng thứ năm thế giới và lớn nhất Đông Nam Á, Việt Nam cần hiện đại hóa và phát triển lực lượng không quân hải quân của nước mình. Ngoài việc mua sắm tên lửa BrahMos, có thể là thành tố nặng ký trong chính sách ngăn ngừa trước người láng giềng Trung Quốc hùng mạnh, Việt Nam đang nhắm tới mục tiêu nắm vững cả công nghệ sản xuất các loại vũ khí tên lửa hiện đại. Chính ở đây Delhi sẵn sàng đi tới đáp ứng nguyện vọng của Hà Nội. Việc xích gần mật thiết của New Delhi và Hà Nội được báo chí Ấn Độ mô tả như biểu hiện sửa đổi chính sách của Thủ tướng Narendra Modi với nhãn quan trung lập "nhìn về phía Đông" để tích cực "hoạt động ở phía Đông”.

Chẳng hạn, trong bài viết đăng trên tờ Indian Express, nhà phân tích nổi tiếng của Ấn Độ là C. Raja Mohan lưu ý rằng "nếu Trung Quốc không hạn chế hợp tác chiến lược của mình với Pakistan vì e sẽ gây mối quan ngại ở Ấn Độ, thì Chính phủ của Thủ tướng Modi lại tin chắc rằng có thể xây đắp quan hệ với Việt Nam tuân theo sự chỉ đạo của những lợi ích riêng mà chẳng đặc biệt bận tâm về chuyện Bắc Kinh sẽ tiếp nhận điều đó như thế nào”.

Đáng chú ý là bước khởi đầu giai đoạn mới trong hợp tác quân sự-kỹ thuật của Ấn Độ với Việt Nam trùng với đẩy mạnh hoạt động đối ngoại của Bắc Kinh ở Ấn Độ Dương. Trước chuyến thăm tới Ấn Độ, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến Sri Lanka và Cộng hòa Maldives. Và cùng trong thời gian này chiếc tàu ngầm diesel-điện của Trung Quốc ngang nhiên tiến vào cảng Colombo rồi neo đậu lại đó trong một tuần lễ.
Theo cách lý giải ở Delhi, những sự kiện này là biểu hiện chính sách của Bắc Kinh về cuộc "bao vây chiến lược" với Ấn Độ. Ở Trung Quốc người ta chăm chú theo dõi sự xích gần nhanh chóng của Ấn Độ và Việt Nam, cũng như với Nhật Bản. Một số chuyên viên phân tích đã gọi thực tế tương tự của việc xây dựng hệ thống đối trọng chính trị trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bằng cái tên đầy hình ảnh là "bài tango Ấn-Trung", so sánh những bước đi của Delhi và Bắc Kinh với điệu nhảy rất phức tạp và nhiều yếu tố bất ngờ của nền vũ đạo Argentina đã phổ biến trên toàn thế giới.

Nguồn: Tiếng nói Nước Nga,
0

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014

Biển Đông : Không nên để Trung Quốc tự do lợi dụng Liên Hiệp Quốc

Sau khi đưa giàn khoan HD-981 vào vùng thềm lục địa của Việt Nam, và bị tố cáo trước công luận quốc tế, Trung Quốc đã phản pháo bằng một bản "tuyên bố lập trường" gởi lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Trong bài phân tích : "Chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc và Biển Đông : Cứ thử xem !", trên báo The Diplomat ngày 16/06/2014, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Biển Đông thuộc Học viện Quốc phòng Úc cho đấy là một mưu toan lợi dụng Liên Hiệp Quốc "để được cả chì lẫn chài" và cần phải vạch trần. RFI xin giới thiệu toàn văn bài viết.


Đòi hỏi chủ quyền trên biển của các quốc gia ven Biển Đông. Ảnh : Bộ Quốc phòng Mỹ

Cuộc đối đầu trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam về vụ hạ đặt giàn khoan HYSY 981 (HD-981) trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông - bắt đầu từ đầu tháng Năm - đã bước vào tuần lễ thứ bảy. Ngày 09/06/2014, Trung Quốc bất ngờ mở một mặt trận mới, khi ông Vương Dân (Wang Min), Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, chuyển đến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon một bản tuyên bố lập trường chính thức về cuộc tranh chấp, với yêu cầu cho lưu hành văn bản đó trong toàn bộ 193 thành viên Liên Hợp Quốc.

