Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Châu Á - Thái Bình Dương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Châu Á - Thái Bình Dương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018

Canada tăng "tuần tra hiện diện" ở Biển Đông

Giới quan sát cho rằng Canada sẵn sàng tham gia chương trình tự do hoạt động hàng hải do Mỹ tiến hành ở Biển Đông và biển Hoa Đông
Hoạt động của hải quân Canada ở Tây Thái Bình Dương đã gia tăng đáng kể trong 2 năm qua. Những tàu chiến mang lá cờ in hình chiếc lá phong đang trở thành hình ảnh quen thuộc trong khu vực này.
0

Thương mại và Biển Đông : Mỹ siết thêm gọng kềm trên TQ

Trong cùng một ngày, hôm qua, 20/11/2018, Mỹ đã có hai động thái nhắm vào Trung Quốc. Tại Washington, văn phòng Đại Diện Thương Mại Mỹ tố cáo Bắc Kinh cố giữ chính sách thương mại « vô lý, bất công » đối với Hoa Kỳ, trong lúc tại Biển Đông, Không Quân Mỹ lại cho hai oanh tạc cơ chiến lược B-52 bay ngang khu vực Biển Đông trong một cử chỉ thị uy. Theo giới quan sát, rõ ràng là Mỹ đang gia tăng sức ép trên Trung Quốc trong bối cảnh lãnh đạo hai nước chuẩn bị gặp nhau bên lề Hội nghị Thượng đỉnh G.20 vào cuối tháng 11.


Đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer (2nd R) và thành viên của phái đoàn thương mại Hoa Kỳ sang Trung Quốc, rời khỏi khách sạn ở Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 3 tháng 5 năm 2018.
0

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

Việt Nam hưởng lợi từ chiến lược của Mỹ ở biển Đông như thế nào?

Chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương Tự Do và Cởi Mở (FOIP) của chính quyền Trump nhanh chóng đạt được nhiều ý nghĩa hơn.

Khi Washington bắt đầu đối mặt Bắc Kinh trên nhiều mặt trận - kinh tế, chính trị và quân sự - chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và cởi mở (FOIP) của chính quyền Trump nhanh chóng đạt được nhiều ý nghĩa hơn. Hoa Kỳ đã chiến đấu để xác định chế lược mới của mình, một cấu trúc khu vực cũng do Úc, Ấn Độ và Nhật Bản dẫn đầu kể từ khi Trump ký kết vào tháng 11 năm ngoái tại Hội nghị Thượng đỉnh về Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) tổ chức tại Đà Nẵng.

Tuy nhiên, trong những ngày gần đây, các quan chức Hoa Kỳ, bao gồm cả Phó Tổng thống Mike Pence, đã bắt đầu bình luận công khai về các chi tiết của chiến lược. Một quan chức Mỹ khác, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ về vấn đề An ninh Châu Á và Thái Bình Dương Randall G. Schriver, gần đây đã đến thăm Việt Nam để nói về chiến lược mới của Hoa Kỳ có ý nghĩa đối với Hà Nội như thế nào. Schriver đã có chuyến thăm thứ ba tới Việt Nam như là một phần của Cuộc đối thoại chính sách quốc phòng hàng năm giữa Hoa Kỳ và Bộ Quốc phòng Việt Nam, trong bối cảnh mối quan hệ quân sự ngày càng tăng giữa hai cựu thù.

Trong bài phát biểu tại Trung tâm Hoa Kỳ ở thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 5 tháng 10, Schriver bắt đầu bằng cách đề cập đến khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương như một “nhà hát ưu tiên”, trong khi nêu bật một số hành động hung hăng hơn của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt là Biển Đông. Schriver đã xác định Chiến lược Quốc phòng mới của Hoa Kỳ dựa trên ba trụ cột: 1) công nhận sự cạnh tranh quyền lực lớn, chủ yếu là giữa Trung Quốc, Nga và Hoa Kỳ; 2) sự phát triển và nuôi dưỡng của các đồng minh và đối tác quốc phòng; và 3) cải cách cơ cấu của Bộ Quốc phòng Mỹ để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Cách Việt Nam hưởng lợi từ chiến lược mới của Hoa Kỳ

Một trong những cách mà Việt Nam có thể đạt được từ chiến lược FOIP là thông qua các hoạt động tự do chuyển hướng (FONOPs) được thực hiện bởi những quốc gia lớn trong khu vực. FONOP cho thấy Bắc Kinh và các quốc gia duyên hải được tự do và cỡi mở khi có tàu hải quân đi qua biển Đông - mặc dù Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền ở khoảng 90% vùng biển này và quyết tâm kiểm soát quyền đi qua.

Schriver đã đề cập đến một vụ FONOP gần đây của Mỹ liên quan đến vụ va chạm gần giữa tàu USS Decatur, một tàu khu trục lớp Arleigh Burke, và Lan Châu, một tàu khu trục tên lửa Luyang-II của Trung Quốc, gần rạn san hô Gaven ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trong FONOP, tàu khu trục Trung Quốc đã được thông báo trong khoảng cách khoảng 45 thước Anh (40 mét) của tàu khu trục Mỹ, khiến tàu chiến của Hoa Kỳ thay đổi hướng đi của mình để tránh va chạm. Năm nay, Hoa Kỳ đã tiến hành bốn FONOP ở Biển Đông cho đến nay, so với bốn FONOP trong năm 2017, ba vào năm 2016 và một vào năm 2015.

Theo Schriver, các FONOP của Hoa Kỳ đang phản ứng việc xây dựng đảo nhân tạo của Bắc Kinh - được xây dựng xung quanh các rạn san hô và mỏm đá để tạo ra "sự kiện trên mặt đất" trong nỗ lực tiếp tục tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Một số những mỏm đá và rạn san hô mà Trung Quốc tuyên bố (chẳng hạn như Gaven Reef) thường bị ngập trong triều cường. Schriver đề nghị hành động tiếp theo có thể được thực hiện bởi chính quyền Trump nhằm chống lại các công ty Trung Quốc tham gia vào việc xây dựng các đảo nhân tạo này - có lẽ là thông qua việc thực hiện các biện pháp trừng phạt kinh tế.

Trong không phận trên vùng biển tranh chấp, Schriver đã đề cập đến chính sách FOIP cũng sẽ chống lại bất kỳ tuyên bố hiện tại hoặc mới nào của Bắc Kinh về Khu vực nhận diện phòng không (ADIZ), một trong những cách mà Trung Quốc cố gắng khẳng định chủ quyền của nó trong khu vực. Schriver nói rằng dưới một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở "Hoa Kỳ sẽ bay, chạy tàu và hoạt động bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép", phù hợp với chính sách trước đây của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter dưới chính quyền Obama "chuyển trục sang châu Á" và tiết lộ sự ủng hộ ngầm đối với các tuyên bố lãnh thổ của các quốc gia ven biển như Việt Nam.

Với sự giúp đỡ từ những người bạn

Trong khi Chiến lược quốc phòng mới của Hoa Kỳ kêu gọi sự phát triển và nuôi dưỡng các đối tác quốc phòng như Việt Nam, Hà Nội sẽ không quá thân thiện bởi chính sách đối ngoại của mình là “Ba Không”: không có căn cứ nước ngoài trên lãnh thổ của mình, không có liên minh quân sự, và không liên quan đến bên thứ ba trong các tranh chấp.

Trong khi Hà Nội không chính thức liên quan đến các bên thứ ba trong tranh chấp về Biển Đông, Việt Nam sẽ đứng lên để đạt được sự gia tăng FONOP và các thách thức khác đối với việc xác nhận quyền lực của Bắc Kinh theo chiến lược Ấn-Thái Bình Dương tự do và mở của chính quyền Hoa Kỳ. Một số tàu hải quân tiến hành FONOP sẽ tiếp tục ghé cảng tại Vịnh Cam Ranh, tăng cường phát triển và nuôi dưỡng quan hệ đối tác quốc phòng giữa Hà Nội - Washington và các tay chơi hải quân lớn khác trong khu vực.

Nguồn: The Diplomat
0

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2018

Hoa Kỳ và thế trận Cờ Vây đối với Trung Quốc

Cuộc chiến Cờ Vây của Hoa Kỳ đang lôi kéo các đồng minh và đối tác nhằm cô lập Trung Quốc cả về kinh tế và quân sự, theo một ý kiến từ Hoa Kỳ.


Tổng thống Donald Trump trong chuyến thăm đến Bắc Kinh hồi tháng 11/2017

Bài diễn văn hôm 04/10 của Phó Tổng thống Mike Pence khiến một số người ở Trung Quốc coi như 'lời tuyên chiến' từ Chính phủ Trump nhắm vào Trung Quốc từ thương mại, công nghệ tới quân sự và ý thức hệ.

BBC phỏng vấn tiến sỹ Phạm Đỗ Chí từ Florida về các diễn biến mới nhất liên quan đến quan hệ Mỹ - Trung và vấn đề hướng đi của Việt Nam.

Câu hỏi đầu tiên là nhìn từ Hoa Kỳ, đây là vấn đề hai ông Trump-Pence muốn hướng tới cử tri Mỹ trước bầu cử giữa kỳ, hay thực sự nhắm vào Trung Quốc, và nếu đó là ý định của họ thì có lý do gì về chiến lược?

TS Phạm Đỗ Chí: Không chỉ bài diễn văn của Phó Tổng thống Mike Pence ngày 4/10 (tại Viện Hudson), mà bài diễn văn "nảy lửa" ngay trước đó của chính Tổng thống Donald Trump tại phiên họp khoáng đại thường niên của Liên Hiệp Quốc đã nêu lên những vấn đề tệ hại của các quốc gia theo đường lối Xã hội Chủ nghĩa trên toàn cầu, và kêu gọi các quốc gia đang phát triển nên tránh xa CNXH, đã lần nữa làm nổi bật sự trở lại của cuộc 'Chiến Tranh Lạnh Mới'.

Ông Trump đã cho khởi xướng chiến lược này ngay từ thời gian tranh cử của ông trong nội bộ Đảng Cộng hòa nhất là từ giữa năm 2016, gói ghém đơn giản trong khẩu hiệu làm Mỹ Đứng Đầu Trở Lại ("Make America Great Again") hay sau này trong 21 tháng đã làm Tổng thống, ông luôn dùng lời kêu gọi Nước Mỹ trên hết ("America First") như nguyên tắc cốt lõi cho các chính sách quốc gia hệ trọng.

Rõ ràng đó là chiến lược chỉ đạo của cặp ứng cử viên Trump-Pence nay thành hiện thực trong cương vị lãnh đạo, nhằm củng cố vai trò lãnh đạo của cường quốc số một thế giới, tương phản hẳn với ngoại giao mềm của cựu Tổng thống Barack Obama đi xin lỗi khắp thế giới về vai trò sai lầm của Mỹ khi tỏ ra là lãnh đạo thế giới, là cảnh sát viên lo duy trì trật tự thế giới và đôi khi gây nhiều điều tai hại cho an ninh thế giới…

Vẻ mềm mỏng của ông Obama được vài nước tỏ ra yêu thích như cuộc đón tiếp nồng nhiệt ở Việt Nam nói là "ông bình dân gần gũi", nhưng ngược lại bị Trung Quốc coi khinh ra mặt với các nghi thức tiếp đón ông nhạt nhẽo lúc đến thăm Trung Quốc và "không đúng tầm nghi lễ đáng dành cho một nguyên thủ Hoa Kỳ", theo một số tờ báo bên Mỹ chê ông.

Hiện nay thì khác, chiến lược của ông Trump có thể coi như "một viên đá nhắm hai con chim", vừa nhấn mạnh vị thế của Mỹ trên thế giới trong cuộc thương chiến hiện tại với Trung Quốc, vừa nhắm cả vào cuộc bầu cử giữa kỳ tại Mỹ vào tháng 11 sắp tới, cho cử tri Mỹ thấy "oai lực" của Đảng Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của một nguyên thủ có lập trường và ý thức hệ chính trị rõ ràng, với một lịch trình chính sách (policy agenda) cụ thể được thực hiện đúng theo như tuyên bố lúc tranh cử.

BBC:Nói đến chiến tranh thương mại, bước tiếp theo của Mỹ là gì, và các sáng kiến về chính sách họ được tính toán trong bối cảnh giá dầu, giá vàng, USD cũng biến động như thế nào, ông có thể giải thích rõ hơn?


Ông Trump và cử tri Mỹ ở Cleveland, Ohio tháng 3/2016

TS Phạm Đỗ Chí: Chiến tranh thương mại của Mỹ với Trung Quốc đã đi vào giai đoạn 2 sau khi khởi xướng cuộc chiến tài chính tiền tệ đã làm tiền Trung Quốc (NDT) giảm đi 8% và thị trường chứng khoán TQ giảm quanh mức 25% từ tháng 4/18, song hành với việc áp thêm thuế mới 10% trên 200 tỷ đô hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.

Bước tiếp được nhiều giới dự báo là Mỹ sẽ áp thuế cao hơn là 25% trên 200 tỷ đô hàng nói trên, và Tổng thống Trump còn tuyên bố sẵn sàng áp thuế vào khối 276 tỷ đô hàng nhập còn lại từ TQ, theo thống kê nhập khẩu năm 2017.
Nếu được tung ra thực hiện, đây sẽ là đòn quyết liệt nhất của Mỹ, phụ trợ thêm thế Cờ Vây toàn diện đang dần được Mỹ siết chặt với TQ, ngoài các nước cờ nhấn mạnh ý thức hệ, (về chủ nghĩa xã hội), phong tỏa công nghệ, chính trị và quân sự.

Cần chú ý thêm vài biến động trong nền kinh tế thế giới hay thị trường tài chính quốc tế có thể đang xảy ra do chiến lược trên đây của Mỹ, hay như hậu quả liên hệ sắp tới.

Giá dầu có thể được giữ ở mức cao hiện tại hay lên hơn nữa với hỗ trợ của Mỹ để giúp Nga phục hồi và củng cố nền kinh tế đang yếu kém do sự cô lập hóa của Âu châu có Mỹ hỗ trợ một phần (sau vụ Crimea), và phần khác để hỗ trợ Saudi Ả Rập và khối OPEC nhằm cô lập Iran là chính sách mới ở Trung Đông của Mỹ do Tổng thống Trump đề ra, tương phản với chính sách của cựu Tổng thống Obama.

Song hành với giá dầu cao, có những dấu hiệu cho thấy giá vàng có thể đảo ngược bắt đầu khuynh hướng tăng (uptrend), lần đầu từ nhiều năm nay đã sụt giảm sau khi đạt đỉnh cao trên 1900$/ounce vào năm 2009. Nguyên do là mức lạm phát có thể tăng trên 2% ở Mỹ khiến đồng USD có thể bắt đầu suy yếu sau khi đạt đỉnh cao từ vài năm nay, nhất là trong những tháng đầu năm 2018.


Tàu khu trục USS Decatur (DDG-73)

Giới đầu tư hay nhất là đầu cơ quốc tế cũng có thể bị kích động bởi dân chúng Trung Quốc đang chạy tẩu tán ra khỏi tiền Nhân dân tệ mua USD, Euro, tiền yen và nay là vàng (nơi giữ tài sản quen thuộc của dân Á đông) mà giá đã xuống quá thấp so với giá dầu đang lên cao. Hiện tượng này giống như lúc giá vàng bắt đầu tăng lên các năm 2004-2005.

