Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thu vien bien Dong. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thu vien bien Dong. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Biển Đông: Đuổi lui tàu giặc sau 11 ngày bị vây hãm

(Infonet- 30/9/13) Tháng 11/1978, Hải quân đối phương đã cho tàu vây ép đảo An Bang (thuộc quần đảo Trường Sa) trong suốt 11 ngày đêm, nhưng cán bộ, chiến sỹ trên đảo đã đoàn kết, không sợ hy sinh, kiên quyết bám trận địa sẵn sàng chiến đấu, bình tĩnh đối phó với địch, buộc chúng phải rút khỏi khu vực quanh đảo.

Đảo An Bang nhìn từ xa (ảnh Lan Phương)
Đảo An Bang nhìn từ xa (ảnh Lan Phương)

11 ngày đêm đấu tranh giữ đảo

Đầu tháng 3-1978 tình hình khu vực Quần đảo Trường Sa xuất hiện nhiều diễn biến phức tạp. Trung Đoàn 146 đã cử đồng chí Cao Anh Đăng làm Chỉ huy trưởng và đồng chí Nguyễn Mã làm Phó chỉ huy cùng với cán bộ, chiến sỹ đặc công đoàn 126 hành trình theo tàu HQ 601. Đúng 20 giờ ngày 10-3-1978 ta đã triển khai xong nhiệm vụ gia cố chốt giữ đảo.

Tháng 11/1978, Hải quân đối phương đã cho tàu vây ép đảo An Bang trong suốt 11 ngày đêm, nhưng cán bộ, chiến sỹ trên đảo đã đoàn kết, khắc phục khó khăn, không sợ hy sinh, kiên quyết bám trận địa sẵn sàng chiến đấu cao, bình tĩnh đối phó với địch, buộc chúng phải rút khỏi khu vực.

Trong hơn 30 năm qua cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang luôn đoàn kết một lòng vượt qua mọi khó khăn, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ đảo. Đảo liên tục đạt danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”. Năm 2001 được Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen. Năm 2004 cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Năm 2012 đảo đạt danh hiệu đơn vị tiên tiến…

An Bang nhưng đầy bão tố

Đảo An Bang nằm ở 7 độ 53 phút 31 giây vĩ độ Bắc, 112 độ 55 phút 17 giây kinh độ Đông, là đảo nằm tận cùng phía Nam quần đảo Trường Sa, cách đảo Thuyền Chài 21 hải lý về phía Đông Bắc, cách đảo Trường Sa 72 hải lý về phía Tây Bắc.

Đảo nằm trên nền bãi san hô ngập nước, cấu trúc của đảo như một cây nấm san hô khổng lồ tạo nên, do đó khi đào công sự thường gặp những chỗ võng nước, thuỷ triều lên các hầm hào công sự rất dễ bị ngập nước. Bờ đảo được bao bọc bởi hệ thống tường chắn sóng cao 2m. Bờ Bắc, Đông và Tây của đảo là những bãi cát hẹp. Đây là đảo nhỏ chạy dài theo hướng Bắc Nam. Hàng năm từ tháng 4-7 mùa gió Tây Nam, bờ Nam của đảo được bồi thêm một bãi cát dài, từ mép nước bãi cát này đến rìa ngoài bãi san hô ngập nước khoảng 30m. Do cấu trúc san hô của đảo An Bang dựng đứng nên 4 mùa sóng vỗ, việc ra vào đảo gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm. Nhiều chuyến tàu từ đất liền đến thăm cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang vào đúng mùa sóng dữ đã không thể vào được đảo.

Đảo An Bang không có giếng nước ngọt, chất đất là cát sạn, san hô nên trồng rau xanh gặp rất nhiều khó khăn. Trước sự khắc nghiệt đó, cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang không chùn bước, góp phần tô thắm thêm truyền thống người chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng. Đoàn kết, chủ động, sáng tạo, phát huy ý chí tự lực tự cường, chắt chiu từng giọt nước ngọt để trồng cây. Vất vả gian lao là vậy song vẫn không làm giảm đi tinh thần yêu đảo, yêu biển của cán bộ, chiến sỹ đảo An Bang. Đảo đã không phụ công người, trải qua hơn 3 thập kỷ cải tạo, đảo An Bang từ đảo bãi đá san hô trở thành một hòn đảo xanh tươi, rợp bóng mát của các loại cây bàng vuông, phong ba, muống biển... Năm 2012, tổng sản lượng tăng gia của đảo đạt hàng tấn rau xanh, thịt cá các loại.


Giữ vững được đảo An Bang ngày hôm nay, quân và dân Việt Nam không thể quên công lao của thế hệ chiến sĩ hải quân năm xưa đã bình tĩnh, dũng cảm không ngại hy sinh nguy hiểm để giữ đảo An Bang vững vàng cho đến ngày hôm nay. Nhìn lá Tổ quốc tung bay trên đảo, những ai biết về thế trận cân não 11 ngày đêm năm ấy không khỏi bồi hồi xúc động.

Hồng Chuyên- Lại Hà (ghi)

http://infonet.vn/Bien-dao/Chu-quyen/Bien-Dong-Duoi-lui-tau-giac-sau-11-ngay-bi-vay-ham/112876.info
1

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

Biển Đông: Ứng phó diễn biến phức tạp ở Trường Sa năm 1978

(Infonet- 22/9/13) Tình hình khu vực quần đảo Trường Sa, năm 1978, có nhiều diễn biến phức tạp khiến Hải quân Việt Nam càng quyết tâm tăng cường các biện pháp bảo vệ các đảo, trong đó có Trường Sa Đông.


Hải quân VN ở Trường Sa Đông

Tháng 3-1978, tình hình khu vực quần đảo Trường Sa có nhiều diễn biến phức tạp, các nước trong khu vực tăng cường hoạt động thăm dò bằng máy bay, tàu thuyền xâm phạm các đảo chúng ta đang đóng giữ. Trước tình hình đó, Đảng uỷ Quân chủng Hải quân đã ra Nghị quyết chỉ rõ “Phải tập trung, khẩn trương mọi nỗ lực cao nhất của toàn Quân chủng vào việc chuẩn bị chiến đấu, sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành cho được thắng lợi từ trận đầu, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc”.
Chấp hành mệnh lệnh của Quân chủng ngày 04/04/1978, tàu 681 thuộc đoàn 125 đưa 19 cán bộ, chiến sỹ do đồng chí Nguyễn Trung Cang, Tham mưu trưởng Trung đoàn 146 chỉ huy lực lượng củng cố phòng ngự đảo.

Ngày 19-04-1978, một lực lượng khác ra thay cho bộ phận của đồng chí Nguyễn Trung Cang. Chỉ huy trưởng lúc này là đồng chí Bùi Xuân Nhã. Sau gần một tháng khẩn trương xây dựng trận địa, công sự chiến đấu hoàn tất, đời sống cán bộ, chiến sỹ ổn định, khắc phục khó khăn quyết tâm bám trụ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.


Vì sự bình yên, toàn vẹn của Tổ quốc, trước sóng gió biển khơi, đã có những chiến sĩ hải quân hy sinh và vẫn nằm lại đảo Trường Sa Đông. Viếng liệt sĩ Vương Văn Mão trên đảo Trường Sa Đông (ảnh Báo Lao động)

Về vị trí địa lý, đảo Trường Sa Đông cách bán đảo Cam Ranh 239 hải lý, nằm ở 80 55’ 55” vĩ độ Bắc; 1220 21 phút 12 giây kinh độ Đông, cách đảo Đá Tây 11 hải lý về phía Tây Nam, cách đảo Đá Đông 18 hải lý về phía Đông Nam. Khoảng 30 hải lý có đảo Trường Sa.

Đảo chạy dài theo hướng Đông-Tây. Trên đảo không có giếng nước ngọt. Để trồng cây và rau xanh, cán bộ, chiến sỹ trên đảo phải vận chuyển từng bao đất nhỏ trong đất liền ra, tận dụng vật liệu xây dựng che chắn bồn rau, tiết kiệm từng giọt nước ngọt ươm mầm cây xanh.

Trải qua hơn 3 thập kỷ sau ngày giải phóng với ý chí và nghị lực của cán bộ, chiến sỹ nơi đây, đảo Trường Sa Đông đã được cải tạo. Từ đảo bãi đá san hô cằn cỗi hiện nay đảo đã trở thành một hòn đảo xanh tươi, rợp bóng mát với nhiều loại cây cối. Người lính đảo Trường Sa Đông không chỉ anh hùng trong việc vượt qua khó khăn, kiên quyết giữ đảo mà còn là những con người đầy nghị lực, sáng tạo. Mới đây, cán bộ, chiến sỹ đảo Trường Sa Đông đã thiết kế thành công lò ấp trứng gia cầm, thủy cầm đầu tiên bằng đèn dầu trên quần đảo Trường Sa.

Đến nay, cán bộ, chiến sỹ đảo Trường Sa Đông là một trong những đơn vị dẫn đầu trong phong trào tăng gia, chăn nuôi của Lữ đoàn 146. Năm 2012, đảo đã tăng gia sản xuất được hàng tấn rau xanh, thịt cá các loại...