Hành động quốc tế hóa tranh chấp với Việt Nam của Trung Quốc không thể hiện một sự thay đổi trong chính sách lâu dài của Bắc Kinh, theo đó tranh chấp trên biển chỉ có thể được giải quyết một cách song phương thông qua đàm phán và tham vấn trực tiếp giữa các bên liên quan. Một hôm sau khi Trung Quốc gửi văn kiện trên, bà Hoa Xuân Oánh, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao lại tuyên bố rằng Trung Quốc bác bỏ đề nghị trọng tài của Liên Hiệp Quốc về cuộc tranh chấp với Việt Nam.

Như vậy tại sao Trung Quốc lại đưa cuộc tranh chấp với Việt Nam ra trước Liên Hiệp Quốc ?

Năm 2003, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân ủy Trung ương chính thức thông qua học thuyết "Tam chủng chiến pháp" (san zhong zhanfa - 三种 战 法). Học thuyết này là một nhân tố thiết yếu của cuộc chiến tranh thông tin.

Theo công trình nghiên cứu "Ba chiến pháp của Trung Quốc" do Timothy A. Walton viết năm 2012 cho văn phòng tư vấn Delex Consulting, Studies and Analysis, chiến pháp của Trung Quốc bao gồm ba thành tố : chiến tranh tâm lý, chiến tranh thông tin, và chiến tranh pháp lý. Chính thành tố thứ ba này là cơ sở cho bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc.

Theo Walton, chiến pháp thông tin là một chiến lược được thiết kế nhằm tác động lên dư luận quốc tế, tạo hậu thuẫn cho Trung Quốc và làm nản lòng đối thủ trong việc theo đuổi các hành động trái với lợi ích của Trung Quốc.

Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc đã được gửi đến Liên Hiệp Quốc để đánh bật các nỗ lực tuyên truyền và để cô lập Việt Nam. Đại đa số các thành viên của Liên Hiệp Quốc đều không có lợi ích trực tiếp trong cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Nhiều nước Đông Nam Á vốn e ngại các hành động của Trung Quốc, sẽ né tránh khi bị buộc phải công khai bày tỏ lập trường về vấn đề này.

Chiến pháp pháp lý, theo Walton, là một chiến lược sử dụng luật pháp Trung Quốc và quốc tế để tôn cao nền tảng pháp lý của việc Trung Quốc khẳng định quyền lợi của mình. Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc đầy rẫy những dẫn chứng trong luật pháp quốc tế được chọn lọc để hỗ trợ cho lập trường của Trung Quốc.

Lập luận thiếu nhất quán và tự mâu thuẫn

Thoạt đầu, Trung Quốc đã bảo vệ việc hạ đặt giàn khoan dầu bằng cách nói rằng nó nằm trong vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trung Quốc lưu ý rằng giàn khoan HD-981 nằm cách đảo Tri Tôn, ở phía cực tây quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý. (Tuy nhiên), theo Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS), vùng lãnh hải chỉ rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ven biển của một quốc gia.

Tuyên bố ngày 06/06/2014 của Trung Quốc đã sửa chữa sai lầm đó bằng cách cho rằng HD-981 nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc. Cách nói mới đó tuy nhiên, đã thiếu cơ sở pháp lý.

Theo UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp lãnh hải là để cho phép một quốc gia ven biển "thực hiện quyền kiểm soát cần thiết nhằm : (a) ngăn chặn hành vi vi phạm luật lệ và quy định về hải quan, tài chánh, xuất nhập cảnh hoặc y tế trên lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình; (b) trừng phạt các hành vi vi phạm các luật lệ và quy định nói trên được tiến hành trước đó trên lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình."

Trung Quốc cũng tìm cách gây nhiễu trong cuộc tranh chấp với Việt Nam bằng cách thúc đẩy lập luận theo đó vị trí của HD-981 gần quần đảo Hoàng Sa hơn là bờ biển Việt Nam. Tuyên bố lập trường của Trung Quốc chẳng hạn, đã cho rằng HD-981 đang hoạt động ở nơi cách cả đảo Tri Tôn lẫn đường cơ sở xung quanh quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý, và cách bờ biển Việt Nam từ 133 đến 156 hải lý.

Nhưng cùng lúc, Trung Quốc lại tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, nằm gần Philippines hơn là vùng đất Trung Quốc gần nhất. Theo luật pháp quốc tế, yếu tố "gần" đơn thuần không đủ để chứng minh chủ quyền.