BBC: Tờ The Economist ở Anh vừa chạy headline nói về The Next Recession(Suy thoái lần sau) trên thế giớivà cho là chính phủ Trung Quốc đang gặp khó khăn, phá giá đồng Nhân dân tệ cũng khó, mà để giá tiền này cao thì xuất khẩu tiếp tục bị Trump đánh vào bằng thuế quan(tariffs), theo ông vấn đề có đúng thế không? Và cả sự phong tỏa công nghệ với Trung Quốc nữa, ảnh hưởng sẽ ra sao?

TS Phạm Đỗ Chí: Khá nhiều kinh tế gia nổi tiếng đều cũng đang lên tiếng như báo The Economist về nguy cơ "The Next Recession" thế giới khó thể tránh, bắt đầu bằng đầu tầu Mỹ, sau khi sự phục hồi rồi tăng trưởng của kinh tế Mỹ đã kéo dài từ 2009. Trong sự nghiệp một nhà kinh tế, tôi luôn cố tránh tiên đoán về trồi sụt của chu kỳ kinh tế hay kinh doanh (economic or business cycle) của Mỹ dựa trên dự báo của vài nhà kinh tế nổi tiếng hay dùng các mô hình kinh toán (econometric models).

Trái lại 'nhà tiên tri' về kinh tế mà tôi tin tưởng suốt vài chục năm qua là thị trường chứng khoán Mỹ, thường đi trước diễn tiến của nền "kinh tế thực" (the real economy) khoảng 6-9 tháng. Tôi vẫn đợi thêm diễn tiến của chỉ số DJ Index và S&P 500 ra sao trong vài tháng nữa để suy đoán suy thoái kinh tế Mỹ sắp diễn ra chưa và sẽ nặng hay nhẹ?

Nhưng tôi đồng ý với quan điểm trên của báo The Economist là Trung Quốc đang bị Mỹ kẹp chặt, với thuế quan tiếp tục áp dụng mạnh mẽ và lan tỏa, kèm thêm sự chặn đứng việc mua hay ăn cắp công nghệ của TQ với các hãng Mỹ. Thí dụ tê liệt mới đây của hãng ZTE của TQ là rất rõ ràng. Mỹ đang kèm theo sự phong tỏa tương tự với hãng Huawei.

TQ khó mà ngăn chặn sự phá giá của đồng CNY (NDT), do ảnh hưởng tâm lý "tẩu tán tài sản" của dân chúng, và nhất là các hãng xưởng muốn chạy ra khỏi Trung Quốc để đầu tư sang các nước khác. Tiền CNY đã mất giá 8-9% sau hai đợt đầu của cuộc thương chiến; nếu Mỹ đánh tiếp thuế quan 25% lên 200 tỷ hàng nhập Trung Quốc trước cuối năm, tiền CNY có thể mất giá thêm 10% theo nhiều dự đoán. Và nếu áp thuế lên cả 276 tỷ đô hàng nhập còn lại từ TQ, tiền CNY sẽ xuống dốc không phanh?

Về chiến lược thương mại tiền tệ này của Mỹ với Trung Quốc, có thể ví như Mỹ không cần can thiệp bằng sức mạnh quân sự vào Trung Quốc, nhưng thực sự đang gửi cả 100 sư đoàn 'quân biết nói tiếng Hoa' vào lãnh thổ TQ: đó chính là những người dân Trung hoa tháo chạy bằng tiền CNY để mua đô la Mỹ, euro, yen… như đã thấy, và sắp sửa tới đây có lẽ là vàng nếu USD có dấu hiệu suy yếu kéo dài?

BBC:Về chính trị và quân sự, chính quyền Trump hiện có bài gì đối với Trung Quốc và việc gây sức ép với Bắc Kinh có được đồng thuận của lưỡng đảng trong Quốc Hội không? Nước nào là đồng minh của Mỹ trong trận cờ này?

TS Phạm Đỗ Chí: Như đã đề cập bên trên, Donald Trump chủ trương 'gần Nga xa Trung Quốc', trái ngược hẳn với thời 1971-72 lúc Tổng thống Richard Nixon cùng 'đạo diễn' Henry Kissinger tìm cách giãn xa Moscow và chạy sang Bắc Kinh, ve vãn mở cửa thị trường khổng lồ của Trung Quốc cho hàng Mỹ và cũng nhờ họ giúp một tay để rút chạy ra khỏi Chiến tranh Việt Nam, kể cả bằng cách hy sinh bỏ rơi hẳn 'đồng minh một lúc' là VNCH.

Việc giúp giữ giá dầu thế giới ở mức cao như nói trên là để 'giúp Nga đánh Hoa' vì kinh tế Trung Quốc luôn cần nhập khẩu một khối lượng dầu lớn để tăng trưởng.

Nhưng quan trọng nhất về nước cờ chính trị để chống Trung Quốc của Tổng thống Trump là các tuyên bố ngạo mạn gần đây của Trung Quốc là họ sẽ tiến dần đến vị trí cường quốc số một thế giới thay Mỹ, và "mọi thứ sẽ làm ở Trung Hoa vào năm 2025".

Các tuyên bố này và âm mưu thống lĩnh khu vực từ trước đây của Trung Quốc nay đã lộ ra trên tầm mức thế giới, và viễn ảnh "một anh châu Á thắng thế người Âu Mỹ và thống lĩnh thế giới" là không thể chấp nhận được với Tây Phương, và đã đánh thức toàn Âu châu với niềm tự hào văn hóa truyền thống , cũng như làm nước Mỹ chợt tỉnh dậy sau nhiều năm lầm lỗi do chính sách sai lầm thiên về Trung Quốc của Nixon-Kissinger và các chính sách mềm yếu của thời Obama với Trung Quốc.

Tuy có nhiều khác biệt giữa các ứng cử viên hai Đảng Cộng hòa và Dân chủ, nhất là trước cuộc bầu cử gay go giữa kỳ tới đây, nhưng chính sách chống Trung Quốc có vẻ đang được sự ủng hộ rộng rãi của lưỡng đảng trong Quốc hội Mỹ, phản ánh dư luận quần chúng yểm trợ cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, do những bất công quá rõ từ nhiều năm trong chính sách thương mại quốc tế của Trung Quốc, nhất là với Mỹ.

Bất chấp những ve vãn hay ngay cả mua chuộc của Trung Quốc, liên minh thương mại quốc tế mà họ muốn thành lập để chống Mỹ đã thất bại nặng nề. Ngược lại, một liên minh mới gồm Canada, Mexico, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc đang thành hình chống lại chính sách thương mại của TQ.

Trong bản hiệp định mới giữa Hoa Kỳ và Canada với Mexico, thay cho NAFTA và có lợi cho Mỹ hơn trước, đã có thỏa thuận quan trọng (Mỹ đạt được) là bất cứ thành viên nào cũng không có quyền thỏa thuận một hiệp định thương mại tự do với một nền kinh tế phi thị trường, mà hàm ý chính là Trung Quốc vì nước này vẫn chưa được thế giới hay tổ chức WTO coi là nền kinh tế thị trường.

Trong hiệp định sắp đạt thỏa thuận với EU và Nhật Bản, cũng chấp nhận nhiều "nhường nhịn" với Mỹ, một điều kiện tương tự đề phòng Trung Quốc cũng sẽ được đặt ra.

Sau cùng về quân sự, rõ ràng là bản Luật mới về quân sự mà QH Mỹ vừa thông qua, với ngân sách lớn cho các can thiệp tương lai của Mỹ, cùng với các quyết định quân sự quan trọng cùng lúc của Mỹ trong vòng một tuần lễ (23-30/9/18), gồm: cho máy bay B-52 thị sát vùng Biển Đông; tập trận Thủy quân lục chiến ngoài khơi; và nhất là cho tàu Decatur tiến vào vùng di chuyển hàng hải tự do để "nắn gân Trung Quốc" và bị chính chiến hạm Lan Châu cắt mặt cách 41m, gây phản ứng dọa nạt mạnh mẽ của Ngũ Giác Đài, đã là xác định hùng hồn và mạnh mẽ mà theo tôi có thể khiến Việt Nam có phần yên tâm hơn về sự cương quyết can thiệp của Mỹ ở Biển Đông.


Tổng thống Trump (giữa) nêu ra một số nét chính về đường lối châu Á của chính phủ Mỹ trong chuyến thăm Đông Nam Á vừa qua

Hoa Kỳ trong tương lai muốn bắt buộc Trung Quốc tôn trọng luật di chuyển hàng hải tự do trong vùng, phủ nhận và ngăn chặn 'Đường Lưỡi Bò' ở Biển Đông. Tin mới nhất cho hay Thượng viện Mỹ đã thông qua Đạo luật cho phép Mỹ cắt đứt Đường Lưỡi Bò đó của Trung Quốc ở Biển Đông. May mắn chăng là VN có thể ở vào thế Bất chiến tự nhiên thành?

BBC:Cuối cùng, Việt Nam cần chọn cách đi gì khi cuộc xung khắc Mỹ- Trung đang tăng đà? Các chính sách lớn của Việt Nam có gì đúng, sai?

TS Phạm Đỗ Chí: Đây là một đề tài lớn và quan trọng cần đề cập trong một bài bình luận riêng biệt. Nhưng một cách tóm tắt, Việt Nam có thể hưởng lợi lớn trong cuộc thương chiến Mỹ -Trung Quốc hiện tại bằng cách thay thế cho nhiều hàng nhập từ Trung Quốc vào Mỹ.

Nhưng nói thế, không có nghĩa là Việt Nam nên để các hãng Trung Quốc tràn vào Việt Nam để thay nhãn 'Made in China' bằng 'mác Việt Nam giả' để xuất sang Mỹ. Qua các tiếp xúc riêng ở Hoa Kỳ, tôi có thể khẳng định là các giới chức Mỹ rất cảnh tỉnh với 'âm mưu' này của Trung Quốc, và giống như trường hợp thép nhập từ Việt Nam, họ có thể sẵn sàng áp thuế rất cao đến 25% với các mặt hàng Việt Nam hay ngay cả chặn hẳn hàng 'mác giả Việt Nam thay mác Trung Quốc' lúc vào cửa khẩu Mỹ.

Trong tinh thần này, Thông tư 19 của Ngân hàng Nhà nước từ ngày 12/10/18 cho phép tiền CNY (NDT) vào bảy tỉnh biên giới (và sau này có thể lan tràn khắp VN), là một quyết định chính sách sai lầm cần rút lại ngay, trước khi có tác động làm hàng Trung Quốc tràn thêm ồ ạt vào Việt Nam, và làm lũng đoạn chính sách tiền tệ, ngoài vấn đề nghiêm trọng là vi hiến và xâm phạm chủ quyền quốc gia.

Con đường rõ ràng để đi là cải cách thể chế, tăng cường tính thị trường của nền kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân trong sản xuất và lập các thương hiệu, chuỗi sản xuất mới và riêng biệt.

Nhìn xa hơn, với chính sách mới của Mỹ khuyến khích phát triển khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Việt Nam có thể hưởng lợi lớn về cả chính trị và kinh tế thương mại bằng cách tham gia một liên minh mới với vài nước chính ở Đông Nam Á (không nhất thiết phải là ASEAN-- vì khối này có Lào và Campuchia đã nghiêng hẳn về TQ), cùng Ấn Độ, Úc và New Zealand để phát triển ngoại giao và thương mại vùng, đặt thế đứng vững chãi nhằm tăng cường thương mại bền vững với Mỹ.
Không loại trừ trường hợp Mỹ có thể đề nghị tái lập TPP với vài điều kiện mới, để cô lập Trung Quốc thêm nữa ngoài vòng mua bán bùng nổ của châu Á với Bắc Mỹ và khối EU.

Trong việc cần tạo thế cân bằng chính trị giữa hai sức mạnh khổng lồ Trung-Mỹ, hay nôm na thường gọi là thế "đu dây" của Việt Nam, sẽ là lỗi lầm nghiêm trọng nếu Việt Nam ngả về Trung Quốc vì nỗi sợ truyền thống hay do nhu cầu ngắn hạn, tình huống trong nội bộ.

Đó có thể là thế "Chẳng Đặng Đừng" duy nhất của Việt Nam mà đa số người dân đang có vẻ ủng hộ mạnh mẽ, mong muốn đất nước tiến tới, cho một tương lai độc lập phú cường.

Nguồn: BBC News Tiếng Việt
0

‘Một cuộc chiến quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc là không thể tránh khỏi’

Cựu Tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở châu Âu, Trung tướng Frederick Benjamin “Ben” Hodges III cảnh báo Mỹ sẽ bị kéo vào một cuộc chiến quân sự không thể tránh khỏi với Trung Quốc trong vòng 15 năm tới.


Cựu Tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở châu Âu Ben Hodges. (Ảnh: AP)

Phát biểu tại Diễn đàn An ninh Warsaw ở Ba Lan, tướng Ben Hodges nói: “Mỹ cần một trụ cột thật vững chắc ở châu Âu. Tôi nghĩ rằng trong 15 năm nữa, có một viễn cảnh không thể tránh khỏi là chúng tôi sẽ phải dàn sức trong một chiến quân sự với Trung Quốc”.

Vị tướng Mỹ còn kêu gọi các nước châu Âu cần phải làm nhiều hơn nữa để tăng cường khả năng phòng thủ của họ trước một “nước Nga hồi sinh” bởi Mỹ cần phải tập trung nhiều hơn vào việc bảo vệ quyền lợi của mình ở Thái Bình Dương.

Theo ông Hodges, Mỹ không có khả năng dàn trải sức mạnh ở cả châu Âu và Thái Bình Dương để đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc. Khẳng định này của tướng Mỹ lặp lại các tuyên bố Tổng thống Trump từng đưa ra trước đây cho rằng Washington đang phải gánh phần lớn ngân sách của NATO trong khi các quốc gia ở châu Âu không muốn gia tăng chi tiêu quốc phòng.

Tuy nhiên, vị cựu Tổng tư lệnh Mỹ hiện là chuyên gia chiến lược của Trung tâm Phân tích Chính sách Châu Âu có trụ sở tại Washington khẳng định, cam kết của Mỹ đối với NATO là “không lay chuyển” và rằng bất chấp việc Tổng thống Trump hoài nghi về tính hữu dụng của NATO, Washington vẫn coi an ninh của châu Âu là lợi ích quan trọng của Mỹ.

“Vì thế, các bạn sẽ thấy chúng tôi tiếp tục đầu tư vào châu Âu, tiếp tục đào tạo và luân chuyển lực lượng, cũng như để các lực lượng đồn trú tại đây trong vòng 10 đến 15 năm nữa”, ông Hodges nhấn mạnh.

Theo ông, cuộc chiến không thể tránh khỏi giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ bắt nguồn từ những âm ỉ hiện có, liên quan tới tuyên bố chủ quyền phi pháp trên Biển Đông của Trung Quốc, việc Bắc Kinh liên tục ăn cắp công nghệ Mỹ và sử dụng chính sách cho vay bẫy nợ để giành quyền kiểm soát các cơ sở hạ tầng ở nước ngoài bằng các dự án tài trợ ở châu Phi và châu Âu. Chỉ tính riêng ở châu Âu, Trung Quốc đã sở hữu hơn 10% các cảng biển.