Gần đây được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhiều công trình trên đảo như nhà ở, nơi làm việc, các công trình phục vụ sinh hoạt phục vụ chiến đấu đã được xây dựng khang trang vững chắc. Hệ thống năng lượng gió, năng lượng mặt trời được đưa vào sử dụng đã góp phần nâng cao đời sống. Các phân đội đều được trang bị tivi, hệ thống karaoke kỹ thuật số hiện đại, trạm thu phát tín hiệu vệ tinh của Đài truyền hình Việt Nam đã giúp cho cán bộ chiến sỹ trên đảo cập nhật kịp thời những thông tin trong nước và thế giới qua đó nâng cao nhận thức, niềm tin, trách nhiệm với sự nghiệp xây dựng Tổ quốc và bảo vệ vững chắc chủ quyền Tổ quốc Việt Nam…

Hơn 30 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành cán bộ, chiến sỹ đảo Trường Sa Đông đã lập được nhiều thành tích xuất sắc nhiều năm được khen thưởng: Năm 1982, đảo được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, nhiều năm được Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tặng danh hiệu “Đơn vị quyết thắng” và các Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế tặng Bằng khen.

Hồng Chuyên- Lại Hà (ghi)

http://infonet.vn/Bien-dao/Bien-Dong-Ung-pho-dien-bien-phuc-tap-o-Truong-Sa-nam-1978/110867.info
0

Thứ Năm, 5 tháng 9, 2013

Tìm kiếm hòa bình trên Biển Đông

LS Vũ Đức Khanh, Asia Sentinel
Nguyễn Việt Nam chuyển ngữ

Cuộc nội chiến ở Syria vẫn đang tiếp diễn, và những tranh chấp trên Biển Đông cũng vậy. Trong khi Hoa Kỳ đã tìm cách thoát ra khỏi Trung Đông, họ lại đưa mắt hướng về Châu Á – Thái Bình Dương thông qua chiến lược “tái cân bằng” hay “xoay trục”. Kết quả là bất kỳ cuộc xung đột nào diễn ra trong khu vực cũng đều liên quan đến Hoa Kỳ; tuy nhiên, liệu Hoa Kỳ có quyết định tham gia hay không, hay liệu họ có đủ khả năng hay không, là những câu hỏi lớn vẫn còn chờ thời gian trả lời.

Hoa Kỳ không thể còn tiếp tục đứng ngoài giữa lúc vòng xoáy xung đột ở Syria đang diễn biến ngày càng phức tạp. Với những bằng chứng ngày một nhiều về việc chế độ của Tổng thống Bashar Al-Assad đã sử dụng vũ khí hoá học, “lằn ranh đỏ” của Tổng thống Barack Obama rõ ràng là đã bị vượt qua từ lâu.

Tuy nhiên, gần nửa bên kia của thế giới, ở Đông Nam Á, một cuộc xung đột khác vẫn tiếp tục diễn ra âm ỉ và đòi hỏi sự chú ý của Hoa Kỳ. Những tranh chấp biển đảo kéo dài trên Biển Đông, nếu được phép biến thành một cuộc xung đột, sẽ nhất thiết đòi hỏi sự can thiệp của Hoa Kỳ, nếu không chỉ để ngăn chặn cuộc xung đột thì chắc chắn nhất cũng nhằm tôn trọng cam kết của họ với các đồng minh ở khu vực. Tuy nhiên, như cuộc nội chiến ở Syria đã cho thấy, một công chúng mệt mỏi với chiến tranh ở Mỹ có thể sẽ không háo hức đến vậy để thấy mình bị cuốn vào một cuộc xung đột khác ở nước ngoài.

Đầu tiên và quan trong nhất, liệu Hoa Kỳ có muốn can thiệp quân sự một khi chiến tranh nổ ra trên Biển Đông hay không? Tòa Bạch Ốc, bất kể là dưới chính quyền của Tổng thống Obama hay một ai khác, cũng sẽ không thể cam kết các nguồn lực cho một cuộc xung đột nếu thiếu sự ủng hộ của công chúng cũng như sự hậu thuẫn chính trị của Quốc hội. Afghanistan và Iraq từ lâu đã khiến người Mỹ mất đi cảm giác thèm muốn can thiệp ở nước ngoài, và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến chính phủ của các tổng thống kế tiếp trong việc gửi quân tham chiến, như đã chỉ ra qua phản ứng của Hoa Kỳ trước những diễn biến ở Libya và Syria.

Tuy nhiên, liệu Hoa Kỳ có thể can thiệp vào tình hình ở Biển Đông nếu được yêu cầu hay không? Với căn cứ quân sự Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) kế bên, cũng như mối quan hệ đối tác của họ với Australia và Philippines, Hoa Kỳ sẽ ở vào vị trí thuận lợi để triển khai lực lượng tới Trường Sa hay Hoàng Sa nếu được lệnh.

Cuối cùng, liệu Hoa Kỳ có nên can thiệp khi chiến sự nổ ra? Nếu Hoa Kỳ hy vọng đóng một vai trò nào đó trong khu vực thì câu trả lời ở đây là một từ “có” quyết đoán. Với những cam kết phải thực hiện, Hoa Kỳ không thể kỳ vọng là đứng ngoài bất kỳ cuộc xung đột nào liên quan đến đồng minh của mình. Không giống như Syria, nơi mà những kẻ nổi loạn chiến đấu chống lại chế độ Al-Assad là vô danh trong mối quan hệ trung thành với Hoa Kỳ, những thành viên hàng đầu trong bất kỳ cuộc xung đột Biển Đông tiềm tàng nào cũng đều đã được điểm mặt chỉ tên.

Bất kỳ cuộc xung đột nào trong khu vực chắc chắn cũng đặt Trung Quốc vào thế đối đầu với những nước vẫn phản đối yêu sách của họ đối với Biển Đông và các lãnh thổ tranh chấp. Trong số những nước có thể chống lại Trung Quốc có một đồng minh lâu đời của Hoa Kỳ – Philippines – quốc gia mà Hoa Kỳ chia sẻ Hiệp ước Quốc phòng Song phương, chưa kể những nước đối tác như Indonesia và Malaysia. Ngay cả Việt Nam, một nước có tranh chấp với Trung Quốc không chỉ ở quần đảo Trường Sa mà cả ở quần đảo Hoàng Sa, cũng sẽ muốn Hoa Kỳ can thiệp.

Đối với Hoa Kỳ, thất bại trong việc can thiệp vào một cuộc xung đột trên Biển Đông sẽ gây ra những tổn hại không thể khắc phục về mức độ tin cậy trong khu vực cũng như ở những nơi khác. Chính sách xoay trục của Mỹ sang Châu Á – Thái Bình Dương sẽ cho thấy là một cử chỉ rỗng tuếch. Nếu không ngăn chặn để cuộc xung đột khỏi lan sang khắp Đông Á, một nguy cơ có thể kéo Nhật Bản và Hàn Quốc cùng những tranh chấp giữa hai nước này với nhau và giữa họ với Trung Quốc vào cuộc, Hoa Kỳ phải can thiệp nếu muốn tiếp tục đóng một vai trò nào đó ở Châu Á – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, chính trị và cảm tính của công chúng rốt cuộc sẽ định đoạt việc Hoa Kỳ liệu có điều bất cứ lực lượng quân sự nào tham gia vào cuộc xung đột trên Biển Đông hay không.

Thực hiện các biện pháp ngăn ngừa

Chiến tranh là điều không đáng mong đợi đối với tất cả các bên liên quan, kể cả Trung Quốc, vì thế vấn đề ở đây là có thể làm những gì để ngăn ngừa một kết cục như vậy. Những biện pháp ngăn ngừa nào mà Hoa Kỳ có thể hy vọng trong việc giải quyết những tranh chấp này?

Tâm điểm của cuộc tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề chủ quyền đối với vùng biển và các quần đảo trong vùng biển đó. Tiêu biểu cho bản chất phức tạp của cuộc xung đột là quần đảo Trường Sa, quần đảo mà cả Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam đều đòi chủ quyền. Mỗi quốc gia đưa ra yêu sách đối với một số hoặc toàn bộ quần đảo, chồng lấn lên nhau. Mặc dù Hoa Kỳ đến nay vẫn từ chối can thiệp trực tiếp vào các cuộc tranh chấp, song họ lại ủng hộ một giải pháp đa phương, trước thái độ khó chịu của Trung Quốc.

Ngoài Trường Sa, trong số những vụ tranh chấp giữa các bên có tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, và tranh chấp Bãi cạn Scarborough giữa Philippines và Trung Quốc, mà sau vụ bế tắc ngoại giao năm ngoái giữa hai nước, Philippines đã rút khỏi khu vực.

Do tính chất nhạy cảm về vấn đề chủ quyền, những tranh chấp trên Biển Đông không thể giải quyết được nếu người ta không xử lý điểm nổi cộm này đầu tiên. Ngược lại, việc chú trọng quá mức vào điểm này, như thực tế hiện nay, có thể lại thúc đẩy xung đột. Trung Quốc có thể không mong muốn chiến tranh, song không nên cho rằng Bắc Kinh sẽ không tiến hành một cuộc chiến ở một quy mô nhất định nào đó để đạt được mục đích. Trung Quốc hiểu rất rõ rằng bất kỳ việc sử dụng vũ lực nào, dù là hạn chế, cũng sẽ mở đường cho sự hiện diện lớn hơn rất nhiều của Mỹ trên Biển Đông, điều mà Trung Quốc vẫn tìm cách né tránh. Một sự thoả hiệp ở đây vì thế là điều cần thiết.