Dùng luật quốc tế cho mình, nhưng không cho nước khác áp dụng

Tuyên bố lập trường của Trung Quốc gởi lên Liên Hợp Quốc hiện đang làm suy yếu việc Bắc Kinh sử dụng chiến tranh pháp lý để thúc đẩy các đòi hỏi chủ quyền. Ví dụ, tuyên bố của Trung Quốc viết :

"Các vùng biển giữa quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) của Trung Quốc và bờ biển đất liền Việt Nam vẫn chưa được phân định. Hai bên vẫn chưa tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng biển này. Cả hai bên đều có quyền khẳng định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS."

Nếu quả thực là như vậy, Trung Quốc nên theo các quy định của UNCLOS để xử lý các yêu sách chồng lấn. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam nên có những dàn xếp tạm thời về các vùng tranh chấp cho đến khi đạt được thoả thuận về phân định. Trong thời gian đó, mỗi bên nên cấm làm thay đổi hiện trạng và đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.

Rõ ràng là việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu trong vùng biển tranh chấp đã vi phạm nguyên tắc pháp lý quốc tế.

Tuyên bố lập trường của Trung Quốc cũng đã làm suy yếu tính hợp pháp của họ khi Bắc Kinh lập luận rằng luật pháp quốc tế không thích hợp. Văn bản của Trung Quốc ghi nhận :

"Tuy nhiên, vùng biển này sẽ không bao giờ trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cho dù có áp dụng bất kỳ nguyên tắc (của luật pháp quốc tế) nào trong việc phân định."

Đại sứ Trung Quốc tại Úc, Mã Triều Húc (Ma Zhaozu), đã góp phần vào cuộc chiến tranh thông tin của Bắc Kinh bằng cách lặp lại các lập luận tương tự trong một bài ý kiến trên báo Úc The Australian ngày 13/06/2014. Nhân vật này cho rằng khu vực tranh chấp chưa bao giờ được phân định và "dù có áp dụng bất kỳ nguyên tắc nào [của luật pháp quốc tế], các vùng biển liên quan sẽ không bao giờ trở thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam."

Phải đưa vấn đề ra trước Hội đồng Bảo an !

Các thành viên của cộng đồng quốc tế đang lo ngại về căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và Việt Nam và tác động đối với an ninh khu vực cần phải nắm lấy việc Trung Quốc chính thức đệ trình bản tuyên bố lập trường lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Các nước nên vận động để vấn đề này được đưa lên Hội đồng Bảo an.

Không được để cho Trung Quốc theo đuổi cuộc chiến tranh thông tin với mục đích thu lợi cả hai đầu - cho lưu hành một bản tuyên bố lập trường tại Liên Hiệp Quốc để chứng minh tính chất nghiêm túc của họ trong cuộc tranh chấp với Việt Nam, và lại từ chối đề nghị trọng tài của Liên Hiệp Quốc. Mỹ và Úc nên thúc đẩy một cuộc tranh luận tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Nhật Bản và các cường quốc hàng hải khác có quyền lợi trong việc Biển Đông ổn định nên tham gia vào việc thúc đẩy đó.

Trung Quốc phải bị đẩy vào một vị thế khó chịu khi phải phản đối bất kỳ một cuộc tranh luận nào tại Hội đồng Bảo an, qua đó từ bỏ mưu toan sử dụng Liên Hiệp Quốc cho mục đích tuyên truyền, hoặc phải phủ quyết mọi nghị quyết phát sinh từ một cuộc tranh luận trong Hội đồng Bảo an chỉ trích hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. 


RFI
0

Thứ Tư, 18 tháng 6, 2014

Ông Putin đồng ý bán S-400 cho TQ

Tổng thống Vladimir Putin đã chấp thuận các điều khoản để bán hệ thống phòng thủ tên lửa phòng không tiên tiến nhất của Nga cho Trung Quốc, theo các hãng truyền thông của Nga đưa tin.


Hệ thống tên lửa phòng không S-400 Triumf.

Theo kênh truyền hình thương mại RBK TV của Nga, Tổng thống Nga Putin đã chấp nhận bán từ hai đến bốn hệ thống phòng thủ tên lửa và trên không S-400 cho Trung Quốc. Nếu đây là sự thực, Trung Quốc sẽ là khách hàng nước ngoài đầu tiên mua hệ thống phòng thủ hiện đại này. Hiện, Trung Quốc đang triển khai một số hệ thống phòng thủ S-300 từ thời Liên Xô.

Mặc dù các cuộc đàm phán đang diễn ra, một vài người cho rằng, Nga không nên bán cho Trung Quốc hệ thống tên lửa đất đối không S-400 vì nhiều lý do.

