Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2019

Cuộc gặp kỳ lạ của Trần Hưng Đạo với sứ giả Sài Thung

Trong cuộc tiếp đón viên sứ Sài Thung của nhà Nguyên, Hưng Đạo Vương đã ngồi yên cho kẻ thù chọc đầu đến chảy máu mà không hề thay đổi nét mặt.


Trước mặt Sài Thung, Hưng Đạo Vương ngồi xuống pha trà và cùng uống với hắn. Về sau, người hầu của Thung nhận ra ông, cầm mũi tên chọc vào đầu Trần Quốc Tuấn đến chảy máu, sắc mặt ông vẫn không hề thay đổi.

Khi về, Sài Thung ra tận cửa tiễn ông. Toàn bộ chuyện này đã được sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại.

Ngồi yên cho kẻ thù chọc thủng đầu

Năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông qua đời, vua Trần Thánh Tông nhường ngôi lại cho Hoàng thái tử Trần Khâm, tức vua Trần Nhân Tông.

Biết tin, Hốt Tất Liệt sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung dẫn sứ đoàn sang Đại Việt trách móc việc vua mới lập mà không “xin mệnh” của Nguyên triều.

Khi tiến vào biên giới nước ta, Sài Thung dẫn theo vệ binh rầm rộ, đòi triều đình Đại Việt phải phái người lên tận biên tiếp giới đón.

Trước sự ngạo mạn đó, vua Trần Nhân Tông gửi thư có ý trách móc: “Nay nghe quốc công đến biên giới tôi, biên dân không ai là không lo sợ, không biết sứ nước nào mà đến lối đó, xin đem quân về đường cũ mà đi”. Sài Thung không đồng ý lại hạch sách đủ điều.

Vào tới nước ta, Sài Thung rất ngạo mạn, vô lễ. Y cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại. Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu.

Đến điện Tập Hiền, thấy giăng đầy màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Thượng tướng Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp, Thung vẫn nằm khểnh trong nhà không ra. Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không thèm ngồi dậy tiếp.

Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế liền tâu với vua Trần xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Trước khi đi, Trần Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào phòng. Thung đứng dậy, vái chào và mời ngồi.

Mọi người đều kinh ngạc, bởi cứ ngỡ người gọt tóc, mặc áo vải này là nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà và cùng uống với hắn.

Về sau, người hầu của Thung nhận ra ông, hắn cầm cái tên chọc vào đầu Trần Quốc Tuấn đến chảy máu, nhưng sắc mặt Hưng Đạo Vương không hề thay đổi. Khi về, Sài Thung ra tận cửa tiễn ông.

Trần Hưng Đạo và triết lý đánh giặc

Sau cuộc gặp gỡ đó, nhà Nguyên kéo quân sang xâm lược nước ta, dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, quân và dân Đại Việt đã đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược.

Bàn về nghệ thuật quân sự đánh bại quân Mông Cổ, Hưng Đạo Vương đã viết trong Binh thư yếu lược rằng: “Người giỏi thắng không cần thắng nhiều lần, mà cần toàn thắng, đảm bảo thắng”.

Đó chính là tư tưởng cốt lõi trong phép dùng binh của ông. Nghĩa là thắng trận cuối cùng mới là quan trọng nhất. Trong cuộc kháng chiến quân Nguyên Mông, ông đã tiến hành phương thức tác chiến rất đặc biệt.

Ông chủ trương chuyển từ trực tiếp đối đầu với khí thế hung hãn của quân Nguyên, sang tránh chỗ mạnh, tấn công vào chỗ yếu của địch. Sau những cuộc chiến ban đầu, ông hiểu rằng đối đầu ngay tức thì không phải chiến thuật hữu dụng trong tình huống này vì những đội quân muốn đánh nhanh thắng nhanh thường có nhược điểm chí tử, đó là công tác hậu cần.

Khi quân địch mới vào nước ta, tinh thần chúng rất mạnh, ông cùng hai vua Trần lui về Vạn Kiếp. Giặc truy kích đến Vạn Kiếp, Vương lại đưa quân về Thăng Long. Giặc đuổi theo đến Thăng Long, ông rút về Thiên Trường (Nam Định). Cứ thế, quân ta tránh đụng độ với giặc trong nhiều tháng.

Thay vì tiến hành những cuộc tiến công trực diện ít có cơ hội chiến thắng, đánh vào điểm yếu này của địch sẽ là cách tốt nhất lấy đi sức mạnh của chúng. Áp dụng chiến lược lui binh, ông khiến cho địch không thể đánh theo cách đánh của chúng, nói theo cách khác, ông chủ động kéo dài cuộc chiến đấu. Khi đó, thiếu lương thực, địch tự làm chúng suy yếu.

Chẳng thế mà khi quân Mông Cổ tiến vào kinh thành Thăng Long, thấy thành bỏ trống, không có một bóng người, do Trần Hưng Đạo đã thực hiện kế “thanh dã” – vườn không nhà trống trước đó, chúng đã điên lên.

Nắm được chìa khoá tiêu diệt địch, khi quân Nguyên lần thứ ba đưa quân sang xâm lược Đại Việt (1287-1288), Trần Hưng Đạo đã tự tin tâu với vua Trần “năm nay đánh giặc nhàn”.

Sau khi Trần Khánh Dư tiêu diệt đội binh lương của quân địch tại Vân Đồn, quân địch lại rơi đúng vào tình huống ngặt nghèo về lương thảo, đã từ thế chủ động tấn công sang tình trạng dần mất phương hướng và rơi vào thế trận chiến tranh nhân dân của ta.

Bàn về sức mạnh của nhân dân, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã viết rằng: “Hình dáng trận như chữ nhân, tiến cũng là chữ nhân, thoái cũng là chữ nhân, họp lại cộng làm một người, tan ra cũng làm một người, một người làm một trận, nghìn muôn người hợp làm một trận, nghìn muôn người động làm một trận”.

Theo NGUYỄN THANH ĐIỆP / TRI THỨC TRỰC TUYẾN
0

Thứ Tư, 3 tháng 7, 2019

Chuyện lạ về vị quan sống qua 13 đời vua Nguyễn, đi thi năm 82 tuổi

Sinh vào năm Gia Long 17 và mất năm Bảo Đại thứ 4, Đoàn Tử Quang có lẽ là người duy nhất đã sống qua hết triều Nguyễn.



Thí sinh “cổ lai hy”

Nền thi cử khoa bảng gần 1.000 năm ở nước ta có không ít những thí sinh đỗ đạt khi tuổi đã tứ tuần, ngũ tuần. Tuy nhiên, ở tuổi 82 mà còn đi thi thì chỉ có mình ông Đoàn Tử Quang mà thôi. Ông sinh năm 1818, triều vua Gia Long thứ 17, người làng Phụng Đạt, xã Phụng Công – Hương Sơn, nay là xã Đức Hòa và Đức Lạc, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh.

Đoàn Tử Quang là con thứ hai của ông Đoàn Nhuyện (có biệt hiệu là Liệt Giang cư sĩ) và bà Lê Thị Nậm. Chồng mất khi mới 20 tuổi nhưng bà Nậm nhất quyết không đi bước nữa mà ở nhà thờ chồng và dạy dỗ con trẻ nên được tiếng tốt và được vua ban cho tấm biển “Tiết hạnh khả phong”.

Từ nhỏ đã được mẹ khuyến khích học hành, theo đuổi khoa cử để lập công danh nên Đoàn Tử Quang rất chăm chỉ học tập. Chăm chỉ lại sáng dạ nên Đoàn Tử Quang học rất giỏi. Dù vậy, như câu thành ngữ “học tài thi phận”, ông thi nhiều lần mà chẳng đỗ. Cho đến tận lúc tuổi già ông chỉ 2 lần đỗ tú tài: một lần năm ông 49 tuổi và một lần năm 66 tuổi.

Năm 1900, triều đình lại tổ chức khoa thi. Trước đó mấy tháng, vợ cả của Đoàn Tử Quang mất. Hai người con trai của Tử Quang đều là sĩ tử, đã vượt qua khảo hạch nhưng theo luật lệ lúc ấy, họ phải để tang mẹ, không được thi. Bà Lê Thị Nậm lúc này đã 98 tuổi vẫn áy náy trong lòng vì con cháu mình học hành đến nơi đến chốn mà chưa ai đỗ đạt cho rạng mặt cha ông. Dịp này vì việc gia đình, hai đứa cháu lại phải bỏ lỡ một kỳ thi Hương thật là đáng tiếc.

Con cái phải để tang mẹ đã đành còn chồng thì lễ giáo vẫn cho phép dự thi kia mà. Nghĩ vậy, bà cụ hết sức động viên con trai mình là ông Đoàn Tử Quang – lúc này đã 82 tuổi, lều chõng đi thi. Biết chuyện, bà con hàng xóm cùng họ hàng thân thích cũng ra sức cổ vũ, khuyên nhủ ông Quang bớt sầu não, xếp việc riêng tư để đi thi, thử tranh đua với thiên hạ phen nữa, may ra đỗ đạt cho thỏa lòng mong mỏi của mẹ bấy lâu mà cũng rạng rỡ tổ tông. Vâng lời mẹ, Đoàn Tử Quang lại lều chõng đi thi phen nữa.

Cả trường thi ngạc nhiên

Chuyến lều chõng của Đoàn Tử Quang năm 1900 được chép khá rõ trong cuốn Chuyện thi cử và lập nghiệp của học trò xưa của tác giả Quốc Chấn (Nxb Thanh Hóa). Chuyện kể rằng, khoa thi Hương ở trường Nghệ An năm Thành Thái thứ 12 (1900), các quan giám khảo thấy Đoàn Tử Quang râu tóc bạc phơ, hỏi tuổi đã bát thập mà vẫn nuôi chí học hành thi cử thì đều cho là chuyện lạ hiếm thấy và tỏ lòng bái phục. Nhưng ai cũng ái ngại cho ông lão, sợ ông ta trí óc già nua lú lẫn khó làm nổi bài thi.

Chánh chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh chứng kiến việc này và đã viết bài ký: “Nghệ trường giai sư” (việc đáng nói ở trường thi Nghệ An) kể về quá trình thi cử của cụ Đoàn Tử Quang: “Vào thi, ông Đoàn cũng mang ống quyển, hạ lều, trải chiếu và ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh ở vị trí của mình theo đúng qui định một cách nhanh nhẹn không thua kém gì thí sinh trẻ tuổi.

Có người cho rằng ông Đoàn khó qua nổi vòng thi đầu tiên, vì ở cái tuổi đại thọ như ông rất dễ quên hoặc nhầm lẫn không viết tránh các tên húy theo quy định. Tuy vậy đến kỳ phúc hạch, còn lại 35 người trong đó có ông Đoàn. Lần này các quan trường lại cho là văn sách thơ phú ông không nhớ được nhiều, chữ viết tay run e rằng khó tránh nghiêng ngả, đậm nhạt không đúng kiểu. Nhưng thí sinh 82 tuổi này một lần nữa lại làm các quan trường ngạc nhiên khi khớp phách thấy bài của ông được chấm ưu về kinh nghĩa, thơ phú và loại thứ về văn sách. Chữ không hề run mà còn rõ ràng hơn nhiều thí sinh khác”.

Qua 4 kỳ thi, Đoàn Tử Quang đạt kết quả 2 ưu, 2 thứ, kém thủ khoa Phan Bội Châu 1 ưu. Đáng lẽ Đoàn Tử Quang được xếp Á nguyên nhưng khi xét trong quyển, nơi cộng các chỗ tẩy xóa, theo quy định, thí sinh phải viết 3 chữ “cộng quyển nội” rồi mới được kê ra từng lỗi, thì ông lại không viết. Lỗi này là lỗi phạm trường quy, theo luật phải đánh hỏng nhưng quan chánh chủ khảo cảm phục chí học hành của ông nên đã làm tờ tấu về triều xin cho ông đỗ nhưng chỉ xếp thứ 29 trong 30 người đỗ.

Một lần bổ dụng ngoại lệ

Vậy là ở tuổi 82, Đoàn Tử Quang đã đỗ đạt, thỏa ước muốn bình sinh. Theo quy định của triều đình nhà Nguyễn lúc ấy thì các quan lại đến tuổi 65 là nghỉ hưu nhưng riêng trường hợp Đoàn Tử Quang, lúc này đã 82 tuổi song vẫn được đặc cách bổ dụng làm Huấn đạo (chức quan phụ trách việc giáo dục 1 huyện ) ở Hương Sơn. Sau một thời gian, ông lại được đổi về làm Huấn đạo Can Lộc. Năm 85 tuổi, Tử Quang xin về nghỉ để phụng dưỡng mẹ già lúc này đã trên trăm tuổi.

Để bày tỏ sự khuyến khích học hành, triều Nguyễn đã đặc cách phong chức cho Đoàn Tử Quang ở tuổi 83. Đến năm ông 106 tuổi, mặc dù đã nghỉ hưu, triều đình vẫn thăng cho chức Hàn lâm viện thị độc – một chức quan cấp Bộ để tỏ lòng ưu ái cho người bền chí học hành.

Ngoài sự bền chí trong học hành thi cử, Đoàn Tử Quang còn là một trong những người đại thọ của nước ta. Ông mất năm 1928, hưởng thọ đúng 110. Năm ông mất là năm Bảo Đại thứ 4. Nếu chỉ tính về triều đại thì Đoàn Tử Quang đã sống dưới đủ 13 triều vua nhà Nguyễn. Đây quả là một sự hiếm thấy.

Theo KIẾN THỨC
0

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2019

Giai thoại về những lời sấm truyền linh ứng trong lịch sử Việt Nam

Thông qua những câu sấm truyền, nhiều nhân vật kỳ tài trong lịch sử Việt Nam đã tiên đoán chính xác những sự kiện diễn ra sau hàng thế kỷ.



Thiền sư Định Không giải đoán hậu vận đất nước

Thiền sư Định Không (?-808) xuất thân từ một dòng tộc quyền quý họ Nguyễn, ở hương Cổ Pháp, Bắc Ninh. Sử sách ghi lại rằng ông là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc biết đoán định tương lai.

Lời sấm truyền linh ứng sau 200 năm của ông về sự ra đời của nhà Lý vẫn còn được lưu lại đến nay, nội dung như sau:

Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Tính Lý hưng long
Tam phẩm thành công


Dịch ra tiếng Việt:

Hiện ra pháp khí
Mười khẩu chuông đồng
Họ Lý hưng long
Ba phẩm thành công


Trước khi qua đời, sư truyền lời tiên tri về hậu vận đất nước cho học trò như sau: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn”.

Hơn 60 năm sau, lời của ông đã linh ứng. Nhà Đường cử Tiết Độ Sứ Cao Biền sang cai trị, bóc lột nhân dân ta. Thâm độc hơn, chúng còn đến nhiều vùng đất, thế núi linh thiêng, nơi sẽ sinh người tài giỏi, trấn yểm triệt phá long mạch, trong đó có đất Cổ Pháp của sư Định Không. Một thế kỷ sau đó Đinh Tiên Hoàng (924 – 979) chấm dứt tình cảnh loạn lạc, sáng lập ra nhà Đinh và nước Đại Cồ Việt, mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ của người Việt.

Sau này, sự chấm dứt của triều Đinh (968 – 980) cũng ứng với một lời sấm không rõ tác giả, xuất hiện vào năm 974:

Đỗ Thích giết hai Đinh
Nhà Lê sinh thánh minh


6 năm sau, trong bữa tiệc tối, nhân lúc vua quan say rượu, hoạn quan Đỗ Thích đã giết vua và người con cả Đinh Liễn. Sau đó Lê Hoàn nắm quyền kiểm soát triều đình và trở thành hoàng đế, mở ra thời Tiền Lê. Dưới thời của ông đất nước được thịnh trị và giành chiến thắng vẻ vang trước cuộc xâm lược của nước Tống.

Thiền sư La Quý tiên đoán sự ra đời của Nhà Lý

Thiền sư La Quý (852 – 936) là người họ Đinh, cũng được lịch sử ghi nhận với khả năng tiên tri của mình. Tương truyền, trước khi qua đời ông đã trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Diên Uẩn và để lại những bài kệ:

Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh


Dịch là:

Đại sơn đầu rồng ngửng
Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên


Do những từ “thập bát tử” ở câu số 3 là chiết tự của chữ Lý, nghĩa là họ Lý, nên bài thơ được diễn giải như sau: Đầu rồng hiện ở núi lớn / đuôi rồng giấu sự thịnh vượng / Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/ chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột / chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh”. Điều này ứng với sự ra đời của nhà Lý vào tháng 11 (tháng chuột) năm Kỷ Dậu (năm gà) 1009.

Tài tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh

Thiền sư Vạn Hạnh (938 – 1025) là người họ Nguyễn, quê ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay). Ông là vị thiền sư có nhiều đóng góp trong việc mở ra nhà Lý đồng thời cũng là một nhà tiên tri.

Câu chuyện nổi tiếng nhất về khả năng tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh gắn liền với cây gạo do thiền sư La Quý trồng ở làng Diên Uẩn. Theo Đại Việt Sử Ký, vào năm 1009, cây gạo này đã bị sét đánh và hiện lên những dòng chữ như sau:

Thọ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình


Dịch là:

Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hoa đào rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cành khác lại sanh
Đông mặt trời mọc
Tây sao ẩn hình
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình


Sư Vạn Hạnh đã giải đoán rằng, trong câu “Thọ căn diễu diễu” chữ “căn” là gốc, gốc là vua, chữ “diễu” đồng âm với chữ yểu, nghĩa là nhà vua (Lê Long Đĩnh) sẽ chết yểu.

Trong câu “Mộc biểu thanh thanh” chữ “biểu” là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ “thanh” đồng âm với chữ thịnh, nghĩa là một người trong số quần thần sẽ lên nắm chính quyền.

Ở câu 3, chữ “hoa đào” ghép lại thành chữ “lê”, tức là nhà Lê sẽ sụp đổ. Ở câu 4, ba chữ “thập bát tử” ghép lại là chữ Lý, tức là nhà Lý sẽ lên ngôi.