Như một biện pháp tạm thời, vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải nên được đặt sang một bên để chấp nhận một giải pháp tạm thời (modus vivendi), tức là một thỏa thuận “nhất trí về sự không nhất trí”, nhất là liên quan đến quần đảo Trường Sa, nếu xét đến chiều kích đa phương của nó. Bản chất của cuộc tranh chấp đặc thù này sẽ đòi hỏi tất cả các bên đưa ra yêu sách phải hợp tác với nhau để đi đến một giải pháp khả dĩ chấp nhận được.

Hợp tác cùng khai thác tài nguyên có thể là hình thức không nhận được sự chấp nhận của tất cả các quốc gia liên quan; tuy nhiên, đây lại là một bước đi chắc chắn để tiến tới giảm căng thẳng trong khu vực. Nỗ lực giải quyết tranh chấp thông qua tài phán quốc tế, như Philippines đang tiến hành để chống lại Trung Quốc, sẽ ít hữu dụng trong dài hạn vì những khó khăn cố hữu trong luật pháp quốc tế. Trung Quốc thì quá lớn để cho Toà án Quốc tế về Luật Biển đủ sức kiềm tỏa.

Hoa Kỳ không thể bảo Trung Quốc phải làm gì, song họ lại có thể thuyết phục các bên liên quan trong cuộc tranh chấp cân nhắc một chương trình phát triển chung dưới sự giám sát của cộng đồng quốc tế. Không thể trông cậy luật pháp quốc tế để đảm bảo cho hoà bình, ngay cả trong ngắn hạn; trong khi đó một giải pháp đa phương dưới hình thức một dự án phát triển và khai thác tài nguyên, cho dù khó thực hiện, lại là một giải pháp khả dĩ. Đối với những nước không sẵn sàng tham gia, Hoa Kỳ cần nêu rõ với họ rằng đây không phải là một giải pháp vĩnh viễn, mà chỉ là một biện pháp tạm thời để ngăn ngừa, hay chí ít là giảm bớt, khả năng của sự đối đầu thù địch. 

Mặc dù một giải pháp tạm thời sẽ tạm gác vấn đề chủ quyền, vấn đề này vẫn tiếp tục là một trở ngại đối với nền hoà bình lâu dài ở Châu Á – Thái Bình Dương. Rốt cuộc, nếu không phải thế hệ này thì thế hệ kế tiếp, Trung Quốc và các nước tranh chấp phải đạt được một giải pháp về chủ quyền đối với các lãnh thổ tranh chấp trên Biển Đông. Dù vậy, một sự nhất trí về sự không nhất trí như thế chí ít cũng đem lại cho hoà bình một cơ hội và để có thêm thời gian cho một giải pháp lâu bền hơn.

———

Nguyên bản Anh ngữ Seeking peace in the South China Sea đã được đăng trên trang Asia Sentinel. Phiên bản Việt ngữ do dịch giả Nguyễn Việt Nam ở Hà Nội thực hiện.

Nguồn: http://phiatruoc.info/tim-kiem-hoa-binh-tren-bien-dong/
0

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Khả năng hải chiến trên Biển Đông - Hà Tường Cát (Người Việt)

Với tình hình căng thẳng ở Biển Đông mấy năm gần đây do ý đồ bành trướng của Trung Quốc, nếu các quốc gia liên hệ không đi đên thỏa thuận và tuân hành nghiêm chỉnh một bản Quy Luật Ứng Xử COC (Code Of Conduct) thì sớm muộn cũng có lúc xung đột sẽ xảy ra giữa hải quân các nước trong khu vực.


Ngoại Trưởng Trung Quốc phát biểu trong phiên khai mạc hội nghị đối thoại hợp tác chiến lược với các bộ trưởng ngoại giao 10 quốc gia ASEAN tại Bắc Kinh hôm Thứ Năm tuần trước, 29 tháng 8, 2013. Trong triển vọng hợp tác hòa bình, vẫn có nhiều nguy cơ xảy ra xung đột bất ngờ do tình thế căng thẳng vì yêu sách biển đảo của Trung Quốc. (Hình: Adrian Bradshaw/Getty Images)

Chuyện cũ

Hai trận đụng độ năm 1974 và 1988 khi Trung Quốc chiếm toàn thể quần đảo Hoàng Sa và 6 đảo san hô hay bãi đá Trường Sa, chỉ ở tầm mức rất nhỏ. Giao tranh ở Biển Đông trong tương lai, nếu có, sẽ là những trận hải chiến thật sự giữa các khu trục hạm, hộ tống hạm bắn súng lớn và phóng hỏa tiễn, có thể có sự tham gia của máy bay chiến đấu và tàu ngầm yểm trợ. Kết quả của những trận hải chiến này sẽ không mau chóng và dễ dàng như hai trận chiến mấy chục năm trước.

Năm1974, hải quân Việt Nam Cộng Hòa, từ trang bị cho đến chiến thuật và chiến lược, hoàn toàn không được chuẩn bị cho một cuộc chiến bảo vệ chủ quyền hải đảo,. Những chiến hạm được phong tên là tuần dương hạm, khu trục hạm, hộ tống hạm, hầu hết chỉ là những chiến đĩnh tuần duyên cũ kỹ với nhiệm vụ ngăn chặn sự xâm nhập của các tàu thuyền nhỏ có hay không có võ trang. Trừ HQ-01 Trần Hưng Đạo nguyên là một khu trục hạm hộ tống của hải quân Hoa Kỳ, các tàu chiến hạng lớn khác của Việt Nam đều là tàu tuần duyên WHEC (High Endurance Cutter), vận tốc tối đa dưới 20 gút, súng lớn nhất là một khẩu 127mm, cho tới lúc ấy nếu đôi khi được sử dụng chỉ để yểm trợ hải pháo cho bộ binh.

Chiến hạm HQ-10 Nhựt Tảo, bị đánh đắm trong trận chiến Hoàng Sa, nguyên thủy là một tàu vét mìn của hải quân Hoa Kỳ hạ thủy từ cuối Thế Chiến II, giải giới năm 1946, được tân trang và giao cho hải quân Việt Nam Cộng Hòa sử dụng làm nhiệm vụ hộ tống trên các thủy lộ nội địa hay vùng ven biển. Tàu có chiều dài 55 mét, ngang 10 mét, lượng dãn nước 950 tấn, vận tốc tối đa 15 gút, võ trang 1 pháo 75mm, 4 giàn pháo 40mm và 20mm hai nòng.

Trong trận hải chiến ở Hoàng Sa, mỗi bên có 4 chiến hạm trực tiếp tham chiến. Phía Việt Nam Cộng hòa có ưu thế là các chiến hạm lớn, trang bị pháo và súng lớn hơn, mạnh hơn, nhiều hơn. Tuy nhiên, đây là loại tàu thích hợp cho công tác tuần tiễu chứ không phải chiến đấu, có nhược điểm cồng kềnh, vận chuyển nặng nề, súng quay bằng tay nên theo dõi mục tiêu khó khăn cũng như nhịp bắn chậm.

Đại Tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy hạm đội ở Hoàng Sa cho rằng quân lực Việt nam Cộng hòa khi ấy đã "bị bất ngờ về chiến thuật của địch, có sự sai lầm về ước tính tình báo và nhầm lẫn về chiến thuật điều quân".

Chiến đấu trong thế bị động, không có sẵn kế hoạch tác chiến, phối hợp giữa các chiến hạm kém, nên mất ưu thế về hoả lực ngay từ đầu và dẫn đến việc bắn lầm vào nhau, HQ-5 bắn trúng HQ-16. Trong khi ấy Trung Quốc đã lên kế hoạch chu đáo ở cấp cao nhất cho việc chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, với một lực lượng 4 tiểu đoàn đổ bộ chống đơn vị cấp đại đội và trung đội Việt Nam.

Vì vậy dù có thể coi là thắng được trận đầu, nhưng thất bại trong việc đổ quân lên chiếm giữ đảo và lo ngại không thể đối đầu với lực lượng tiếp viện của Trung Quốc nếu còn ở lại cố thủ, hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã được lệnh rời bỏ Hoàng Sa.

Tình thế mới …

Nếu năm 1974 hải quân Trung Quốc còn tầm thường, tới 1978 đã mạnh hơn hẳn Việt Nam, thì đến nay họ hoàn toàn là lực lượng khống chế trên Biển Đông và với tham vọng bành trướng của Bắc Kinh trở thành mối đe dọa nặng nề cho tất cả mọi quốc gia trong khu vực.

Ngoại trừ Lào và Myanmar không tiếp giáp Biển Đông, Cambodia, Thái Lan, Singapore tuy không có tranh chấp chủ quyền ở vùng Hoàng Sa và Trường Sa nhưng lưu thông hàng hải là vấn đề nhiều ít có liên quan đến lợi ích của nước họ.