Đầu tiên, có nhiều báo cáo cho rằng Nga có kế hoạch khấu trừ tất cả doanh số bán hàng ra nước ngoài của S-400 cho đến khi đủ đáp ứng nhu cầu quân đội của Moscow, có thể sau thập kỷ này.

Quan trọng hơn, có rất nhiều quan ngại dấy lên trong quân đội Nga cho rằng Trung Quốc sẽ mua một số hệ thống nhằm mục đích ăn trộm công nghệ và sao chép lại thành một phiên bản nội địa. Điều này cũng đã từng xảy ra với những hệ thống quân sự Nga bán cho Trung Quốc trong quá khứ.

Về vấn đề này, Nga và Trung Quốc sẽ ký Thỏa thuận bảo vệ tài sản và trí tuệ mạnh mẽ hơn (IPP). Một thỏa thuận IPP đã từng được ký vào năm 2008, nhưng các quan chức Nga sau đó đã hủy bỏ nó do còn vướng nhiều thiếu sót. Đến năm 2012, hai nước cũng ký một thỏa thuận IPP, vài chi tiết của thương vụ này đã được tiết lộ.

Vè hệ thống S-400, chuyên trang quân sự Jane cho hay, Nga và Trung Quốc hy vọng sẽ vượt qua những trở ngại về sao chép công nghệ bằng việc sử dụng thỏa thuận IPP và doanh số bán hàng. Nếu Trung Quốc mua một số lượng lớn hệ thống tên lửa S-400, ngành công nghiệp vũ trang của Nga sẽ ít chịu thiệt hại hơn trong trường hợp Bắc Kinh nhăm nhe sao chép lại công nghệ này.

S-400 có thể giúp nâng cấp đáng kể sức mạnh quân sự của Trung QUốc trong những điều kiện khác nhau. Không quốc gia nào bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi hệ thống S-400 của Trung Quốc-vũ khí có pham vi tác động lên tới 400 kilometers. Các chuyên gia cho biết nó có thể giúp Bắc Kinh đạt được ưu thế trên không ở eo biển Đài Loan. York Chen, cựu thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia của Đài Loan cho hay: “Khi S-400 cùng phối hợp với các máy bay chiến đấu đóng trên các căn cứ biển và đất liền của Trung Quốc, họ sẽ càng tự tin duy trì kiểm soát trên không, cũng tước đi khả năng chống phá có tổ chức của Lực lượng Không quân Đài Loan và ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ.”

Trong khi Đài loan có thể chịu ảnh hưởng lớn nhất của S-400, không phải một họ phải đối chọi với tiềm lực mới này.

Nhật cũng không ưa gì sự xuất hiện của S-400 của Trung Quốc do vấn đề liên quan đến quần đảo Sensaku/Điếu Ngư. Tuy nhiên, ảnh hưởng của S-400 lên quyền kiểm soát của Nhật sẽ bị giảm bớt bởi thương vụ mua bán bay chiến đấu F-35 của Tokyo. Các máy bay chiến đấu đang được chế tạo để đối chọi với các hệ thống phong không tiên tiến.

Ấn Độ cũng bị S-400 đe dọa. Bởi vì hệ thống này có thể chống được tên lửa đạn đạo, việc Trung Quốc triển khai S-400 có thể đe dọa đến những răn đe quân sự chiến lược của Ấn Độ. Nếu Trung Quốc tung ra một cuộc không kích đầu tiên vào kho hạt nhân của Ấn Độ sẽ có thể quét sạch gần như mọi lực lượng chiến lược vì các hệ thống phòng thủ tên lửa như S-400 có khả năng chống lại những tên lửa tiềm tàng.

Thương vụ mua bán vũ khí hiện đại đáng chú ý này phải chăng chứng tỏ Nga-Trung đang tiến tới quan hệ đồng minh chiến lược?

Nguồn : Tin Mới
0

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Ý nghĩa của việc giải quyết căng thẳng trên Biển Đông đối với kinh tế toàn cầu

Chuyên trang phân tích tài chính Qfinance vừa đăng tải bài viết “What does pulling and shoving in a South China sea meant to a tellurian economy?” của tác giả Anthony Harrington về sự liên quan giữa những căng thẳng trên biển Đông đối với nền kinh tế toàn cầu. Ban biên tập xin giới thiệu đến quý độc giả bài viết này.