Trong câu “Đông a nhập địa”, chữ “đông” và chữ “a” ghép thành chữ Trần, nói về sự kế tiếp của nhà Trần sau nhà Lý. Câu “Dị mộc tái sanh” nghĩa là một họ Lê khác (Lê Lợi và nhà Hậu Lê) sẽ lại nổi lên…

Qua lời sấm này, thiền sư Vạn Hạnh đã tiên đoán chính xác những diễn biến lịch sử của dân tộc trong khoảng 5 thế kỷ, từ thời Tiền Lê đến thời Hậu Lê.

Việc cây gạo bị sét đánh và hiện ra lời sấm cũng đã được thiền sư La Quý tiên đoán trước đó với câu “Miên thọ hiện long hình” (Bông gạo hiện long hình), câu thứ 4 trong bài kệ năm 936 của ông.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà tiên tri số một

Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), người mà dân gian quen là Trạng Trình là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông cũng được coi là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam với nhiều câu sấm được để lại và tập hợp trong Sấm Trạng Trình. Tác phẩm này đưa ra những lời tiên tri trong chiều dài nhiều thế kỷ, đến nay vẫn còn được tìm hiểu và luận giải.

Dưới đây là một số sự kiện xảy ra trong thế kỷ 20, theo các nhà nghiên cứu đã được Sấm Trạng Trình dự báo trước đó 5 thế kỷ.

Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được tiên tri trong câu:

Đầu Thu gà gáy xôn xao
Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long


Ở câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người.

Ở câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác đọc Tuyên ngôn độc lập trước hang vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 được tiên tri trong câu:

Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết Hoa tàn
Trực đáo Dương đầu Mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An


Câu 1, “cửu cửu” bằng 81 năm, khoảng thời gian từ khi triều đình Huế ký vào văn bản Hòa ước đầu hàng thực dân Pháp cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, theo “càn khôn dĩ định” hay quy luật đất trời.

Câu 2, “thanh minh thời tiết” là thời điểm tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ rơi vào tháng 3 Âm lịch, “hoa tàn” là sự thất bại của người Pháp (thời Nguyễn Bỉnh Khiêm thượng gọi ngoại quốc là Hoa Lang”.

Câu 3, “trực đáo” là thẳng tiến, “dương đầu” là đầu năm con dê 1955, “mã vĩ”, là cuối năm con ngựa 1954.

Câu 4, toàn câu có nghĩa rất rõ ràng: tám vạn quân Cụ Hồ tiếp quản Thủ đô Hà Nội (tên gọi cũ là Tràng An).

Ngoài các sự kiện lịch sử, thời khắc “trở lại” của Trạng Trình cũng được ông ghi rõ trong câu sấm truyền:

Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi
Sông Hàn nối lại thì tôi lại về


Đúng như lời sấm, vào năm 1991, tròn 500 năm ngày sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tiên Lãng bị xẻ đôi ra vì có công trình đào con sông để làm kênh thuỷ lợi. Cùng lúc ấy có cây cầu được xây dựng nối sông Hàn từ quê Vĩnh Bảo của ông sang Thái Bình. Cũng từ năm ấy trở đi, tên tuổi, danh tiếng, tài năng kiệt xuất của Trạng Trình được sống lại. Lễ kỷ niệm 500 năm ngày sinh của ông được tổ chức long trọng tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám…

Theo KIẾN THỨC
0

Chúa Nguyễn đã xây dựng đàn voi chiến hùng mạnh như thế nào?

Để có được những chiến binh khổng lồ áp đảo đối phương, các nhà quân sự phía Nam bấy giờ đã áp dụng nhiều phương pháp tuyển chọn voi chiến kỹ lưỡng và có phần tàn nhẫn.



Trong cuộc chiến tranh với vua Lê, chúa Trịnh (Đàng Ngoài), một mặt các chúa Nguyễn (Đàng Trong) tìm sự giúp đỡ của các giáo sĩ phương Tây, mặt khác chủ động củng cố lực lượng quân đội.

Ngoài pháo binh, voi chiến là nỗi khiếp sợ của quân sĩ phía Bắc. Để có được những chiến binh khổng lồ áp đảo đối phương, các nhà quân sự phía Nam bấy giờ đã áp dụng nhiều phương pháp tuyển chọn voi chiến kỹ lưỡng và có phần tàn nhẫn.

Voi chiến Đàng Trong

Voi chiến thời chúa Nguyễn có nhiều cách gọi khác nhau như: Con voi, Tàu voi, Mục tượng, Tượng khố, Thớt voi,… Trong phiên chế quân đội, voi chiến có vai trò quyết định trong các trận kịch chiến đánh giáp lá cà. Lực lượng voi chiến được tuyển lựa qua nhiều con đường khác nhau.

Ngoài số lượng voi được nuôi (không nhiều), số còn lại là chiến lợi phẩm thu được từ chiến tranh (với các nước láng giềng), một số khác là cống phẩm nhận được từ các nước lân bang và một số lượng khá lớn thông quan con đường mua bán, trao đổi với các dân tộc ít người trong và ngoài nước.

Một thương nhân người Hà Lan trong quá trình buôn bán ở Đàng trong thế kỷ XVII cho biết số lượng voi chiến thời chúa Nguyễn năm 1642 là 600 con. Với số voi chiến khiêm tốn này, các chúa Nguyễn đóng vai trò như một thủ lĩnh quân sự hơn là một lãnh tụ thiên về chính trị, họ cũng các tướng lĩnh đã dồn hết tâm sức cho việc huấn luyện, tuyển chọn voi chiến, từ đó tìm ra được những “thần tượng” cho cuộc chiến tranh triền miên giữa hai miền.

Tuyển chọn voi chiến

Các tài liệu lịch sử cho thấy chúa Nguyễn Phúc Chu đã trực tiếp tham gia quá trình thao diễn lựa chọn voi chiến sung vào quân đội. Chúa ngồi trên một con voi cao lớn nhất, xung quanh có lĩnh bảo vệ. Ở phía Tây có mười con voi, trên lưng mỗi con đặt một cỗ yên, hình cái hộc, trong đó lại có 3 lính cầm vũ khí và một lính cầm câu liêm ngồi trên ngà voi.

Phía Đông huy động 500 quân cầm vũ khí các loại và đuốc châm lửa. Lực lượng quân này đứng cách đàn voi chừng 1.000 bước. Khi cờ lệnh phất lên, ba quân cùng múa đao thương nhằm thẳng đàn voi mà xông tới, lúc này đàn voi vẫn đứng yên.

Sau khi dàn trống được đánh lên, những binh sĩ cầm câu liêm bổ vào đầu voi, bầy voi chạy thẳng về phía trước dượt đuổi những binh sĩ đang tấn công. Tuy nhiên, để tránh thương vong về người, các binh sĩ này đã dùng các người bằng rơm để dụ voi chiến ở một khoảng cách an toàn. Khi đã chạy sát hình nhân bằng rơm, voi dùng vòi quấn và siết mạnh, hạ gục đối thủ.

Trong lúc đó, voi nào chạy chậm sẽ bị binh sĩ dùng thương đâm, búa bổ vào người đến nỗi máu chảy, da đứt, nhiều con voi vì quá mệt và bị tấn công dữ dội đã ngã gục tại trận. Quá trình này giúp chúa Nguyễn tìm ra những thớt voi đủ sức mạnh và can đảm tham gia chiến trận, đồng thời loại bỏ những voi chưa đáp ứng yêu cầu.

Sau khi chọn lựa được các voi chiến phù hợp, những tướng lĩnh và voi vượt qua thử thách đều được thưởng. Trong khi diễn tập, mỗi voi đều có 50 lính trông coi.

Việc huấn luyện và tuyển chọn voi chiến của chúa Nguyễn để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các tướng lĩnh và triều đại sau. Cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung sở hữu 300 voi chiến đặt dưới quyền của nữ tướng Bùi Thị Xuân đã làm cho quân đội của Nguyễn Ánh nhiều phen hồi xiêu phách lạc. Đội tượng binh này mạnh đến mức Nguyễn Ánh phải đặt lệ thưởng 50 quan tiền và thăng một bậc quan nếu ai giết được một voi chiến của quân Tây Sơn.

Vai trò của voi chiến

Trong chiến trận, voi được sử dụng voi chiến như một pháo đài di động. Trên lưng voi, từ gác canh nhỏ, người lĩnh có thể quan sát được đối thủ di chuyển và tấn công như thế nào. Tại đây, binh sĩ có cung tên, súng hỏa mai, thậm chí đại bác cỡ nhỏ, voi chiến thừa sức khỏe để làm những việc này.

Trong một số trường hợp, người ta còn chứng kiến, một con voi sử dụng ngà để nâng một khẩu trọng pháo, một con khác cùng lúc hạ thủy cả 10 chiếc thuyền nhỏ.

Trong bảy lần chiến tranh (từ năm 1627 đến năm 1672), quân đội Đàng Trong đã 6 lần đẩy lùi sự xâm lấn của vua Lê, chúa Trịnh, để rồi cuối cùng phải giảng hòa, chọn sông Gianh phân đôi đất nước. Trong trận chiến thứ bảy năm 1672, chúa Nguyễn sử dụng voi chiến uy hiếp đối thủ, buộc quân Trịnh phải lui binh.

Khi hai quân đã áp sát nhau, chỉ còn cách dòng sông trước mắt, tướng Đàng Trong cho người đưa đoàn voi chiến gồm 60 con cùng binh lính khí giới chỉnh tề hành quân chậm rãi từ cửa Đông Bắc, sau đó đi vào cửa Tây Nam rồi vòng lại từ giờ Thìn đến giờ Ngọ. Quân Đàng Ngoài thấy voi đi ra mà không đi vào sinh nghi và dự đoán số voi của đối phương lên đến 5000-6000 nên không dám vượt sông.

Để phá tan sự ngờ vực này, tướng nhà Trịnh là Lê Thì Hiến cử sứ giả sang bờ Nam sông rò xét nội tình chúa Nguyễn. Đến bờ Nam nhận được câu trả lời số voi mà họ thấy chỉ là một phần số voi chiến của chúa Nguyễn đang đi dạo chơi mà thôi.

Số phận voi chiến trong thời bình

Sau cuộc chiến bất phân thắng bại với Đàng Ngoài, giữ được đất đai, dân cư, voi chiến của các chúa Nguyễn được nhàn hạ hơn. Ngoài các cuộc diễn tập quân sự hàng năm, số lượng voi chiến từng được tuyển lựa kỹ lưỡng được chúa Nguyễn bày ra trò cho voi chiến đấu với cọp (hổ quyền) làm thú vui.

Đỉnh điểm, vào năm 1750, chúa Nguyễn và các quan cùng đến cồn Dã Viên ở Huế (bên bờ sông Hương) để xem voi đấu với cọp. Trong trận tử chiến này, chỉ khi trải qua 40 trận chiến đấu và 18 con cọp bỏ mạng trên đấu trường, cuộc chiến mới dừng lại. Điều này càng khẳng định thêm sự dũng mãnh và sức mạnh vô địch của voi chiến.

Theo HELINO
0

Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2019

Những tiết lộ mới về chiến dịch đánh quân Thanh của hoàng đế Quang Trung

Những gì đã viết, đã ghi nhận còn rất nhiều lỗ hổng khiến đời sau không hoặc hiểu không hết về vị vua bách chiến bách thắng Quang Trung – Nguyễn Huệ


Những điều này nằm trong cuốn Việt – Thanh chiến dịch của tiến sĩ Nguyễn Duy Chính được Nhà xuất bản Văn Hóa Văn Nghệ ấn hành năm 2016.

Lâu nay, Phong trào Tây Sơn lịch sử chúng ta đã viết khá nhiều. Đặc biệt là chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi Việt Nam năm Kỷ Dậu 1789, một chiến thắng đã khiến cho kẻ thù e sợ.

Nhiều điều chưa biết

Thế nhưng, những gì đã viết, đã ghi nhận còn rất nhiều lỗ hổng khiến đời sau không hoặc hiểu không hết về vị vua bách chiến bách thắng nầy.

Những câu hỏi như quân đội Tây Sơn gồm những ai? Làm thế nào để Tây Sơn có một đội thủy quân mạnh? Các vị tướng của Quang Trung như các Đô đốc Lộc, Thủ, Tuyết, Thái sư Bảo… vì sao không có tiểu sử? Cách tiến quân thần tốc của Tây Sơn? Các phương tiện vận chuyển, vũ khí sử dụng, lương thực mang theo của quân Tây Sơn… vẫn chưa có lời giải thích hợp lý.

Và hầu hết những điều này được giải thích rõ hơn trong Việt – Thanh chiến dịch.

Việt – Thanh chiến dịch cho người đọc biết lực lượng của Tây Sơn là “đa tạp không thuần nhất” bao gồm “binh sĩ các vùng Thuận Hóa và Quảng Nam ở Đàng Trong, trong đó có một số đông người Thượng và người Hoa”.

Để bảo đảm đội binh nầy chiến đấu tốt và tuân lệnh chỉ huy tuyệt đối, Tây Sơn đã “áp dụng kỷ luật thép”.

Trước khi lên ngôi hoàng đế, vua Quang Trung đã công bố một sắc lệnh nói rõ rằng “nếu một sĩ quan hay binh lính nào phạm tội gì, các quan văn võ sẽ họp lại để xử họ và nếu họ đáng bị xử tử họ sẽ bị kết án tử hình”, đặc biệt là trường hợp “trốn bổn phận” sẽ bị “xử tử tức thì”.

Quân Tây Sơn sử dụng màu đỏ tía trong áo mặc và chỏm mũ. Quân đội gồm có bộ binh, tượng binh, thượng binh, thủy binh. Bộ binh chủ yếu là “thân binh Thuận Quảng” trang bị tối tân, rất kỷ luật gồm người Thuận Hóa, Quảng Nam, người Thượng và người Hoa.

Thượng binh hầu hết là người dân tộc thiểu số Tây Nguyên, Lào, Campuchia. Tượng binh đội binh quan trọng nhứt của Tây Sơn dùng để chở đại bác loại nhỏ, vũ khí, lương thực cũng do người dân tộc thiểu số điều khiển. Thủy binh bao gồm các ngư dân nghèo sống ven biển và hải khấu người Hoa.

“Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ (Quang Trung) được gọi là Đại Ca Việt Nam…”.

Đây là lực lượng đông đảo gồm hàng ngàn chiến thuyền, hàng vạn chiến binh có sẵn và sẵn sàng tham gia chiến đấu khi có lệnh.

Đủ loại vũ khí

Ngay khi mới khởi nghĩa, Tây Sơn đã sử dụng thương nhân Hoa kiều là Tập Đình và Lý Tài chiêu mộ một số người Hoa tổ chức thành Trung nghĩa quân và Hòa nghĩa quân.

Sử nhà Nguyễn chép “Lại lấy người thổ trước cao lớn, cạo đầu dóc tóc, lẫn lộn với người Thanh. Lúc đánh thì cho uống rượu say, cởi trần, đeo giấy vàng, giấy bạc vào cổ, để tỏ ý là tất chết; thường làm quân tiến xung, quan quân không thể chống được…”.

Một nhân vật được đề cập là Trần Thiêm Bảo. Nguyên Bảo làm nghề đánh cá ở Liêm Châu, Quảng Đông cùng vợ và hai con trai. Năm 1780 thuyền bị bão trôi dạt xuống phương Nam nên ở luôn tại khu vực gần Thăng Long.

Năm 1783, Bảo tham gia Tây Sơn và được phong chức Tổng binh, sau có nhiều công trạng được phong làm Bảo Đức Hầu, dưới tay có sáu chiến thuyền, chỉ huy một đạo quân trong đó có 200 người Việt.

Bảo còn chiêu tập được tất cả các nhóm hoạt động trong vùng biển Đông và vịnh Bắc Việt xây dựng cho Nguyễn Huệ một lực lượng thủy binh đáng kể.

Về vũ khí, Tây Sơn có đủ loại vũ khí từ dao mác bình thường, trong đó có loại đao dài, lưỡi đao dài bằng cán đao (có lẽ là một loại mác ngày nay vẫn còn được dân chúng vùng đồng bằng sông Cửu Long sử dụng), súng, hỏa hổ, hỏa cẩu, hỏa long (các loại súng phun lửa), đại bác, tiểu pháo và thuốc nổ.

Trong số nầy, hỏa hổ là loại vũ khí đặc trưng của Tây Sơn. Nguyễn Huy Túc, trong một tờ biểu đã miêu tả hỏa hổ:

“Tháng sáu năm thứ 51 (Bính Ngọ 1786), Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ công thành, nghe nói có đến hơn 5 vạn quân, khí giới của chúng phần lớn là giáo mác và hỏa đồng, còn có tên là hỏa hổ, có bầu lớn, dài chừng một thước, khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức bốc cháy, có cả hỏa pháo nhưng không nhiều”.

Trong 10 điều quân lệnh của Tôn Sĩ Nghị cũng ghi nhận: “Người An Nam có một loại võ khí đặc biệt gọi là hỏa tiễn. Họ dùng một loại súng có nòng dài chừng hai tấc rưỡi. Họ nhồi thuốc súng chia thành ba phần, sau đó dùng cây thụt phần thứ nhất và phần thứ hai riêng rẽ xuống nòng súng, đóng chặt mỗi phần vài trăm lần.

Phần thuốc nổ còn lại nhét vào đầu bằng sắt của một mũi tên cắm vào nòng súng. Bước kế tiếp là nhét một sợi tre khô vào trong hộp súng có dây dẫn lửa nối vào. Khi bùi nhùi được đốt lên, mũi tên bén lửa và bay ra. Mục tiêu của chúng là đốt cháy quần áo các ngươi…

Một loại võ khí đặc biệt khác của người An Nam là hỏa cẩu. Đó là một khối kim khí rỗng ruột nhét đầy thuốc súng và miểng sắt cùng lưu huỳnh, trên đầu có ngòi truyền ra. Lính của chúng sẽ đốt ngòi nổ và ném về phía ta, nếu thấy hỏa cẩu thì chỉ cần né tránh là không việc gì cả”.