Các nước Đông Nam Á, đối mặt với bài toán khó khăn giữa những thách thức chủ quyền tại Biển Đông và tiềm lực tài chính eo hẹp của nước mình, cho nên nỗ lực phát triển hải quân dù là thiết yếu, vẫn chỉ diễn ra khá chậm chạp,

Tuy vậy Việt Nam và Philippines đứng ở vị trí hàng đầu trong các tranh chấp với Trung Quốc và xung đột có thể xảy ra bất cứ lúc nào, cho nên nhu câu củng cố lực lượng phải đáp ứng cùng lúc cả hai mục tiêu tức thời và dài hạn.

Trong thập kỷ đầu thế kỷ 21, Việt Nam bước đi thận trọng và âm thầm. Sau khi Serbia mất biển, Việt Nam tìm kiếm việc mua lại hạm đội tàu ngầm của nước này nhưng thương vụ bất thành qua hai năm thảo luận và Hy Lạp mua được với cái giá cao hơn. Việt Nam quay về với đối tác truyền thống là Nga, và bắt đầu thương thảo việc mua 6 tàu ngầm lớp Kilo thích ứng trong phòng thủ tại vùng biển nông. Sau sự phô diễn rầm rộ trong dịp kỷ niệm 60 năm thành lập hải quân Trung Quốc tại Thanh Đảo tháng 4 năm 2009, thông tin về vụ mua bán được Moscow công khai tiết lộ với sự đồng thuận ngầm từ phía Việt Nam.

Thật ra Biển Đông chưa phải là một nơi đánh nhau, các bên liên hệ đều đang cố gắng vừa phô bày, vừa tìm cách dấu thực lực của mình. Trung Quốc với lực lượng áp đảo nắm thế chủ động và đang tìm cách thiết lập trật tự theo ý họ. Các nước ASEAN thì tìm kiếm sự liên minh và cũng đồng thời củng cố thế lực theo phương cách thích ứng với khả năng và quan điểm chiến lược của mình. Chính tình trạng ấy khiến cho chiến tranh chưa thể xảy ra ngay lập tức vì không bên nào có đủ yếu tố để bảo đảm một thắng lợi toàn diện.

Việt Nam từng có kinh nghiệm về triển vọng trợ giúp của bên thứ ba. Năm 1974 khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Hạm Đội 7 Hoa Kỳ đang hoàn toàn làm chủ trên Biển Đông đã không có một hành động can thiệp nào theo cầu cứu của Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1988, Liên Xô hãy còn căn cứ hải - không quân ở Cam Ranh và cũng không có phản ứng trong vụ xung đột ở Trường Sa. Điều dễ hiểu là vào những thời điểm ấy Hoa Kỳ và Liên Xô không có lợi ích thiết thực gì bị xâm phạm để phải can dự.

Vì vậy trong tình thế hiện nay, các nước ASEAN tìm cách mở rộng liên hệ không chỉ với Hoa Kỳ, Nga mà còn với Ấn Độ, Nam Hàn, Nhật Bản và xa hơn với Pháp và Anh. Sự hiện diện của Hoa Kỳ tại vùng Biển Dông đã được Ngoại Trưởng Hillary Clinton nêu lên lần đầu trong hội nghị ASEAN ở Hà Nội năm 2010 và sau đó được xác định bằng chiến lược chuyển trọng tâm chiến lược đến châu Á của chính quyền Obama. Bằng hiệp ước đồng minh với Philippines, Hoa Kỳ gần đây đã cung cấp cho Philippines một số viện trợ quân sự bao gồm chiến hạm và máy bay cho quân lực được xem là yếu vào bậc nhất trong các nước ASEAN này.

Cả Mỹ và Anh đều tự coi là có lợi ích thiết yếu tại Biển Đông, tuyến đường hàng hải quan trọng bậc nhất thế giới này, tuy xác định rằng không dính líu đến những tranh chấp.

Anh hiện có Hiệp ước Phòng thủ Ngũ Cường (Five Power Defence Arrangements) với Australia, New Zealand, Malaysia và Singapore trong trường hợp nảy sinh mối đe dọa xâm lược hoặc tấn công từ bên ngoài đối với hai quốc gia Đông Nam Á này.
Trong phát biểu về quốc phòng tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore vào tháng 6 vừa qua, Bộ Trưởng Quốc Phòng Anh Philip Hammond “Anh có lợi ích rõ rệt trong việc duy trì ổn định khu vực và đặc biệt là quyền tự do hàng hải tại vùng Biển Đông”.

Theo tạp chí Nhật Bản Kanwa Asian Defence, trong một báo cáo chiến lược địa chính trị nội bộ gần đây của quân đội Trung Quốcq, các tác giả nhắc đi nhắc lại rằng tình hình biển Đông hiện trở nên căng thẳng dưới sự tiếp tay của Mỹ và Pháp. Sự xuất hiện của Pháp trong báo cáo nội bộ của PLA là chuyện mới lạ gây nhiều thắc mắc nhưng tờ Kanwa dẫn lời những chuyên gia chiến lược của Trung Quốc cho hay họ rất lo ngại về sự trỗi dậy của chủ nghĩa can thiệp Pháp ở châu Á.

Sự lo lắng này nảy sinh từ cuộc chiến Libya, họ cho rằng đây là biểu tượng về sự trỗi dậy của chủ nghĩa can thiệp kiểu mới của Pháp và ở cuộc khủng hoảng Mali sau đó Pháp thậm chí còn đi xa hơn Mỹ khi quyết tâm hành động quân sự bằng việc triển khai bộ binh.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Jean-Yves Le Drian tại Đối Thoại Shangri-La ở Singapore nhấn mạnh rằng Pháp là một cường quốc Thái Bình Dương và nước này có các vùng lãnh thổ trong khu vực như một số hải đảo của Pháp tại nam Thái Bình Dương mà có nghĩa vụ bảo vệ. Pháp vẫn tiếp tục củng cố quan hệ với các quốc gia ASEAN, đặc biệt là ba nước Đông Dương truyền thống. Mới đây, nhân chuyến thăm Việt Nam của hai chiến hạm Pháp, đại sứ Pháp tại Việt Nam Jean-Noel Poirier cũng nhấn mạnh Pháp là một cường quốc Thái Bình Dương và Bộ Trưởng Le Drian kêu gọi ký kết thỏa thuận về quyền tự do hàng hải tại Biển Đông đây.

… Chiến lược chiến thuật mới

Đơn phương đánh bại hải quân Trung Quốc là quá khó khăn và có thể là chuyện không tưởng. Do đó để trông đợi có sự can thiệp từ bên thứ ba, bằng hành động trực tiếp hay bằng phương pháp ngoại giao, một điều kiện cần thiết là thời gian cầm cự, và mỗi quốc gia Đông Nam Á có đường lối riêng của mình cho nhu cầu này.

*Hải quân Malaysia chú trọng vào việc phát triển tàu chiến cận duyên và hiện nay đã có 6 tàu lớp Kedah, tàu hộ tống nhỏ đóng tại quốc nội dựa trên thiết kế tàu MEKO của Đức, lần lượt đưa vào sử dụng từ 2006 đến 2010. Mỗi tàu có chiều dài 91 mét, rộng 13 mét, trọng tải 1,850 tấn, vận tốc 22 gút, thủy thủ đoàn 80 người, được trang bị các hệ thống điện tử hiện đại tuy nhiên chỉ có võ trang các loại pháo tới 78mm và đại liên, không có hỏa tiễn nhưng có thể chở theo một trực thăng hay máy bay không người lái.

Malaysia có dự án mua hay hợp tác chế tạo chiến hạm loại LCS (Littoral Combat Ship) và những tàu lớn hơn qua sự hợp tác với Âu Châu hay Hoa Kỳ. Tuy nhiên sự phát triển hải quân vẫn còn thất thường do vấn đề ngân sách và đường lối chính trị, kinh tế của chính phủ Malaysia.


*Dù chỉ có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế nhỏ nhất trong các nước tiếp giáp Biển Đông. Singapore có một lực lượng hải quân phát triển bậc nhất khu vực Do sự phụ thuộc vào ngành thương mại trên biển, Singapore xem việc duy trì lợi thế về năng lực hải quân và công nghệ so với các quốc gia láng giềng là nền tảng trong chính sách quốc phòng.

Lực lượng hải quân Singapore bao gồm 6 hộ tống hạm mới đưa vào sử dụng từ 2007 đến 2009 và 6 hộ tống hạm nhỏ hơn sử dụng từ thập niên 1990, tất cả đều trang bị hỏa tiễn, 6 tàu ngầm mua từ Thụy Điển, 4 tàu xung kích 6,000 tấn chở quân đổ bộ bằng xuồng hay trực thăng, và nhiều tàu các loại khác. Chương trình then chốt của hải quân Singapore hiện nay là thay thế 12 tàu tuần tra lớp Fearless gắn hỏa tiễn phòng không có từ thập niên 1990 bằng những tàu mới chế tạo, cũng như các tiềm thủy đĩnh mới mua của Thụy Điển.

Singapore được dùng làm một căn cứ tiếp vận của Hải Quân Hoa Kỳ và chiến hạm tác chiến cận duyên USS Freedom (LCS-1) được điều phái đồn trú ở đây từ tháng 3 năm 2013.