Nguồn: https://vtc.vn/mot-cuoc-chien-quan-su-giua-my-va-trung-quoc-la-khong-the-tranh-khoi-d434398.html
0

Những vũ khí của Trung Quốc trong chiến tranh thương mại với Mỹ

Gây khó dễ cho hàng hóa thông quan, khơi dậy tinh thần dân tộc là chiến lược của Trung Quốc ngoài đòn áp thuế trả đũa Mỹ.


Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) đón Tổng thống Mỹ Donald Trump tới thăm Bắc Kinh năm 2017. Ảnh: Reuters.

Khi Trump tuyên bố gói áp thuế thứ hai vào 200 tỷ USD hàng hóa của Trung Quốc, Bắc Kinh chỉ đáp trả bằng việc áp thuế với thêm 60 tỷ USD hàng hóa từ Washington, khiến nhiều người tin rằng giới lãnh đạo nước này đã "hết bài" trong cuộc đấu với Tổng thống Mỹ Donald Trump giữa chiến tranh thương mại khốc liệt. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng đây là quan điểm sai lầm và Trung Quốc vẫn còn nhiều vũ khí trong tay để đối đầu thương mại với Mỹ.

Các chuyên gia kinh tế của Bloomberg cho rằng ý nghĩa thực sự của đòn áp thuế không nằm ở giá trị số hàng hóa bị đánh thuế, mà là lợi thế cạnh tranh nó tạo ra cho hàng hóa sản xuất trong nước so với hàng nhập khẩu. Đòn áp thuế của Trump chỉ có ý nghĩa khi nó khiến hàng hóa Trung Quốc mất ưu thế giá rẻ so với những mặt hàng được sản xuất tại Mỹ.

Tiffany Zarfas Williams, chủ một cửa hàng bán túi xách thời trang ở Texas, cho biết 84% sản phẩm trong kho hàng của cô được nhập khẩu từ Trung Quốc và phần lớn đang chịu mức thuế 10% của Trump. Nhà cung cấp lớn nhất của cô đã tăng giá và cô không còn cách nào khác ngoài việc chuyển chi phí đó sang khách hàng, theo CNN.

Thực tế này cho thấy người tiêu dùng đang phải trả nhiều tiền hơn và doanh nghiệp Mỹ mất đi lợi nhuận trong cuộc chiến thương mại, dù Trump nhiều lần tuyên bố rằng Trung Quốc mới là bên bị thiệt trong đòn áp thuế và việc này sẽ "đem đến rất nhiều tiền" cho ngân khố Mỹ.

"Một số công ty có thể chịu được mức thuế 10%, nhưng với nhiều công ty khác, thuế tăng 10% sẽ ăn hết vào lợi nhuận của họ", Tom Gould, giám đốc cấp cao tại Sandler, Travis & Rosenberg, cho biết.

Bởi vậy, dù Trump áp thuế với bao nhiêu hàng nhập khẩu Trung Quốc đi nữa mà những sản phẩm đó không được sản xuất trong nước, người tiêu dùng vẫn sẽ phải chấp nhận bỏ ra số tiền cao hơn để mua chúng. Một khi người Mỹ vẫn tiếp tục mua hàng Trung Quốc dù giá cao hơn, Bắc Kinh vẫn còn động lực để "chiến đấu tới cùng".

Lãnh đạo Trung Quốc biết rõ từ đầu rằng họ sẽ không thể đọ được với Mỹ theo kiểu "ăn miếng trả miếng" trong từng đòn áp thuế và đó cũng không nằm trong chiến lược dài hạn của họ. Họ cho rằng cách khôn ngoan hơn là kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi đòn áp thuế của Trump bắt đầu "gặm nhấm" vào túi tiền của người Mỹ, trong khi họ vẫn có thể tự sản xuất hoặc tìm nguồn khác thay thế cho hàng nhập khẩu từ Mỹ.

Áp thuế cũng không phải là đòn thương mại duy nhất Trung Quốc có thể đáp trả Mỹ. Hải quan Trung Quốc từ giữa năm nay bắt đầu tăng cường kiểm tra các mặt hàng thịt tươi sống, rau củ quả nhập khẩu từ Mỹ. Luis Chein, giám đốc chi nhánh Trung Quốc của WH Group, tập đoàn sản xuất thịt lợn lớn nhất thế giới sở hữu chuỗi Smithfield Foods ở Mỹ, phàn nàn rằng hải quan Trung Quốc gần đây kiểm tra mọi lô hàng thịt lợn nhập từ Mỹ, thay vì kiểm tra ngẫu nhiên như trước đây, theo SCMP.


Nhân viên hải quan Trung Quốc kiểm tra thịt lợn nhập khẩu tại một cửa thông quan. Ảnh: SCMP.

Việc này khiến thịt lợn nhập khẩu từ Mỹ phải nằm lại cảng lâu hơn. Ngoài thịt lợn, nhiều sản phẩm tươi sống khác còn bị siết chặt kiểm tra khi thông quan, trong đó có cả hoa quả và hải sản. Thời gian nằm cảng lâu khiến các sản phẩm này bị giảm chất lượng, thậm chí là quá hạn sử dụng, khiến người tiêu dùng Trung Quốc không còn thấy hào hứng với chúng nữa. Thay vào đó, họ có thể mua sản phẩm nhập khẩu từ nước khác, hoặc hàng nội địa.

Trung Quốc gần đây đã giảm nhập khẩu đáng kể đậu nành từ Mỹ và tìm kiếm nguồn cung từ các nước khác. Động thái này khiến các nông dân trồng đậu nành ở Mỹ bị ảnh hưởng lớn và cần được sự hỗ trợ của chính phủ.

Chiến thuật khác Trung Quốc có thể áp dụng với các doanh nghiệp Mỹ làm ăn với họ là đưa ra các quy trình, thủ tục giấy tờ phức tạp, nhiêu khê, khiến các doanh nghiệp này gần như không thể có lãi trên đất Trung Quốc.

Theo bình luận viên quốc tế Adam Fayed, một vũ khí khác mà Trung Quốc nắm giữ trong cuộc chiến thương mại với Mỹ chính là chủ nghĩa dân tộc, được thúc đẩy bởi lợi thế kiểm soát hệ thống truyền thông của Bắc Kinh.

Cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế và khái niệm "Giấc mơ Trung Hoa" được Chủ tịch Tập Cận Bình đề xướng, người Trung Quốc ngày càng có xu hướng thiên về chủ nghĩa dân tộc nhiều hơn. Trung Quốc dưới thời ông Tập đoạn tuyệt với chiến lược "giấu mình chờ thời", công khai tham vọng trở thành cường quốc hàng đầu thế giới vào giữa thế kỷ 21.

"Thông điệp mà truyền thông Trung Quốc phát đi trong những năm qua là Trung Quốc đang trỗi dậy và sẽ thống trị châu Á, nhưng Mỹ và Nhật Bản đang cố kìm hãm nước này", Fayed viết. "Người Trung Quốc tin rằng họ đang bị đe dọa bởi các thế lực bên ngoài".

Chủ nghĩa dân tộc này có thể giúp người Trung Quốc "cắn răng chịu đựng" tác động tiêu cực từ đòn áp thuế của Trump, đặc biệt là khi cuộc chiến thương mại có thể kéo dài. Nó cũng giúp lãnh đạo nước này nhận được sự ủng hộ của dư luận khi thể hiện lập trường cứng rắn và "ăn miếng trả miếng" trước các đòn đánh của Trump.

Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc cũng có thể vượt tầm kiểm soát và bùng phát thành những làn sóng bạo lực khó lường. Lãnh đạo Trung Quốc chắc chắn không muốn cảnh người dân đốt phá xe hơi Mỹ như những gì diễn ra với các thương hiệu Nhật trong đợt biểu tình năm 2012. Đó có thể là một thảm họa có thể dẫn đến những hậu quả tồi tệ trên trường quốc tế cho Trung Quốc.

Bởi vậy, Fayed tin rằng dù đang sở hữu nhiều vũ khí trong tay, lãnh đạo Trung Quốc vẫn tìm cách duy trì trạng thái cân bằng trong quan hệ với Mỹ. Họ phải thể hiện mình đủ cứng rắn để làm hài lòng những người theo chủ nghĩa dân tộc, nhưng không quá quyết liệt để có thể châm ngòi cho phản ứng dữ dội hơn từ phía Mỹ.

Bắc Kinh dường như cho rằng chính quyền Trump không còn nhiều quân bài để chơi, nên họ sẽ duy trì lập trường "chờ và xem" trong chiến tranh thương mại với Washington. Trung Quốc nhiều khả năng sẽ không sớm nhượng bộ, ngay cả khi cuộc gặp sắp tới bên lề hội nghị G-20 ở Argentina giữa Trump và ông Tập không giúp hai bên giải quyết các bất đồng và giảm nhiệt chiến tranh thương mại, Fayed nhận định.

Trí Dũng

Nguồn: VnE
0

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2018

Mỹ – Trung và một cuộc chiến khác

Việc Trung Quốc bị cáo buộc “đánh cắp” tài sản trí tuệ, nhất là các thành quả công nghệ của Mỹ không phải là một điều quá mới. Ước tính, các công ty Mỹ mất khoảng 600 tỷ USD hàng năm tiền bản quyền liên quan đến những thứ mà họ dày công nghiên cứu và phát triển.


Gần đây, giới công nghệ đang sục sôi với việc một sĩ quan tình báo cấp cao thuộc Bộ An ninh quốc gia Trung Quốc bị bắt tại Bỉ và bị dẫn độ về Mỹ. Viên sỹ quan này bị cáo buộc gián điệp và đánh cắp bí mật thương mại và thông tin từ General Electric Aviation – công ty Mỹ dẫn đầu trong ngành hàng không vũ trụ.

Theo Bộ Tư pháp Mỹ, sĩ quan Yanjun Xu, đang phải đối mặt với các tội danh gián điệp kinh tế. Đây cũng là lần đầu tiên Mỹ dẫn độ một nhân vật thuộc chính phủ Trung Quốc từ một nước khác về Mỹ để đưa ra tòa xét xử.

Bí mật nào là an toàn?

Các vụ gián điệp Trung Quốc ăn cắp bí mật thương mại của Mỹ không phải là điều hiếm thấy. Trên thực tế, Mỹ đã từng bỏ tù rất nhiều công dân Mỹ gốc Trung Quốc vì tội danh này. TS. Tao Li, một nhà khoa học đã nhập quốc tịch Mỹ, bị kết tội tiếp nhận bí mật nghiên cứu thuốc chống ung thư từ công ty dược phẩm GlaxoSmithKline (GSK). Sau đó, TS Tao Li đã tuồn những thông tin này cho TS. Yu Xue (cũng là một người Mỹ gốc Trung Quốc) khi ông này làm việc tại phòng nghiên cứu của GSK. Yu Xue đã bị kết tội một tháng trước khi Tao Li ra tòa.

Mục đích của hai người này là tuồn thông tin về Trung Quốc và mở một công ty cạnh tranh với GSK mang tên Renopharma đặt tại Nam Kinh. Theo Bộ Tư pháp Mỹ, Renopharma được hỗ trợ tài chính từ chính phủ Trung Quốc.

Vào đầu tháng Tám vừa qua, một kỹ sư Mỹ gốc Hoa của GE tên Xiaoqing Zheng cũng đã bị bắt và buộc tội lấy trộm công nghệ mật và chuyển về Trung Quốc hàng nghìn tài liệu quý giá liên quan đến công nghệ tua bin. Điều đặc biệt là, khi đang làm việc cho GE, Zheng sở hữu ít nhất một công ty ở Trung Quốc nghiên cứu về công nghệ tương tự như những gì ông đang làm tại GE. Thậm chí, FBI còn tìm thấy một sổ tay về hoạt động gián điệp của Trung Quốc, trình bày chi tiết những mức thưởng cho những ai mang công nghệ về nước.

Cảnh giác và ngăn chặn

“Made in China 2025” (MIC 2025) là một kế hoạch chiến lược của chính phủ Trung Quốc kéo dài 10 năm và được công bố vào năm 2015 nhằm nâng cấp ngành công nghiệp Trung Quốc, nâng tầm quốc gia này thành một cường quốc toàn cầu. Đây là nỗ lực để chuyển dịch nền sản xuất của Trung Quốc lên cao hơn trong chuỗi giá trị, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao. Kế hoạch này không chỉ khẳng định rằng chính phủ đóng vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế, nó còn minh họa ý định của Trung Quốc tận dụng hệ thống pháp lý để ủng hộ các công ty trong nước đánh bại các công ty nước ngoài trong một số ngành nghề nhất định.

Mối lo lớn nhất đối với phương Tây, đó là thông qua kế hoạch MIC 2025, Trung Quốc có thể khuyến khích việc đánh cắp các công nghệ hiện đại khác nhau từ những công ty lớn của nước ngoài, nhất là Mỹ.

Vào cuối tháng Chín, một bài báo trên tờ South China Morning Post đặt ra câu hỏi liệu kế hoạch thống trị ngành công nghiệp công nghệ cao có phải là một mối đe dọa lớn đối với phương Tây hay không. Bài báo đưa ra ví dụ về một startup ít người biết đến ở Trung Quốc tên Redcore. Hồi tháng Tám, Redcore tự hào công bố rằng nó đã “phá vỡ sự độc quyền của Mỹ” trên thị trường công nghệ với việc phát triển thành công một ứng dụng trình duyệt web của riêng mình.

Nhưng tuyên bố của startup có trụ sở tại Bắc Kinh này sớm bị bỏ ngoài tai do các chuyên gia đã tìm thấy dấu vết của trình duyệt Google Chrome trong phần mềm trình duyệt web của Redcore. Bài báo tiếp tục nhấn mạnh sự chỉ trích lâu naycủa phương Tây về chiến thuật chuyển giao công nghệ và lấy trộm tài sản trí tuệ của Trung Quốc, cũng như khoảng cách mà quốc gia này cần phải thu hẹp với Mỹ nếu như tiếp tục muốn nuôi hy vọng trở thành siêu cường quốc về công nghệ.

Cũng theo phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Công nghệ Thông tin Trung Quốc Miao Wei vào năm 2015, ông thừa nhận Trung Quốc cần 30 năm mới có thể phát triển để trở thành siêu cường trong ngành sản xuất và MIC 2025 chỉ là những bước của mục tiêu này, nó không mang thông điệp mạnh mẽ như những gì người ta nghĩ.

Với những gì đã và đang xảy ra, khả năng Trung Quốc tiếp tục lấy trộm tài sản trí tuệ từ Mỹ là hoàn toàn có thể. Trước mối nguy cơ hiện hữu này, gần đây Chính phủ của Tổng thống Donald Trump đã có những bước đi cần thiết để từng bước ngăn chặn vấn nạn này trước khi quá muộn.

Trung Quốc quyết theo đuổi cuộc chiến thương mại với Mỹ

Ngày 14/10, Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ Thôi Thiên Khải cho biết, Bắc Kinh không còn cách nào khác ngoài việc phải đáp trả …

Trung Quốc không dùng Nhân dân tệ để giải quyết xung đột với Mỹ
Trung Quốc tuyên bố sẽ không dùng Nhân dân tệ làm “vũ khí” trong cuộc chiến thương mại với Mỹ.