Theo miêu tả, hỏa cẩu có thể là một dạng lựu đạn!

Lương thực là bánh tráng

Việt Thanh chiến dịch cũng cho biết lương thực của quân Tây Sơn mang theo khi tham gia chiến dịch là “bánh tráng” (có thể có cả bánh tét nữa).

Và quân được điều động, chỉ huy bằng tiếng trống, do đó mà khi Tây Sơn ra Bắc đã “cấm dân đánh trống”. Tiếng trống ở miền Bắc chỉ được nổi lên khi quân Thanh tiến vào Thăng Long!

Trong các trận đánh tiến vào Thăng Long năm Kỷ Dậu 1789 của Quang Trung cũng không “suôn sẻ” như sử ta kể lâu nay.

Cái tài của Quang Trung là đã thấy trước việc quân Thanh sẽ vào nước ta từ sau khi Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt.

Và khi quân địch ồn ào kéo vào nước ta thì ông khéo léo dụ địch bằng cách “giả bộ thua” và còn tương kế tựu kế nhiều lần “gởi thơ nhận tội” để địch tưởng rằng chỉ một hai trận nữa là diệt được Tây Sơn.

Trong khi đó thì ông âm thầm chuẩn bị thế trận. Tình hình quân Thanh ở Thăng Long thì Quang Trung nắm rõ như lòng bàn tay.

Trong một báo cáo, Trần Nguyên Nhiếp, một đô ty trong quân Tôn Sĩ Nghị ghi lại: “Ngờ đâu Nguyễn nghịch quỷ quyệt nên đã sắp đặt gian tế khắp nơi, lẻn vào đại doanh thám thính hư thực… Những nơi chứa lương hướng, hỏa khí của ta đều có tai mắt của giặc”.

Bắt đầu tấn công vào ngày 29 tháng chạp (24-1-1789), ngày 30 tháng chạp Tây Sơn vượt sông Giản Thủy đánh tan quân nhà Lê Hoàng Phùng Nghĩa rồi thẳng tiến hướng về Thăng Long.

Ngày mùng 3 tháng giêng, vua Quang Trung tự mình đốc chiến và đánh suốt ngày mới diệt được Hà Hồi, thiệt hại cũng lớn.

Ngày mùng 5 tháng giêng trận Ngọc Hồi cũng diễn ra ác liệt, theo tài liệu của Hội truyền giáo Bắc Hà, “Nguyễn Huệ phải bỏ voi cưỡi ngựa, xông lên đầu chỉ huy”.

Trần Nguyên Nhiếp viết: “Nghe nói đại doanh đã bị trận voi xông vào đốt cháy vì chưng mỗi con voi trên lưng đủ chỗ cho ba bốn tên giặc đầu quấn khăn đỏ ngồi ném các loại lưu hoàng, hỏa cẩu vào mọi nơi để đốt người”.

Còn trong trận Đống Đa do Sầm Nghi Đống và toán quân Miêu rất thiện chiến chống giữ rất hăng nhưng cũng không ngăn được đà tiến quân. Và cũng trong ngày mùng 5, Thăng Long bị “các cánh tượng binh và thủy binh của Nam quân từ ba mặt kéo vây” khiến Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy.

Trần Nguyên Nhiếp ghi: “Đến được bờ sông, đại binh tranh nhau vượt qua. Cầu nổi làm bằng tre và gỗ bắc ngang sông đã bị đứt chìm xuống nước, lại thêm số nhân mã bị tượng trận đốt cháy chết chồng thêm lên một tầng nữa đè cầu xuống. Người đi qua chân đạp lên xác người ở bên dưới, chỉ còn đầu trồi lên phải đến ba dặm mới qua được bờ bên kia”.

Nguyễn Duy Chính đã bỏ ra 10 năm để nghiên cứu tài liệu về Tây Sơn và vua Quang Trung. Ông sử dụng tài liệu ở nước ngoài bằng Hoa, Pháp và Anh văn phối hợp cùng các tài liệu hoặc những phát hiện của người trong nước để xác định còn rất nhiều điều về thời đại nầy chưa được nói rõ ràng.

Theo TUỔI TRẺ ONLINE
0

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

Năng lực bí ẩn của các thiền sư nhà Lý

Theo sử sách, ngoài tài năng về võ học, các thiền sư thuộc thiền phái Diệt Hỷ còn được biết đến bởi khả năng tiên tri lạ kỳ.


Khả năng tiên tri linh nghiệm

Nhiều câu chuyện cho thấy, các thiền sư thuộc thiền phái này đã tiên liệu được sự xuất hiện của nhà Lý trong lịch sử và có sự chuẩn bị trước cho việc Lý Công Uẩn lên ngôi vua từ hàng trăm năm trước.

Gắn liền với sự ra đời của nhà Lý trong lịch sử dân tộc, đến nay vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện mang màu sắc tâm linh, kỳ bí khó lý giải. Điều đặc biệt, những câu chuyện kỳ lạ trên lại gắn liền tên tuổi của những vị thiền sư nổi danh thuộc thiền phái Diệt Hỷ.

Người được cho là có dự cảm sớm nhất đối với sự ra đời của nhà Lý trong lịch sử là thiền sư Định Không – đệ tử đời thứ 7 của thiền phái Diệt Hỷ. Được biết, thiền sư Định Không là người họ Nguyễn, ở làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (hiện nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).

Ông nổi tiếng là người am hiểu thế, số. Tuy cái duyên cửa thiền đến với ông rất muộn, khi ông đã về già nhưng tài năng và đức hạnh của vị thiền sư này đến nay vẫn còn lưu truyền. Trong đó, ông được ca ngợi là người có khả năng tiên tri và để lại nhiều lời sấm truyền mà sau này được nhiều thế hệ ghi nhận là ứng nghiệm.

Trong sách Thiền Uyển tập Anh cho rằng, ngay từ thời điểm năm 785 đến 804, tức hơn 200 năm trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, thiền sư Định Không đã dự cảm được việc nhà Lý xuất hiện trong lịch sử. Câu chuyện mang màu sắc huyền bí này lại gắn liền với ngôi chùa Quỳnh Lâm (tức chùa Đài hay còn gọi là chùa Lục Tổ, ở Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nổi tiếng đất Kinh Bắc.

Tương truyền, khi tiến hành xây chùa Quỳnh Lâm, lúc mới đào đất đắp nền đã phát hiện 1 cái ly hương và 10 cái khánh. Sau đó, sư sai người đem xuống sông rửa.

Một cái khánh bị rơi xuống tận đáy sông. Thiền sư Định Không cho rằng đây là điềm báo tốt, liền nói với mọi người: “Chữ Thập, chữ Khẩu hợp thành chữ Cổ. Chữ Thuỷ, chữ Khứ hợp thành chữ Pháp. Chữ Thổ chỉ làng ta ở nên sư quyết định đặt tên làng mình từ Diên Uẩn thành Cổ Pháp”. Sau đó, sư tụng rằng: “Hiện ra pháp khí/ 12 chuông đồng/ Họ lý làm vua/ Ba phẩm thành công”.

Bản thân vị thiền sư này không chỉ có dự cảm về sự xuất hiện của triều Lý, mà còn đoán định trước việc vùng đất Cổ Pháp có thể bị yểm bởi một người ngoại quốc. Do đó, thiền sư Định Không đã căn dặn đệ tử của mình trước khi viên tịch.

Chuyện xưa kể rằng, trước khi sắp tịch, sư gọi đệ tử Thông Thiện, nói: “Ta muốn mở rộng làng xóm nhưng e nửa chừng gặp tai hoạ, chắc có kẻ muốn phá hoại nước ta. Sau khi ta mất, con cố giữ đất Cổ Pháp này, rồi gặp người họ Đinh thì truyền”.

Lời nhắn nhủ của thiền sư Định Không với đệ tử Thông Thiện sau này được cho là đúng sự thực. Người ngoại quốc mà vị thiền sư này nhắc đến chính là Cao Biền – Tiết độ sứ ở Tĩnh Hải Quân (tên gọi Việt Nam thời gian 866 – 968) của một nhân vật được người đời sau nhắc đến nhiều lần trong những câu chuyện liên quan đến việc phá long mạch nước ta vào thời điểm ông làm Tiết độ sứ ở nước ta.

Dùng cây gạo để hàn long mạch

Không chỉ thiền sư Định Không mà nhiều thiền sư các đời kế tiếp của thiền phái này đến nay vẫn được hậu thế lưu truyền là có biệt tài về phong thuỷ và có khả năng dự đoán được tương lai. Nhiều huyền sử đến nay vẫn còn nhắc đến tên tuổi của nhiều vị thiền sư như Trưởng lão La Quý, thiền sư Vạn Hạnh. Họ đều là những bậc thầy về phong thuỷ và những người có khả năng tiên tri.

Được biết, sau khi thiền sư Định Không viên tịch, đệ tử là thiền sư Thông Thiện đã nghe theo lời dặn của thầy, suốt ngày tu luyện để giữ Cổ Pháp. Lời truyền dạy của thiền sư Định Không đã ứng nghiệm khi thiền sư Thông Thiện đã gặp được một người học trò họ Đinh và truyền pháp lại cho người này, người đời sau gọi người học trò này là Trưởng lão La Quý.

Theo sử chép, Trưởng lão La Quý người An Chân (Thái Bình ngày nay), ông tu tại chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức (Từ Sơn, Bắc Ninh). Thuở nhỏ, Trưởng lão La thường chu du khắp các phương, hỏi thăm các bậc thiền sư. Trải qua nhiều năm không gặp đạo duyên, Trưởng lão La sắp thối chí.

May mắn sau này, Trưởng lão gặp được pháp hội của Thông Thiện, nghe một lời, lòng thiền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy. Được thiền sư Thông Thiện truyền pháp, Trưởng lão ra sức tu luyện đến khi đắc pháp sư tuỳ phương diễn hoá, tài phép vô biên. Tương truyền, mỗi khi ngài nói ra lời nào, tất là phù sấm.

Cuộc đời của vị thiền sư này gắn liền với giai thoại hàn long mạch, phá yểm của Cao Biền. Theo sách Thiền Uyển tập Anh, khi Cao Biền sang nước ta, xây thành bên sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp có khí đế vương, nên đã đào đứt con sông Điềm và những ao Phù Chẩn đến 19 chỗ để trấn yểm. Việc Cao Biền tìm cách trấn yểm, để nước Nam mãi là vùng đất thuộc phương Bắc là một hành động rất nham hiểm nhưng cũng rất vi diệu mà người thường không dễ nhận ra.

Chính Trưởng lão La Quý, khi đã “đắc pháp”, ông đã phát hiện được điều này và chính ông là người cho tiến hành lấp lại các điểm Cao Biền sai người đào, phá long mạch trước đây. Để long mạch được trở về như xưa, Trưởng lão La Quý đã trồng một cây bông gạo ở chùa Châu Minh để hàn long mạch nhằm trấn chỗ đứt. Cây gạo mà Trưởng lão La Quý trồng sau này gắn liền với giai thoại, sét đánh thành bài sấm truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn.

Chuyện xưa kể rằng, khi trồng cây gạo này, Trưởng lão La Quý đã làm bài thơ, “Đại sơn đầu rồng ngửng/ Đuôi cù chẩn Châu Minh/ Thập bát tử định thành/ Bông gạo hiện long hình/ Thỏ gà trong tháng chuột/ Nhất định thấy trời lên”. Người đời sau cho rằng, bài thơ này là lời sâm truyền báo hiệu ngày, tháng, sự ra đời của vua Lý Công Uẩn. Bởi nội dung bài thơ có ý dự báo cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Sau này, nhà Lý sau này ra đời vào tháng 10 năm Đinh Dậu.

Biệt tài “dung ba cõi”

Cũng liên quan đến sự ra đời của vương triều Lý trong lịch sử, một vị thiền sư nổi danh khác của thiền phái Diệt Hỷ được nhắc đến đó chính là thiền sư Vạn Hạnh, đời thứ 12 của thiền phái Diệt Hỷ.

Đến nay, tên tuổi của vị thiền sư này được người đời sau ca ngợi: “Sư nói lời nào, thiên hạ cho là phù sấm”. Vua Lý Nhân Tông đã làm kệ (thể thơ phổ biến thời Lý Trần), ca ngợi tài năng của vị thiền sư này: “Vạn Hạnh dung ba cõi/ Thật hiệp lời sấm xưa/ Quê hương tên Cổ Pháp/ Chống gậy trấn kinh đô”. Bài thơ ý nói Vạn Hạnh thấu suốt tất cả sự việc của quá khứ, hiện tại và thời vị lai.

Được biết, sư Vạn Hạnh vốn là thầy của Lý Công Uẩn. Người có công rất lớn trong việc giáo dục và giúp đỡ Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Tương truyền, ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi (sự kiện diễn ra tại Ninh Bình), sư Vạn Hạnh ở mãi tận chùa Quỳnh Lâm, đã biết trước mọi việc, bảo với người bác và chú của vua rằng: “Thiên tử đã băng, Lý Thân vệ (Lý Công Uẩn) hiện đang ở nhà. Trong trưa nay, Thân vệ ắt được lên ngôi”. Rồi nhà sư cho yết bảng ở đường cái nói rằng: “Tật lên chìm bể Bắc/ Hạt Lý mọc trời Nam/ Bốn phương gươm giáo dẹp/ Tám cõi mừng bình an”, ý thơ nói nhà Lý thay nhà Lê.

Xung quanh những câu chuyện về biệt tài võ học, phong thuỷ và khả năng tiên tri của những thiền sư thuộc thiền phái Diệt Hỷ, võ sư Nguyễn Văn Thắng, Trưởng môn phái Thăng Long võ đạo cho rằng, những câu chuyện huyền sử trên có cơ sở.

Vị võ sư này cho rằng, trong các câu chuyện về các vị thiền sư, có người được nhắc tới như một bậc thầy về võ học, người được nhắc đến với vai trò là người có tầm hiểu biết phong thuỷ và khả năng tiên tri đoán định. Nhưng thực tế, khi đạt đến đỉnh cao của thiền học, tất yếu đạt đến đỉnh cao của võ và có hiểu biết sâu sắc về phong thuỷ.

Theo ĐỜI SỐNG & PHÁP LUẬT
0

Thứ Năm, 8 tháng 11, 2018

La Dalat: Chiếc xe hơi Made in Vietnam vang danh một thời

Từ năm 1970 cho đến 1975, Công ty Xe hơi Sài Gòn đã sản xuất hơn năm ngàn chiếc xe dân dụng La Dalat tại Việt Nam với mức độ nội địa hóa lên đến 40%.

Vào năm 1936, hãng chế tạo xe của Pháp Citroën đã thiết lập xưởng sản xuất đầu tiên ở Đông Dương với trụ sở ban đầu tại góc đường Lê Lợi - Nguyễn Huệ, ngày nay đã trở thành Caféteria Rex ở Sài Gòn. Sang đến thời Việt Nam Cộng hòa xưởng sản xuất được dời đi và đổi tên thành Công ty Xe hơi Citroën, tiếp đến là Công ty Xe hơi Saigon.


Trụ sở Công Ty Xe Hơi Saigon (viết theo kiểu đọc của phương Tây).

Sau Thế chiến thứ 2, để đáp ứng nhu cầu về phương tiện di chuyển của dân Pháp đương thời, hãng chế tạo xe Citroën đã tung ra thị trường chiếc xe 2CV. Sau đó hãng này tiếp tục cho ra đời loại xe Citroën Dyane 6 và Méhari lần lượt vào cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60. Xe Citroën La Dalat sản xuất ở Việt Nam là loại xe dựa trên kiểu Citroën Méhari.

Vào giữa thập niên 60, trước sức ép cạnh tranh từ các loại xe gắn máy 2 bánh: Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki, Bridgestone.... cũng như các loại ô tô Toyota, Mazda, Mitsubishi, Nissan, Daihatsu… nhập khẩu từ Nhật Bản, hãng Citroën quyết định tung ra thị trường một loại xe thực dụng và rẻ tiền, loại xe mà các công ty sản xuất xe Nhật Bản không thể cạnh tranh được. Chiếc xe được đặt tên là La Dalat.

Năm 1969, công ty Citroën mua bản quyền thiết kế của chiếc Baby Brousse từ công ty Ateliers et Forges de l’Ebrié.

Tiếp đó, các kỹ sư của chi nhánh Société Automobile d’Extrême-Orient tại Sài Gòn bắt tay vào sản xuất và lắp ráp ngay tại Việt Nam một chiếc xe tuy không sang trọng và mạnh như xe Mỹ, nhưng giá thành và chất lượng ăn đứt tất cả các loại xe của Nhật.


Một quảng cáo của công ty Xe hơi Citroën tại Sài Gòn.

Và chiếc La Dalat ra đời với 4 kiểu dáng khác nhau có phần máy và hệ thống tay lái, bộ nhún, bộ thắng... nhập cảng từ Pháp, trong khi, các bộ phận như đèn, kén báo hiệu, ghế nệm, dàn đồng đóng bằng tôn, mui xe bằng lá thép uốn hoặc vải,... được thiết kế và sản xuất ngay tại Sài Gòn.


Một chiếc La Dalat trên đường phố Sài Gòn trước 1975.

Tuy dựa theo thiết kế của chiếc Baby Brousse, nhưng La Dalat được cải tiến để có thể sản xuất hàng loạt mà không đến cần máy ép thép công nghiệp hạng nặng như Baby Brousse.

Lúc tung ra thị trường vào năm 1970, tỷ lệ bộ phận nhập cảng so với bộ phận nội địa là 75/25 và đến năm 1975 khi hãng Citroën ngừng hoạt động, tỷ lệ này là 60/40. Có tất cả là 4 kiểu La Dalat: loại 4 chỗ ngồi hoặc 2 chỗ ngồi với thùng chở hàng.


Một số mẫu xe La Dalat vào những năm 1970.