*Thái Lan ít có nguy cơ phải trực tiếp đụng độ với Trung Quốc và do những rắc rối của tình hình chính trị quốc nội, vương quốc này từ lâu không chú trọng đến sự tăng cường lực lượng hải quân. Hải quân Thái Lan thành lập từ cuối thế kỷ 19 là kỳ cựu nhất ở Đông Nam Á và duy nhất đã có hàng không mẫu hạm, chiếc HTMS Chakri Naruebet 11,500 tấn, mua của Tây Ban Nha năm 1997, tới 2006 được chuyển thành một mẫu hạm chuyên dùng cho trực thăng.

Hải quân Thái Lan có 14 hộ tống hạm lớn mua của Hoa Kỳ, Anh, hoặc đóng tại quốc nội qua sự hợp tác với Trung Quốc và Nam Hàn, 3 tàu xung kích thủy bộ và khoảng 10 tàu tuần tiễu cỡ nhỏ hơn. Tạp chí quốc phòng Anh Jane’s Defence Weekly nói rắng Thái Lan đang thương lượng với Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nam Hàn để mua thêm hai hộ tống hạm và tàu tác chiến cận duyên LCS.


*Indonesia đặt mục tiêu xây dựng từ nay đến năm 2024 một lực lượng hữu hiệu tối thiểu (MEF) gồm 300 tàu thuộc nhiều loại khác nhau trong đó ít nhất 12 tàu ngầm. Với vùng biển rộng khoảng 6 triệu km2, con số trên khá hợp lý nhưng thực tế vượt quá xa năng lực tài chính của quốc gia lớn nhất trong ASEAN này. Hiện nay hạm đội Indonesia mới chỉ gồm khoảng 115 chiếc tàu các loại, 2 hai tàu ngầm và thêm 3 chiếc đang được đóng.

Khác với hải quân các nước trong khu vực, Indonesia coi loại tàu tấn công nhanh là không phù hợp vì dễ tổn thương trước các tàu lớn và máy bay, Indonesia chú trọng hơn vào việc xây dựng các loại tàu hộ tống vừa phải thích hợp cho việc phòng thủ duyên hải cũng như tuần tiễu viển duyên. Từ 2007 đến 2009, Inadonesia đã có 4 tàu hộ tống nhỏ lớp Sigma và 4 tàu lớp Makassar mua từ Hòa Lan hoặc hợp tác đóng trong nước. Tàu Sigma là loại tàu Việt Nam cũng mới đặt mua của Hòa Lan và dự tính trang bị các hệ thống vũ khí Nga.

*Brunei Darussalam chỉ có một lực lượng hải quân nhỏ nhưng được trang bị tương đối tốt và thích hợp cho sứ mạng phòng thủ duyên hải và tuần tiễu vùng biển Trường Sa mà vương quốc Hồi Giáo này cũng có phần tranh chấp hải đảo. Hải quân Brunei có khoảng 10 chiến đĩnh và 20 tàu tuần tiễu hạng nhỏ, võ trang pháo các loại từ 57 mm trở xuống và đại liên.


*Sau vụ đụng độ với Trung Quốc ở bãi cạn Scarnborough trong vùng quần đảo Trường Sa, Philippines mới gấp rút tìm cách tăng cường lực lượng, tuy vậy nỗ lực này không thể thành đạt trong một thời gian ngắn. Sau khi tiếp nhận hai tàu tuần duyên cũ của Mỹ, ưu tiên hiện nay của hải quân Philippines là mua thêm hai tàu hộ tống mới, một số trực thăng và thay thế các máy bay chiến đấu F-5 đã lỗi thời.

Trong khi chờ đợi phát triển lực lượng đủ mạnh, sự phòng vệ của Philippines hoàn toàn trông cậy vào Hoa Kỳ. Hải quân Philippines chỉ có thể thi hành công tác tuần thám và việc này cũng cần có thêm hỗ trợ bởi các máy bay P-3C Orion của Hải Quân Hoa Kỳ. Thực tế trong vóng ít nhất 5 năm nữa Philippines chưa có khả năng chống trả bất cứ một cuộc va chạm nào trên biển với hải quân Trung Quốc.


*Về phía Trung Quốc, chưa kể đến sự tiếp viện khi cần từ hạm đội Bắc và Đông Hải, riêng hạm đội Biển Đông đặt căn cứ ở Trạm Giang và đảo Hải Nam có ít nhất 11 khu trục hạm, 14 hộ tống hạm, 8 tàu ngầm, 20 tàu đổ bộ các loại, 4 trung đoàn máy bay chiến đấu. Tuy nhiên chiến tranh còn do ở con người chứ không phải chỉ vũ khí và chỗ yếu của hải quân Trung Quốc là chưa từng có kinh nghiệm chiến đấu và hiệu quả hợp đồng tác chiến, một điều kiện then chốt trong hải chiến, còn là điều có thể nghi ngờ.


*Việt Nam có hai hộ tống hạm lớp Ghepard - HQ-011 Đinh Tiên Hoàng, HQ-012 Lý Thái Tổ - là chiến hạm lớn nhất, 5 tàu đổ bộ các cỡ, ngoài ra còn khoảng 30 tốc đĩnh tuần tiễu nhiều loại trong đó gần phân nửa có trang bị hỏa tiễn, chứng tỏ mục tiêu rõ ràng là tác chiến chứ không chỉ tuần tiễu. Các tàu ngầm lớp Kilo sẽ chỉ bắt đầu lần lượt sử dụng được từ cuối năm nay; các hộ tống hạm Ghepard mua thêm của Nga và Sigma mua của Hòa Lan sẽ đưa về trong hai năm nữa.

Bằng việc hiện đại hóa từ từ nhưng không ngừng các lực lượng không quân, hải quân trong nhiều năm qua, với các chiến hạm mang hỏa tiễn tấn công, các phi đội máy bay chiến đấu Su-30MKV, và sau này thêm các tàu ngầm, khả năng chiến đấu của Việt Nam trên biển Đông đã tăng cường khá đáng kể. Nhờ khả năng ấy, Việt Nam có thể thi hành những chiến lược chiến thuật thích ứng để đối phó hữu hiệu với mọi ý đồ của Trung Quốc.

Vì tương quan lực lượng hoàn toàn chênh lệch, Việt Nam và các nước Đông Nam Á nói chung, trong mọi trường hợp phải tránh gây nên một cuộc chiến tranh toàn diện với Trung Quốc. Hoàn cảnh chính trị và ngoại giao quốc tế trong sự tranh chấp ở khu vực Biển Đông hiện nay cho phép tránh được việc ấy. Tình huống xảy ra xung đột trên biển là rất lớn, nhưng khả năng đi đến một cuộc chiến tranh tổng lực cả trên đất liền, trên biển, trên không, lại rất nhỏ.

Nếu xung đột chỉ ở chừng mực cục bộ, tại khu vực Hoàng Sa hay Trường Sa, hải quân Việt Nam sẽ có điều kiện thuận tiện để áp dụng lối đánh du kích, tấn công nhanh và bất ngờ rồi … rút chạy. Vị trí địa dư khiến cho các chiến hạm, bao gồm tàu phóng hỏa tiễn, khinh tốc đĩnh, tàu ngầm, có thể xuất kích từ bờ biển đến chiến trường gần hơn hải quân Trung Quốc từ Hải Nam hay Quảng Đông di chuyển tới. Hơn nữa, hầu hết khu vực Biển Đông, từ Hoàng Sa đến Trường Sa, đều nằm trong tầm hoạt động của không quân và hỏa tiễn đặt trên đất liền. Nói tóm lại Việt Nam hoàn toàn có lợi thế chiến trường để triển khai chiến thuật dự tính.

Nhưng chiến lược đối phó Trung Quốc của các nước Đông Nam Á không phải để thắng, mà là đừng thất bại hoàn toàn và mất tất cả hay một phần lợi ích của mình, và tốt hơn hết vẫn là có đủ tiềm lực răn đe đừng cho xảy ra xung đột.(HC)

Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=172500&zoneid=403#.UjaQLOh1AfU
0

Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2013

Lịch sử, mắt xích yếu trong yêu sách biển của Bắc Kinh

Yêu sách của Bắc Kinh đối với gần như toàn bộ biển Đông hiện nay được tô vẽ trong các hộ chiếu mới và bản đồ chính thức của Trung Quốc (TQ). Lãnh đạo TQ và người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh với mức hung hăng ngày càng tăng rằng các đảo, đá, và các rạn san hô là “lãnh thổ từ thời xa xưa” của TQ. Thông thường, đối với chủ quyền và ranh giới biển thì các yêu sách lãnh thổ chồng lấn phải được giải quyết thông qua việc vận dụng kết hợp luật tập quán quốc tế, phán quyết trước Tòa án Quốc tế hoặc Tòa án Quốc tế về Luật Biển, hoặc trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS). Trong khi TQ đã phê chuẩn UNCLOS và Công ước này nói chung không chấp nhận bỏ các yêu sách “dựa trên lịch sử”, nhưng đó lại đúng là loại yêu sách mà Bắc Kinh đưa ra lúc này lúc khác. Hôm 4 tháng 9 năm 2012, Ngoại trưởng TQ, ông Dương Khiết Trì, nói với Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng có “rất nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lý cho thấy rằng TQ có chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông và các vùng biển liền kề”.