Trong cuốn sách “Asia’s Cauldron: The South China Sea and a finish of a fast Pacific” (Chảo lửa châu Á: biển Đông và sự kết thúc một Thái Bình Dương ổn định) nhà phân tích chính trị của công ty tình báo tư nhân Stratfor, ông Robert Kaplan đưa ra quan điểm về lý do tại sao Trung Quốc và các nước láng giềng ở biển Đông lại cùng tuyên bố chủ quyền ở một vùng biển. Cuốn sách đã hình thành nên chủ đề của một cuộc nói chuyện gần đây của Kaplan tại Viện Nghiên cứu chính sách đối ngoại (FPRI).

Điểm khởi đầu của Kaplan, như trong tất cả các phân tích của mình, là những hạn chế được áp đặt bởi vị trí địa lý vào sự lựa chọn của các nhà lãnh đạo và các quốc gia.

Nếu bạn bắt đầu bằng các thông tin về địa lý, bạn ngay lập tức sẽ có hai câu chuyện mâu thuẫn về Trung Quốc, theo Kaplan.


Đầu tiên là Trung Quốc lớn hơn rất nhiều so với những gì thể hiện trên bản đồ. Bạn có vùng Viễn Đông của Nga với dân số chỉ khoảng 7 triệu người sống trong một khu vực rộng lớn giàu khoáng sản như gỗ, vàng, uranium, tiếp giáp với khu vực Mãn Châu của Trung Quốc và 100 triệu người ở miền tây Trung Quốc, những người có thể đổ qua biên giới Trung – Nga để chiếm lại vùng đất đã từng thuộc về Trung Quốc cho đến giữa thế kỷ XIX.

Một thực tế mâu thuẫn khác là Trung Quốc thực sự nhỏ hơn những gì đang thể hiện trên bản đồ địa lý. Kaplan chỉ ra rằng dân tộc Hán, những người đang nắm giữ các vị trí quyền lực thống trị trong nhà nước Trung Quốc, đang sống ở khu vực trung tâm và bờ biển phía đông đất nước.

Người Mông Cổ ghét họ, người Hồi giáo Turtuk ghét họ, và sống ở phía tây, nơi bắt nguồn của các con sông lớn của Trung Quốc cùng với hầu hết tài nguyên khoáng sản – tất cả đều ép người Hán vào một không gian nhỏ hẹp hơn nhiều so với bản đồ của Trung Quốc.

Kaplan đã chỉ ra rằng nếu Trung Quốc thực hiện tự do dân chủ, chắc chắc đất nước Trung Quốc sẽ gặp những bất ổn về bạo lực sắc tộc và gần như sẽ bị phân liệt thành nhiều quốc gia.

Bên cạnh đó, các lãnh đạo Trung Quốc cũng phải đối phó với những vấn đề của nền kinh tế. Vậy giới lãnh đạo Trung Quốc đã làm gì khi nhận ra điều này? Họ đã kích động chủ nghĩa dân tộc để người dân có một thứ gì đó để la hét.

Vậy họ sẽ hướng đến đâu? Rõ ràng là về mặt địa lý thì địa điểm hướng tới chính là Biển Đông và Biển Hoa Đông. Kaplan chỉ ra rằng đây là một khu vực tự nhiên với nhiều nước tiếp giáp: Việt Nam ở phía tây, Philippines ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc và Malaysia ở phía tây nam.

Trung Quốc tuyên bố 80% biển Đông thuộc về mình, nhưng Việt Nam và những nước khác đã dựa vào Luật biển quốc tế để khẳng định rằng vùng lãnh hải của mỗi nước phụ thuộc vào đường bờ biển của mình.

Việt Nam khẳng định một giới hạn lãnh hải 200 hải lý ở Biển Đông. Philippines cũng đưa ra một tuyên bố tương tự, và như vậy, đã có một sự mâu thuẫn trong tuyên bố chủ quyền.

Lý do Trung Quốc đang đưa một lượng lớn sức mạnh hải quân vào Biển Đông, theo Kaplan, là họ đang học theo một bài học cơ bản từ lịch sử Mỹ. Bài học này là khả năng triển khai sức mạnh hải quân ra vùng biển Caribbean và trở thành thế lực thống trị ở đó, dẫn đến việc Mỹ trở thành một siêu cường quốc.

Kaplan lập luận: “Tây bán cầu được chia thành hai khu vực phía bắc và nam của khu rừng nhiệt đới Amazon. Khi Mỹ giành quyền kiểm soát vùng Vịnh Mexico, họ đã đạt được sự thống trị ở tây bán cầu”.