Mỹ khẳng định căng thẳng thương mại với Trung Quốc không đe dọa kinh tế toàn cầu
Ngày 13/10, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin cho rằng những biện pháp thuế quan gây sức ép để Trung Quốc mở cửa hơn …

Quang Đào

(tổng hợp)
0

Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2018

Tính toán sai lầm của Trung Quốc khi đối đầu thương mại với Trump

Lãnh đạo Trung Quốc dường như đánh giá sai ý đồ của Trump khi tung ra đòn thương mại, khiến Bắc Kinh hứng chịu hậu quả.


Tập Cận Bình (phải) đón Trump đến thăm Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh năm 2017. Ảnh: Reuters.

Khi Chủ tịch Tập Cận Bình lên nắm quyền 5 năm trước, ông đã khiến giới tinh hoa Trung Quốc chấn động với cam kết sẽ để thị trường đóng "vai trò quyết định" trong các quyết sách lớn và làm giới cải cách hào hứng với viễn cảnh kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục bùng nổ một cách thần kỳ, theo Politico.

Khi đó, nhiều người tin rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là "không thể tránh khỏi", "không thể tranh cãi" và cụm từ "Giấc mơ Trung Hoa" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, thậm chí Xinhua còn tuyên bố hồi năm ngoái rằng Trung Quốc "đang lấy lại sức mạnh của mình và vươn lên ngôi đầu thế giới".

"Các lãnh đạo Trung Quốc thực sự tin rằng mình là quốc gia mạnh nhất trong lịch sử thế giới", Arthur Waldron, chuyên gia tại Đại học Pennsylvania, nói. Thế nhưng mọi việc diễn ra không như kế hoạch. Ông Tập có những bước đi rất chậm chạp trong nỗ lực cải cách lĩnh vực kinh tế nhà nước vốn đang trì trệ cũng như xử lý nguy cơ về một cuộc khủng hoảng nợ ở Trung Quốc. Ông ưu tiên tăng trưởng ngắn hạn hơn các mục tiêu dài hạn và tập trung vào cuộc chiến chống tham nhũng, củng cố quyền lực hơn là giải quyết các vấn đề của nền kinh tế.

"Sự can thiệp quá mức của nhà nước đã khiến thị trường phải thoái lui", Scott Kennedy, chuyên gia tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, nói. "Ông Tập với niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng và quyền lực nhà nước đã đẩy Trung Quốc vào tình thế rất giống thời kỳ Mao Trạch Đông".

Bằng các biện pháp của mình, ông Tập đã biến các tập đoàn quốc doanh lớn thành những "tay chơi" chủ chốt trong thị trường, thậm chí thành các tập đoàn độc quyền. Ông tăng các khoản hỗ trợ cho những tập đoàn này và siết chặt kiểm soát vốn. Năm 2015, ông đưa ra Sáng kiến Made in China 2025, tăng đầu tư vào các lĩnh vực khoa học công nghệ cao để giảm bớt sự phụ thuộc về công nghệ vào nước ngoài.

Nhưng một năm sau, tỷ phú Donald Trump, người từng chỉ trích gay gắt chính sách thương mại của Trung Quốc, trở thành Tổng thống Mỹ. Tham vọng của Trung Quốc khiến Mỹ cảm thấy bị đe dọa, Trump bắt đầu trở nên cứng rắn hơn, đe dọa sẽ tung ra các đòn áp thuế nếu Bắc Kinh không thay đổi hành vi thương mại của mình, mở cửa thị trường và chấm dứt tình trạng đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ.

Ban đầu, ông Tập và các cố vấn cấp cao của mình coi Trump chỉ là một Tổng thống bốc đồng. Họ dự tính rằng Trump chắc chắn sẽ áp thuế với một số mặt hàng của Trung Quốc, nhưng đó chỉ đơn thuần là chiến thuật đàm phán, một phần trong "Nghệ thuật Thương thảo" mà Trump luôn tự hào. Dẫu sao, nhiều ứng viên tổng thống Mỹ vẫn thường xuyên công kích Trung Quốc trong quá trình tranh cử, sau đó lại làm hòa với Bắc Kinh sau khi nhậm chức.

Giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn giữ nguyên nhận định này khi Trump ra lệnh áp thuế 25% với thép và 10% nhôm hồi tháng 5. Một tháng sau, khi chính quyền Trump quyết định áp thuế với 50 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, họ vẫn tin tưởng rằng chừng ấy là đủ để làm thỏa mãn những cố vấn có quan điểm cứng rắn ở Nhà Trắng như Cố vấn Hội đồng Thương mại Quốc gia Peter Navarro.


Ông Tập (phải) đến thăm một nông trường ở tỉnh Hắc Long Giang hồi tháng 9. Ảnh: Reuters.

Với tính toán đó, Trung Quốc thể hiện sự tự tin bằng đòn trả đũa thuế, cho rằng chính quyền Trump sẽ sớm chấm dứt cuộc đấu thương mại và đi đến giải pháp thỏa hiệp. Nhưng ông Tập và các quan chức cấp cao ở Bắc Kinh dường như sớm nhận ra sai lầm của mình, khi Trump tiếp tục tung ra đòn áp thuế thứ hai vào tháng 9.

Chưa hết choáng váng sau cú đánh vào 200 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc, các lãnh đạo Bắc Kinh tiếp tục hứng một "gáo nước lạnh" mới và nhận ra ý đồ đích thực của chính quyền Trump trong cuộc chiến thương mại khốc liệt.

Phó tổng thống Mỹ Mike Pence trong bài phát biểu hôm 4/10 đã gọi Trung Quốc là "đối thủ chiến lược chính" của Mỹ, cáo buộc Bắc Kinh đang tìm cách làm suy yếu độ tin cậy của Trump và tìm cách can thiệp để nước Mỹ "có một tổng thống khác". "Mỹ sẽ không để bị bắt nạt, sẽ không chịu chùn bước cả về kinh tế lẫn quân sự", Pence khẳng định.

Theo chuyên gia bình luận quốc tế William Pesek, tuyên bố đầy cứng rắn của Pence chứng minh một điều rằng cuộc chiến thương mại của Trump là nhằm đối phó với Trung Quốc hơn là cân bằng thương mại và cải thiện tình hình việc làm ở Mỹ. Tệ hơn, việc đánh thuế và duy trì sức ép thương mại với Trung Quốc dường như sẽ là một phần trong chiến lược tái tranh cử vào năm 2020 của Trump.

"Bài phát biểu này của Pence rõ ràng là chỉ dấu cho một thời kỳ mới đầy ganh đua trong quan hệ Mỹ - Trung", chuyên gia phân tích Bill Bishop bình luận.

Không khí hào hứng về viễn cảnh nền kinh tế tương lai tràn ngập xe tự lái, robot và trí tuệ nhân tạo nhờ sáng kiến "Made in China 2025" cách đây 6 tháng giờ đã hoàn toàn lắng xuống ở Trung Quốc, khi điều khiến ông Tập quan tâm nhất giờ đây là chỉ số tăng trưởng kinh tế trong năm nay, giữa cơn bão chiến tranh thương mại với Mỹ.

Đòn áp thuế chỉ là một trong số ít những "quả bom" mà Trump có thể tung ra với Trung Quốc. Đồng nhân dân tệ đã mất giá 6,4% trong năm nay, trong khi chứng khoán Thượng Hải giảm 22,3% và chỉ số tăng trưởng 6,7% mà chính phủ Trung Quốc đặt ra từ đầu năm ngày càng khó thành hiện thực.

Thực tế đó buộc chính phủ Trung Quốc phải làm mọi cách để thúc đẩy chỉ số tăng trưởng kinh tế. Các quan chức nước này hầu như mỗi ngày đều đề ra các kế hoạch mới để cắt giảm thuế, tăng vốn vay cho doanh nghiệp và đầu tư nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng. Các quy định về tín dụng được nới lỏng, trong khi ngân hàng trung ương liên tiếp nới quy định về trích lập quỹ dự phòng ở các ngân hàng, các dấu hiệu cho thấy kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn trong việc đạt mục tiêu tăng trưởng.

Hậu quả của cuộc chiến thương mại cũng bắt đầu ảnh hưởng đến đời sống của người dân Trung Quốc. Chỉ số giá tiêu dùng nước này tăng 2,5% vào tháng 9, mức tăng chỉ xếp sau giai đoạn cao điểm mua sắm mùa tết âm lịch, theo Nikkei. Nhiều mặt hàng tăng giá do chính sách áp thuế mà Trung Quốc đưa ra để đáp trả đòn thương mại của Trump.

Biện pháp áp thuế trả đũa của Trung Quốc đã khiến giá đậu nành, mặt hàng nước này nhập khẩu lớn từ Mỹ, tăng đáng kể, kéo theo đó là nhiều hệ lụy khác. Nó không chỉ làm tăng giá mặt hàng dầu thực vật, mà còn khiến giá bã đậu nành dùng làm thức ăn chăn nuôi cũng tăng 10-20%, gây khó khăn cho ngành nuôi lợn ở Trung Quốc. Truyền thông nhà nước cho biết nông dân Trung Quốc giờ đây mất 200 tệ với mỗi con lợn, trong khi chính quyền nỗ lực hỗ trợ để giá thịt lợn không tăng quá cao.

"Chiến lược của các tổng thống Mỹ trước đây dường như đã giúp Trung Quốc trỗi dậy và dần gia nhập vào cộng đồng các quốc gia phát triển", bình luận viên Pesek viết. Nhưng điều đó giờ đây đã hết, dưới thời một Tổng thống Mỹ vốn coi thương mại là vũ khí lợi hại phục vụ cho nỗ lực đối phó Trung Quốc của mình.

Nguồn: VnE
0

Mỹ lo ngại trước hành vi 'cướp bóc' của Trung Quốc

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khẳng định Washington không cố kìm chế Bắc Kinh, nhưng chỉ trích những động thái về quân sự và thương mại của nước này.


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis trong một cuộc họp báo tại Lầu Năm Góc tháng 5/2017. Ảnh: Reuters.

"Mỹ rõ ràng không cố kìm chế Trung Quốc mà chỉ đưa ra quan điểm khác. Chúng tôi là hai cường quốc tại khu vực Thái Bình Dương và là hai nền kinh tế lớn. Sẽ có những lúc chúng tôi 'giẫm chân lên nhau'. Vì vậy chúng tôi sẽ tìm cách để điều chỉnh hiệu quả mối quan hệ", Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis hôm nay phát biểu trước khi lên chuyến bay tới Việt Nam và Singapore.

Tuy nhiên, Mattis sau đó đề cập tới những khúc mắc chính giữa hai nước, lên án "hành vi cướp bóc về kinh tế" của Bắc Kinh đối với các quốc gia nhỏ hơn tại châu Á, khiến những nước này rơi vào cảnh nợ nần chồng chất. Ông cũng bày tỏ lo ngại trước sự hung hăng của Bắc Kinh tại Biển Đông.

"Chúng tôi vẫn vô cùng lo ngại trước tình trạng quân sự hóa đang tiếp diễn tại các thực thể trên Biển Đông", Mattis cho biết. Trung Quốc gần đây tăng cường hoạt động quân sự hóa tại các đảo nhân tạo bồi đắp phi pháp ở Biển Đông. Mỹ thường xuyên tiến hành các hoạt động tuần tra tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông nhằm phản ứng với yêu sách chủ quyền đơn phương của Trung Quốc.

Chuyến thăm Việt Nam của Mattis diễn ra trong bối cảnh căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang xung quanh các vấn đề thương mại, Biển Đông và việc Washington cáo buộc Bắc Kinh can thiệp bầu cử. Mattis từng lên kế hoạch thăm Trung Quốc vào cuối tháng, nhưng chuyến đi đã bị hủy.

Mattis tới TP HCM vào ngày 16-17/10. Đây là chuyến thăm thứ hai của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tại Việt Nam trong năm nay, tiếp nối chuyến đi hồi tháng 1 tới Hà Nội. Mattis dự kiến hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch và thăm sân bay Biên Hòa, nơi quân đội Mỹ từng chọn làm nơi chứa chất diệt cỏ trong thời kỳ chiến tranh và đang là một điểm nóng về ô nhiễm chất dioxin tại Việt Nam.

Theo VnExpress
0

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2018

Australia, Nhật Bản cam kết "liên thủ" ở Biển Đông

Kinhtedothi - Hai nước đã tái khẳng định cam kết thúc đẩy hợp tác an ninh hàng hải, phối hợp chặt chẽ với Mỹ trước các hành động “hung hăng” của Trung Quốc.


Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng Australia và Nhật Bản.

Việc Australia và Nhật Bản tăng cường hợp tác quân sự là một trong những trọng tâm củag đối thoại cấp bộ trưởng thường niên giữa hai nước hôm 10/10 vừa qua, trong bối cảnh căng thẳng leo thang tại Biển Đông và Biển Hoa Đông.

Theo đó, hai nước đã tái khẳng định cam kết thúc đẩy hợp tác an ninh hàng hải, phối hợp chặt chẽ với Mỹ trước các hành động “hung hăng” của Trung Quốc.

“Chúng tôi đã nhất trí phản đối với những nỗ lực đơn phương thay đổi thực trạng, đặc biệt tại khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông”, Ngoại trưởng Nhật Bản Taro Kono chia sẻ trong buổi họp báo chung sau cuộc gặp “hai-cộng-hai” giữa Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng hai bên hôm 10/10.

Tân Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Takeshi Iwaya miêu tả các hành động trên biển của Bắc Kinh là “cực kỳ gây hấn” và gây “quan ngại cho cộng đồng toàn cầu”.

Tuyên bố chung sau đối thoại an ninh cho biết, hai nước quyết tâm “tìm kiếm các cơ hội mở rộng khu vực thực hiện tập trận và đào tạo song phương/đa phương với sự tham gia của Lực lượng phòng vệ Australia và Lực lượng Tự vệ Nhật Bản, bao gồm trong lĩnh vực phản ứng thiên tai, đối đầu chống tàu ngầm và biện pháp bom mìn.”

Chính quyền Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đang tìm cách mở rộng hợp tác song phương với Australia trong an ninh biển, trong bối cảnh Canberra đang tập trung sự chú ý vào những diễn biến tại khu vực Thái Bình Dương gần đây.

Hai quốc gia nhất trí thiết lập một ngày tập trận chung mới trong năm sau với sự tham gia của các máy bay chiến đấu của lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản và Lực lượng Phòng không Hoàng gia Australia.

Cuộc tập trận trước đó đã bị hủy bỏ do trận động đất mạnh tấn công phía bắc hòn đảo Hokkaido hồi tháng 9.

Nhật Bản và Australia cũng tái khẳng định sẽ đẩy mạnh các đàm phán về một thỏa thuận đối ứng, theo đó hợp pháp hóa để quân đội hai bên thường xuyên thăm viếng nhằm cùng nhau ứng phó thảm họa thiên nhiên hoặc tuần hành chung.

Theo Asashi, Australia và Nhật Bản vẫn cần thận trọng với Trung Quốc. Hiện Bắc Kinh là đối tác thương mại lớn nhất của Australia và Thủ tướng Nhật dự kiến có chuyến thăm Trung Quốc vào tháng này.