Động cơ của La Dalat.

Theo thiết kế, chiếc xe này sở hữu động cơ 4 thì, 602 phân khối, 2 xi-lanh đối ở 2 đầu nằm dẹp (flat twin), hộp số gồm 4 số tay, chuyền động ở trục bánh trước. Chiếc xe có chiều dài 3,5m; rộng 1,53m; cao 1,54m; nặng khoảng từ 480-590 kg tùy theo kiểu.


Một xe La Dalat được tân trang tại Sài Gòn hiện nay.

La Dalat được đánh giá là chiếc xe ít tốn xăng, dễ sửa chữa, dễ thay thế các bộ phận hỏng hóc, đặc biệt các bộ phận như cánh cửa, kính xe đều có thể "tự chế", dễ làm hơn các loại xe Nhật và rẻ tiền. Các bộ phận rời được bán với giá phải chăng vì hoàn toàn được chế tạo tại Việt Nam.


Một chiếc La Dalat cổ bên những chiếc xe hơi hiện đại.

Tiền thân là gốc Pháp nhưng La Dalat đã để lại dấu ấn không hề nhỏ mang tên Việt Nam. Năm 1973, ngạc nhiên và hài lòng với thành công đáng ngờ của Công ty Xe hơi Sài Gòn, Citroën đã sang Việt Nam lấy 3 chiếc La Dalat về Pháp để mổ xẻ phân tích thiết kế, từ đó họ cho ra đời kiểu khung xe dễ sản xuất mà không đòi hỏi đầu tư nhiều công nghệ như chiếc Baby Brousse mui trần thế hệ thứ hai hay chiếc FAF.

Theo Kiều Châu/ Bizlive
0

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2018

Máy bay đầu tiên do Việt Nam sản xuất ?

VNS-41 là máy bay lưỡng dụng (thủy phi cơ) nhẹ được nhà máy A41 thuộc cục Kỹ thuật Quân chủng Phòng không - Không quân nghiên cứu sản xuất dựa vào kiễu máy bay của Nga là Che-22 "Korvet" mà Việt Nam đã mua lại từ Philippines. Đây là một loại máy bay có thể hạ cánh trên mặt đất và mặt nước. Cho đến nay, đây là loại máy bay được sản xuất thành công và được đưa vào sử dụng thương mại tại Việt Nam.

Máy bay dài 6,970 mét, cao 2,535 mét, tầm bay tối đa 200-300 km, trần bay 3.000m và chở được 2 đến 3 người. Máy bay được gắn hai động cơ Rotax-582 (64 sức ngựa) của Áo.

Máy bay sẽ được dùng cho tuần tra rừng và các mục đích nông nghiệp cũng như cho thể thao, du lịch và sử dụng thương mại. Máy bay có bình trữ nhiên liệu có khả năng chứa 80 lít, cho phép nó bay trong 4 tiếng đồng hồ và có thể bay được với vận tốc từ 120 đến 135 km một giờ. Máy bay cần lấy đà khoảng từ 50 đến 70 trên mặt đất để cất cánh và 200 đến 300 mét dưới mặt nước. Trọng lượng cất cánh tối đa là 780 kg. Toàn bộ thân chính, thân đuôi, cánh giữa của máy bay được làm bằng vật liệu composite cao cấp với mức độ nội địa hóa là 70%.

Dự án phát triển máy bay này bắt đầu vào tháng 6 năm 2003 và tháng 9 năm 2005 thì thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên.

Xem thêm: https://vibay.blogspot.com/2012/07/mot-so-vu-khi-trang-bi-quoc-phong-do-vn.html

https://vi.wikipedia.org/wiki/VNS-41



0

Chiếc ô tô đầu tiên do Việt Nam sản xuất năm 1958

Sau 60 năm chiếc ô tô đầu tiên của Việt Nam được sản xuất mang tên 'Chiến Thắng', ngày 2/10/2018, 2 chiếc xe hơi thương hiệu Việt lại tái xuất nhưng trong một triển lãm lớn nhất thế giới Paris Motor Show.

Ngày 2/10, sự xuất hiện của 2 mẫu ô tô VinFast đã đánh dấu 1 kỷ nguyên mới của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Nhưng ít ai biết được, trước đó ngành công nghiệp ô tô đã ghi nhận 2 thương hiệu ô tô của Việt Nam.

“Siêu xe” Chiến Thắng 1958

Vào năm 1958, nhà máy Chiến Thắng đã quyết định sản xuất một chiếc ô tô nhỏ theo cách của ta. Ngày đó, nhiệm vụ sản xuất ô tô được giao cho Đại tá, kỹ sư Hồ Mạnh Khang, Giám đốc nhà máy Z157 và ông Vũ Văn Đôn, Cục trưởng Cục Quản lý xe.


Chiếc ô tô Chiến Thắng được dựa theo chiếc Fregate chạy xăng của Pháp.

Trong một lần nói về chiếc ô tô “made in Việt Nam” đầu tiên, Thiếu tướng Vũ Văn Đôn cho biết, chiếc ô tô Chiến Thắng là mồ hôi công sức của cả một tập thể. Chiếc ô tô Chiến Thắng có thể nhận gọi là chiếc ô tô đầu tiên do người Việt chế tạo.

Thiếu tướng Vũ Văn Đôn đến với ngành công nghệ, chế tạo ô tô từ lúc còn rất trẻ. Năm 1949, khi đó mới hơn 20 tuổi và vừa tốt nghiệp trường Kỹ nghệ thực hành (một trường cơ khí của Pháp), Thiếu tướng Đôn đã được Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng thời kỳ đó là ông Tạ Quang Bửu giao cho làm Giám đốc Nha Sự vụ Cục Quân giới.

Đến năm 1954, ông Vũ Văn Đôn được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Quản lý xe (Bộ Quốc phòng) và ông quyết tâm làm bằng được chiếc ô tô đầu tiên của người Việt.

Đúng ngày 22/12/1958, tại nhà máy Chiến Thắng đã cho ra mắt chiếc ô tô đầu tiên (4 chỗ ngồi) do người Việt Nam sản xuất. Mặc dù xe được lắp ráp từ nhiều linh kiện khác nhau, tỷ lệ nội địa hóa chưa đạt 100%, song nó không kém loại Matxcơvic của Liên Xô lúc bấy giờ.

Chiếc ô tô Chiến Thắng được làm dựa theo chiếc Fregate chạy xăng của Pháp. Các bộ phận như thân máy, nắp máy, chế hòa khí, bơm xăng, bơm dầu được các thợ chiến trường mày mò tìm mẫu, tạo khuôn mẫu trước, sau đó đúc gang rồi mới đưa lên cắt gọt, gia công cơ khí cho thật tinh xảo.

Có những chi tiết phải đúc đi, đúc lại rất nhiều lần mới thành công. Nguyên liệu chủ yếu lấy từ đống phế liệu chiến tranh của Pháp “nấu” đúc lại. Đến phần chế tạo trục guồng của máy bàn phải dùng một trục bánh tàu hỏa, đo đạc lấy kích thước, vẽ mẫu chuẩn. Chỉ riêng cái “trục guồng quay” này, cả tổ tiện, nguội, mài... phải “đánh vật” lăn lộn làm suốt đêm ngày mất gần hai tuần lễ.

Tuy nhiên, có những chi tiết không thể làm được và phải lắp đồ ngoại, đó là: Nến điện, dây điện, hệ thống đồng hồ và chỉ thị, bóng điện, hệ thống kính, săm lốp và vòng bi.

Họa sĩ Diệp Minh Châu đã giúp đỡ nhà máy về tạo dáng và màu sắc. Ông còn bỏ tiền mua ngà voi làm núm còi, trên đó khắc nổi hình chùa Một Cột. Ông làm một tượng nhỏ bằng thạch cao người chiến sĩ cầm cờ để nhà máy đúc đồng gắn lên nắp capô.

Chiếc xe có biểu tượng của chữ V, có thể hiểu là “Việt Nam” hay “Victory” (Chiến Thắng). Chính vì lẽ đó, chiếc ô tô “Chiến Thắng” mang biển số QS 0001 chính thức được ra đời.


Chiếc xe máy đầu tiên, đặt nền móng của ngành công nghệ cơ khí chế tạo Việt Nam là chiếc Ấp Bắc.

Ngay sau khi chế tạo thành công chiếc ô tô đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến xem và động viên: "Ta đã sản xuất được xe con. Từ nay về sau cần nghiên cứu, sản xuất xe vận tải để phục vụ đất nước". Khi được đề nghị nhận chiếc xe, Hồ Chủ tịch từ chối: "Cảm ơn các chú đã quan tâm đến Bác, tặng Bác chiếc xe này. Nhưng hiện nay, Bác đã có xe đi rồi. Vậy các chú giúp Bác tặng lại chiếc xe này cho thương binh. Các chú ấy cần chiếc xe mới và tốt thế này hơn Bác".

Mục đích của việc sản xuất ô tô Chiến Thắng 1958 là để giải quyết nhu cầu giao thông tăng cao trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ - Thống nhất đất nước.

Quốc khánh năm 1959, ô tô con "Chiến Thắng" do quân đội chế tạo được xếp vào đội hình diễu binh tại Quảng trường Ba Đình.

Huyền thoại ô tô “Trường Sơn”

Không chỉ sản xuất ra chiếc Chiến Thắng, Việt Nam đã có thời điểm tự mình sản xuất ra những chiếc xe máy. Chiếc xe máy đầu tiên, đặt nền móng của ngành công nghệ cơ khí chế tạo Việt Nam là chiếc Ấp Bắc. Ấp Bắc có tốc độ trung bình đạt 50 - 60 km/giờ, tiếng nổ giòn và rất khỏe, chạy đường gồ ghề rất tốt.

Với sự thành công nhất định, Thiếu tướng Vũ Văn Đôn cùng tập thể các đồng chí trong ngành đã quyết tâm làm một chiếc xe ô tô “thực sự của Việt Nam”. Không còn chắp vá linh kiện như chiếc Chiến Thắng.

Chiếc ô tô thứ 2 được đặt tên là “Trường Sơn”. Trong đó, nhà máy Z159 phụ trách làm piston (pit - tông), vòng bi, cần số; Nhà máy Z179 làm sắt xi, gầm xe.

Một ngày cuối năm 1971, gần như toàn thể cán bộ trong Cục Quản lý xe tập hợp ở Văn Điển để xem xe chạy thử. Kết quả ngoài mong đợi, xe không hề có trục trặc gì xảy ra. Đó là chiếc xe hoàn hảo nhất với phần lớn thiết bị do Việt Nam chế tạo. Mấy hôm sau, chiếc xe được điều “đi B” và nó đã hoạt động tốt cho đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Xe_h%C6%A1i_Chi%E1%BA%BFn_Th%E1%BA%AFng
0

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018

Về các đền thờ Hai Bà Trưng tại đất Trung Quốc ngày nay

Biên giới quốc gia ngày nay giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là cương giới thời cổ. Vì vậy, rất có thể lãnh thổ nước ta thời Trưng Vương đã lan đến gần như toàn bộ khu vực nay là hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và một phần nhỏ của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
Tuy nhiên, lãnh thổ này là dựa trên cơ sở kế thừa lãnh thổ nước Nam Việt cũ (tương ứng với bộ Giao Chỉ/châu Giao thời Hán thuộc), chứ thực sự là nó rộng lớn hơn rất nhiều so với thời Văn Lang. Hơn nữa, trong sách “Đại Việt sử ký tiền biên”, Ngô Thì Sĩ có lời bình: “Cho nên tiếc Ngũ Lĩnh, là tiếc cái sau khi bà Trưng mất”. Ngũ Lĩnh là tên hệ thống các dãy núi mà nay chạy qua các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc. Các sử gia thời phong kiến quan niệm: dãy Ngũ Lĩnh chính là ranh giới phía Bắc của nước Việt ta thời nhà Triệu và thời Trưng Vương, ngăn cách với lãnh thổ nhà Hán (Trung Quốc).


Bản đồ nước Văn Lang vào thế kỷ 3 TCN


Bản đồ hành chính các quận phía Đông Bắc nước Nam Việt (khoảng thế kỉ 2-3 TCN)


Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên)

Thời nhà Triệu nước Nam Việt, phần lớn lãnh thổ Quảng Tây hiện nay là quận Quế Lâm, khu vực tỉnh Quảng Đông là quận Nam Hải, phía tây nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam là quận Giao Chỉ. Cũng thời bấy giờ, khu vực Hồ Nam ngày nay chính là nước Trường Sa, chư hầu phiên thuộc nhà Tây Hán.

TRƯỚC thời nhà Triệu thì Quảng Đông, Quảng Tây là đất đai của người Bách Việt (tuy còn hoang sơ, dân cư thưa thớt so với miền Bắc Việt Nam cùng thời), còn Hồ Nam là một phần của nước Sở.

Sau đây là danh sách đền thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh tại lãnh thổ miền nam Trung Quốc bây giờ:

1. Tại Quảng Đông:

* Thờ Hai Bà Trưng: Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Người dân đã dựng đền thờ Trưng Nữ Vương ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc (nay ở Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội) và ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có.”

Phiên Ngung là kinh đô nước Nam Việt xưa, nay là thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

* Thờ các tướng lĩnh: Hiện nay, tại quận Khúc Giang thuộc địa cấp thị Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông còn đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng là Đàm Ngọc Nga, tước Nguyệt Điện Tế Thế công chúa, giữ chức Tiền Đạo tả tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Nam Hải. Tại đây còn nhiều di tích trong trận chiến long trời lở đất của bà với quân Mã Viện.

Cũng tại Khúc Giang, còn có đền thờ nữ tướng Trần Thị Phương Châu, tước Nam Hải công chúa. Bà tuẫn tiết tại đây vào đầu cuộc khởi nghĩa năm 39. Sử Việt có ghi vào năm 1288, vua Trần Nhân Tông đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hải qua Khúc Giang trùng tu đền thờ bà.

Tại Quảng Đông còn nhiều đền thờ nữ tướng Nguyễn Thánh Thiên, tước Thánh Thiên công chúa, giữ chức Bình Ngô đại tướng quân, thống lĩnh binh mã trấn thủ vùng Nam Hải. Bà hi sinh tại vùng này vào năm 42.

Tại dọc bờ biển các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến và đảo Hải Nam có nhiều đền thờ nữ tướng Trần Quốc (Nàng Quốc), tước Gia Hưng công chúa, giữ chức Trung Dũng đại tướng quân, Đô đốc, trưởng quản thuỷ quân trấn bắc Nam Hải. Bà có trận thuỷ chiến lẫy lừng ở quận Uất Lâm (nay thuộc Quảng Tây). Dân các vùng này đã tôn bà là Giao Long Tiên Nữ giáng trần vì bà rất hiển linh.

Nguồn:http://diendannguoivietquocgia.com/N…icle%20168.htm

2. Tại Quảng Tây:

* Thờ Hai Bà Trưng: Nhà báo Phạm Hồng cho biết, ông đã thấy những ngôi đền thờ “Mụ Trưng”, “Mụ Trắc” trên đất Quảng Tây.

Nguồn: http://kienthuc.net.vn/phong-thuy/tr…ba-120434.html

* Thờ các tướng lĩnh: Tại Quảng Tây cũng còn nhiều đền thờ nữ tướng Nguyễn Thánh Thiên, tước Thánh Thiên công chúa, giữ chức Bình Ngô đại tướng quân, thống lĩnh binh mã trấn thủ vùng Nam Hải. Bà hi sinh tại vùng này vào năm 42.

Nguồn: http://diendannguoivietquocgia.com/N…icle%20168.htm

3. Tại Hồ Nam:

* Thờ Hai Bà Trưng: Trên đất Trung Quốc mà lại có đền thờ Bà Trưng? Lạ, nhưng có thật. Vì nguồn thông tin này do hai nho sĩ Việt Nam từng đi sứ sang Trung Quốc, từng nhìn thấy ngôi đền và ghi chép lại trong thơ văn của họ. Đó là Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm.

Nguyễn Thực (1554 – 1637) người làng Vân Điềm (tên nôm là làng Đóm), nay thuộc xã Vân Hà, huyện Đông Anh. Ông đỗ tiến sĩ nhị giáp khoa thi đình đầu tiên của nhà Lê Trung hưng mở tại Thăng Long (năm 1595).

Nguyễn Thực là vị quan thanh liêm, chính trực, được người đương thời trọng vọng. Trong thời gian được cử đi sứ sang Trung Quốc, ông có làm một số thơ, nhưng sau đó bị thất lạc.

Tới thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn sưu tầm được 10 bài, trong đó có 4 bài làm trong thời gian đi sứ. Trong 4 bài này, có một bài cho biết là ở Trung Quốc, phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh có đền thờ Trưng Vương. Đó là bài “Nam hoàn chí Ngũ Lĩnh” (về Nam đến rặng núi Ngũ Lĩnh):

Ngũ Lĩnh điêu nghiêu trấn Việt thùy
Hứa đa cảnh trí chiếm thanh kỳ
Uất thông đông hậu thùy thiên cán
Nùng diễm xuân tiền mai nhất chi
Đồng trụ Trưng vương lưu cựu tích
Thạch nhai Trưng tướng phục tùng từ
Phong cương tự cổ phân trung ngoại
Thậm tiễn thiên công xảo thiết thi

Dịch:

Núi Ngũ Lĩnh chất ngất trấn ở vùng biên cương đất Việt
Biết bao cảnh trí tươi tắn kỳ lạ
Sau mùa đông ngàn cây tùng xanh um
Trước mùa xuân một nhành mai diễm lệ
Cột đồng còn lưu dấu cũ Trưng Vương
Đường đá nghiêng bên ngôi đền Trưng tướng
Chốn biên cương từ xưa phân rõ trong, ngoài
Rất phục thợ trời sao khéo đặt bày

Tác giả viết bài này khi về tới dãy núi Ngũ Lĩnh ở Trung Quốc, tức dãy núi làm ranh giới hai nước Sở, Việt thời cổ. Sở là khu vực tỉnh Hồ Nam (phía Nam hồ Động Đình) và Việt là khu vực tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay. Về tứ thì đây là bài thơ đẹp một cách hồn hậu. Có thể, khi đó là cuối mùa đông nhưng gió xuân đã thổi nên tùng bách vẫn xanh um, mà một bông hoa mai trắng đã nở chào mùa xuân mới đang tới.