Xét về mặt “bằng chứng pháp lý”, đại đa số các chuyên gia pháp lý quốc tế đều kết luận rằng yêu sách sở hữu (danh nghĩa) lịch sử của TQ đối với biển Đông, bao hàm thẩm quyền chủ quyền đầy đủ và đồng ý cho các nước khác đi ngang qua là không hợp lệ và không hợp pháp. Các bằng chứng lịch sử, nếu có, thậm chí còn kém thuyết phục. Có nhiều mâu thuẫn trong việc TQ sử dụng lịch sử để biện minh cho yêu sách của họ đối với các đảo và rạn đá ở biển Đông, không ít trong số đó là sự khẳng định đầy tranh cãi của họ về các tương đồng với việc bành trướng đế quốc chủ nghĩa của Hoa Kì và các cường quốc châu Âu trong thế kỉ XVIII và XIX. Biện minh cho những nỗ lực của TQ mở rộng biên giới biển của họ qua việc yêu sách các đảo và rạn đá xa bờ, Cổ Khánh Quốc (Jia Qingguo), giáo sư trường Đại học Quan hệ Quốc tế Bắc Kinh, cho rằng TQ chỉ đơn thuần theo gương phương Tây. “Hoa Kỳ thì có đảo Guam ở châu Á ở rất xa đất Mỹ và người Pháp thì có các đảo ở Nam Thái Bình Dương, vì vậy chẳng có điều gì mới cả”, Cổ Khánh Quốc nói với AFP mới đây.

Phân tích sâu xa về các “bằng chứng lịch sử” làm cơ sở cho các yêu sách của TQ cho thấy rằng lịch sử thật ra không đứng về phía TQ. Nếu có thì yêu sách của TQ đối với quần đảo Trường Sa trên cơ sở lịch sử bị mắc mứu ở chỗ là không có đế chế nào của khu vực trước đây đã thực thi chủ quyền. Ở châu Á thời tiền hiện đại, các đế chế có đặc điểm là có các đường biên giới không xác định, không được bảo vệ, và thường thay đổi. Khái niệm về quyền bá chủ (suzerainty) chiếm ưu thế. Không giống như một nhà nước – dân tộc (nation-state), biên giới của đế chế TQ vừa không được vẽ cẩn thận vừa không bố phòng mà giống như các vòng tròn hay các khu vực, giảm dần từ trung tâm của nền văn minh ra đến vùng ngoại vi của người man di xa lạ. Quan trọng hơn, trong các tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam, Bắc Kinh luôn luôn giữ lập trường cho rằng ranh giới trên bộ của họ chưa bao giờ được xác định, phân giới cắm mốc. Nhưng bây giờ, khi nói đến các đảo, bãi ngầm, và các rạn đá trong vùng biển Đông, Bắc Kinh lại tuyên bố khác đi. Nói cách khác, TQ tuyên bố rằng ranh giới trên bộ của họ chưa bao giờ được xác định và phân giới trong lịch sử trái ngược hẳn với lập trường rằng biên giới trên biển của TQ luôn luôn xác định và có phân giới rạch ròi. Mâu thuẫn cơ bản trong lập trường của TQ về biên giới trên bộ và biên giới trên biển nằm ở đây, nên nó không đứng vững được. Trên thực tế, chính những nỗ lực hồi giữa thế kỷ XX nhằm chuyển đổi các đường biên giới không xác định của các nền văn minh và vương triều xưa kia hưởng quyền bá chủ thành các đường biên giới xác định rạch ròi, giới hạn, và có phân giới của các nhà nước – dân tộc hiện đại thưc thi chủ quyền nằm ở trung tâm của các tranh chấp lãnh thổ và biển của TQ với các nước láng giềng. Nói một cách đơn giản, chủ quyền là một khái niệm hậu đế quốc gắn với nhà nước-dân tộc, không phải với các đế chế xưa kia.

Khái niệm về chủ quyền không phải là một khái niệm của TQ hoặc của châu Á mà là một khái niệm của châu Âu bắt nguồn với việc ký kết Hiệp ước Westphalia năm 1648. Chủ yếu là một khái niệm cho đất liền và mãi cho tới giữa thế kỷ XX mới áp dụng cho các nhà nước – dân tộc ở châu Á và châu Phi. Hệ thống nhà nước Westphalia dựa trên khái niệm về sự bình đẳng pháp lý hay chủ quyền quốc gia đối với biên giới xác định rõ ràng ngoài cùng phân biệt chính nó không những với chế độ phong kiến cũ ở châu Âu mà còn với các hình thức quyền bá chủ khác đã tồn tại vào thời điểm đó ở châu Á – Ba Tư, TQ và Ấn Độ. Trước khi có Hiệp ước Westphalia, các vương triều và đế chế ở châu Âu và các nơi khác không thể tuyên bố hoặc thực thi chủ quyền.

Lịch sử, như được biết đến, được viết bởi người chiến thắng, không phải bởi kẻ bại trận. Biên giới hiện tại của TQ phần lớn phản ánh những ranh giới được thiết lập trong thời hoàng kim của chủ nghĩa bành trướng nhà Thanh (Mãn Châu) thế kỷ XVIII, mà qua thời gian đã được kiên cố hoá thành biên giới quốc gia cố định (ngoại trừ Ngoại Mông, chủ yếu vì Liên Xô) theo sự áp đặt của hệ thống nhà nước – dân tộc Westphalia trên toàn châu Á trong thế kỷ XIX và XX. Tuy nhiên, lịch sử chính thống của TQ ngày nay thường bóp méo giai đoạn lịch sử phức tạp này, tuyên bố rằng người Mông, Tạng, Mãn, và Hán đều là người TQ, trong khi thật ra Vạn Lý Trường Thành được các triều đại TQ xây lên để bảo vệ Trung Hoa Hán tộc trước sự xâm lấn thường xuyên của người Mông Cổ và các bộ tộc Mãn Châu phía Bắc, bức tường thành này thực sự thể hiện vòng an ninh bên ngoài của đế chế Trung Hoa Hán tộc. Trong khi hầu hết các nhà sử học coi sự càn quét của các đoàn quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn lãnh đạo trong những năm đầu thế kỷ XIII như một sự kiện phá hoại lớn đe dọa sự sống còn của các nền văn minh xưa ở Ấn Độ, Ba Tư, và các nước khác, người TQ lại cỗ võ một cách có ý thức huyền thoại cho rằng ông ta thực sự là người “TQ”, và do đó tất cả các khu vực mà người Mông Cổ (nhà Nguyên) đã từng chiếm đóng hoặc chinh phục (như Tây Tạng và phần lớn Trung và Nội Á) đều thuộc về TQ bằng cách vận dụng khái niệm về chủ quyền của phương Tây hồi thế kỷ XVI trở ngược lại cho châu Á thế kỷ XII. Các yêu sách của TQ đối với Đài Loan và biển Đông cũng dựa trên cơ sở là cả hai đều là bộ phận của đế chế Mãn Châu. (Trên thực tế, trong các bản đồ nhà Thanh hay Mãn Châu, chính đảo Hải Nam chứ không phải là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được mô tả như là ranh giới cuối cùng phía nam của TQ). Trong phiên bản lịch sử này, bất kỳ lãnh thổ nào bị “người TQ” chinh phục trong quá khứ vẫn cứ luôn là của TQ, bất chấp cuộc chinh phục xảy ra vào lúc nào.

Việc viết và viết lại lịch sử từ góc độ dân tộc chủ nghĩa như thế để tăng cường sự đoàn kết dân tộc và tính chính đáng của chế độ đã được các nhà lãnh đạo của TQ cả phe Quốc dân đảng lẫn Cộng sản dành ưu tiên cao nhất. Lãnh đạo Đảng Cộng sản TQ tự xử sự một cách có ý thức như là người thừa kế di sản của đế chế TQ, thường sử dụng các biểu tượng và lối ăn nói của đế chế. Từ sách giáo khoa tiểu học cho đến các bộ phim truyền hình về lịch sử, hệ thống thông tin do nhà nước kiểm soát nhồi nhét các thế hệ người TQ về sự oai phong, vĩ đại của Trung Hoa đế chế. Như nhà Hán học Úc Geremie Barmé chỉ ra: “Trong nhiều thập kỷ, nền giáo dục và tuyên truyền TQ đã nhấn mạnh vai trò của lịch sử trong sự phát triển của nhà nước – dân tộc TQ … Trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao đã bị vứt bỏ hết chỉ còn cái tên thì vai trò của lịch sử trong tương lai của TQ vẫn kiên định”. Cứ như vậy đến nỗi lịch sử đã được các viện nghiên cứu, các phương tiện truyền thông và các cơ quan giáo dục do nhà nước điều khiển thêu dệt thành một công cụ lãnh đạo nhà nước (còn được gọi là “xâm lược bản đồ”).