Dù tuyên bố chung lần này có đề cập tới Trung Quốc, từ ngữ vẫn được sử dụng cẩn thận nhằm tránh phản đối trực diện Bắc Kinh. Tuyên bố có đoạn viết Tokyo và Canberra “nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ mang tính xây dựng và cùng chung lợi ích với Trung Quốc thông qua đối thoại, hợp tác và tham gia”.

Nguồn: Kinhtedothi.vn
0

Phương Tây, đi đầu là Mỹ, lập liên minh tình báo chống Trung Quốc

Âm thầm nhưng kiên quyết, từ đầu năm 2018 đến nay, năm quốc gia trong nhóm Five Eyes (Năm con mắt) - mạng lưới chia sẻ tình báo hàng đầu thế giới hiện nay bao gồm Anh, Mỹ, Canada, Úc và New Zealand - đã gia tăng trao đổi thông tin mật với nhiều nước cùng chí hướng về hoạt động đối ngoại của Trung Quốc.

Phòng theo dõi thông tin, Trung Tâm Truyền Thông Chính Phủ, một cơ quan tình báo Anh Quốc, Cheltenham. (Ảnh chụp ngày 17/11/2015)

Thông tin này vừa được hãng tin Anh Reuters tiết lộ hôm 12/10/2018, dựa theo bảy quan chức cao cấp thuộc bốn thủ đô khác nhau. Nhiều quan chức xin ẩn danh do tính chất nhạy cảm của thông tin được tiết lộ, đã cho rằng đà tăng cường hợp tác giữa các nước có liên quan đã lên đến mức mà người ta có thể nói rằng hoạt động của Nhóm Five Eyes đã mặc nhiên được mở rộng trên vấn đề cụ thể là các hành vi can thiệp của nước ngoài, mà trước tiên hết là của Trung Quốc.

Một quan chức Mỹ đã xác nhận với Reuters rằng : « Các cuộc tham vấn với các đồng minh của chúng tôi, với các đối tác cùng chí hướng với chúng tôi, về cách ứng phó với chiến lược quốc tế quyết đoán của Trung Quốc đã trở nên thường xuyên và ngày càng phát triển ».

Hợp tác ngày càng tăng với Đức, Nhật, Pháp…

Đối với quan chức này thì « Những cuộc thảo luận thoạt đầu chỉ mang tính chất chuyên biệt giờ đây đã trở thành những buổi tham khảo ý kiến lẫn nhau một cách chi tiết hơn về cách thức hành động và cơ hội tiếp tục đẩy manh hợp tác. »

Theo Reuters, hợp tác ngày càng tăng giữa 5 thành viên nhóm Five Eyes, với những nước như Đức, Nhật Bản, và cả Pháp trong một số trường hợp, cho thấy sự mở rộng của một mặt trận quốc tế chống lại các chiến dịch tăng cường ảnh hưởng và đầu tư của Trung Quốc. Trong thời gian qua, trước những phản ứng càng lúc càng mạnh từ phía Washington, Canberra và nhiều thủ đô khác, Bắc Kinh đã gay gắt bác bỏ các cáo buộc cho rằng Trung Quốc đang tìm cách tác động đến các chính phủ nước ngoài, và các khoản đầu tư hải ngoại của Bắc Kinh đều nhằm ý đồ chính trị.

Theo thẩm định của Reuters, việc mạng lưới Five Eyes tăng cường phối hợp hành động đã nêu bật vai trò của Mỹ. Bất chấp những tín hiệu từ tổng thống Mỹ Donald Trump theo đó ông đã sẵn sàng đơn thương độc mã đối đầu với Trung Quốc, các thành viên trong chính quyền của ông đang nỗ lực làm việc để hình thành một liên minh không chính thức để chống lại Bắc Kinh.

Bắc Kinh thất bại trong việc lôi kéo châu Âu bỏ Mỹ theo Tầu

Đối với Trung Quốc thì đó là một vố đau, xóa tan hy vọng của Bắc Kinh về việc thuyết phục các nước châu Âu rời xa Mỹ để xích lại gần Trung Quốc hơn, trong bối cảnh các nước châu Âu đang bất an trước chính sách "nước Mỹ trên hết" của tổng thống Trump.

Theo các quan chức đã đồng ý trả lời hãng Reuters, thì các cuộc đàm phán đã diễn ra một cách kín đáo, và chủ yếu trên cơ sở song phương. Không quan chức nào xác nhận việc Đức, Nhật Bản hay các quốc gia khác ngoài mạng lưới Five Eyes đã được mời đến các cuộc họp của liên minh tình báo, được thành lập sau Thế Chiến Thứ II để chống lại ảnh hưởng của Liên Xô. Thế nhưng, một thông báo công bố sau một cuộc họp của nhóm Five Eyes tại Úc vào cuối tháng Tám vừa qua, đã gợi lên một sự phối hợp chặt chẽ hơn, xác định rằng nhóm Năm Con Mắt sẽ sử dụng đến các "quan hệ đối tác toàn cầu" và đẩy nhanh việc chia sẻ thông tin về các hoạt động can thiệp của nước ngoài.

Như vậy là một liên minh quốc tế chống các thủ đoạn của Trung Quốc xen vào nội tình các nước khác đang được hình thành, nối tiếp theo một loạt những hành động ở cấp quốc gia - ở Mỹ, ở Đức, ở Úc… - nhằm hạn chế đầu tư của Trung Quốc vào các công ty công nghệ nhạy cảm và chống lại những điều mà một số chính phủ cho là một chiến dịch ngày càng mạnh đang được chế độ Tập Cận Bình phát triển, để lũng đoạn các chính phủ và xã hội nước ngoài theo hướng có lợi cho Trung Quốc.

Nguồn: RFI
0

Biển Đông : Đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ngày càng bị thách thức

Kể từ hôm nay, 02/10/2018, cuộc tập trận thường niên của 5 nước trong khối Ngũ Cường bao gồm Anh, Úc, New Zealand, Malaysia và Singapore bắt đầu diễn ra tại vùng Biển Đông. Nhân sự kiện này, các nước ngoài khu vực đã đưa chiến hạm vào khu vực, một sự kiện được nhiều nhà phân tích cho là sẽ tạo áp lực trên Trung Quốc, nước đã đòi hỏi chủ quyền trên hầu như toàn bộ vùng Biển Đông, và muốn các nước khác phải xin phép khi đi vào trong khu vực.


Tầu chiến Nhật Bản trong một đợt tham gia tập trận với hải quân Anh ở Ấn Độ Dương, ngày 26/09/2018.

Cuộc diễn tập quân sự của nhóm 5 nước trong khối Hiệp Ước Phòng Thủ Ngũ Cường (Five Power Defence Arrangements FPDA) sẽ kéo dài cho đến ngày 19/10, và theo hãng tin Úc AAP, sẽ diễn ra tại Biển Đông.

Điểm mà giới quan sát chú ý là các nước như Úc, New Zealand, và cả Anh Quốc đã loan báo gởi tàu và máy bay đến tham gia diễn tập. Úc chẳng hạn, cho biết sẽ phái hai tàu Hải Quân, 9 chiến đấu cơ F/A-18 Hornet, cùng 4 máy bay quân sự khác đến tham gia. New Zealand cũng góp mặt với khu trục hạm Te Mana, trong lúc chiến hạm Anh Argyll, trên đường đến cuộc tập huấn, đã cùng luyện tập với chiến hạm Nhật Bản ngoài Ấn Độ Dương.

Dĩ nhiên là nội dung thao diễn của các quốc gia trong khối Ngũ Cường không liên can gì tới tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc với 4 nước ASEAN quanh Biển Đông, nhưng mật độ cao của chiến hạm ngoài khu vực trong vùng được cho là sẽ làm Trung Quốc bất an, trong bối cảnh Bắc Kinh tự nhận mình là chủ nhân của hầu hết Biển Đông, và luôn luôn dọa nạt nước khác mỗi khi lên án tàu thuyền nước họ đi vào vùng mà Trung Quốc cho là lãnh hải của mình.

Theo ghi nhận của nhật báo Hồng Kông South China Morning Post trong số ra ngày 01/10, bối cảnh hiện nay không mấy thuận lợi cho Trung Quốc và “Bắc Kinh đang phải đối mặt với những thách thức ngày càng nhiều đối với các yêu sách chủ quyền của họ trên Biển Đông”, vì các cường quốc lớn ngoài vùng đang càng lúc càng tăng cường sự hiện diện trong khu vực.

Đi đầu vẫn là Mỹ, đã tăng cường các chiến dịch không quân và hải quân để thách thức các “yêu sách quá đáng” của Trung Quốc. Ví dụ rõ nhất là chuyến tuần tra hôm Chủ Nhật 30/09 của khu trục hạm USS Decatur vào bên trong vùng 12 hải lý của đá Ga Ven và Gạc Ma.

Bên cạnh đó, trong khu vực thì Úc, và nhất là Nhật Bản, đều tỏ thái độ ủng hộ việc thực thi quyền tự do hàng hải tại Biển Đông. Ngoài khu vực, phải kể đến các động thái của Pháp và mới đây là của Anh.

Theo SCMP, nhiều chuyên gia phân tích nghĩ rằng trong bối cảnh Hoa Kỳ cứng rắn hơn với Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông, các đồng minh, đối tác của Mỹ khó có thể đứng ngoài.

Chuyên gia an ninh hàng hải Collin Koh thuộc Đại Học Kỹ Thuật Nanyang tại Singapore nhận định : “Sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông không phải là điều đáng chú ý duy nhất nữa. Ta có thể thấy rằng các cường quốc khác cũng tăng cường sự hiện diện quân sự của mình tại đây”.

Chuyên gia Trung Quốc Ngô Sĩ Tồn, viện trưởng Viện Nghiên Cứu Nam Hải (tức Biển Đông) của Trung Quốc cho rằng chính thái độ quyết đoán hẳn lên của Trung Quốc trong việc khẳng định chủ quyền, được các đảo nhân tạo mới bồi đắp ở Biển Đông hỗ trợ, đã khiến Mỹ cứng rắn hơn : “Điều đó đã gây áp lực lên Mỹ, và Washington đã kêu gọi các đồng minh như Nhật Bản và Anh, thậm chí là cả Úc, cùng tham gia vào việc đảm bảo tự do hàng hải trên Biển Đông”.

Nguồn: RFI
0

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2018

Thương mại, chiến tranh và Biển Đông

Trong vùng biển từng được cho là đã đạt được tiến bộ, một mặt trận đáng lo ngại đang hình thành: làn sóng ngầm liên kết tranh chấp ở Biển Đông với cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung.


Khi đi qua vùng mở rộng của đồng bằng sông Châu Giang, từ Macau đến Hong Kong, đến một lúc nào đó bạn sẽ không thấy đất liền nữa; trước mặt bạn chẳng có gì ngoài biển. Vào ngày 1/8, trong mùa mưa bão, màn mưa di chuyển nhanh chóng khắp vịnh tạo ra cảm giác nhầm lẫn về một vùng đất trống không người ở, mà ở đó trên thực tế lại là khu vực đô thị hóa đông đúc nhất châu Á - cỗ máy công nghiệp thúc đẩy sự trỗi dậy của Trung Quốc, một trong những trung tâm trung chuyển lớn toàn cầu. Các tàu công-te-nơ cỡ lớn, những con lạc đà thời hiện đại, đều đi qua đây. Từ mạn phải của chiếc phà cao tốc, đâu đó xa xa, là một loạt đảo lớn, đảo nhỏ và các bãi đá có tranh chấp – những vệ thần của các tuyến đường biển kết nối thế giới bên ngoài.

Quyền tiếp cận và kiểm soát đồng bằng sông Châu Giang đã giúp xác định rõ lịch sử địa chính trị trong thời hiện đại. Khi các cường quốc phương Tây lần đầu tiên đi vòng quanh châu Phi và thâm nhập phương Đông, họ đã tới đây bằng đường biển. Và cuộc tranh giành ngôi vị bá chủ thế giới – sự toàn cầu hóa cuộc cạnh tranh của loài người – đã được định rõ bởi thương mại chứ không chỉ bởi Chúa hay sự vinh quang. Như Walter Raleigh (tên cướp biển gây kinh hoàng hay một hiệp sĩ được tôn vinh, tùy vào quan điểm của bạn đọc) từng lưu ý: “Bất cứ ai làm chủ biển cả sẽ làm chủ thương mại; bất cứ ai làm chủ thương mại thế giới sẽ làm chủ của cải trên thế giới; và do đó làm chủ chính cả thế giới”.

Do vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi ở những vùng biển này, chúng ta có thể thấy một cách rõ ràng hơn làn sóng ngầm liên kết tranh chấp ở Biển Đông với cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đang diễn ra.

Một mảnh ghép của Lục địa

John Donne đã nhận định rằng “ Không ai sống đơn độc một mình như một hòn đảo trơ trọi; mỗi người là một mảnh ghép của lục địa, một phần của tổng thể”. Mặc dù phản ánh hoàn cảnh con người, nhưng nhận xét của Donne mở rộng tới tình thế tiến thoái lưỡng nan của Bắc Kinh giữa các vùng biên giới tranh chấp và sự bao vây chiến lược bằng đường biển. Đối với Trung Quốc hiện đại, các cấu trúc địa hình trên biển và chính vùng Biển Đông, do tính thiết yếu và bản năng tự sinh tồn, phải được coi là một mảnh ghép của lãnh thổ quốc gia, một phần của đế quốc lục địa rộng lớn.

Theo các tiêu chuẩn của Hòa ước Westphalia, “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là một cách tiếp cận mang tính cách mạng đối với lãnh thổ thuộc chủ quyền. Tuyên bố gây tranh cãi này bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông và làm tăng kích thước địa lý của Trung Quốc thêm gần 50%. “Đường 9 đoạn” là câu chuyện lịch sử gần đây, bắt nguồn từ một tấm bản đồ năm 1948 của Trung Quốc trước thời Cộng sản, và được Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chính thức phục hồi vào năm 2009 nhằm phản đối Việt Nam và Malaysia nộp báo cáo chung nhằm về khu vực thềm lục địa kéo dài của họ theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS).

Tuy nhiên, cơ sở để Trung Quốc khẳng định chủ quyền không phải là luật pháp quốc tế hiện thời hay thậm chí là quyền kiểm soát trong lịch sử đối với Biển Đông. Năm 2016, Tòa trọng tài, được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS, đã kết luận rằng Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để khẳng định các quyền trong lịch sử đối với những khu vực biển nằm trong phạm vi “đường 9 đoạn”. Sau một quá trình điều tra kéo dài, Tòa trọng tài cũng nhận thấy rằng không có bằng chứng cho thấy trong lịch sử, Trung Quốc đã thực thi việc kiểm soát độc quyền đối với các vùng biển hoặc các nguồn tài nguyên của họ. Thay vào đó, Tòa trọng tài phát hiện ra rằng phần lớn lịch sử hàng hải và thương mại của Trung Quốc ở Biển Đông đơn giản chỉ là sự thực hiện các quyền tự do hoạt động trong vùng biển khơi hiện tại theo luật pháp quốc tế. Hơn nữa, do không có cấu trúc nào trong số cấu trúc địa hình mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền được Tòa trọng tài xem xét – các bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough – về mặt kỹ thuật được coi là các “đảo” theo UNCLOS, nên chúng không phải là cơ sở để đưa ra được các tuyên bố chủ quyền hoặc những quyền lợi trên biển, như các vùng đặc quyền kinh tế.