Song, chúng tôi lại lưu ý tới một chi tiết về lịch sử ở câu thứ 5 – Cột đồng lưu dấu cũ Trưng Vương. Trưng Vương ở đây chính là vua bà Trưng Trắc của chúng ta, người đã giành lại độc lập cho đất nước và làm vua trong 3 năm, từ năm 40 đến 43.

Cột đồng là muốn nhắc lại việc Mã Viện cướp các trống đồng đất Việt, đúc thành cột dựng ở một số nơi để ghi chiến công (cũng như đem về Trường An đúc ngựa đồng đặt ở cung vua).

Còn dấu cũ Trưng Vương, hẳn là dùng để chỉ ngôi đền đã được dựng lên để thờ vị nữ anh hùng của dân Việt. Nói rằng đó là ngôi đền thờ bà Trưng vì còn một chứng cứ nữa. Đó là điều mà hai thế kỷ sau Ngô Thì Nhậm có dịp nhắc lại khi ông đi sứ.

Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) quê ở Tả Thanh Oai (tên nôm là làng Tó) nay thuộc huyện Thanh Trì. Năm 1793, ông có đi sứ nhà Thanh, có sáng tác tập Hoàng Hoa đồ phả – một tập thơ có cả những bức vẽ. Trong tập đó có một bài nhan đề Phân Mao lĩnh (Núi Phân Mao):

Nhất đái thanh sơn Sở, Việt giao
Hoàng Mao dịch lộ nhậnPhân Mao
Thiên thư bất tận Hành Sơn Lĩnh
Địa khí hoàng phù Nhạn Trạch Mao
Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ
Uy đà quế đố lạc sơn sào
Phong lai giải uấn tay nam lợi
Vị ứng Hùng Bi vạn nhận cao

Nghĩa là:

Một dải núi xanh ở nơi giáp giới với Sở và Việt
Trên đường đến trạm Hoàng Mai nhận ra đó là núi Phân Mao
(Ranh giới của Trung Hoa là do) Sách trời định ra không quá núi Hành Sơn (1)
Khí đất làm trôi ngược lông chim nhạn ở Nhạn Trạch (về phía nam)
Lưỡi kiếm của bà Trưng mở ra động phủ
Sâu quế của Triệu Đà còn đầy trong hang núi
Gió từ tây nam làm nguôi cơn nồng
Coi thường núi Hùng Bi dù cao tới muôn sải (2)

Ngô Thì Nhậm có lời chú thích rằng: “Núi Phân Mao ở địa giới Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam, có cỏ mao rẽ hai ngả Nam Bắc, trên đường đi có biển đề Phân Mao lĩnh”.

Như vậy thì núi này là chỗ ranh giới hai nước Sở, Việt. Như đã nêu ở trên, Sở là khu vực tỉnh Hồ Nam và Việt là khu vực hai tỉnh Lưỡng Quảng ngày nay. Và vậy là, theo bài thơ này, tại Hồ Nam có đền thờ bà Trưng Trắc.

Không rõ về sự kiện này thì Ngô Thì Nhậm rút từ tư liệu nào? Chính sử Việt Nam và Trung Quốc không có ghi chép gì về sự kiện đó. Có thể đó chỉ là truyền thuyết? Nhưng cơ sở để hình thành truyền thuyết này thì có thể giải thích được.

Các sách chính sử có ghi là sau khi Mã Viện hoàn thành công việc xâm lăng đã bắt trên 300 cừ suý (có thể hiểu là “tướng lĩnh cừ khôi”) người Việt đưa về Trung Quốc, an trí tại Linh Lăng. Linh Lăng chính là phần đất phía Nam tỉnh Hồ Nam.

Số ba trăm cừ suý đó, tất phải là các thủ lĩnh nghĩa quân, tướng lĩnh của Hai Bà và các lạc hầu, lạc tướng, đã kiên quyết chống lại quân Mã Viện. Những người dân Việt yêu nước này, tuy bị đầy ải xa quê hương nhưng vẫn hướng về đất Tổ, lập “miếu Bà Trắc” để tưởng nhớ thủ lĩnh của mình, thể hiện ý chí bất khuất của người Việt.

Những câu chuyện về cuộc khởi nghĩa kháng chiến ngày đó tất cũng được lưu truyền trong cộng đồng đó, nhưng rồi trải qua bao đời, chuyện bị “khúc xạ”, trở thành truyền thuyết Hai Bà Trưng đánh Mã Viện trên đất Hồ Nam.

Miếu Bà Trắc ở bên hồ Động Đình đúng là biểu tượng hiên ngang bất khuất của người Việt thời Hai Bà Trưng, dù bị tách khỏi quê hương. Còn về cột đồng được nhắc tới trong thơ Nguyễn Thực thì có thể hiểu là Mã Viện sau khi an trí các cừ suý Việt ở Linh Lăng thuộc Hồ Nam, Ngũ Lĩnh thì cho dựng một (hoặc nhiều) cột đồng để tự biểu dương chiến công. Nhưng các cừ suý Việt đã xây ngay đền thờ Hai Bà ở chỗ có cột đồng nọ để khẳng định bản lĩnh của cộng đồng mình.

Dù sao, “Miếu thờ Trưng Vương” ở đất Hồ Nam là có thật.

Báo hanoimoi.com.vn
– – – – – – – –
(1) Hành Sơn: tên dãy núi trùng điệp trên địa bàn huyện Hành Dương.
(2) Hùng Bi là một dãy núi ở huyện Kỳ Dương, huyện cực Nam của tỉnh Hồ Nam.

Nguồn: http://www.nguyenthaihocfoundation.o…ngnuvuong4.php

* Thờ các tướng lĩnh: Nữ tướng Phật Nguyệt, được Trưng Vương phong làm Phật Nguyệt công chúa, giữ chức Thao Giang Thượng tả tướng thuỷ quân, Chinh Bắc đại tướng quân, tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Bà có trận đánh kinh hồn chiến thắng Mã Viện, Lưu Long và Đoàn Chí ở hồ Động Đình (nay ở phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam). Hiện di tích về bà còn rất nhiều: tại chùa Kiến Quốc thuộc thành phố Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam), tại ngôi chùa trên núi Thiên Đài trong hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh.

Tại cửa Thẩm Giang chảy vào hồ Động Đình còn có miếu thờ nữ tướng Trần Thiếu Lan. Cả ngàn năm qua, mỗi lần sứ thần của Việt Nam đi ngang qua đều vào tế lễ bà. Hiện nay cũng còn một ngôi mộ mang tên bà.
0

Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2018

Lịch sử Việt Nam Tập 1: Thời tiền sử ở Việt Nam

0

Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2018

Lịch sử quan hệ Việt-Trung nhìn từ góc độ đại chiến lược

Vũ Hồng Lâm*

Tổng quan

Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là một trong những mối quan hệ địa chính trị lâu đời nhất trên thế giới còn tồn tại đến ngày nay. Nói “quan hệ địa chính trị” để nói về một phạm trù tổng quát hơn, bao trùm hơn phạm trù “quan hệ giữa hai quốc gia”. Bởi vì trong gần hai mươi hai thế kỷ lịch sử của nó, quan hệ Việt-Trung không phải lúc nào cũng là quan hệ giữa hai quốc gia, càng không phải lúc nào cũng là quan hệ giữa hai “nhà nước dân tộc có chủ quyền”, như ta vẫn quen hình dung về mối quan hệ giữa hai “nước” trong thế giới hiện đại. “Quan hệ Việt-Trung” ở đây được hiểu là mối quan hệ giữa hai thực thể địa chính trị. Mối quan hệ địa chính trị này trong từng thời kỳ có tính chất gì, mang đặc điểm gì, hay có thể gọi là gì, đó chính là câu hỏi bao trùm của bài nghiên cứu này.

Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm tồn tại từ thế kỷ 2 trước Tây lịch đến nay có thể chia ra bốn thời kỳ cơ bản. Thời kỳ thứ nhất quen gọi là “thời kỳ Bắc thuộc”, dài khoảng một ngàn năm, từ lúc nước Âu Lạc của An Dương Vương thuộc về nước Nam Việt của Triệu Đà (năm 179 tr. TL), khi mối liên hệ địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng với miền Trung nguyên Trung Quốc được thiết lập thông qua quan hệ Hán-Nam Việt, cho đến thời điểm Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938 sau TL). Thời kỳ thứ hai gọi chung là “thời kỳ Đại Việt”, dài tương đương, từ khi Ngô Quyền xưng vương (939) đến khi Pháp đặt nền bảo hộ ở Việt Nam và nhà Thanh công nhận chủ quyền của Pháp ở đây (1883). Thời kỳ thứ ba quen gọi là “thời kỳ Pháp thuộc”, kéo dài khoảng 6 thập niên, từ 1883 đến 1945, khi Việt Nam tuyên bố độc lập. Thời kỳ thứ tư gọi chung là “thời kỳ Việt Nam”, dài tương tự, từ 1945 đến nay. Thời kỳ này gồm 3 giai đoạn: (1) từ cuối thập niên 40 đến cuối thập niên 60, (2) từ đầu thập niên 70 đến cuối thập niên 80, (3) từ đầu thập niên 90 đến nay.

Thời kỳ Bắc thuộc

Thời Bắc thuộc, Việt Nam được tổ chức thành quận huyện trong cơ cấu nhà nước đế quốc Trung Hoa với tên gọi “Giao châu” (nửa đầu thời kỳ) và “An Nam đô hộ phủ” (nửa sau thời kỳ). Quan cai trị Việt Nam do vua Trung Quốc bổ nhiệm. Như vậy, Việt Nam thống thuộc vào Trung Quốc về nhân sự lãnh đạo cũng như về chính sách. Song thực tế không nhất thiết là như vậy. Có hai cách đi ra ngoài khuôn khổ của triều đình Trung Hoa.

Cách thứ nhất được thực hiện bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, sau đó người lãnh đạo khởi nghĩa xưng “vương” hoặc xưng “đế”. Hiện tượng các thủ lĩnh địa phương nổi lên xưng đế là hiện tượng bình thường trong lịch sử Trung Quốc. Thế nhưng trong đa số trường hợp họ đều hướng tới chiếm lĩnh Trung nguyên, thâu tóm cả Trung Quốc về mình: Dưới vòm trời chỉ có một mặt trời mà thôi. Song ở Việt Nam, những người nổi lên xưng vương xưng đế chưa bao giờ nuôi ý đồ tiến chiếm Trung nguyên. Họ luôn coi Trung Quốc như một thiên hạ khác. Họ không định gồm thâu Trung Quốc, mà ngược lại, họ muốn rạch ngang vòm trời, chia thiên hạ làm hai, nửa bắc của người bắc, nửa nam của mình. Ở đây, người ta vẫn sử dụng mô hình thế giới của Trung Hoa, nhưng bóp méo nó đi ở một điểm cơ bản: Thiên hạ chia hai, có hai mặt trời. Tư tưởng này là viễn tượng về trật tự thế giới của hàng loạt các thế lực lãnh đạo Việt Nam cho đến mãi về sau. Nó thể hiện trong đế hiệu “Lý Nam đế” của Lý Bí (544), trong bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” được cho là của Lý Thường Kiệt (1075), trong bài phú “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (1428). Nhưng không phải nó chỉ bắt đầu với Lý Bí. Nó đã bắt đầu rất sớm, trước cả khi có mối quan hệ Việt-Trung nếu ta quan niệm quan hệ Việt-Trung khởi sự cùng với mối liên hệ địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng và miền Trung nguyên Trung Quốc. Do đó, mối quan hệ địa chính trị giữa Việt Nam và Trung Hoa ngay từ khi khởi sự đã được lồng trong cái tư tưởng “Bắc Nam chia đôi” ấy. Kẻ khởi xướng ra cái tư tưởng “Bắc Nam tương xứng” đó là Triệu Đà, nguyên là một viên tướng nhà Tần cử xuống cai trị ở vùng Lĩnh Nam. Nhân lúc trung ương Hoa Hạ suy yếu, họ Triệu nổi lên xưng đế, lập nước Nam Việt, xây dựng chính quyền theo hình mẫu Trung Hoa, nhưng cải lối sống theo tục Việt. Tuy nhiên Triệu Đà sớm phải thỏa hiệp với Trung Hoa: Ông phải bỏ xưng “đế”, chịu cho nhà Hán phong “vương”, nghĩa là công nhận tư cách của mình chỉ như một chư hầu mà vua Hán là bá chủ. Trong suốt thời Bắc thuộc, các cuộc khởi nghĩa của người Việt cũng đều ngắn ngủi. Phần thắng vẫn thuộc về kẻ muốn áp đặt trật tự thế giới một trung tâm, mà Việt Nam trong đó chỉ có tư cách quận huyện.

Cách thứ hai là chấp nhận tư cách quận huyện của Việt Nam trong cơ cấu tổ chức nhà nước Trung Quốc, nhưng giữ cho mình một không gian tự chủ riêng. Kẻ cai trị Giao châu hay An Nam tự lập vào chức đứng đầu bộ máy cai trị địa phương hoặc cha truyền con nối, sự sắc phong của triều đình trung ương bên Trung Hoa chỉ là hình thức. Tự chủ trong nhân sự lãnh đạo đi kèm với tự chủ trong chính sách. Những thời kỳ như vậy nổi bật nhất có họ Sĩ (tk 2 sau TL) và họ Khúc (tk 9).

Thời kỳ Đại Việt

Đây là lúc Việt Nam không còn chấp nhận tư cách quận huyện trong đế quốc Trung Hoa nữa, và Trung Hoa cũng phải chấp nhận cho Việt Nam nằm ngoài cương vực của mình. Lịch sử quan hệ Việt-Trung trong thời kỳ này là lịch sử sự xung đột và thỏa hiệp, lịch sử sự thể chế hóa các xung đột và thỏa hiệp ấy giữa hai viễn tượng về trật tự thế giới.

Trung Hoa áp đặt trật tự thế giới của mình thông qua “lễ”. Để khẳng định vị trí của mình trong trật tự thế giới của Trung Hoa, Việt Nam phải nộp cống, kẻ cầm quyền mới lên ngôi phải cầu phong, nhận sắc chỉ của hoàng đế Trung Hoa phải khấu đầu, nếu không làm tròn phận sự sẽ bị cất quân hỏi tội.

Việt Nam thực hiện một chính sách hai mặt. Một mặt vẫn thực hiện đủ lễ với Trung Hoa, nghĩa là về hình thức công nhận trật tự thế giới của Trung Quốc. Mặt khác cứ thực hiện trật tự thế giới của riêng mình. Tự xưng hoàng đế, coi mình như Trung Quốc ở phương Nam, bắt các nước ngoài Trung Hoa phải triều cống, sắc phong cho họ, nếu “bất trung” cũng cất quân hỏi tội. Tuy nhiên, như Alexander Woodside (1971) nhận xét, cái trật tự “Trung Quốc của phương Nam” này lỏng lẻo hơn “Trung Quốc thật sự” rất nhiều.

Phương thức đại chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc có sự giống và khác giữa hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, thời Lý-Trần, là kháng cự và không chối từ (“non-refus”, chữ dùng của Pierre Féray, được Trần Quốc Vượng (1991) tâm đắc). Giai đoạn sau, thời Lê-Nguyễn, là kháng cự và bắt chước. Sự khác nhau này là nguồn gốc gây tranh cãi về thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc trong thời Trung đại. Vĩnh Sính (1994) gọi thái độ ấy nói chung là “kháng cự và chấp nhận”, so sánh với thái độ của sĩ phu Nhật Bản với Trung Quốc là “kính trọng và chối từ”. Sự dịch chuyển thái độ của Việt Nam với Trung Quốc vào nửa sau thời Trung đại, theo Trần Quốc Vượng (1993), là do sự thắng thế của đạo Nho, khiến cho trong thời Lê-Nguyễn tình trạng tam giáo đồng nguyên bị thay bằng tình trạng độc tôn Nho giáo. Mục tiêu đại chiến lược của giới nho sĩ, tức là nghiệp cấp lãnh đạo Việt Nam trong thời Trung đại, như Trần Quốc Vượng (1988) chỉ ra, là “vô tốn, bất dị” (không kém và không khác) Trung Quốc.

Thời kỳ Pháp thuộc

Thời Pháp thuộc, Việt Nam bị chia làm ba kỳ, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp: Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ, Nam kỳ là thuộc địa. Với Hiệp ước Pháp-Thanh năm 1885, Trung Quốc từ bỏ bá quyền của mình và thừa nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp đảm nhiệm và trở thành một bộ phận của quan hệ Pháp-Trung.

Thời kỳ này cũng là thời kỳ mà Trung Hoa phải từ bỏ mô hình thế giới truyền thống của mình và áp dụng mô hình thế giới kiểu Âu, một kiểu trật tự thế giới được công nhận ở châu Âu từ sau Hòa ước Westphalia (1648). Sự khác biệt lớn nhất giữa hai mô hình Trung Hoa và Tây phương là trật tự thế giới kiểu Tàu đòi hỏi phải có một trung tâm thiên hạ, đại diện là hoàng đế Trung Quốc với tư cách “con trời”, dưới ông là một hệ thống các “phiên bang”, “chư hầu”, “thuộc quốc”, tức là một sự phân biệt trên dưới rất rõ ràng; trong khi trật tự thế giới kiểu Westphalia không công nhận một trung tâm quyền lực tối thượng đứng trên các nước khác, cai quản cả thế giới dù chỉ trên danh nghĩa, các nước có chủ quyền tối cao trong vùng lãnh thổ của mình, và do đó là ngang nhau trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, hành xử của các nước Tây phương phải chia làm hai lớp. Ở phần nghi lễ ngoại giao là mô hình Westphalia, còn trong thực tế là chính trị dựa trên sức mạnh (power politics). Chẳng hạn ở Việt Nam, Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh làm thuộc địa, có giao kèo đàng hoàng. Nghĩa là quyền chiếm đất của Pháp không phải tự nhiên mà có. Pháp đặt vòng bảo hộ lên Bắc và Trung kỳ, giữ nguyên ngai vàng Hoàng đế Đại Nam, chỉ đặt “công sứ” cai trị. Nghĩa là vẫn công nhận vua An Nam là chủ nước An Nam. Tuy rằng tất cả phải chịu sự điều động của Toàn quyền Đông Dương và chính phủ Pháp. Riêng đối với Trung Hoa, do nước này quá lớn, phương Tây bắt Trung Hoa phải tô nhượng cho họ một số khu vực đầu mối giao thương, phải thừa nhận cho họ có khu vực ảnh hưởng trên lãnh thổ mình. Chẳng hạn Pháp bắt nhà Thanh phải thừa nhận các tỉnh Lưỡng Quảng và Vân Nam nằm trong khu vực ảnh hưởng của Pháp.