TQ sử dụng chuyện dân gian, thần thoại, truyền thuyết, cũng như lịch sử để cổ suý yêu sách lãnh thổ trên bộ và trên biển lớn hơn. Sách giáo khoa TQ thuyết giáo khái niệm Vương triều Trung tâm (Trung Hoa) như là nền văn minh lâu đời nhất và tiên tiến nhất nằm ngay tại trung tâm của vũ trụ, bao quanh bởi các nước nhỏ hơn bị Hoa hóa một phần trong khu vực Đông và Đông Nam Á, các nước này phải liên tục cúi đầu thần phục họ. Phiên bản lịch sử TQ thường cố tình làm lu mờ sự phân biệt giữa những cái không gì khác hơn là ảnh hưởng bá quyền, mối quan hệ triều cống, quyền bá chủ với sự kiểm soát thực tế. Tán đồng quan điểm cho rằng những ai làm chủ được quá khứ sẽ khống chế hiện tại và vạch hướng cho tương lai, Bắc Kinh luôn luôn đặt cược rất cao vào “con bài lịch sử” (thường là một cách giải thích xét lại lịch sử) trong các nỗ lực ngoại giao của mình nhằm đạt được mục tiêu của chính sách đối ngoại, nhất là để bắt các nước khác nhượng bộ lãnh thổ và ngoại giao. Hầu như tất cả các nước tiếp giáp, lúc này hay lúc khác, đều bị sức mạnh vũ lực của TQ đụng đến – Mông Cổ, Tây Tạng, Miến Điện, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, và Đài Loan – và đều là đối tượng cho lịch sử xét lại của TQ. Như Martin Jacques lưu ý trong cuốn When China Rules the World (Khi TQ thống trị thế giới) “Chủ nghĩa Hoa vi trung đế quốc định hình và là nền tảng cho chủ nghĩa dân tộc TQ hiện đại”. Nếu không được kiểm soát, sự kiêu căng đế quốc hoặc lòng luyến tiếc quay về quá khứ có thể có những hậu quả không thể đoán trước cho hòa bình và ổn định khu vực.

Nếu ý tưởng về chủ quyền quốc gia xuất hiện ở châu Âu thế kỷ XVII và hệ thống đó bắt nguồn từ Hiệp ước Westphalia, thì ý tưởng về chủ quyền trên biển chủ yếu là khái niệm do Mỹ đặt ra giữa thế kỷ XX mà TQ đã vơ vào để mở rộng biên giới biển của mình. Như Jacques lưu ý, “Ý tưởng về chủ quyền trên biển là một phát minh tương đối gần đây, bắt đầu từ năm 1945 khi Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ có ý định thực hiện chủ quyền đối với lãnh hải của họ”. Trong thực tế, Công ước LHQ về Luật Biển thể hiện nỗ lực quốc tế nổi trội nhất nhằm áp dụng các khái niệm về chủ quyền trên đất liền vào lĩnh vực biển trên toàn thế giới – tuy vậy điều quan trọng là nó bác bỏ ý tưởng biện minh bằng quyền lịch sử. Vì vậy, mặc dù Bắc Kinh yêu sách khoảng 80% biển Đông là “vùng nước lịch sử” (và hiện đang tìm cách nâng yêu sách này lên thành một “lợi ích cốt lõi” ngang với các yêu sách chủ quyền đối với Đài Loan và Tây Tạng), nói theo lịch sử, nếu TQ có quyền yêu sách biển Đông tới mức nào thì Mexico cũng có quyền yêu sách sử dụng độc quyền vịnh Mexico, hoặc Iran đòi Vịnh Ba Tư, hay Ấn Độ đòi Ấn Độ Dương đến mức đó. Nói cách khác, chẳng có chủ quyền gì cả. Theo quan điểm pháp lý, “việc tên gọi ‘biển Nam Trung Hoa’ được sử dụng nhiều không [có ý] trao chủ quyền lịch sử cho TQ“. Các nước sử dụng lịch sử để yêu sách chủ quyền đối với các đảo đều có sự đồng ý của nước khác và có cách giải thích lịch sử được các bên chấp nhận – cả hai yếu tố này đều không có ở Biển Đông.

Các đế chế xưa hoặc giành được quyền kiểm soát vùng lãnh thổ thông qua xâm lược, thôn tính hay đồng hóa hoặc để mất chúng vào tay đối thủ có binh lực hoặc khả năng cai quản nhà nước ưu việt hơn. Mở rộng và thu hẹp lãnh thổ là chuẩn mực, được xác định bởi sự hùng mạnh hay sự suy yếu của một vương triều hay đế chế. Ý tưởng “lãnh thổ thiêng liêng” là phi lịch sử bởi vì việc kiểm soát lãnh thổ thì dựa trên việc nước nào tóm được hoặc lấy cắp những gì thuộc nước khác cuối cùng. Biên giới của nhà Tần, Hán, Đường, Tống, Minh khi nở khi co suốt trong lịch sử. Một Trung Hoa đế chế hùng mạnh, giống như nước Nga Sa hoàng, là kẻ bành trướng ở vùng Nội Á và Đông Dương mỗi khi cơ hội xuất hiện và sức mạnh cho phép. Việc bành trướng lãnh thổ dần dần qua nhiều thế kỷ dưới hai triều đại không Trung Hoa là Mông Cổ và Mãn Châu mở rộng sự kiểm soát của triều đình TQ đối với Tây Tạng và nhiều vùng đất ở Trung Á (nay là Tân Cương), Đài Loan và Đông Nam Á. Trên thực tế, TQ hiện đại là một “nhà nước-đế chế” đội lốt một nhà nước-dân tộc.

Ngay cả khi người ta phải chấp nhận lập luận “yêu sách lịch sử” của Bắc Kinh cho một thời điểm thì vấn đề lại là đế chế Trung Hoa không phải là đế chế duy nhất ở châu Á thời tiền hiện đại và trên thế giới. Còn có các đế chế và vương triều khác nữa. Nhiều nước có thể đưa ra “yêu sách lịch sử” có cùng giá trị như thế đối với những vùng đất hiện nay không phải là phần lãnh thổ của họ mà đang đặt dưới sự kiểm soát của TQ (ví dụ , vùng Cam Đa (Gando) ở tỉnh Cát Lâm, TQ thuộc về Triều Tiên) . Trước thế kỷ XX, ở châu Á không có nhà nước – dân tộc có chủ quyền với biên giới thuộc thẩm quyền và trong tầm kiểm soát được xác định về mặt pháp lý rõ ràng. Nếu các yêu sách của TQ biện minh được trên cơ sở lịch sử, thì các yêu sách lịch sử của Việt Nam và Philippines dựa trên lịch sử cũng biện minh được. Ví dụ, các sinh viên lịch sử châu Á đều biết rằng dân MaLaysia có liên hệ đến người Philippines hiện nay nên yêu sách của họ đối với Đài Loan sẽ thuyết phục hơn nhiều so với Bắc Kinh. Bởi vì Đài Loan ban đầu được định cư bởi con cháu những người Malay-Polynesian – tổ tiên của các nhóm thổ dân ngày nay – họ từng sống ở vùng đồng bằng thấp ven biển. Nhà quan sát Châu Á nổi bật Philip Bowring lập luận rằng “[s]ự kiện TQ có những ghi chép lịch sử lâu dài không làm mất hiệu lực lịch sử các quốc gia khác thể hiện qua các hiện vật, ngôn ngữ, dòng giống và các quan hệ di truyền, các bằng chứng về giao thương và đi lại”.

Trừ khi tán đồng khái niệm về ngoại lệ của TQ, “yêu sách lịch sử” của TQ đế chế có giá trị giống như những vương triều và đế chế khác trong khu vực Đông Nam và Nam Á. Vấn đề với lịch sử là vạch ra lằn ranh ở đâu, lúc nào, tại sao thế, và quan trọng hơn là phiên bản lịch sử của nước nào là chính xác. TQ đưa ra yêu sách về quyền sở hữu đối với thuộc địa của đế chế Mông Cổ và Mãn Châu sẽ tương tự như Ấn Độ đưa ra yêu sách đối với Afghanistan, Bangladesh, Miến Điện, Malaysia (Srivijaya), Nepal, Pakistan và Sri Lanka trên cơ sở rằng tất cả các nước này đều bộ phận hoặc của đế chế Maurya, Chola hoặc của đế chế Moghul và đế quốc Ấn Độ thuộc Anh. Suốt từ thể kỷ X tới thế kỷ XIII, một số vị vua của Pallava và Chola ở miền nam Ấn Độ đã tập hợp lực lượng hải quân và quân đội lớn lật đổ các vương triều lân cận và thực hiện các cuộc tấn công trừng phạt đối với các nước trong khu vực vịnh Bengal . Họ cũng đã ra biển để chinh phục nhiều khu vực thuộc những vùng đất mà bây giờ là Sri Lanka, Malaysia và Indonesia. Trong nghiên cứu về văn hóa chiến lược Ấn Độ, George Tanham nhận xét: “Trong cái thực sự là một cuộc chiến về thương mại giữa TQ, Ấn Độ và châu Âu, người Cholas đã khá thành công trong các can dự cả về hải quân lẫn đất đai và đã cai trị nhiều phần của Đông Nam Á trong một thời gian ngắn”.