Thay vào đó, “đường 9 đoạn” bắt nguồn từ lợi ích quốc gia ngày càng mở rộng của Trung Quốc trong việc đảm bảo khu vực ngoại vi và quyền tiếp cận của chính nước này đối với các tuyến đường thương mại có ý nghĩa sống còn. Giống như các cường quốc đế quốc đang trỗi dậy trước đây, Trung Quốc phải đối mặt với thách thức của việc liên kết các đường biên giới với tham vọng ngày một lớn và sự thèm khát các nguồn lực và thị trường ngày càng tăng của họ.

Trong trường hợp hiện tại, gần 1/3 số tàu thương mại hàng năm của thế giới đều đi qua Biển Đông. Tám trong số mười cảng công-te-nơ sầm uất nhất thế giới nằm ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Gần 2/3 số tàu vận chuyển dầu của thế giới đi qua Ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương, phần lớn trong số đó là tới Trung Quốc vốn phụ thuộc vào năng lượng. Không đảm bảo được quyền tiếp cận hàng hải trên khắp Biển Đông, Trung Quốc không thể chắc chắn về những xu hướng có lợi trong “những sự khác biệt về tỷ lệ tăng trưởng và thay đổi công nghệ” mà đã dẫn tới “những dịch chuyển trong cán cân kinh tế” và kết quả là sự dịch chuyển trong “cán cân chính trị và quân sự” – mà theo Paul Kennedy là động cơ cho tiến trình quá độ trở thành nước lớn.

Không phải chỉ là sự ngẫu nhiên khi chiến dịch xây dựng đảo trắng trợn của Bắc Kinh ở Biển Đông đã bắt đầu một cách nghiêm túc trong cùng năm Trung Quốc vượt Mỹ trở thành quốc gia thương mại lớn nhất thế giới. Kể từ năm 2013, tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á báo cáo rằng Trung Quốc đã tiến hành nạo vét và xây dựng đảo nhân tạo chưa từng có tiền lệ ở quần đảo Trường Sa, tạo ra vùng đất mới rộng gần 1.300 hecta, cùng với việc mở rộng đáng kể sự hiện diện của nước này ở quần đảo Hoàng Sa. Bắc Kinh đã phải tự lực giải quyết một mặt trận không an toàn. Lord Curzon, Toàn quyền Anh tại Ấn Độ, đã tóm tắt thách thức ở biên giới như sau: “Nếu những thế lực thù địch và không thân thiện dần tiến đến biên giới, và nấp ngay dưới bức tường của chúng ta, thì chúng ta buộc phải can thiệp vì mối nguy hiểm do đó sẽ lớn dần lên, một ngày nào đó có thể đe dọa tới an ninh của chúng ta”.

Từ lợi thế này, việc Chính quyền Trump gia tăng các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) ở Biển Đông có thể đem lại những kết quả ngoài các mục tiêu được tuyên bố là duy trì luật pháp quốc tế và tuyến giao thông biển toàn cầu. Ưu thế hải quân và khả năng sẵn sàng tác chiến của Mỹ cũng có thể được hiểu là một mối đe dọa khiến Trung Quốc không tiếp cận được các thị trường và nguồn cung năng lượng của nước ngoài. Vào tháng 5/2018, lần đầu tiên quân đội Trung Quốc đã cho máy bay ném bom tầm xa hạ cánh xuống đảo Phú Lâm ở Biển Đông, tạo điều kiện hơn nữa cho việc triển khai lực lượng của Bắc Kinh trong khu vực, trong đó tính đến cả những vị trí tiền tiêu của Mỹ. Nếu tình thế tiến thoái lưỡng nan ở Malacca chỉ mang tính lý thuyết, thì điều đáng gợi lại là Nhật Bản đã tấn công Trân Châu Cảng vào năm 1941 sau khi Mỹ quyết định áp đặt lệnh cấm vận thương mại và dầu mỏ đối với Nhật Bản, điều về cơ bản hẳn sẽ làm tê liệt nước này.

Cũng cần cân nhắc những sự không chắc chắn vốn sâu sắc từ trước, và chúng cũng bắt đầu bằng thương mại. Đáng chú ý là, trọng tâm của “đường lưỡi bò” – cụm từ thường dùng để miêu tả đường ranh giới đứt đoạn – bắt nguồn trực tiếp từ cửa sông Châu Giang, điểm đặt chân đầu tiên của các cường quốc phương Tây tới Trung Quốc hơn 500 năm trước.

Thương mại và sự không an toàn

Năm 1513, ngay sau khi một nhà thám hiểm khác người Iberia đặt chân đến châu Mỹ, Jorge Alvares đã tới Quảng Châu vẫy lá cờ của Bồ Đào Nha. Người Bồ Đào Nha cuối cùng đã thành lập Macau, nơi định cư đầu tiên của người châu Âu ở vùng Viễn Đông, đóng vai trò như là một trung tâm thương mại. Tansen Sen kết luận rằng thỏa thuận thương mại Luso-Trung Quốc năm 1554 đã cho phép người Bồ Đào Nha thực sự nắm quyền kiểm soát thị trường trên biển từ bờ biển Malabar đến miền Nam Trung Quốc tới các cảng ở Nhật Bản. Nhưng chẳng bao lâu sau những người khác cũng đã đến, và cuộc chạy đua toàn cầu giành quyền làm chủ các tuyến đường biển trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đột nhiên diễn ra. Cuộc cạnh tranh này sẽ liên quan đến thương mại, chiến tranh, luật pháp quốc tế và sự xói mòn dần chủ quyền của Trung Quốc từ đường bờ biển của nước này.

Chẳng hạn, vào cuối thế kỷ 16, người Hà Lan đã bắt đầu xâm phạm đặc quyền của Bồ Đào Nha tại châu Á. Ngày 25/2/1603, gần Singapore ngày nay, Công ty Đông Ấn của Hà Lan (VOC) đã chiếm con tàu Santa Catarina của Bồ Đào Nha, chất đầy hàng hóa từ các cảng của Macau và Trung Quốc, đang trên đường đến Malacca. Người Hà Lan đã thuê một luật sư trẻ tuổi và có tài tên là Hugo Grotius hợp pháp hóa hành động của họ theo các điều luật chiến tranh. Như một phần trong bản tóm tắt hồ sơ biện hộ của mình, Grotius đã phát hành dưới dạng nặc danh cuốn Mare Liberum (Biển cả tự do), chính thức truyền bá quyền tự do hàng hải. Ông lập luận rằng việc hạn chế quyền giao thương, bằng việc cấm tiếp cận hoặc cản trở hoạt động hàng hải, là nguyên nhân gây ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Như tác giả đã lưu ý trong những trang viết này, tác động ngầm của những chủ đề này tiếp tục gây ảnh hưởng đến sự phát triển của luật pháp quốc tế, kể cả trong suốt những “cuộc chiến pháp lý” về Biển Đông.

Trong thế kỷ 17, Bắc Kinh đã tìm cách ngăn chặn sự hiện diện ngày càng tăng của phương Tây, do các tập đoàn hàng đầu của thế giới như VOC và Công ty Đông Ấn của Anh thúc đẩy. Đến thế kỷ 18, các cường quốc phương Tây, được khuyến khích bởi sự phát triển nở rộ của Cách mạng Công nghiệp tại Anh, đã bắt đầu nổi giận trước quy chế thương mại nghiêm ngặt theo “chế độ Canton” thông qua các thương lái được lựa chọn ở Quảng Châu. Năm 1793, Đức vua George III đã cử Bá tước George McCartney đi sứ với nhiệm vụ đạt được “thương mại tự do” dựa trên “điều kiện bình đẳng” với Bắc Kinh. Vị công sứ này đã thất bại thảm hại. Theo mô tả của Henry Kissinger, những chỉ thị của nhiệm vụ này nhằm mở ra “cuộc cạnh tranh công bằng trên thị trường” không có khái niệm tương đương trực tiếp ở Trung Quốc vốn theo tư tưởng Khổng Tử. Nhưng những truyền thống mềm dẻo sẽ nhường đường cho ưu thế về công nghệ. Như nhà vua trong tác phẩm của Lin-Manuel Miranda dự đoán: Đại dương trỗi dậy, các đế chế sụp đổ.

Trụ cột cuối cùng trong sức mạnh của Trung Quốc đã sụp đổ với cuộc Chiến tranh Nha phiến vào thế kỷ 19. Phải gánh chịu các vấn đề về cán cân thanh toán – với việc bạc của nước Anh đổ vào và hàng hóa Trung Quốc chảy ra – Công ty Đông Ấn của Anh đã bắt đầu dựa vào nha phiến, phần lớn được trồng tại Ấn Độ, nhằm làm giảm thâm hụt thương mại. Nhận thấy mối đe dọa tới sức khỏe của dân chúng, Bắc Kinh tìm cách chấm dứt việc buôn bán ma túy, nhưng London đã dùng vũ lực để đòi hỏi quyền thương mại tự do. Theo Pankaj Mishra, trong giai đoạn này, “thương mại tự do” dường như không khác gì một lợi ích chung phải được thực thi bằng biện pháp quân sự giống như “dân chủ” trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Được trang bị công nghệ mới nhất (các tàu thủy chạy bằng hơi nước), người Anh đã phong tỏa Quảng Châu, chiếm giữ Thượng Hải và đe dọa Nam Kinh. Hiệp ước Nam Kinh năm 1842 đã áp đặt các điều kiện cho một Trung Quốc bại trận: mở cửa các cảng mới theo hiệp ước, trong đó có Thượng Hải; bồi thường và thanh toán cho tài sản của Anh bị chiếm giữ (nha phiến); và nhượng lại Hong Kong cho Anh.

Theo chân Anh, các cường quốc phương Tây, trong đó có Mỹ, cũng yêu cầu được đối xử bình đẳng. Nhưng những sự nhượng bộ hơn nữa của Trung Quốc đã không thể ngăn chặn được làn sóng chiến tranh thương mại khác. Đỉnh điểm là Anh đã tiến hành Chiến tranh Nha phiến lần hai vào năm 1856. Văn phòng Sử gia thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ tóm tắt hành động này như sau:

“Theo điều khoản tối huệ quốc trong những hiệp ước hiện tại, tất cả các cường quốc nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc đều được phép tìm kiếm những sự nhượng bộ như nhau từ Trung Quốc mà Anh đã đạt được bằng vũ lực. Kết quả là, Pháp, Nga và Mỹ liên tiếp ký các hiệp ước với Trung Quốc tại Thiên Tân vào năm 1858… Mặc dù Trung Quốc ký các hiệp ước vào năm 1858, nhưng phải mất thêm 2 năm chiến tranh nữa trước khi Chính phủ Trung Quốc sẵn sàng thông qua chúng và chấp nhận các điều kiện. Cùng với các lực lượng Pháp, người Anh đã tiến vào thành phố và thiêu rụi Di Hòa Viên ở vùng ngoại vi Tây Bắc, nhưng chừa lại Tử Cấm Thành, nơi ở của Hoàng đế Trung Hoa”.

Cái được gọi là “những hiệp ước bất bình đẳng” này đã buộc Trung Quốc phải trao cho người nước ngoài vị thế đặc quyền – sự bảo hộ về mặt pháp lý theo đặc quyền ngoại giao trước quyền tài phán của Trung Quốc – và thừa nhận quyền thương mại và chính trị của các cường quốc bên ngoài. Tóm lại, thông qua các cuộc chiến tranh thương mại và các hiệp ước, Trung Quốc mất quyền chủ quyền đối với lãnh thổ của họ và quyền kiểm soát vận mệnh của mình.

Ảnh hưởng thích đáng của câu chuyện lịch sử này trong cuộc tranh luận hiện tại là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Nhưng theo lời của Edward Said, sẽ là sai lầm nếu bỏ qua sự hiện diện còn rơi rớt lại của chủ nghĩa đế quốc phương Tây tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, tác động của nó trong việc “làm thay đổi nhận thức luận” đối với “nhận thức về thời đại của chúng ta”.

Theo câu chuyện kể này, “thế kỷ nhục nhã” đã tiếp tục cho đến năm 1949 với việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949. Hoặc có lẽ sự khôi phục đã diễn ra khi Hong Kong và Macau, những tiền đồn cuối cùng của thực dân, được trao trả cho Trung Quốc lần lượt vào năm 1997 và 1999. Một thời điểm nổi bật khác là năm 2001, khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) – ít nhất đó là thực tế mà Tổng thống Mỹ Donald Trump biết rất rõ.

Vạn lý trường thành của Trump

Trong cuộc chạy đua chức tổng thống Mỹ năm 2016, khi dừng chân tại Nam Carolina, Trump lấy làm kiêu hãnh nói rằng “Trung Quốc đã xây dựng một bức tường dài 13.000 dặm từ 2.000 năm trước. Tham vọng của tôi là bức tường của chúng ta phải cao hơn nhiều”. Trong khi Trump mang tiếng xấu vì lời đe dọa của ông xây dựng một bức tường hữu hình ở biên giới, thì những kế hoạch của ông thiết lập một hàng rào thực sự xung quanh nền kinh tế Mỹ thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Mục tiêu hàng đầu của bức tường của ông – từ thuế quan tới hạn chế đầu tư, cho đến bảo hộ công nghệ và giới hạn thị thực – là Trung Quốc. Vũ khí được chọn để phản công và triển khai là thương mại.

Chính quyền Trump đã sớm nhiều lần phát đi tín hiệu về kế hoạch của họ thách thức nguyên trạng quan hệ Mỹ-Trung và nền kinh tế toàn cầu. Khi còn là ứng cử viên, Trump đã cam kết chấm dứt “cuộc tấn công kinh tế của Trung Quốc vào công ăn việc làm và của cải của Mỹ” bằng cách thực thi các thỏa thuận thương mại và áp dụng “đòn bẩy” kinh tế để thúc đẩy sự thay đổi. Ngay khi lên nắm quyền, ông đã ban hành Chiến lược an ninh quốc gia miêu tả một cuộc cạnh tranh toàn cầu với Trung Quốc vốn đòi hỏi “Mỹ phải suy nghĩ lại về các chính sách của 2 thập kỷ trước – những chính sách dựa trên giả định rằng sự can dự với các đối thủ và việc đưa họ vào các thể chế quốc tế và thương mại toàn cầu sẽ biến họ trở thành các bên tham gia tử tế và đối tác đáng tin cậy”. Trong chuyến thăm của Trump tới châu Á, ông đã chỉ trích cơ chế của WTO và các thông lệ thương mại của Trung Quốc, và cam kết hành động nhằm đảm bảo “quyền tiếp cận thị trường công bằng và bình đẳng” theo điều kiện ông đưa ra. Sau đó Trump đã nghiên cứu tỉ mỉ và đưa ra thuế quan nhắm mục tiêu vào các chính sách công nghiệp của Trung Quốc trên cơ sở rằng chúng lợi dụng quá mức các nguyên tắc thị trường tự do làm nền tảng cho sự thịnh vượng và đổi mới của Mỹ.