Những gì Trung Quốc muốn làm là ép Mỹ và những nước khác lui ra khỏi biển Đông để họ có thể giành quyền lực thống trị ở khu vực này. Điều này sẽ đồng thời cung cấp cho Trung Quốc khả năng kiểm soát Ấn Độ Dương, và từ đó sẽ cho phép kiểm soát thương mại toàn cầu.

Nguyễn Anh (dịch từ Qfinance)

Anthony Harrington là một doanh nhân và là nhà báo chuyên lĩnh vực năng lượng. Ông thường xuyên viết cho tờ Scotsman, Glassgow Herald, tạp chí Financial Director, tạp chí Pensions Insight…
0

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014

Hình thành "liên minh chiến lược" "tứ cường" chống Trung Quốc

Hiện nay, giới quan sát cho rằng, yếu tố Trung Quốc đã thúc đẩy hình thành một “liên minh chiến lược” tứ cường Nhật- Úc- Ấn- Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 

   Các máy bay chiến đấu FA-18 Hornet trên tàu sân bay USS George  Washington

Họp an ninh 2+2 Nhật Bản-Úc tại Tokyo ngày 12/6, Ngoại trưởng Úc Julie Bishop tuyên bố ủng hộ Nhật Bản cải tổ Hiến pháp, cho phép Tokyo tăng cường khả năng phòng thủ với các nước đồng minh. Úc nêu rõ, tranh chấp chủ quyền tại biển Đông và biển Hoa Đông phải được giải quyết bằng con đường đối thoại và các bên phải tuân thủ luật pháp quốc tế.

Ngoại trưởng Úc cho rằng, việc Tokyo tăng cường khả năng phòng thủ sẽ có lợi cho cả hai nước và điều đó sẽ giúp Nhật Bản đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc bảo đảm an ninh và hòa bình cho khu vực. Bộ trưởng Quốc phòng Úc David Johnston nhấn mạnh, vấn đề biển Đông “cần được giải quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế”.

Úc ngày càng bày tỏ quan điểm mạnh mẽ trong bối cảnh Trung Quốc hung hăng khẳng định chủ quyền tại biển Đông và Hoa Đông.

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đang tích cực vận động cho việc sửa đổi hiến pháp, mở rộng phạm vi hoạt động của quân đội, cho phép Nhật Bản xuất khẩu vũ khí và hợp tác quân sự với các nước đồng minh. Nhật Bản đang từng bước xây dựng một liên minh quân sự rộng lớn bên trong lẫn bên ngoài hiệp ước song phương Mỹ-Nhật. Nhật và Úc tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng, với dự án trao đổi công nghệ tàu ngầm quân sự.

Thủ tướng Úc Tony Abbott ủng hộ chính sách “phòng vệ tập thể của Nhật Bản”. Tân Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi dự kiến thực hiện chuyến công du đầu tiên tới Tokyo và tuyên bố sẽ “đối đầu” với Trung Quốc khi cần thiết. Tại Diễn đàn An ninh Shangri-La vừa qua ở Singapore, Thủ tướng Abe tuyên bố Nhật Bản sẵn sàng trợ giúp các nước Đông Nam Á để bảo vệ chủ quyền biển đảo, gián tiếp lên án Trung Quốc đôi xử với các láng giềng theo kiểu “lấy thịt đè người” mà chính Nhật Bản cũng là nạn nhân.

Giữa thập niên 2000, ý tưởng xây dựng một vành đai an ninh bao gồm Nhật Bản, Ấn Độ và Úc đã được ba vị thủ tướng khi đó là Junichiro Koizumi của Nhật Bản, John Howard của Úc và Atal Vajpayee của Ấn Độ phác thảo và được Tổng thống Mỹ George W.Bush ủng hộ.

Hiện nay, giới quan sát cho rằng, yếu tố Trung Quốc đã thúc đẩy hình thành một “liên minh chiến lược” tứ cường Nhật-Úc-Ấn-Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Mỹ không để Trung Quốc khuấy đảo biển Đông

Nhà chiến lược người Mỹ Ernest Bower, chuyên gia phân tích về Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế ở Washington, cho rằng Trung Quốc đã sai lầm khi nhận định Mỹ sẽ không mạnh tay can thiệp để bảo vệ Việt Nam, trang tin Want China Times của Đài Loan đưa tin ngày 13/6.