Các yêu sách của TQ ở biển Đông cũng đánh dấu một sự chuyển đổi lớn khỏi định hướng địa chính trị lâu đời đối với cường quốc lục địa. Với việc tuyên bố có một truyền thống mạnh mẽ về đi biển, TQ đề cập nhiều cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa tới Ấn Độ Dương và Châu Phi đầu thế kỷ XV. Nhưng, như Bowring chỉ ra rằng ”Trong lĩnh vực hàng hải bên ngoài vùng nước ven biển thì người TQ thực sự là kẻ đi sau. Trong nhiều thế kỷ, các bậc thầy của các đại dương là dân Malay-Polynesian, những người từng thuộc địa hóa phần lớn thế giới, từ Đài Loan đến New Zealand và Hawaii về phía nam và phía đông , rồi Madagascar về phía tây. Các chum đồng đã được giao thương với Palawan, ngay phía nam của Scarborough vào thời của Khổng Tử. Khi những nhà tu Phật giáo TQ như Pháp Hiển (Faxian) đi Sri Lanka và Ấn Độ vào thế kỷ V, họ đã đi trên tàu do người MaLaysia sở hữu và điều khiển. Tàu từ vùng mà nay là Philippines đã giao thương với Phù Nam, một nước hiện nay là miền Nam Việt Nam, cả ngàn năm trước nhà Nguyên”.

Và cuối cùng, cái gọi là “yêu sách lịch sử” của TQ đối với biển Đông thực sự không phải là “hàng thế kỷ”. Các yêu sách này chỉ bắt đầu từ năm 1947, lúc chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch vẽ ra cái gọi là “đường 11 đoạn” trên bản đồ biển Đông của TQ, bao quanh quần đảo Trường Sa và các chuỗi đảo khác mà Quốc Dân Đảng cầm quyền tuyên bố thuộc chủ quyền TQ. Chính Tưởng Giới Thạch, khi nói rằng đã xem phát xít Đức như một mô hình cho TQ, đã bị cuốn hút bởi ý tưởng Nazi (Quốc xã) về một Lebensraum (“không gian sống”) mở rộng cho dân tộc Trung Hoa. Ông đã không có cơ hội để tự mình thành kẻ theo chủ nghĩa bành trướng bởi vì người Nhật buộc ông vào thế phòng thủ, nhưng những người vẽ bản đồ của chế độ Quốc dân đảng đã vẽ đường chữ U 11 đoạn trong cố gắng để mở rộng “không gian sống” của TQ ở biển Đông chẳng bao lâu sau khi Nhật thua trận trong Thế chiến II. Rõ ràng, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cũng đã tức giận về các bản đồ thời Thế chiến II của Nhật Bản cho thấy toàn bộ biển Đông như một cái hồ của Nhật Bản. Lần đầu tiên chính phủ TQ cho tàu hoạt động đi vào vùng biển Đông là vào năm 1947 với chuyến đi của các tàu Trung Hoa Dân Quốc Trung Kiện (Zhongjian), Trung Nghiệp (Zhongye) Thái Bình (Taiping và Vĩnh Hưng(Yongxing.) Mãi đến nhiều năm sau đó họ mới bắt đầu việc khảo sát. Sau khi Đảng Cộng sản TQ chiến thắng trong cuộc nội chiến vào năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tiếp nhận cú xâm lược bản đồ này, chỉnh lại khái niệm của Tưởng Giới Thạch thành “đường 9 đoạn” sau khi xóa hai đoạn ở Vịnh Bắc Bộ năm 1953 thể hiện cả những chỗ mà chính phủ THDQ chưa từng đến. Cho mãi tới năm 2005 , bản đồ bãi cạn Scarborough do Hải quân PLA công bố chỉ là một bản sao y từng dữ liệu một của bản đồ Hải quân Mỹ (cảm ơn Barney Moreland đã cung cấp cho tác giả thông tin này).

Từ khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc, TQ đã vẽ lại bản đồ của họ, xác định lại biên giới, tạo dựng bằng chứng lịch sử, sử dụng vũ lực để tạo ra các thực thể lãnh thổ mới, đặt tên lại các đảo, và tìm cách áp đặt phiên bản lịch sử của mình lên các vùng biển trong khu vực. Nặm 1972 họ thông qua “Luật về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải”, tuyên bố chủ quyền 4/5 biển Đông, tiếp sau là những cuộc đụng độ vũ trang với hải quân Philippines và Việt Nam trong suốt những năm 1990. Gần đây hơn, họ phái một số lượng lớn tàu cá và tàu hải giám đến vùng biển tranh chấp theo cái tương tự như cuộc “chiến tranh nhân dân trên vùng biển quốc tế” đã làm tăng căng thẳng nhiều hơn. Trích lời bình luận Sujit Dutta, “chủ thuyết phục hồi lãnh thổ không suy giảm của TQ dựa trên … lý thuyết rằng vùng ngoại vi phải được chiếm cứ để đảm bảo an toàn cho vùng lõi. [Điều này] là một khái niệm cơ bản thời đế chế đã được phe dân tộc chủ nghĩa TQ – cả Quốc Dân Đảng lẫn Cộng sản – quốc tế hóa. Những nỗ lực của chế độ [hiện nay] để vươn tới biên giới địa lý theo họ tưởng tượng thường có cơ sở lịch sử ít ỏi và tiếp tục có hậu quả chiến lược bất ổn cao”.

Rõ ràng, một lý do mà dân Đông Nam Á cảm thấy khó chấp nhận yêu sách lãnh thổ của TQ là điều đó sẽ có nghĩa là chấp nhận ý niệm về sự ưu việt của chủng tộc Hán hơn các chủng tộc và đế chế châu Á khác. Jay Batongbacal thuộc trường Đại học luật Philippines nói: “Một cách trực giác, chấp nhận đường 9 đoạn là một sự chối bỏ tương ứng về bản sắc và lịch sử thật sự của tổ tiên người Việt Nam, Philippines, và Malaysia, thực chất đó là việc hồi sinh trong thời hiện đại sự phỉ báng các sắc dân không TQ là ‘man di’ không được hưởng sự tôn trọng và phẩm giá ngang bằng với tư cách là các dân tộc”.

Tóm lại, các đế chế và vương triều không bao giờ thực thi chủ quyền. “Vấn đề lịch sử” là rất phức tạp và không thừa nhận cách giải thích dễ dãi. Nếu yêu sách lịch sử có giá trị nào đó thì Mông Cổ có thể yêu sách tất cả các khu vực của châu Á đơn giản là vì họ đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục này. Hoàn toàn không có cơ sở lịch sử để hậu thuẫn bất cứ yêu sách nào trong những yêu sách đường nhiều đoạn đó, nhất là xét rằng các vùng lãnh thổ của đế chế TQ chưa bao giờ được phân định biên giới kỹ càng như các nhà nước – dân tộc mà chỉ tồn tại như các vùng ảnh hưởng từ một trung tâm văn minh giảm dần đi. Đây là lập trường mà TQ đương đại bắt đầu xác lập vào thập niên 1960 khi đàm phán biên giới trên trên bộ với nhiều láng giềng. Nhưng đó không phải là lập trường của họ hiện nay trong các cuộc chạm trán về bản đồ, ngoại giao và quân sự mức thấp để xác định biên giới.

Việc diễn giải lại liên tục lịch sử để đẩy mạnh các yêu sách chính trị, lãnh thổ trên bộ và trên biển hiện đại, kết hợp với khả năng của giới lãnh đạo Cộng sản kích động hay dập tắt “các cao trào dân tộc chủ nghĩa” giống như tắt mở một khoá nước trong những thời điểm có căng thẳng với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và Philippines, khiến Bắc Kinh khó trấn an các nước láng giềng rằng “sự trỗi dậy hòa bình” của họ là hoàn toàn hòa bình. Chấp nhận phiên bản lịch sử của TQ được xem như tương đương với chối bỏ lịch sử của các nước khác và ý niệm bình đẳng về chủ quyền của các nhà nước – dân tộc. Do có sáu bên yêu sách các đảo san hô vòng, đảo thường, đảo đá, và các mỏ dầu ở biển Đông, các tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, tự bản chất, là những tranh chấp đa phương đòi hỏi phân xử qua trọng tài quốc tế. Nhưng việc Bắc Kinh một mực đòi theo cách tiếp cận song phương để giải quyết tranh chấp chủ yếu dựa vào niềm tin rằng Bắc Kinh có thể thành công do sức mạnh tương đối lấn lướt của TQ và sự chia rẽ của ASEAN. Tuyên bố của TQ về “chủ quyền không thể tranh cãi đối với biển Đông” có nguồn gốc vào cuối thập niên 1940 – chứ không phải trong lịch sử xa xưa – đặt ra một thách thức đối với tất cả các quốc gia biển.

Mohan Malik là giáo sư thuộc Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương về Nghiên cứu An ninh, Honolulu. Đây là những quan điểm cá nhân của tác giả và không phản ánh quan điểm của Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương. Một phiên bản trước, ngắn hơn xuất hiện trong World Affairs, tháng5 / 6 năm 2013. Gửi lời cảm ơn đặc biệt tới Carleton Cramer, Carlyle Thayer, Justin Nankivell, Denny Roy và Barney Moreland vì nhừng ý kiến và góp ý vô giá.

Tác giả: Mohan Malik

Người dịch: Huỳnh Phan

30-08-2013

Nguồn: The Diplomat

Tiếng Việt: Ba Sàm

0