Trong khi chỉ trích kịch liệt ngoại thương, nhập cư và trật tự quốc tế dựa trên nguyên tắc, Trump có nguy cơ khiến Mỹ bị cô lập và làm xói mòn hệ sinh thái độc nhất của Mỹ từng được cho là đã tạo ra sự đổi mới và lợi thế công nghệ cho Mỹ. Bằng việc đóng cửa xã hội cởi mở của Mỹ, Trump có lẽ đã tham lợi trước mắt. Hơn nữa, thay vì phụ thuộc lẫn nhau, các nước có thể theo đuổi những con đường khác biệt với Mỹ. Những đồng minh trên khắp Đại Tây Dương có thể bắt đầu tạo thế cân bằng trước những mối đe dọa từ Trump. Tại đồng bằng sông Châu Giang này, Bắc Kinh đã sắp đặt các kế hoạch nhằm thiết lập “Cụm thành phố vịnh lớn Quảng Đông-Hong Kong-Macau” như là một trung tâm đổi mới và tài chính tích hợp nhằm cạnh tranh với Thung lũng Silicon. Đây là những rủi ro mà Trump dường như có ý định chấp nhận.

Có lẽ là hơn bất kỳ tổng thống Mỹ nào trước đây, Trump đã bóc trần cuộc tranh giành quyền lực làm nền tảng cho thương mại quốc tế, công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Về ý nghĩa này, chính sách kinh tế của Tổng thống Mỹ được phản ánh qua việc thâu tóm quyền lực không giấu giếm ở Biển Đông. Sâu sắc hơn, cuộc chiến thương mại của Trump và việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông thách thức những niềm tin đã có từ lâu trong thời đại Khai sáng về bản chất tử tế của thương mại.

Nhà kinh tế học Ludwig von Mises suy ngẫm: Nếu người thợ may gây chiến với người làm bánh, ông ta từ nay trở đi phải tự mình làm bánh. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu người thợ may quan tâm sâu sắc hơn tới đặc trưng của người làm bánh – quốc tịch, tôn giáo, chủng tộc, bản năng giới tính, hay bản sắc? Điều gì sẽ xảy ra nếu thương mại không chỉ là một hoạt động trao đổi tuyệt vời, mà còn là một căn nguyên của chiến tranh? Phải chăng sự tối ưu Pareto hay thậm chí là hiệu quả Pareto là mục tiêu chung nhất của các mối quan hệ của con người? Hay phải chăng nỗi lo sợ, niềm kiêu hãnh, sự đố kỵ, chủ nghĩa bộ lạc và chủ nghĩa dân tộc là tác nhân có ý nghĩa khi tìm cách xây dựng hòa bình vĩnh viễn?

Những người lạc quan có thể viện dẫn một cách chính đáng những giá trị của một nền hòa bình dân chủ và phân tích định lượng chứng tỏ rằng các nhà nước thương mại ít có khả năng tiến hành chiến tranh hơn. Nhưng kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện đại lại không cố định; quan điểm về tương lai thay đổi không ngừng. Từ những vùng nước của đồng bằng sông Châu Giang, điều chúng ta có thể thấy đang hình thành là một mặt trận đáng lo ngại, sự bất đồng thương mại, điều chúng ta từng dễ dàng cho là sự tiến bộ.

Roncevert Ganan Almond là Đối tác và Phó Chủ tịch Tập đoàn Wicks, Washington, D.C. Ông là cố vấn pháp lý cho một số chính quyền ở Châu Á, Châu Âu, Trung Đông, Châu Phi và Mỹ Latin về các vấn đề luật quốc tế. Ông từng là giữ vai trò là cố vấn cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Hilary Cliton năm 2018. Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả và được đăng trên The Diplomat.

Trần Quang (gt)

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/7090-thuong-mai-chien-tranh-va-bien-dong
0

Những "giới hạn đỏ" ở Biển Đông

Trong bối cảnh cuộc chiến thương mại vẫn rất căng thẳng, quân đội Mỹ và Trung Quốc gần đây liên tục có các hành động "ăn miếng trả miếng" tại Biển Đông.


Gần đây, tàu khu trục USS Decatur của Mỹ đã đi vào vùng 12 hải lý của thực thể Trung Quốc chiếm đóng để thực hiện chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải. Tàu khu trục Trung Quốc đã áp sát USS Decatur, hành động bị giới chức Hải quân Mỹ cho là “thiếu an toàn và thiếu chuyên nghiệp”. Trao đổi với hãng tin Reuters hôm 30/9, một ngày sau khi Trung Quốc hủy cuộc đối thoại cấp bộ trưởng quốc phòng với Mỹ - cuộc họp cấp cao thứ hai bị hủy chỉ trong 1 tuần - một quan chức tại Washington nói: “Căng thẳng đang leo thang và có thể gây nguy hiểm cho cả hai phía”.

Vụ va chạm giữa tàu Mỹ và tàu Trung Quốc diễn ra gần quần đảo Trường Sa, cực Nam Biển Đông. Trong khi đó, ở phía Bắc, tại Bãi cạn Scarborough, Mỹ, Philippines, và Trung Quốc cũng đang trong tình trạng căng thẳng và những tranh cãi âm ỉ giữa họ có thể nhanh chóng leo thang nghiêm trọng.

Philippines nắm quyền kiểm soát Bãi cạn Scaborough sau khi giành độc lập vào năm 1946. Tới năm 2012, sau một vụ đối đầu với Philippines, Trung Quốc đã chiếm bãi cạn này và ngăn các ngư dân Philippines tiến vào đầm pá phía trong. Việc Trung Quốc kiểm soát Bãi cạn Scaborough, chỉ cách đảo Luzon của Philippines 130 dặm (hơn 200 km) và cách đảo Hải Nam 400 dặm (gần 650 km), là mối lo ngại thường trực của cả Manila và Washington.

Theo Bryan Clark, nhà nghiên cứu làm việc tại Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách, với khoảng cách gần với đảo Luzon, “nếu Trung Quốc thiết lập hệ thống tên lửa phòng không và tên lửa đất đối đất tại đây (Bãi cạn Scaborough) như họ đã làm ở nhiều hòn đảo khác tại Biển Đông, họ hoàn toàn có thể tấn công Philippines”. Cựu sỹ quan Hải quân Mỹ này cho rằng đây sẽ là cản trở lớn đối với nỗ lực giành lại quyền kiểm soát Bãi cạn Scaborough của Philippines.

Hơn thế nữa, sự hiện diện về mặt quân sự tại Bãi cạn Scaborough còn cho phép Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng tại Biển Đông. Bãi cạn này sẽ trở thành một góc trong tam giác quyền lực với 2 đỉnh còn lại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, những nơi Trung Quốc đều đã thiết lập các tiền đồn quân sự. Ông Clark cho rằng Trung Quốc có thể dùng các khí tài quân sự trên đất liên để thiết lập một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) như họ đã làm ở Biển Hoa Đông vào năm 2013, song rìa phía Đông của Biển Đông lại nằm ngoài phạm vi các khí tài này. Ông nói: “Vì vậy, Trung Quốc sẽ xây dựng hạ tầng tại Bãi cạn Scaborough và đặt hệ thống rađa tại đây để thiết lập một ADIZ, từ đó củng cố hơn tuyên bố rằng họ có quyền kiểm soát và giám sát toàn bộ Biển Đông”.

Greg Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, lại cho rằng với khoảng cách khá gần từ Bãi cạn Scaborough tới các căn cứ quân sự tại Philippines cũng như thủ đô Manila hay Đài Loan, sự hiện diện về mặt quân sự tại đây sẽ giúp ích rất nhiều cho các hoạt động thu thập thông tin tình báo và giám sát hàng hải của Trung Quốc. Ông nói: “Bên cạnh các mục tiêu quân sự... Trung Quốc có lợi ích chính trị khi thiết lập quyền kiểm soát cả vùng trời và vùng biển trong phạm vi đường 9 đoạn, cả trong thời bình và thời chiến”.

Năm 2012, Manila đã đệ đơn kiện Bắc Kinh lên Tòa Trọng tài, và phán quyết được tuyên vào tháng 7/2016 phủ nhận các tuyên bố và yêu sách về chủ quyền, cũng như quyền lịch sử của Trung Quốc, khẳng định Trung Quốc đã xâm phạm quyền của Philippines tại vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia này, bao gồm cả khu vực Bãi cạn Scaborough. Trước khi phán quyết được Tòa Trọng tài tuyên bố, Mỹ phát hiện rằng Trung Quốc đã sẵn sàng cho các hoạt động cải tạo trong khu vực, và Tổng thống Barack Obama từng cảnh báo Chủ tịch Tập Cận Bình về những hậu quả có thể xảy ra nếu nước này tiếp tục tham vọng của mình. Lầu Năm Góc đã gia tăng các hoạt động trong khu vực để răn đe Trung Quốc.

Căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines sau phán quyết đã hạ nhiệt. Tổng thống Rodrigo Duterte, người lên nắm quyền vào tháng 7/2016, theo đuổi chính sách hòa giải trong quan hệ với Bắc Kinh. Tuy nhiên, vào tháng 2/2017, Manila cho biết Trung Quốc đang tìm cách xây dựng tại bãi cạn này, hành động mà Philippines cho là “không thể chấp nhận được”. Một tháng sau, giới chức Trung Quốc vội vã tìm cách phủ nhận những bình luận của một quan chức về hoạt động xây dựng ở Bãi cạn Scaborough, làm dấy lên nhiều câu hỏi về kế hoạch của Bắc Kinh.

Gần đây, giới chức Philippines đã cảnh báo Trung Quốc về những giới hạn ở Scarborough. Ngoại trưởng Alan Peter Cayetano phát biểu hồi tháng 5/2018: "Giới hạn đỏ của chúng tôi là họ không thể xây dựng ở Scaborough”. Theo nhà ngoại giao này, hai giới hạn đỏ khác mà Manila đặt ra là những hành vi của Trung Quốc nhằm vào lực lượng quân đội Philippines tại Bãi Cỏ Mây (Second Thomas) ở quần đảo Trường Sa và các hành vi đơn phương khai thác khoáng sản trong khu vực. Ông cho biết Trung Quốc đã nắm được lập trường của Philippines và thực tế Bắc Kinh cũng có những “giới hạn đỏ” trong khu vực.

Tháng 7 vừa qua, quyền Chánh án Tòa án Tối cao Philippines Antonio Carpio cho rằng Manila cần yêu cầu Mỹ coi Scarborough là khu vục “giới hạn đỏ chính thức”, thừa nhận đây là lãnh thổ hợp pháp của Philippines theo Hiệp ước Phòng thủ chung, với điều kiện ràng buộc là phải hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp bị tấn công. Nhà nghiên cứu Poling bình luận: “Có tin cho rằng đích thân Tổng thống Duterte từng nói rằng việc Trung Quốc xây dựng một hạ tầng kiên cố ở Bãi cạn Scaborough sẽ bị xem là vượt qua giới hạn đỏ của Philippines”. Theo ông, “lựa chọn thực tế duy nhất” mà Philippines có để ngăn Trung Quốc hiện thực hóa mục tiêu này là tận dụng hiệp ước quốc phòng với Mỹ. Ông cho rằng không rõ những điều khoản của hiệp ước có thể được áp dụng với Bãi cạn Scaborough hay không, song “hiệp ước rõ ràng có hiệu lực trong trường hợp lực lượng vũ trang hay tàu của Philippines bị tấn công ở bất cứ đâu tại Thái Bình Dương. Vì vậy Manila có thể đưa tàu Hải quân hoặc của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển tới đối phó với các hoạt động của Trung Quốc ở Scarborough … và sau đó đề nghị Mỹ can thiệp nếu Trung Quốc dùng vũ lực”. Ông cho rằng điều này có thể buộc Trung Quốc phải lùi bước.

Cuối tháng 8/2018, cựu sỹ quan Hải quân Mỹ Clark từng nhận định rằng dù Trung Quốc đã kiềm chế các kế hoạch xây dựng tại Bãi cạn, “song họ vẫn duy trì tàu quanh khu vực và chờ thời cơ… Tôi cũng không ngạc nhiên nếu Trung Quốc tái khởi động dự án này vào năm tới… để thăm dò phản ứng của Mỹ và xem xem liệu Washington đã từ bỏ (những đe dọa) hay chưa”. Diễn biến này chắc chắn sẽ buộc Mỹ và Philippines phải hành động. Ông Clark nói: “Nếu Trung Quốc có thể bắt đầu xây dựng một hòn đảo nhân tạo tại đây và lắp đặt các hệ thống vũ khí trên đó mà không vấp phải sự phản đối của Philippines … thì mọi chuyện sẽ kết thúc. Trung Quốc sẽ càng phấn khích với tuyên bố rằng Biển Đông là thuộc về họ”.

Theo “Business insider
Vũ Hiền (gt)

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/7093-nhung-gioi-han-do-o-bien-dong
0

Trung Quốc sẽ làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu

Trên thực tế, Trung Quốc đã không thoát khỏi sự sụp đổ năm 2008. Họ chỉ trì hoãn nó – cho đến hiện nay. Do đó, dường như Bắc Kinh đang làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu một lần nữa. Lần nay, nạn nhân lớn nhất sẽ là Trung Quốc.


Bắc Kinh sẵn sàng đẩy thế giới vào một cuộc suy thoái khác.

Nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn, tiền tệ và các thị trường của nước này, phản ánh tình trạng bất ổn, đang xáo trộn. Tập Cận Bình không có giải pháp nào. Điều duy nhất ông đang làm là gánh thêm nợ nần.

Đó là điều cực kỳ đáng tiếc vì một Bắc Kinh mắc nợ quá nhiều một lần nữa bắt đầu đẩy thế giới vào suy thoái. Thông qua các chính sách trục lợi, Trung Quốc đã đẩy nhanh cuộc suy thoái toàn cầu vào thập kỷ trước, và dường như họ cũng sẽ gây ra cuộc suy thoái tiếp theo.

Lần trước, người Trung Quốc đã hưởng lợi rất lớn từ sự khốn khổ của toàn thế giới. Lần này, họ sẽ không may mắn như vậy và gần như chắc chắn sẽ trở thành những nạn nhân lớn nhất.

Nhìn bề ngoài, nền kinh tế của Trung Quốc trông có vẻ tốt đẹp. Ngày 16/7, Cục thống kê quốc gia báo cáo rằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng 6,7% trong Quý II năm 2018, giảm từ mức 6,8% trong Quý I nhưng phù hợp với kỳ vọng.

Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc không phải là vấn đề, bất kể được báo cáo thế nào. Nước này có một vấn đề căn bản: họ đang nhanh chóng mắc nợ. Nước này đang chịu số nợ có thể gấp 1,5 lần GDP danh nghĩa họ tạo ra – nếu những số liệu GDP chính thức là chính xác.

Tuy nhiên, chúng lại không chính xác. Cục thống kê quốc gia đã báo cáo số liệu GDP ở mức ổn định, điều sẽ là cực kỳ bất thường trong một nền kinh tế hoàn thiện đầy đủ, chưa kể đến một nước đang phát triển như Trung Quốc.