Ông Bower chỉ trích mạnh mẽ Trung Quốc kể từ khi nước này ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam. “Rõ ràng, sự hung hăng gần đây của Trung Quốc đã gây nên sự lo ngại tại các nước láng giềng”, ông Bower nói trong cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Đức Deutsche Welle. Tiếp đó, ông phát biểu trên tờ Washington Times (Mỹ): “Bắc Kinh nghĩ rằng Washington lúng túng và không có gan thực hiện một cuộc can thiệp nghiêm trọng, cho nên Trung Quốc mới có động thái địa chính trị là hạ đặt giàn khoan trong vùng thềm lục địa của Việt Nam”.

Trong khi Mỹ lên án những hành động Trung Quốc ở biển Đông là “khiêu khích”, nhiều nhà phân tích chính trị nói rằng, không có lý do gì Mỹ lâm vào một cuộc chiến với Trung Quốc vì Việt Nam, do đây là xung đột song phương. Tuy nhiên, chiến lược gia Bower cho rằng, Mỹ sẽ hỗ trợ quân sự cho Việt Nam tùy thuộc hoàn cảnh; Trung Quốc không nên nhận định sai tình hình. Theo ông, sẽ là sai lầm khi cho rằng Mỹ sẽ không hành động quân sự để cho Trung Quốc mặc sức muốn làm gì thì làm với Việt Nam.


Cherry Radio
0

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2014

"Chỉ có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ"

Vui lòng cân nhắc khi xem !

Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ.



             Ông Lý Quang Diệu, thủ tướng đầu tiên của Singapore - Ảnh: ST




Mỹ nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số một

Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.

Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin , Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.

Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này

Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam . (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.

Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.

Ví dụ như Việt Nam , là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.

Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.

Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.



Cuộc cạnh tranh cuối cùng

Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa. Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.

Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.


Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ

     Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.

Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.

Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.

Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.

Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.

Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.

Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Lý Quang Diệu - Cựu thủ tướng Singapore






                                                     Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh

                                                     Dẫn link Tạp chí Chim lợn

                                                          Theo Facebook Dũng Võ



0

Thứ Tư, 11 tháng 6, 2014

Đằng sau việc Nga - Trung ký thỏa thuận khí đốt trị giá 400 tỉ USD

Sau hơn một thập kỷ trì hoãn, ngày 21/5, Nga-Trung đã ký thỏa thuận khí đốt lịch sử với giá trị lên tới 400 tỉ USD với thời hạn 30 năm. Ngay sau khi việc này được công bố, giá cổ phiếu của Tập đoàn năng lượng Gazprom (Nga) tăng nhanh. Nga coi đây là thắng lợi lớn vì đã tìm được thị trường mới, không phụ thuộc vào châu Âu, đồng thời giúp Moskva phát triển các mỏ mới ở phía Đông Siberia…

Tổng thống Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình uống mừng sau khi ký thỏa thuận khí đốt lịch sử.

Nhưng trong bài viết trên tờ Moskva Times mới đây, tác giả Alexei Bayer đã cảnh báo, có thể Tổng thống Putin đang cầm cố tương lai của nước Nga bằng hợp đồng 400 tỉ USD. Bởi mặc dù thỏa thuận khí đốt đã được ký từ hôm 21/5, nhưng cho tới nay giá bán vẫn được giữ bí mật. Tổng giám đốc Gazprom Alexei Miller từ chối nói rõ giá khí đốt cho Trung Quốc vì coi đó là "bí mật doanh nghiệp".

Sau khi bản hợp đồng khí đốt trị giá 400 tỷ USD được ký, Trung-Nga đều thoả mãn bởi Moskva giảm sự lệ thuộc vào thị trường châu Âu, còn Bắc Kinh có thêm nguồn cung quan trọng giải tỏa cơn khát năng lượng. Nhưng vấn đề không dừng lại ở đây bởi thông qua thỏa thuận này, Tổng thống Putin và Chủ tịch nước Tập Cận Bình càng thêm gắn bó - từ năm 2013 đến nay, lãnh đạo hai nước đã có 7 lần tiếp xúc trực tiếp.

Trong khi các nhà phân tích tại Sanford C. Bernstein & Co coi thỏa thuận kể trên sẽ đem lại lợi ích dài hạn cho Gazprom, kể cả khi giá chính xác không được công khai vì họ đang mua sự đa dạng hóa, nhưng giới chuyên môn lại không nghĩ như vậy. Nên nhớ, đây không phải là thỏa thuận dễ đạt được bởi thời gian thương thảo giữa hai bên đã kéo dài 10 năm, có lúc tưởng chừng tan vỡ. Giới phân tích cho rằng, thỏa thuận khí đốt Nga-Trung được ký vào lúc 4 giờ sáng (theo giờ Bắc Kinh), cho thấy phần nào sự khẩn cấp của cuộc đàm phán bởi Tổng thống Putin quyết không rời Thượng Hải mà không có thỏa thuận nào được ký về lĩnh vực nhạy cảm này. Nhưng để ký được thỏa thuận khí đốt lịch sử, ông Putin đã phải nhượng bộ bởi trước đó Trung Quốc chê giá khí đốt của Nga đắt.