Về phía Trung Quốc, một mặt chuyển theo mô hình thế giới kiểu Âu nhất là trong việc đòi hỏi quyền bình đẳng với các nước lớn Tây phương, mặt khác vẫn nuôi tham vọng dành lại bá quyền với các nước khi xưa đã chấp nhận trật tự thế giới kiểu Trung Quốc. Chính sách này chung cho mọi chính quyền ở Trung Quốc, từ nhà Thanh, Quốc dân đảng đến Cộng sản đảng.

Lý và thực trong thời hiện đại

Sau Thế Chiến II, cả thế giới cùng công nhận mô hình Westphalia. Mô hình đó là cơ sở ý thức hệ của Liên Hợp Quốc (cấm xâm lược, mỗi nước một phiếu), cũng là chỗ bám để các nước thuộc địa đòi hỏi quyền tự quyết của mình. Chính trên căn bản này mà Ấn Độ và Trung Quốc đã đề ra “năm nguyên tắc chung sống hòa bình” (tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hòa bình). Những nguyên tắc này cũng được Trung Quốc và Việt Nam coi như một căn bản trong quan hệ giữa hai quốc gia. Nói cách khác, mô hình thế giới truyền thống kiểu Trung Quốc mà các triều đình Việt Nam và Trung Hoa chia sẻ trước kia đã không còn hiệu lực pháp lý. Bên cạnh đó, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa còn có chung một mô hình thế giới nữa. Theo đó, thế giới chia làm hai phe, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, trong đó Việt Nam và Trung Quốc cùng thuộc phe xã hội chủ nghĩa, tức là như “anh em một nhà”.

Trong những năm 50 và 60, Việt Nam coi Liên Xô và Trung Quốc là hai nước đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là “anh cả” và “anh hai”. Điều này có vẻ như Việt Nam trùng quan điểm với Trung Quốc (Liên Xô và Trung Quốc là anh cả và anh hai của phe xã hội chủ nghĩa), khác quan điểm với Liên Xô (Liên Xô một mình lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa). Nhưng thực chất có sự khác biệt quan trọng giữa ba quan điểm của ba nước. Trung Quốc vẫn công nhận phe xã hội chủ nghĩa lãnh đạo bởi Liên Xô, nhưng điểm mấu chốt mà Trung Quốc đòi hỏi là họ phải được độc lập, không bị phụ thuộc vào “anh cả”. Vì thế mà Mao muốn Liên Xô chia sẻ kỹ thuật làm bom nguyên tử với Trung Quốc. Nhưng Liên Xô muốn các nước xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào mình nên từ chối cho Trung Quốc công nghệ nguyên tử. Đây là nguyên nhân sâu xa và căn bản của sự “bất hòa” giữa hai nước trong những năm về sau. Về phía Việt Nam, để phục vụ mục tiêu hoàn toàn giải phóng miền Nam, Việt Nam cần cả hai cường quốc xã hội chủ nghĩa, còn chuyện họ có phụ thuộc vào nhau hay không thì không quan trọng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn Khrushchev cầm quyền ở Liên Xô, Hà Nội bất đồng với Mátxcơva trên hai điểm căn bản. Thứ nhất là chủ trương chung sống hòa bình giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Chính sách này làm Hà Nội bất mãn, vì họ không tin Mỹ cũng muốn chung sống hòa bình, bằng chứng của họ là việc Washington ngày càng can thiệp sâu vào miền Nam. Thêm nữa, chủ trương chung sống hòa bình đi ngược lại ý đồ của Hà Nội là quyết tâm giải phóng miền Nam, kể cả bằng vũ lực. Thứ hai là chủ trương xét lại các giáo điều của Lênin và Stalin. Điều này gây hoang mang, xáo trộn tư tưởng trong cán bộ, khi mà Hà Nội lại đang rất cần thống nhất và ổn định tư tưởng để tranh đấu ở miền Nam. Trong lúc đó thì Trung Quốc cũng chủ trương dùng đấu tranh vũ trang để chống Mỹ và giương ngọn cờ chống xét lại để tiếp tục bám giữ các giáo điều. Do đó, tại Hội nghị trung ương 9 khóa 3 Đảng Lao động Việt Nam, tháng 12/1963, cùng với một nghị quyết “giải phóng miền Nam” là một nghị quyết “chống chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô như một sự “ngả về” Trung Quốc. Tuy nhiên, như W. R. Smyser (1980: 80) nhận định, vấn đề đối với Hà Nội không phải là theo Trung Quốc hay ngả về Liên Xô hay giữ một vị trí cân bằng giữa hai bên. Chính sách của Hà Nội theo đuổi một mục tiêu không đổi: giành sự kiểm soát hoàn toàn miền Nam. Và Hà Nội sẽ nghiêng về bên nào ủng hộ mục tiêu đó.

Song chẳng bao lâu sau, vào cuối những năm 60, đầu những năm 70, quan điểm và đường lối đại chiến lược của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu rời xa nhau. Bất đồng sâu sắc với Liên Xô mà không lôi kéo được phe xã hội chủ nghĩa theo mình, Trung Quốc quay ra giương cao ngọn cờ lãnh đạo các nước đang phát triển. Cuối những năm 60, Trung Quốc đưa ra viễn tượng “nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới”, trong đó “nông thôn thế giới” do Trung Quốc lãnh đạo, còn “thành thị thế giới” bao gồm cả Mỹ lẫn Liên Xô. Cũng trong khoảng thời gian này, Liên Xô đưa ra mô hình “ba dòng thác cách mạng thế giới”. Ba dòng thác ấy bao gồm chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước đang phát triển. Theo thuyết của Liên Xô, nước này lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa và lực lượng xã hội chủ nghĩa là chủ lưu của ba dòng thác cách mạng. Như vậy, Liên Xô là lãnh đạo của lãnh đạo. Việt Nam không nhận được vai trò gì quan trọng trong viễn tượng thế giới của Trung Quốc, nhưng vẫn có thể có chỗ đứng danh giá trong mô hình của Liên Xô. Đó là một lý do vì sao Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhanh chóng tiếp thu lý luận “ba dòng thác cách mạng” của Suslov, đồng thời gắn vào đó hình ảnh Việt Nam là “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và “mũi nhọn của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”.

Ngoài ra, cũng trong khoảng thời gian cuối những năm 60, đầu những năm 70, một loạt biến cố quan trọng đã xảy ra trong chính sách và mối quan hệ của các nước lớn liên quan đến Việt Nam. Năm 1966, căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô bùng cháy thành xung đột biên giới. Năm 1967, Mỹ tổn thất nặng vì chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Johnson không dám ra tranh cử tổng thống. Năm 1968, Nixon trúng cử tổng thống Mỹ, chuyển sang chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, một giáo sư sử học đặc biệt tâm đắc phương thức “cân bằng quyền lực” (balance of power), phương thức mà theo ông đã giúp châu Âu duy trì hòa bình trong suốt một thế kỷ (từ sau Chiến tranh Napoléon đến trước Thế chiến thứ 1), bí mật sang Trung Quốc thăm dò khả năng dùng nước này làm đối trọng với Liên Xô. Năm 1972, nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Nixon, hai nước ký Tuyên bố chung Thượng Hải, đặt nền móng cho liên minh chiến lược chống lại Liên Xô. Sự bắt tay của Trung Quốc với Mỹ càng làm Việt Nam xích lại gần Liên Xô. Như Eero Palmujoki (1997: 48) nhận xét, việc Hà Nội tiếp thu lý luận “ba dòng thác cách mạng” là để thể hiện chính sách thân Liên Xô, vì quan điểm “ba dòng thác cách mạng” mà Liên Xô đưa ra năm 1969 về cơ bản không khác gì quan điểm “ba lực lượng cách mạng thế giới” mà Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân đã thông qua vào năm 1960.

Năm 1975, chiến tranh kết thúc, nước Việt Nam thống nhất, quan hệ Việt-Trung đi vào một bối cảnh mới. Sự nghiệp “giải phóng miền Nam” đã hoàn tất, Việt Nam phải chuyển sang chiến lược lớn mới. Mục tiêu của sự nghiệp mới là “xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước”, mà một nội dung chính là đưa Việt Nam tiến kịp các nước phát triển về kinh tế. Lãnh đạo Việt Nam lúc đó tin tưởng rằng với vị thế rất cao trên trường quốc tế sau khi đã chiến thắng siêu cường số 1 thế giới, Việt Nam hoàn toàn có thể tranh thủ được nguồn lực của cả hai phe, của Liên Xô (vì Việt Nam đã có thành tích thắng Mỹ) cũng như của Mỹ (vì Mỹ đã hứa viện trợ nhiều tỉ đô la bồi thường chiến tranh), để thực hiện mục tiêu này. Song tính toán của Việt Nam hoàn toàn dựa trên sự hiểu sai thế giới bên ngoài, nhất là hiểu sai các nước lớn có ảnh hưởng quyết định đến số phận của Việt Nam là Mỹ, Trung Quốc cũng như Liên Xô. Không như Việt Nam nghĩ, Liên Xô mạnh tay giúp Việt Nam phần nhiều vì Việt Nam đứng trên tuyến đầu chống kẻ thù chiến lược của Liên Xô chứ không hẳn vì Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội cho bản thân. Bởi vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác đã cắt giảm mạnh viện trợ cho Việt Nam, thay vì tiếp tục cho không để Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khác với tin tưởng của Việt Nam, Mỹ chỉ giận chứ không sợ Việt Nam sau khi thua cuộc chiến. Do đó, Washington nhất định không chấp nhận lấy việc Mỹ viện trợ (Hà Nội đòi 3,2 tỉ đô la) làm điều kiện để bình thường hóa quan hệ. Đối với Trung Quốc, Việt Nam cho rằng cái uy chiến thắng siêu cường Mỹ sẽ khiến người láng giềng phương bắc phải nể. Nhưng sự mạnh lên của Việt Nam lại khiến Bắc Kinh coi Hà Nội như một đối thủ cần ngăn chặn. Do đó, Trung Quốc đã kết liên chiến lược với Campuchia để gây sức ép với Hà Nội từ phía nam.

Năm 1978, Trung Quốc đi vào một khúc quanh lịch sử. Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền – lần này không còn Mao Trạch Đông ngồi trên nữa vì ông đã chết từ 1976 – phát động một đại chiến lược mới. Vẫn hoài bão cũ: đưa Trung Quốc trở thành đại cường quốc thế giới, nhưng nhiệm vụ mới: “4 hiện đại hóa”, và phương thức thực hiện mới: tranh thủ sự cộng tác của phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Trung Quốc từ bỏ quan điểm đấu tranh giai cấp trong quan hệ quốc tế, phấn đấu làm đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ. Mô hình “3 thế giới” trong đó Trung Quốc có sứ mệnh lãnh đạo “thế giới thứ ba” (các nước đang phát triển), liên kết với “thế giới thứ hai” (các nước công nghiệp phát triển nhưng không phải siêu cường), để lật đổ sự thống trị của “thế giới thứ nhất” (gồm hai siêu cường Mỹ và Liên Xô), không còn giá trị. Thay vào đó là lợi ích dân tộc thuần túy và tư duy thực dụng: Trung Quốc phải tranh thủ được nước mạnh nhất thế giới về năng lực kinh tế, khoa học và quân sự, bất kể nước đó “màu gì” (Đặng: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”).

Các sự kiện có tính bước ngoặt trong hai năm 1977-78: Sự đổ vỡ trong quan hệ Việt-Trung, Mỹ cự tuyệt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Việt Nam gia nhập khối kinh tế của Liên Xô (Hội đồng Tương trợ Kinh tế) và ký liên minh phòng thủ (Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác) với Liên Xô và các nước trong khối Vácsava, Campuchia gây hấn biên giới tây nam Việt Nam và Việt Nam đưa quân vào thay đổi chính phủ của Campuchia, diễn ra như là kết quả của sự đan xen đại chiến lược giữa các nước liên hệ, tiếp theo một chuỗi các sự kiện đã khởi sự từ cuối những năm 60, đầu những năm 70. Cuối năm 1978, Trung Quốc lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, đầu năm 1979 đưa quân đánh Việt Nam trên toàn tuyến biến giới phía bắc, Việt Nam bị cả thế giới ngoài các nước thân Liên Xô tẩy chay. Việt Nam buộc phải chuyển sang một chiến lược lớn khác.

Liệu lịch sử có thể khác đi được không? Chẳng hạn như nếu sau năm 1975, Việt Nam không giải tán Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hoặc thực hiện “một nước, hai chế độ”, không cải tạo công thương ở miền Nam, không nghiêng về một nước lớn nào mà tìm cách cân bằng ảnh hưởng của cả ba cường quốc Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, cố gắng tranh thủ nguồn lực của tư bản trong nước cũng như quốc tế, giữ thể diện cho Mỹ (như cha ông đã từng làm với Trung Quốc sau khi thắng họ) để bình thường hóa quan hệ và tranh thủ nguồn lực của Mỹ. Như Trần Quang Cơ (2001/2003) nhận định, trong các năm 1977-78, “ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực” (tr. 6). Theo ông, Việt Nam đã có 4 sai lầm lớn là 1) không duy trì quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, 2) quá cứng nhắc bắt Mỹ phải viện trợ, bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1977, 3) không gia nhập khối ASEAN từ 1976 khi cả 6 nước này đều muốn Việt Nam tham gia, 4) dính líu quá sâu và quá lâu vào Campuchia (tr. 7). Liệu những “sai lầm” này có phải là tất yếu không và nếu chúng không xảy ra thì tình hình có khác đi cơ bản hay không? Khó có thể trả lời những chữ “nếu” khi lịch sử đã là lịch sử. Song có thể thấy để chuyển lịch sử đi theo hướng khác đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Trước hết, những “sai lầm” nói trên dường như là kết quả của một sự “cộng hưởng chiến lược” làm cho cơ hội khác đi của lịch sử càng ngày càng thu hẹp. Sự cự tuyệt và thái độ thù địch của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975 càng làm cho Hà Nội thấy không cần thiết phải để Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại. Ngược lại, việc Việt Nam khăng khăng bắt Mỹ phải viện trợ làm điều kiện cho bình thường hóa đã góp phần thu hẹp cơ hội này, khiến Ngoại trưởng Cyrus Vance không còn con bài nào để chơi, và khi mà Cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski đã bắt tay được với Trung Quốc thì sau đó Việt Nam đã trở thành một thứ “con tin” trong quan hệ Mỹ-Trung ( bạn đọc có thể xem Chanda (1986) để tìm hiểu kỹ hơn giai đoạn lịch sử bước ngoặt 1975-78). Thứ hai, nếu Việt Nam đi tìm một vị trí cân bằng giữa ba nước lớn, nhiều khả năng là các nước sẽ áp dụng cho Việt Nam một công thức như kiểu Nam Tư. Song, sau một chiến thắng vĩ đại như năm 1975, hình ảnh một “Nam Tư phương Đông” khó lòng hấp dẫn bằng hình ảnh ”tiền đồn phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và “mũi nhọn phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”.

Các sự kiện năm 1978-79 đã xô đẩy Việt Nam vào một đại chiến lược mới. Phải can dự vào Campuchia, bị chiến tranh với Trung Quốc và bị phần lớn thế giới cô lập, Việt Nam buộc phải tìm kiếm cho mình một bảo đảm an ninh bằng cách lập vành đai an toàn ở Đông Dương, kết giao chặt chẽ và toàn diện với Liên Xô. Bởi thế, trong những năm 1980, quan hệ với Liên Xô trở thành “hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại” của Việt Nam, quan hệ với Lào và Campuchia trở thành “mối quan hệ đặc biệt”, thành “liên minh chiến lược ba nước Đông Dương”. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam liên minh với một nước lớn khác để chống lại Trung Quốc. Cũng vậy, khu vực ảnh hưởng của Việt Nam ở Đông Dương trong giai đoạn này rộng hơn bất cứ thời kỳ nào khác trong lịch sử.

Các diễn biến của quan hệ Việt-Trung trong thời hiện đại cũng phơi bày khoảng cách lớn giữa mặt “hình thức” và mặt “thực chất” của quan hệ giữa hai nước. Về hình thức, hai nước đều thừa nhận trật tự thế giới kiểu Westphalia (mỗi quốc gia có chủ quyền như nhau) và kiểu Zhdanov (thế giới gồm hai phe: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa). Nhưng thực chất, hành xử của Việt-Trung lại theo những lôgíc hoàn toàn khác. Không phải “Westphalia” mà là “thiên triều”: Trung Quốc đánh Việt Nam mà không cần bị tấn công trước để “dạy cho Việt Nam một bài học”. (Mỹ 1964 theo “Westphalia”: phải có sự kiện vịnh Bắc Bộ mới có cớ đưa quân vào Việt Nam). Không phải “phe xã hội chủ nghĩa một bên, phe tư bản chủ nghĩa một bên” mà là “chính trị thực tế” (Realpolitik – chính sách đối ngoại dựa trên thực tế tranh giành quyền lực, không dựa trên tiêu chuẩn đạo đức và ý thức hệ) và “cân bằng quyền lực”: Campuchia (xã hội chủ nghĩa) đánh Việt Nam (xã hội chủ nghĩa), Việt Nam đánh Campuchia, Trung Quốc (xã hội chủ nghĩa) đánh Việt Nam, Mỹ (tư bản chủ nghĩa) liên minh với Trung Quốc, Thái Lan (tư bản chủ nghĩa) làm hậu phương cho Khmer Đỏ.