Do đó, bề ngoài, những số liệu của Bắc Kinh là đáng ngờ. Lấy ví dụ năm 2016, Bắc Kinh tuyên bố đạt tỷ lệ tăng trưởng là 6,7%. Giữa năm 2017, Ngân hàng thế giới (WB), đã công bố một biểu đồ cho thấy vào năm 2016, GDP của Trung Quốc tăng 1,1%.

Con số 1,1%, vốn khiến nhiều người bất ngờ, phù hợp với tổng chỉ số chính xác duy nhất đánh giá hoạt động kinh tế của Trung Quốc, tổng lượng tiêu thụ năng lượng chính. Theo các số liệu chính thức, vào năm 2016, tổng lượng tiêu thụ năng lượng chính tăng 1,4%.

Năm 2017, nền kinh tế đã tăng tốc – tiêu thụ năng lượng tăng lên 2,9% - nhưng GDP không thể tăng trưởng ở mức đã công bố là 6,9%.

Mức tăng trưởng thấp làm nổi bật vấn đề dai dẳng của Bắc Kinh: không nền kinh tế nào có thể tiếp tục vô hạn định tạo ra nợ nhanh hơn tạo ra GDP, đặc biệt với tốc độ của Trung Quốc. Ở một thời điểm nào đó, như các nhà kinh tế học sẽ nói, phải có một sự “điều chỉnh”, và một “cuộc khủng hoảng” như phần còn lại trong số chúng ta sẽ mô tả nó. Hơn nữa, sự điều chỉnh, hay cuộc khủng hoảng, phải thật lớn vì nó đã bị trì hoãn quá lâu. Bắc Kinh đã trì hoãn những sự điều chỉnh kể từ cuộc suy thoái năm 2008 có lẽ là với thời kỳ cho vay-chi tiêu lớn nhất trong lịch sử. Trong 5 năm bắt đầu vào năm 2009, các ngân hàng của Trung Quốc đã mở rộng nhiều khoản tín dụng gần tương đương với số tín dụng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng của Mỹ, mặc dù vào cuối năm 2008, nền kinh tế Trung Quốc chưa bằng 1/3 quy mô nền kinh tế Mỹ. Hoạt động này tiếp tục diễn ra kể từ cuối nửa thập kỷ đó.

Kết quả là nền kinh tế Trung Quốc trở nên mất cân bằng, những sự mất cân bằng đó trở nên có tính đe dọa, và đất nước này đã tích lũy số nợ đáng kể. Theo Bloomberg, năm 2008, tỷ lệ nợ so với GDP của Trung Quốc, một thước đo tiêu chuẩn cho tính bền vững của nợ, là 141%. Con số đó vốn đã gây lo ngại, nhưng tình hình còn nhanh chóng trở nên xấu đi kể từ đó. Bloomberg cho biết tỷ lệ này đã tăng vọt lên đến 256% vào giữa năm 2017.

Con số này chắc chắn còn cao hơn, đặc biệt là khi tính đến cái gọi là “nợ bí mật” trong hệ thống “ngân hàng ngầm”. Andrew Collier đến từ Trung tâm nghiên cứu Orient Capital có trụ sở tại Hong Kong nói rằng các ngân hàng ngầm quản lý “gần một nửa tổng số tiền ở Trung Quốc”. Tính đến tất cả các khoản nợ này, Collier tin rằng tỷ lệ nợ so với GDP của nước này là khoảng 400%. Một tỷ lệ phần trăm kiểu như vậy cho thấy gánh nặng nợ nần của nước này là vô cùng nặng nề.

Món nợ nặng nề của Trung Quốc là một trở ngại cho tăng trưởng, đặc biệt là vì nhiều khoản đầu tư được thực hiện với những khoản vay này không có hiệu quả. Một số không hiệu quả vì chúng bị hiểu sai hoàn toàn và sẽ vẫn như vậy hoặc vì chúng sẽ chỉ có hiệu quả trong tương lai. Dù thế nào, những khoản đầu tư đó cũng gây ra một vấn đề của hiện tại. Các nhà kỹ trị Trung Quốc có thể làm nhiều điều, nhưng như Fraser Howie, đồng tác giả của cuốn sách “Chủ nghĩa tư bản đỏ: Nền tảng tài chính mong manh của sự trỗi dậy phi thường của Trung Quốc”, nói với tác giả vào tháng 6: “Điều họ không thể làm là biến những khoản đầu tư ngu ngốc trở thành tốt đẹp”.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tìm cách loại bỏ những vấn đề này bằng cách mắc thêm nợ. Thủ thuật đó đã có tác dụng vào cuối những năm 1990, nhưng khối nợ tích lũy giờ đây trở nên nặng nề đến mức làm chậm tăng trưởng và làm lung lay niềm tin.

Trong số những điều khác, những quan ngại về kinh tế đã dẫn đến tình trạng thoái vốn ồ ạt vào năm 2015 và năm 2016, khi theo những ước tính chính xác nhất, dòng chảy vốn ròng ra ngoài vượt mức 2000 tỷ USD. Bắc Kinh đã ngăn chặn dòng chảy ra ngoài, nhưng chỉ bằng những biện pháp kiểm soát vốn hà khắc, chỉ một vài trong số đó được công bố chính thức.

Bất chấp thành công trong việc ngăn dòng vốn chảy ra ngoài, vẫn còn những mối lo ngại. Tháng 10/2017, Chu Tiểu Xuân, khi vẫn là người đứng đầu Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, công khai nêu lên khả năng rằng Trung Quốc sẽ gánh chịu “thời điểm Minsky”, thời điểm mà các giá trị tài sản sụp đổ. Đây cũng là nỗi lo lắng của người dân Trung Quốc, những người rõ ràng nghĩ rằng điều gì đó tồi tệ đang đến. Hết khảo sát này đến khảo sát khác cho thấy 1/3 đến 1/2 người giàu Trung Quốc lên kế hoạch rời khỏi đất nước của họ trong trung hạn.

Như những bình luận khác thường của Chu Tiểu Xuân chỉ ra, tình hình của Bắc Kinh vẫn nghiêm trọng. Michael Pettis đến từ Đại học Bắc Kinh đã chỉ ra trong các bình luận tại Diễn đàn Thịnh vượng toàn cầu vào tháng 12/2017 rằng sự khác biệt giữa tình hình Trung Quốc hiện nay và các cuộc khủng hoảng nợ trước đây ở những nước khác là trong các cuộc khủng hoảng trước đó, những sự mất cân bằng về kinh tế không “sâu sắc” và nợ không ở mức “cao” như vậy.

Trung Quốc có thể tránh được tình trạng mất cân bằng và nợ nần lâu hơn các nước khác. Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ mọi thứ từ người đi vay, người cho vay, các thị trường đến tòa án. Tuy nhiên, nền kinh tế không thể tránh khỏi thời điểm then chốt đó khi một sự điều chỉnh diễn ra.

Tại sao? Donald Trump xuất hiện. Cho dù người ta nghĩ Tổng thống Trump bắt đầu một cuộc chiến tranh thương mại hay chỉ phản ứng với cuộc chiến mà Trung Quốc khởi xướng – tác giả bỏ phiếu cho cách hiểu thứ hai – thì ông cũng đang thực hiện những hành động tấn công nền kinh tế Trung Quốc và làm lung lay niềm tin.

Sau một làn sóng mạnh mẽ ban đầu do hoạt động tuyên truyền tạo ra, các học giả và nhà phân tích Trung Quốc đang bắt đầu hiểu ra rằng “chiến tranh thương mại” là một cuộc tranh đấu lâu dài mà đất nước họ không thể duy trì.

Tại sao? Trump nói về các khoản thâm hụt thương mại, nhưng những hành động của chính quyền ông lại tập trung vào công nghệ. Một cuộc cạnh tranh về công nghệ, hơn cả một cuộc chiến tranh thương mại, trông giống như một cuộc tranh đấu cho tương lai. Như Thomas Friedman của tờ New York Times đã viết vào đầu tháng 5, đây không phải cuộc chiến về các loại thuế hay thậm chí là về thương mại; đây là cuộc chiến cho tương lai. Kết luận của Friedman không phải là phân tích của riêng ông mà là những quan điểm từ các nguồn của Trung Quốc. Nhiều người ở Trung Quốc nhìn nhận điều này là, hoặc gần như là, một cuộc tranh đấu để tồn tại. Đúng lúc đó, người Mỹ cũng sẽ nhìn nhận giống như vậy.

Trong bất kỳ tình huống nào, những hành động của Trump cũng đang gây áp lực mạnh mẽ đối với nền kinh tế Trung Quốc. Anne Stevenson-Yang, đồng sáng lập Trung tâm nghiên cứu J Capital có trụ sở tại Bắc Kinh, nói với tờ National Interest: “Tôi thực sự tin rằng quyết tâm của Trump cắt giảm lượng đồng USD đang lưu thông sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng cho Trung Quốc, như anh có thể thấy từ lợi suất trái phiếu hiện nay, thị trường chứng khoán A-share (cổ phiếu niêm yết trên sàn Thượng Hải và sàn Thâm Quyến, định giá bằng đồng nhân dân tệ - ND), và giá trị đồng nhân dân tệ. Đây không phải là ý định của Trump mà là một tác động của việc tăng lãi suất, phần nào là chức năng của việc cắt giảm thuế, vì việc vay quá nhiều tiền làm tăng lãi suất, cộng thêm vào điều hẳn sẽ là một sự suy giảm trong thương mại của Mỹ. Lý do giải thích tại sao điều này có thể châm ngòi cho cuộc khủng hoảng nợ đã được dự đoán từ lâu là nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào doanh thu bằng đồng USD để hỗ trợ cho việc mở rộng cung ứng tiền tệ. Không có nó, họ chỉ có thể in thêm tiền, và điều đó gây ra lạm phát”.

Các nhà kỹ trị Trung Quốc có thể đang tiếp cận đến những giới hạn xa hơn của những gì họ có thể in ra để duy trì hoạt động nền kinh tế. Cuối năm 2017, M2 của Trung Quốc, thước đo tiền tệ lưu hành rộng lớn (gồm tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm – ND) đã lên đến 25.980 tỷ USD, chiếm 202,3% GDP năm 2017. Trong khi đó, M2 của Mỹ vào thời điểm đó là 13.820 tỷ USD, chỉ bằng 71,8% GDP.

Trump đang cắt giảm dòng chảy tiền tệ ngay khi Bắc Kinh cần nó nhất. Trong vài tuần gần đây, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, một ngân hàng thuộc trung ương, đã vội vàng bổ sung thêm tiền mặt. Như Collier nói với tờ The National Interest, nhìn chung các quan chức Trung Quốc nghĩ rằng tình trạng siết chặt gần đây đã đi quá xa và họ cũng đã tìm cách “đối phó với tác động của một cuộc chiến tranh thương mại đối với nền kinh tế”.

Và Trung Quốc, một nước có thặng dư thương mại, đặc biệt dễ bị tổn thương trước một cuộc chiến tranh thương mại. Ngân hàng thế giới ước tính rằng xuất khẩu chiếm 19,8% GDP năm 2017 của Trung Quốc.

Collier không mong đợi một cuộc khủng hoảng tài chính của Trung Quốc, nhưng động thái trong ngắn hạn là bổ sung tín dụng sẽ dẫn đến việc có “thêm các dự án tồi tệ” và do đó là “một nền kinh tế cơ sở yếu kém hơn”.

Bắc Kinh đang trong tình thế khó khăn. Việc bổ sung tín dụng sẽ kích thích nền kinh tế và kiềm chế làn sóng vỡ nợ trái phiếu đang diễn ra. Tuy nhiên, thêm tín dụng sẽ làm suy yếu đồng nhân dân tệ, vốn đã giảm 3,25% so với USD vào tháng 6 và đang tiếp tục sụt giảm. Đồng nhân dân tệ yếu kém hơn dẫn đến dòng vốn chảy ra ngoài.

Đồng thời, Ngân hàng dự trữ liên bang đang tăng lãi suất. Mức lãi suất cao hơn của Mỹ có xu hướng dẫn đến dòng tiền ra khỏi Trung Quốc và vào Mỹ. Đầm lầy mà Trump đang rút cạn chính là Trung Quốc.

Và những hành động của Trump trong lĩnh vực thương mại, cùng với phản ứng của Bắc Kinh, sẽ dẫn đến suy giảm xuất khẩu, do đó sụt giảm lợi nhuận từ xuất khẩu.

Như Stevenson-Yang nói với tác giả, chẳng bao lâu nữa, Bắc Kinh sẽ ở vào vị trí mà họ có thể không có khả năng kiềm chế tình hình. Trong những tháng gần đây, họ đã bảo vệ tiền tệ của mình bằng cách bán đồng USD, và Trung Quốc có lượng dự trữ lớn. Tuy nhiên, số tiền dự trữ đó – chính thức công bố là 3.110 tỷ USD vào cuối tháng 6 – chắc chắn không lớn hay có tính luân chuyển như đã được khẳng định, do đó rốt cuộc chúng có thể tỏ ra không đủ lớn để ngăn chặn tình trạng hoảng loạn.

Bắc Kinh đã kiềm chế được tình hình vào năm 2008. Họ đã kích thích nền kinh tế để tránh một cuộc khủng hoảng do họ tạo ra. Nhiều người nói rằng quy định lỏng lẻo ở Mỹ đã dẫn đến suy thoái toàn cầu, nhưng những người có óc tò mò có thể muốn hỏi lý do tại sao quy định lại thất bại ở một đất nước vốn được biết đến là có hệ thống quy định chặt chẽ.

Câu trả lời là quy định của Mỹ - và các nhà lập pháp - bị lấn át bởi xu hướng thanh khoản toàn cầu. Xu hướng đó là kết quả trực tiếp của việc Trung Quốc, thông qua các chính sách trọng thương, tích lũy thặng dư thương mại và thông qua các chính sách khác giữ phần lớn số tiền mặt có được nhờ đó khỏi tay của người dân Trung Quốc.

Bắc Kinh đã đầu tư những khoản thặng dư đó vào khoản nợ của Mỹ, và do đó, thanh khoản đã tràn ngập Mỹ. Giống như ở Trung Quốc hiện nay, quá nhiều khả năng thanh khoản trở thành các khoản đầu tư không hiệu quả. Trong một giai đoạn “sôi nổi vô lý” – thuật ngữ được cựu Chủ tịch Ngân hàng dự trữ liên bang Alan Greenspan phổ cập – hầu hết tất cả mọi người đều trở nên choáng váng, giống như các nhà đầu tư đã từng trải qua vào những năm 1920.

Mỹ là nước đầu tiên chịu thiệt hại trong cuộc đại suy thoái gần đây nhất. Trong cuộc suy thoái tiếp theo, sẽ đến lượt Trung Quốc. Sau một thập kỷ với các khoản đầu tư yếu kém và kích thích quá mức, Bắc Kinh sẽ không thể né tránh khủng hoảng.

Trên thực tế, Trung Quốc đã không thoát khỏi sự sụp đổ năm 2008. Họ chỉ trì hoãn nó – cho đến hiện nay.

Do đó, dường như Bắc Kinh đang làm suy yếu nền kinh tế toàn cầu một lần nữa. Lần nay, nạn nhân lớn nhất sẽ là Trung Quốc.

Gordon G. Chang là tác giả cuốn “Trung Quốc sắp sụp đổ”. Bài viết được đăng trên The National Interest.

Văn Cường (gt)
0