Nhiều chuyên gia nhận định, Nga bán cho Trung Quốc với giá khoảng 350 USD/1.000m3 khí đốt. Hơn nữa, 38 tỉ m3/năm bán cho Trung Quốc thông qua đường ống có tên "Sức mạnh Siberia" không đủ bù đắp tổn thất từ thị trường châu Âu và giá bán có vẻ rất sát với giá sản xuất và vận chuyển nên lợi ích kinh tế không đáng kể. Hơn nữa, nếu xét về giá trị kinh tế, hợp đồng này chỉ chiếm 16% tổng lượng khí đốt xuất khẩu của Gazprom (từ năm 2018), trong khi tổng kim ngạch thương mại Trung-Nga chỉ bằng 1/3 kim ngạch Trung Quốc-Liên minh châu Âu và 1/5 kim ngạch Trung-Mỹ.

Phương Tây coi hợp đồng 400 tỉ USD ẩn chứa nhiều mưu đồ địa-chính trị hơn là ý nghĩa kinh tế. Bởi hợp đồng kể trên được ký sau khi Nga liên tiếp hứng chịu các lệnh trừng phạt của Mỹ và châu Âu liên quan đến việc sáp nhập Crimea. Trong khi đó, nhu cầu khí đốt của Trung Quốc sẽ vượt xa con số 38 tỷ m3/năm một khi các dự án đường ống vận chuyển hoàn tất và kinh tế của quốc gia đông dân nhất thế giới lấy lại đà tăng trưởng như trước đây.

Điều đáng nói là toàn bộ số khí đốt bán cho Trung Quốc được tính ngang bằng với mức giá bán cho châu Âu hiện nay, trong khi hợp đồng phải tới năm 2018 mới chính thức có hiệu lực. Ngoài ra, Nga phải chi khá nhiều tiền cho việc xây dựng đường ống dẫn khí mới nối sang Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn đẩy mạnh việc sử dụng đồng NDT trong thanh toán thương mại quốc tế để trả nguyên liệu thô của Nga, hoặc sẽ trừ dần số tiền thanh toán vào hàng hóa và dịch vụ xuất sang nước này. Hiện Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nga với buôn bán song phương dự kiến đạt 100 tỷ USD vào năm tới và 200 tỷ USD trước năm 2025.

Riêng hợp đồng khí đốt vừa ký sẽ được thanh toán bằng USD bởi đây là tuyên bố hôm 23/5 của Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak. Thương vụ lịch sử mà Tổng thống Putin đạt được nhân chuyến thăm Trung Quốc 2 ngày sẽ mở ra một thị trường lớn mới cho Moskva, trong bối cảnh châu Âu đang muốn giảm bớt sự lệ thuộc của họ vào các nguồn cung khí đốt từ Nga. Theo ông Ruslan Pukhov, Giám đốc Trung tâm phân tích chiến lược và kỹ thuật ở Moskva, Nga có những kẻ thù đầy thế lực, nhưng lại không có đồng minh mạnh mẽ, đó là lý do họ cần tới sự ủng hộ của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. Nhiều chuyên gia cũng đã tính tới những hệ lụy của thỏa thuận khí đốt Nga-Trung đối với cấu trúc địa-chính trị thế giới.

Theo nhận định của bà Morena Skalamera, chuyên gia quốc tế của Trường Harvard Kennedy (Mỹ), tuy Nga-Trung gắn kết với nhau về vấn đề năng lượng, nhưng Moskva luôn đề phòng toan tính của Bắc Kinh ở khu vực Bắc Thái Bình Dương và Bắc Cực, chưa kể tới cạnh tranh ảnh hưởng tại Trung Á. Trung Quốc đang tìm cách thúc đẩy quan hệ với khu vực Trung Á vốn được coi là sân sau của Nga. Tại hội nghị SCO ở Bishkek hồi tháng 9/2013, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra sáng kiến vành đai kinh tế "Con đường tơ lụa mới". Nếu được hình thành, vành đai này sẽ là đối thủ cạnh tranh với Liên minh Á-Âu của Tổng thống Putin



QT.KD - CAND
0