Xung đột nhỏ lồng trong xung đột lớn, tất cả chịu sự chi phối của quan hệ giữa các nước lớn. Quan hệ Việt-Trung rơi vào một bối cảnh mới khi chiến lược của một nước lớn trong tam giác Mỹ-Trung-Xô thay đổi. Điều này đã xảy ra sau khi Nixon lên cầm quyền ở Mỹ (1968), khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền ở Trung Quốc (1978), và một lần nữa xảy ra sau khi Gorbachov lên cầm quyền ở Liên Xô (1985). Gorbachev thực hiện một phương thức đại chiến lược mới. Vẫn nhắm mục tiêu giữ vững vị trí siêu cường của Liên Xô nhưng bằng cách cải tổ kinh tế (perestroika), minh bạch hóa nền chính trị (glasnost), hòa dịu với phương Tây và Trung Quốc. Ông định thông qua chính sách đối ngoại mới để 1) giảm áp lực đe dọa quân sự từ Mỹ và Trung Quốc, 2) nhận được vốn và công nghệ của phương Tây, nhằm vực dậy nền kinh tế kém hiệu năng của Liên Xô. Không rõ có phải do đánh giá đúng ý đồ của đối thủ hay không mà Trung Quốc đặt ba điều kiện tiên quyết để bình thường hóa quan hệ Xô-Trung là Liên Xô phải rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt ủng hộ Việt Nam can thiệp vào Campuchia, giảm quân dọc biên giới Xô-Trung. Sự cứng rắn của Đặng Tiểu Bình cuối cùng đã buộc Gorbachov nhượng bộ cả ba điều kiện. Lợi dụng xu hướng Liên Xô bỏ rơi Việt Nam để tập trung vào các vấn nạn trong nước, tạo ra khoảng trống quyền lực ở khu vực Biển Đông, đầu năm 1988, Trung Quốc tiến xuống cắm chốt trên quần đảo Trường Sa, nơi trước nay họ chưa hiện diện thường xuyên về quân sự. Trong chiến dịch này, Trung Quốc chọn mỗi vùng một vị trí chiến lược để đổ bộ: đá Chữ Thập ở rìa phía tây, đá Subi ở mỏm phía bắc, đá Châu Viên ở dải phía nam, và ở cụm trung tâm là các đá Gaven, Kennan và Gạc Ma. Tại Gạc Ma đã xảy ra đụng độ với Việt Nam sáng ngày 14/3/1988, kết quả Trung Quốc chiếm được đảo này và Việt Nam mất ba tàu chiến cùng hơn 70 thủy thủ.

Hai đại chiến lược, hai thế giới quan

Sự thay đổi đại chiến lược của Liên Xô cộng với tình hình bản thân của Việt Nam (kinh tế suy sụp, chiến tranh ở Campuchia trở thành gánh nặng) cũng buộc Việt Nam phải tìm hướng đi mới. Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13 điều chỉnh chiến lược từ “hợp tác toàn diện với Liên Xô” sang “đa dạng hóa, đa phương hóa”. Nghị quyết này là tác phẩm của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, thể hiện bước ngoặt quan trọng trong tư duy đối ngoại cũng như đánh dấu bước chuyển lớn trong chính sách quốc tế của Việt Nam. Giống như Nghị quyết 9 năm 1963, Nghị quyết 13 không được đưa ra công khai, chỉ từ nửa sau thập niên 90 mới được nhắc đến như văn kiện mở màn chính sách đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương hóa” mà Đại hội đảng 7 (1991) đã thông qua. Cơ sở lý luận của Nghị quyết 13 là một viễn tượng thế giới hoàn toàn khác với những gì Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn mường tượng từ năm 1948, thậm chí từ 1930. Trong tinh thần “đổi mới tư duy”, kể cả tư duy đối ngoại, Phan Doãn Nam, cánh tay phải của Nguyễn Cơ Thạch về lý luận, viết bài “Một vài suy nghĩ về đổi mới tư duy đối ngoại” đăng trên Tạp chí Cộng sảntháng 2/1988 như một bước chuẩn bị cho Nghị quyết 13. Bài báo chỉ trích mô hình “hai phe, bốn mâu thuẫn”, nền tảng thế giới quan của chính sách đối ngoại Việt Nam từ 1948, là giáo điều, không đúng với thực tế. Thay vào đó, bài báo đề xuất coi thế giới ngày nay đầy dẫy các mâu thuẫn phức tạp với đặc điểm nổi bật là sự “tùy thuộc lẫn nhau” giữa các quốc gia bất kể chế độ chính trị-xã hội, một quan điểm vay mượn từ “tư duy mới” của Liên Xô. Theo bài báo, chính sự tùy thuộc lẫn nhau đã làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản và thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc. Không nói ra, nhưng tư tưởng này đã ngầm bác bỏ quan điểm “chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” của Lênin (chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn phát triển tột cùng của nó sẽ dẫn đến hình thức tư bản độc quyền, dẫn đến chủ nghĩa đế quốc, là nguồn gốc của chiến tranh thế giới, cách mạng vô sản là con đường duy nhất bảo vệ hòa bình thế giới), học thuyết nền tảng cho chính sách đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa từ xưa đến nay.

Mặc dù Nghị quyết 13 với đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa” được thông qua nhưng cơ sở lý luận của nó không được hoàn toàn chấp nhận. Lý do là trong những vấn đề lý luận có tính nền tảng, lãnh đạo Việt Nam quyết định trên cơ sở hoàn toàn nhất trí. Chỉ cần “một số đồng chí” không thông thì vẫn phải gác lại bàn sau (Porter 1990: 13). Kết quả là “tư duy mới” và “tư duy cũ” cùng nhau tồn tại song song như một kiểu “tam giáo đồng nguyên” (so sánh của Vũ Quang Việt).

Một lý do nữa cho sự củng cố trở lại của thế giới quan “hai phe, bốn mâu thuẫn” là ảnh hưởng của các sự kiện ở Đông Âu năm 1989 vào Việt Nam. Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đã dẫn đến tranh cãi gay gắt trong giới lãnh đạo Việt Nam. Một bên, trong đó có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, khẳng định nguyên nhân chủ yếu là do “mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc hòng tiêu diệt chủ nghĩa xã hội”. Bên kia, trong đó có Nguyễn Cơ Thạch, cho rằng nguồn gốc sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu là sự quản lý yếu kém và tư tưởng giáo điều gắn với một mô hình chủ nghĩa xã hội sai lầm. Phát biểu tại Hội nghị trung ương 7 khóa 6 (tháng 8/1989), Nguyễn Văn Linh nói sự bác bỏ quan điểm “hai phe, bốn mâu thuẫn” đã khiến một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa đế quốc đã thay đổi bản chất. Câu nói ám chỉ Nguyễn Cơ Thạch và đồng chí. Mâu thuẫn về thế giới quan giữa hai bên được Nguyễn Văn Linh chốt lại: “Chừng nào chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại, chừng nào chủ nghĩa xã hội chưa thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, thì chừng đó học thuyết của chủ nghĩa Lênin vẫn giữ nguyên giá trị của nó” (“Phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Bế mạc Hội nghị 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng”, Tạp chí Cộng sản, 9/1989, tr. 6). Tuy nhiên, không bên nào áp đảo được bên nào nên tại Hội nghị trung ương 8, tháng 11/1989, giải pháp “hòa cả làng” được áp dụng. Nghị quyết của Hội nghị một mặt chỉ ra nguyên nhân của sự sụp đổ chế độ ở Đông Âu là “những sai lầm chủ quan, duy ý chí” của lãnh đạo các nước đó, mặt khác khẳng định “chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng những khó khăn bên trong của chủ nghĩa xã hội để thực hiện các mưu đồ chống cộng của chúng”.

Hai năm 1988-89 là thời gian bản lề cho chính sách đối ngoại của Việt Nam suốt những năm sau. Thời gian này hình thành thế “hai chân” trong tư duy đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời hậu Chiến tranh Lạnh dựa trên hai đại chiến lược khác nhau. Sở dĩ là hai mà không phải là một vì chúng mang hai ý đồ khác nhau và dựa trên hai quan điểm trái ngược nhau về thế giới.

Chiến lược lớn thứ nhất dựa trên thế giới quan Mác-Lê, nhìn thế giới qua lăng kính “2 phe, 4 mâu thuẫn”, coi mâu thuẫn giữa “chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản” là mâu thuẫn cơ bản nhất, đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản là động lực cơ bản cho vận động chính trị toàn cầu. Bước vào thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, sự sụp đổ của Liên Xô đặt ra cho Việt Nam một yêu cầu mới. Từ góc nhìn của thế giới quan Mác-Lê, mục tiêu lớn của Việt Nam được xác định là phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội thế giới, Việt Nam phải coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược, Mỹ là kẻ thù chiến lược, phải đặt trọng điểm an ninh quốc gia vào chống “diễn biến hòa bình”. Chiến lược lớn này lấy “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm các chương 9, 10 và 14 trong hồi ký của Trần Quang Cơ (2001/2003) về quan điểm chiến lược theo hướng này của Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh).

Chiến lược lớn thứ hai dựa trên thế giới quan mới được hình thành trong thời kỳ “đổi mới tư duy” cuối những năm 80. Thế giới quan này gồm hai chiều: kinh tế và chính trị. Về kinh tế, nó coi thế giới như một thị trường thống nhất, liên thuộc vào nhau, vận động theo xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa. Các nước muốn sống còn không có cách nào khác là phải tham gia vào “phân công lao động quốc tế mới”, phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới và hội nhập khu vực. Về chính trị, mâu thuẫn cơ bản được coi là mâu thuẫn giữa các quốc gia-dân tộc, cục diện thế giới về cơ bản được xem là chịu sự chi phối của mối tương quan giữa các “nước lớn”. Chiến lược của Việt Nam trong tình hình mới (các nước lớn hòa hoãn, chuyển sang chạy đua kinh tế, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập khu vực gia tăng) là phải “hội nhập” mạnh mẽ vào thế giới và khu vực, đặc biệt tranh thủ nguồn lực của các trung tâm tài chính-công nghệ thế giới (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu), thực hiện ngoại giao đa phương, tạo thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Trọng điểm an ninh quốc gia, theo chiến lược lớn thứ hai, là chống “tụt hậu”. Chiến lược lớn này lấy “phát triển, hiện đại hóa” làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm cuốn sách của Nguyễn Cơ Thạch (1998) và thư gửi Bộ chính trị của Võ Văn Kiệt (1995) về quan điểm chiến lược theo hướng này).

Một câu hỏi đặt ra là tại sao ở Trung Quốc các mục tiêu phát triển, hiện đại hóa, cũng như chống đế quốc (TQ dùng từ “bá quyền”), bảo vệ chủ nghĩa xã hội cùng nằm trong một đại chiến lược mà ở Việt Nam lại là hai? Mấu chốt nằm ở chỗ Trung Quốc không chống đế quốc theo định nghĩa của Lênin (đế quốc đồng nghĩa với tư bản) mà chống bất cứ nước nào có mưu đồ bá quyền trên thế giới cũng như ở châu Á (Trung Quốc từng gọi Liên Xô là “đế quốc xã hội”), và Trung Quốc chỉ bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc chứ không bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế giới như Việt Nam (lời Đại sứ Trung Quốc nói với Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 27/7/1990, xem hồi ký Trần Quang Cơ, tr. 19). Như vậy tuy nhìn bề ngoài thì mục tiêu của Trung Quốc và Việt Nam có vẻ không khác nhau là mấy nhưng về nội dung thì khác nhau cơ bản vì dựa trên hai thế giới quan khác hẳn nhau. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công đã chỉ ra điều này tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 19/6/1990: “Trung Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi ích chung của chủ nghĩa xã hội. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không chịu đâu. Không nên ảo tưởng” (Trần Quang Cơ 2003: 43). Điều có vẻ nghịch lý là chiến lược “phát triển, hiện đại hóa” (không chủ trương liên minh chiến lược với Trung Quốc) dựa trên một thế giới quan giống với của Trung Quốc, trong khi chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” (chủ trương liên minh chiến lược với Trung Quốc) lại có một thế giới quan khác hẳn của Trung Quốc.

Trong những năm 90, một sự “phân công lao động” giữa hai chiến lược lớn đối ngoại đã được dàn xếp. Sự phân công này thể hiện rõ trong cơ cấu và cơ chế lãnh đạo sau Đại hội Đảng 7. Chủ tịch nước Lê Đức Anh, đại diện chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội”, phụ trách khối ngoại giao-quốc phòng-an ninh. Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đại diện cho chiến lược “phát triển, hiện đại hóa”, phụ trách mảng kinh tế. Tổng bí thư Đỗ Mười đóng vai trò dàn xếp giữa hai chiến lược, là người quyết định cuối cùng.

Hai nhà lãnh đạo cao cấp thúc đẩy đường lối “phát triển” và đại diện cho thế giới quan và quan điểm chiến lược này là Nguyễn Cơ Thạch (Ngoại trưởng 1980-1991) và Võ Văn Kiệt (Thủ tướng 1991-1996). Những người kiên quyết giữ vững thế giới quan Mác-Lê và chủ trương đường lối chiến lược tương ứng là Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư 1986-1991), Lê Đức Anh (Chủ tịch nước 1991-1996), Đào Duy Tùng (Thường trực Ban Bí thư 1991-1996), Nguyễn Đức Bình (lý thuyết gia trưởng của Đảng 1991-1996), Lê Khả Phiêu (Tổng bí thư 1997-2001). Như vậy, mặc dù chính sách ngoại giao “đa dạng hóa, đa phương hóa” được các kỳ Đại hội Đảng liên tục khẳng định tính chính thống, quan điểm “hai phe, bốn mâu thuẫn” vẫn ở thế thượng phong. Thế thượng phong của đại chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” có phần do cú sốc tâm lý bởi các “sự kiện định hướng” của các năm 1989-90-91. Đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, các đảng “bạn” mất chính quyền ở hàng loạt nước, sự tan rã của Liên Xô.

Suy nghĩ thông thường cho rằng các sự kiện này khiến cho Việt Nam mất đi nguồn viện trợ lớn, thị trường truyền thống và chỗ dựa chính về ngoại giao. Thật ra, các sự kiện Đông Âu năm 1989-90 không có mấy ảnh hưởng “khách quan” lên nền kinh tế Việt Nam mà phần nhiều là ảnh hưởng “chủ quan” lên tâm lý người lãnh đạo. Số liệu thống kê cho thấy năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô và gạo ở mức độ đáng kể. Năm 1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, trong khi chỉ 3 năm trước (1986) lượng gạo xuất khẩu là 0,158 triệu tấn. Cũng ngay trong năm 1989, giá trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi (các nước tư bản) tăng vọt lên 1,139 tỉ đô la từ con số 350 triệu đô la của năm 1988. Trong khi năm 1988, xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ không chuyển đổi (các nước xã hội chủ nghĩa) còn chiếm 55,6 % tổng giá trị xuất khẩu thì năm 1989, xuất khẩu sang các nước tư bản đã chiếm 58,5% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 1991, tuy xuất khẩu sang thị trường các nước xã hội chủ nghĩa sụt hẳn xuống còn 80 triệu rúp từ con số 1,1 tỉ rúp của năm trước, nhưng xuất khẩu sang các nước tư bản cũng tăng mạnh lên gần 1,9 tỉ đô la, khiến tổng giá trị xuất khẩu năm 1991 tuy thấp hơn năm 1990 nhưng vẫn cao hơn năm 1989 (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1986-1991. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1992, tr. 93-94). Do sự chuyển hướng chiến lược trong các năm 1987-88 cho nên ngay trong thời gian xảy ra các sự biến ở Đông Âu và Liên Xô (1989-91), Việt Nam đã tạo được xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, tạo được chỗ bám vào thị trường thế giới. Vốn đầu tư nước ngoài (đăng ký) tăng từ 371 triệu đô la năm 1988 lên 582 triệu năm 1989, 839 triệu năm 1990 và 1,322 tỉ năm 1991. Xuất khẩu sang các nước tư bản tăng từ 448 triệu đô la năm 1988 lên 1,138 tỉ năm 1989, 1,352 tỉ năm 1990, và 2,010 tỉ năm 1991. Nhập khẩu từ các nước tư bản cũng tăng từ 804 triệu đô la năm 1988 lên 879 triệu năm 1989, 1,372 tỉ năm 1990, và 2,049 tỉ năm 1991. Như vậy ngay trong năm 1991, tức là trước khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã thu được ở thị trường các nước tư bản khoảng 2 tỉ đô la tiền xuất khẩu, gấp đôi số tiền thu được từ bán hàng sang các nước xã hội chủ nghĩa vào thời điểm đỉnh cao trước đây (1,1 tỉ rúp năm 1990). Mặt khác, nếu viện trợ kinh tế và vay nợ từ các nước xã hội chủ nghĩa (ước khoảng 1-2 tỉ đô la một năm trong những năm 80) mất đi thì Việt Nam lại được bù đắp một khoản tương ứng từ đầu tư trực tiếp của nước ngoài cũng như các khoản viện trợ và cho vay từ các nước tư bản. Năm 1991 Việt Nam nhận được 1,079 tỉ đô la cho vay và 526 triệu viện trợ từ nước ngoài. Ngoài ra còn có hơn 1,3 tỉ đô la đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cam kết. (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1995. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1996, tr. 51, 64, 253; các số liệu thống kê chỉ có tính tương đối, lưu ý sự khác nhau giữa TCTK 1992 và TCTK 1996 về giá trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi năm 1991). Tóm lại, không thể nói sự tan rã của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa đã tác hại nặng nề lên nền kinh tế Việt Nam.

Ngược lại, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước liên tiếp đã gây phản ứng tâm lý mạnh trong đông đảo cán bộ lãnh đạo Việt Nam. Sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa gây ra hụt hẫng nghiêm trọng trong hình dung về thế giới của họ. Nhìn thế giới qua lăng kính “2 phe, 4 mâu thuẫn” nhiều người trong số họ lo sợ rằng sau Đông Âu sẽ đến lượt Việt Nam, cảm nhận mối nguy hiểm lớn nhất xuất phát từ Mỹ, coi liên minh giữa các chế độ xã hội chủ nghĩa còn lại là yêu cầu khách quan của tình thế. Yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đối với họ trở nên cấp bách hơn yêu cầu phát triển, hiện đại hóa. Hai yêu cầu này tự chúng không mâu thuẫn với nhau. Song đặt trong hoàn cảnh thực tế, muốn phát triển, hiện đại hóa thì phải cộng tác với các trung tâm kinh tế và khoa học hiện đều do các nước tư bản phương Tây nắm, yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trở nên mâu thuẫn với yêu cầu phát triển, hiện đại hóa.

Do người lãnh đạo cao nhất trong thời kỳ 1990-91 nhiệt tâm theo đuổi mục tiêu đại chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh toàn cầu với chủ nghĩa tư bản/đế quốc, mặc dù Bộ Chính trị bất đồng về đánh giá tình hình quốc tế cũng như phương hướng đối ngoại, động cơ đại chiến lược này đã chi phối Việt Nam trong quá trình “bình thường hóa” quan hệ với Trung Quốc cũng như trong việc tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 10/4/1990: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau … Một Campuchia thân thiện với Trung Quốc, thân thiện với Việt Nam là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho Campuchia … Không để Liên Hợp Quốc nhúng tay vào vì Liên Hợp Quốc là Mỹ, Thái Lan là Mỹ” (Trần Quang Cơ 2003: 33).

Cùng một chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nhưng mỗi đại chiến lược có một động cơ khác nhau. Chiến lược lớn thứ nhất xuất phát từ động cơ “đoàn kết với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”. Chiến lược lớn thứ hai xuất phát từ động cơ “đa phương hóa quan hệ, phá thế bị bao vây”. Quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trong các năm 1990-91, về lý thì là “thực hiện Nghị quyết 13 Bộ Chính trị” nhưng thực chất không phải nhằm đa phương hóa, tạo thế cân bằng giữa các nước lớn, như tinh thần của những người dự thảo Nghị quyết 13, mà động cơ thực sự, như Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh giải thích cho lãnh đạo Campuchia về cuộc gặp cấp cao Việt-Trung ở Thành Đô, là: ”Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Trần Quang Cơ 2003: 51).

Mặc dù Trung Quốc nhiều lần nói thẳng với Việt Nam là họ không chấp nhận “giải pháp đỏ” ở Campuchia cũng như không thể bắt tay với Việt Nam theo kiểu hai nước xã hội chủ nghĩa liên minh lại chống Mỹ, và mặc dù trong Bộ Chính trị cũng đã có nhiều ý kiến rằng đại chiến lược của Trung Quốc là tranh thủ Mỹ và phương Tây để thực hiện “bốn hiện đại hóa”, do đó không thể liên minh chiến lược với Việt Nam, song các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam vẫn hy vọng một ngày kia Trung Quốc sẽ “hiểu ra” mà bắt tay với Việt Nam chống Mỹ (Trần Quang Cơ 2001/2003). Trong cuộc gặp cấp cao Việt-Trung 5-10/11/1991 hoàn tất việc bình thường hóa quan hệ, Việt Nam lại đề nghị Trung Quốc “đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc”, song Trung Quốc đã khẳng định hai bên là “đồng chí, không là đồng minh” (Thayer 1994). Cho đến tận cuối những năm 1990, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu vẫn tiếp tục đề nghị Trung Quốc kết đồng minh bảo vệ chủ nghĩa xã hội và một lần nữa lại bị bác bỏ (N.S.P., “Thư Hà Nội”, Diễn Đàn, số 104, tháng 2/2001).

Vậy tại sao vẫn kéo dài tình trạng “lưỡng giáo đồng nguyên” mà không hợp được hai mục tiêu vào làm một, chẳng hạn như mô hình Trung Quốc? Có thể do nhiều nguyên nhân tác động rất phức tạp với nhau. Cũng có thể vì những lý do rất giản dị như thói quen, nếp nghĩ, niềm tin của một số người rất có thế lực v.v. Bài viết này chỉ nêu một giả thuyết có tính gợi ý. Thứ nhất, như trên đã phân tích, mục tiêu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và chống bá quyền của Trung Quốc khác mục tiêu bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc của Việt Nam về nội dung nên không thể lấy Trung Quốc làm gương. Mặt khác nếu hai đại chiến lược khác nhau cả về mục tiêu phấn đấu lẫn thế giới quan làm nền tảng thì không còn điểm chung nào để có thể hòa vào làm một. Thứ hai, vì cả hai đại chiến lược của Việt Nam sau Chiến tranh Lạnh đều không tới, đều bất cập, nhưng mỗi cái cũng lại có điểm mạnh riêng, và điểm mạnh của chiến lược này lại là điểm yếu của chiến lược kia, cho nên cả hai đứng riêng bổ xung cho nhau thì dễ mà cái này đồng hóa cái kia thì khó, và cũng chưa tìm ra được cái nào khác thay thế, cho nên cứ nhùng nhằng “lưỡng giáo đồng nguyên”.

Đại chiến lược chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh Việt-Trung cùng phe chống Mỹ, cũng như khi xưa, cả hai cùng là “văn minh” chống lại “man di”, thì nay, cùng “xã hội chủ nghĩa” (hiểu: tiến bộ) chống “tư bản đế quốc” (hiểu: phản động). Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải liên minh với cường quốc xã hội chủ nghĩa lớn nhất. Nhưng không gặp thời cơ vì muộn nhất là từ 1978, Trung Quốc đã không còn coi Việt Nam cùng phe, đồng thời luôn đặt yêu cầu hợp tác với Mỹ lên trên yêu cầu chống Mỹ. Vì thế điểm mấu chốt của chiến lược này không thực thi được.

Đại chiến lược phát triển, hiện đại hóa nhấn mạnh hội nhập, hợp tác với phương Tây, giữ thế cân bằng giữa các cường quốc. Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán phát triển, hiện đại hóa đòi hỏi phải có hòa bình, phải tranh thủ được các nước phát triển nhất. Nhìn chung, chiến lược này là hợp thời vì nó phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và việc tạo thế cân bằng giữa các cường quốc (chủ yếu là giữa Trung Quốc và Mỹ) có thể coi là khả thi trong điều kiện quan hệ các nước lớn đang ở giai đoạn hòa hoãn. Vậy thì điểm yếu của chiến lược “hiện đại hóa” và cũng là điểm mạnh của chiến lược “chống đế quốc” nằm ở đâu? Ở đây thử nêu giả thuyết là chiến lược “bảo vệ chủ nghĩa xã hội” có thể đáp ứng tốt hơn chiến lược “hiện đại hóa” về hai nhu cầu: hãnh diện và an toàn.

Chiến lược “hiện đại hóa” nhận Việt Nam là nước nhỏ, chịu sự chi phối của quan hệ nước lớn, không đóng vai trò gì quan trọng trên trường quốc tế. Nó đề ra mục tiêu phấn đấu là “hóa rồng” như các nước công nghiệp hóa ở Đông Á nhưng không nêu cụ thể hơn. Hóa thành rồng gì? Rồng đầu đàn hay rồng cuối đàn, rồng to hay rồng nhỏ? Nếu chỉ hóa rồng chung chung thì đó mới chỉ là một nửa mong ước của người Việt Nam. Tâm lý Việt Nam thích “ta phải nhất”, không thích làm kẻ “thường thường bậc trung”, càng không thích làm kẻ “vô danh tốt tiểu”. Tuy vẫn quen “luồn lách” nhưng vẫn thích được tiếng là “mũi nhọn”, “tiền đồn”.

Mặt khác, nếu Việt Nam muốn hóa rồng thì phải chọn lựa: 1) hoặc là phải bỏ hệ ý thức vô sản để có thể theo mô hình Đông Á, 2) hoặc vẫn giữ hệ ý thức đó và một mình làm chuyện vô tiền khoáng hậu, 3) hoặc theo sau Trung Quốc, họ đi đâu mình theo đó. Quá trình đổi mới của Việt Nam đã không theo lựa chọn 1. Hiện còn quá sớm để kết luận liệu Việt Nam theo hướng 2 hay hướng 3. Vì nếu đi theo Trung Quốc, Việt Nam rồi cũng sẽ phải từ bỏ ý thức hệ vô sản, phải chấp nhận tư sản, cả trong Hiến pháp lẫn trong Đảng. Có thể Việt Nam còn đang chờ xem, nếu Trung Quốc thành công thì sẽ làm theo. Dù thế nào, việc không chọn hướng 1 mà chọn hướng 2 hoặc 3 có nghĩa rằng nhu cầu an toàn là rất lớn đối với Việt Nam. Thậm chí, trong mắt một số người, hướng thứ ba còn cho sự an toàn kép: cứ để Trung Quốc nghĩ hộ và làm trước, chờ họ thành công mình sẽ làm theo, thêm nữa, bắt chước Trung Quốc sẽ làm Trung Quốc vừa lòng (Điều sau này không hẳn đã đúng). Tuy theo hướng này cũng có rủi ro. Như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có lần nói: “Nếu Trung Quốc thành công, chúng tôi sẽ thành công. Nếu Trung Quốc thất bại, chúng tôi sẽ thất bại” (Nayan Chanda, “Friend of Foe?”, Far Eastern Economic Review, 22/6/2000, tr. 32).

Sau 11/9/2001, thời kỳ chuyển tiếp “hậu Chiến tranh Lạnh” kết thúc, tất cả các nước lớn đều điều chỉnh lại chiến lược của mình. Hay nói đúng hơn, thời kỳ nhì nhằng chiến lược sau CTL đã chấm dứt, các nước lớn đã rõ hơn về đường hướng và mục tiêu đại chiến lược của mình. Liệu Việt Nam có thể đóng vai trò gì trong mô hình trật tự thế giới mới của Mỹ và Trung Quốc? Đây sẽ là một câu hỏi quyết định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tương lai.

Kết luận

Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm lịch sử của nó đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Có lúc Việt Nam là quận huyện của Trung Quốc mà cũng có lúc Việt Nam lại thuộc về Pháp, lấn lướt được Trung Hoa. Có lúc Việt Nam chịu thần phục Trung Quốc nhưng có lúc lại liên minh với Liên Xô để đối đầu lại Trung Hoa. Mỗi giai đoạn như vậy, trong nội bộ Việt Nam cũng như Trung Quốc đều có các quan điểm khác nhau. Phía Việt Nam có phe nhấn mạnh điểm đồng và có phe nhấn mạnh điểm dị. Phía Trung Quốc có phái coi Việt Nam như kẻ trong nhưng cũng có phái xem Việt Nam như người ngoài.

Tuy nhiên, xuyên suốt gần 22 thế kỷ, tương quan vị thế giữa Việt và Trung vẫn mang một hằng số. Quan hệ Việt-Trung có thể ví như quan hệ giữa một người và một con chip (micro- processor) gắn vào thân thể người đó:

không rời nhau được, nhưng lại
không đồng hóa được nhau, nhất là
không bao giờ cùng đẳng cấp,
và nhiều đặc điểm khác.
Xuyên suốt gần 22 thế kỷ, cái nhìn của Trung Quốc về Việt Nam giống như cái nhìn của một người về con chip gắn vào thân thể người đó. Cái nhìn của Việt Nam về Trung Quốc giống như cái nhìn của con chip về cơ thể mà nó gắn vào.

* Cornell University, Ithaca, New York, Mỹ. Tác giả cảm ơn hai người thẩm định của Thời Đại Mới, các anh Cao Huy Thuần, Ngô Vĩnh Long, Keith Taylor, James Anderson và Vũ Hữu Nghị về những phê bình, gợi ý và nhận xét quý báu, đặc biệt cảm ơn anh Vũ Quang Việt đã cung cấp một số tài liệu và ý kiến giá trị cũng như đã khích lệ viết bài này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(một số tác phẩm tiêu biểu về từng đề tài)

Về lịch sử Việt Nam Cổ, Trung và Cận đại, các quan hệ kinh tế-xã hội và đối ngoại, xem: Lê Thành Khôi, Le Viêt-Nam: Histoire et civilisation. Paris: Minuit, 1955; Lê Thành Khôi, Histoire du Viêt Nam: des origines à 1858. Paris: Sudestasie, 1981.
Về lịch sử Việt Nam thời Cổ và Trung đại, các quan hệ kinh tế-xã hội đặt trong bối cảnh quốc tế, xem: Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, Tập 1. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1981.
Về quan hệ Việt-Trung thời Bắc thuộc, sự hình thành ý thức bản ngã Việt từ sự tiếp xúc và cọ sát với các cộng đồng người láng giềng, xem: Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press, 1983.
Về so sánh hai mô hình chính trị Việt Nam (thời Nguyễn) và Trung Quốc (thời Thanh), xem: Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1971.

Về trật tự thế giới kiểu Tàu và quan niệm cổ truyền của Trung Quốc về trật tự thế giới, xem: John K. Fairbank (bt.) The Chinese World Order: Traditional China’s Foreign Relations. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1968; Charles P. Fitzgerald, The Chinese View of Their Place in the World, London: Oxford University Press, 1964.

Về viễn tượng của Việt Nam về thế giới, quốc gia và quốc gia trong thế giới qua các thời kỳ, xem: Alexander L. Vuving, “The References of Vietnamese States and the Mechanisms of World Formation”, Asien, số 79, tháng 4/2001, tr. 62-86.
Về vận động địa chính trị và đại chiến lược của Việt Nam từ cổ xưa đến trước lúc thuộc Pháp, xem: Vũ Hoằng Dương, “Nghĩ vào cuối thế kỷ: Nước non, non nước …” (2 phần), Cánh Én, số 45 và 47, 1995.

Về đại chiến lược của Việt Nam trong thời kỳ Trung đại, cũng như thái độ của Việt Nam với Trung Quốc xem: Trần Quốc Vượng, “Tradition, Acculturation, Renovation: The Evolution Pattern of the Vietnamese Culture”, trong David G. Marr, A. C. Milner (bt.) Southeast Asia in the 9th to the 14th Centuries. Singapore: Institute for Southeast Asian Studies, 1988; Trần Quốc Vượng, “Dân gian và bác học”, in lại trong cùng tác giả, Trong cõi. Garden Grove, CA: Trăm Hoa, 1993, tr. 159-195; Trần Quốc Vượng, “Tây Sơn Quang Trung và công cuộc đổi mới đất Việt ở thế kỷ XVIII”, in lại trong cùng tác giả, Trong cõi. Garden Grove, CA: Trăm Hoa, 1993, tr. 65-75.

Về thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc, trong so sánh với Nhật Bản, xem: Vĩnh Sính, “‘Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên’ – vị trí lịch sử của Trung Quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản”, Diễn Đàn, số 26, tháng 1/1994, tr. 28-30.
Về đặc điểm sự giao lưu giữa Việt Nam với bên ngoài, xem: Trần Quốc Vượng, “Việt Nam: 100 năm giao thoa văn hóa Đông-Tây”, Đất Mới, bộ 3, số 3&4, 1991, tr. 32-44.

Về cách ứng xử của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc nhằm phục vụ mục tiêu đại chiến lược của mình (thời kỳ 1956-1969), xem: W. R. Smyser, The Independent Vietnamese: Vietnamese Communism Between Russia and China, 1956-1969. Athens, Ohio: Ohio University Center for International Studies, Southeast Asia Program, 1980.

Về cuộc xung đột Đông Dương lần 3 và quan hệ Việt-Trung trong ngũ giác Việt Nam-Trung Quốc-Mỹ-Liên Xô-Campuchia thời kỳ sau 1975, xem: Nayan Chanda, Brother Enemy. The War after the War: The History of Indochina since the Fall of Saigon. San Diego: Harcourt Brace Jovanovich, 1986.

Về các thế giới quan làm nền cho chính sách đối ngoại của Việt Nam (Hà Nội) trong thời hiện đại, xem: Eero Palmujoki, Vietnam and the World: Marxist-Leninist Doctrine and the Changes in International Relations, 1975-93, London: Macmillan Press, 1997; Gareth Porter, “The Transformation of Vietnam’s World-view: From Two Camps to Interdependence,” Contemporary Southeast Asia, bộ 12, số 1, 6/1990, tr. 1-19; Võ Văn Kiệt, “Thư gửi Bộ Chính trị”, 9/8/1995, in lại trong Diễn Đàn, số 48, 1/1996, tr. 16-23; Nguyễn Cơ Thạch, Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế giới trong 25 năm tới (1995-2020). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 1998.

Về chặng đường ngoại giao Việt Nam 1975-1991, quan điểm của lãnh đạo và cách xử lý mối quan hệ với Trung Quốc cũng như vấn đề Campuchia, giai đoạn bản lề 1987-91, xem: Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy nghĩ, mimeo, gộp hai bản 2001/2003 (hai chương 13 và 14 về cuộc gặp cấp cao Thành Đô 1990 in lại trên Diễn Đàn, số 134, tháng 11/2003, chương 1 về quan hệ Việt-Mỹ và thời cơ bỏ lỡ năm 1977 trích đăng trong Diễn Đàn, số 136, tháng 1/2004); cũng xem thêm về quan hệ Việt-Trung, quá trình bình thường hóa: Carlyle Thayer, “Sino-Vietnamese Relations: The Interplay of Ideology and National Interest”, Asian Survey, 6/1994.
0