Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư viện biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư viện biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2018

Biển Đông liệu có trở thành "ao nhà" của Trung Quốc?

Nếu không hành động sớm, rất có thể Biển Đông sẽ thực sự trở thành một cái ao của Trung Quốc, vừa ô nhiễm vừa dần cạn kiệt nguồn cá.


Mười hai ngày đêm trên biển trên một tàu chiến của Pháp đã cho tôi một cơ hội để suy ngẫm về những gì đang nằm phía trước ở vùng biển tranh chấp.

Vào đầu tháng 6, tôi đi bằng đường biển từ thành phố Darwin, Úc đến Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tôi là quan sát viên trên hai tàu chiến Pháp đi qua vùng biển tranh chấp và quần đảo Trường Sa thuộc Biển Đông. Ngoài những cuộc chạm trán khuấy động với hải quân Trung Quốc trong khu vực quần đảo Trường Sa, thì mười hai ngày trên biển đã cho tôi thật nhiều thời gian để suy ngẫm về tương lai Biển Đông.

Hãy bắt đầu với những điều cơ bản. Đầu tiên là cách gọi tên. Trong tiếng Anh, vùng biển này được gọi là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea). Theo nghĩa nào đó, cách gọi tên như vậy dường như củng cố thêm yêu sách của Trung Quốc nhưng nhiều người lại không để ý rằng phần phía nam của Biển Đông nằm cách xa bờ biển của Trung Quốc những hơn 1000 dặm. Trong tiếng Trung Quốc, vùng biển này được gọi là Nam Hải (Nanhai). Mặt khác, ở Việt Nam và Philippines, khu vực này lần lượt được gọi là Biển Đông và Biển Tây Philippines. Từ vị trí địa lí của vùng biển đối với hai quốc gia này, thì cách gọi tên như vậy hoàn toàn có lý.

Trước khi các quốc gia-dân tộc hiện đại được hình thành ở Châu Á, các nhà sử học chia sẻ quan điểm rằng, Biển Đông đã từng là một vùng giao lưu quan trọng cho những ngư dân bám biển, thương nhân và hải tặc. Thế nhưng hiện nay, mỗi quốc gia láng giềng đều cố xoá nhoà lịch sử và nêu những yêu sách về chủ quyền lịch sử lâu dài của mình. Riêng Trung Quốc ưu tiên thúc đẩy yêu sách đường chín đoạn, còn gọi là đường lưỡi bò, kéo dài gần 1000 dặm từ bờ biển Trung Quốc đến sát các bờ biển của Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.

Bill Hayton, một học giả tại Chatham House, đã chứng minh cách thức Trung Quốc nhận thức về quyền lợi của mình là nguồn gốc của xung đột tiềm tàng trên biển, và cách thức Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gắn các tuyên bố chủ quyền của họ với các hoạt động tuyên truyền về tự hào dân tộc. Thậm chí, chính phủ Bắc Kinh còn in hình bản đồ có đường chín đoạn trên hộ chiếu Trung Quốc. Khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam cố khiêu khích bằng cách mặc áo có hình “đường lưỡi bò”.

Trên thực tế, đường chín đoạn xuất phát từ bản đồ không chính xác do Chính phủ Quốc dân Đảng vẽ ra từ những năm 1940. Khi Chính phủ Quốc dân Đảng rút sang Đài Loan, họ tiếp tục duy trì tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông – và chính phủ đó vẫn giữ lập trường đó cho tới nay.

Chính tên của các hòn đảo thể hiện phần lịch sử được viết ra muộn. Rất nhiều rạn san hô trong vùng tranh chấp có tên bằng tiếng Anh do các thuỷ thủ đã đi qua khu vực này đặt cho. Richard Spratly là tên một người Anh săn cá voi. Đá Vành Khăn, một thực thể mà chúng tôi đã đi qua trên hành trình của mình, có thể đã được đặt tên theo tên một con tàu đi qua, còn bằng tiếng Trung Quốc được gọi là Mĩ Tế (Meij), là tên phiên âm từ tiếng Anh. Người Trung Quốc đã sử dụng bản đồ tiếng Anh để làm cơ sở cho những tuyên bố hiện nay của họ. Vậy một câu hỏi rất lớn được đặt ra là những yêu sách về quyền sở hữu từ thời cổ đại của Trung Quốc có cơ sở không? Nhóm các nhà khoa học quốc tế cần phải nghiên cứu kỹ những kho lưu trữ ở Đài Loan mà trong đó có chứa các tài liệu vô giá về lịch sử này, để loại bỏ những lẫn lộn từ các luận điểm quốc gia của các nước.

Tuy nhiên, ngay cả khi nắm rõ được lịch sử, Biển Đông vẫn sẽ là một điểm xung đột thực sự. Đây là một trường hợp để kiểm định lại tính toàn vẹn của luật biển quốc tế và cách giải quyết tranh chấp bằng ngoại giao. Đây cũng là một trường hợp để kiểm định đối với sự “trỗi dậy hoà bình” của Trung Quốc và để thấy rằng sự trỗi dậy đó có xung khắc gì với các nước láng giềng hoặc Hoa Kỳ. Tôi đã chứng kiến tận mắt lực lượng hải quân rất ấn tượng của Trung Quốc với các tàu khu trục bảo vệ Đá Vành Khăn, Đá Xu Bi và Đá Chữ Thập. Một chỉ huy hải quân người Pháp có nói với tôi rằng Trung Quốc đã chế tạo số lượng tàu chiến mới tương đương với toàn bộ tàu hải quân Pháp trong bốn năm qua. Ngoài ra, điều này ảnh hưởng tất cả chúng ta bởi phần lớn thương mại quốc tế và nhập khẩu năng lượng đi qua vùng này và nút thắt eo biển Malacca. Xung đột ở Biển Đông sẽ ngăn cản tất cả những hoạt động này.

Lập trường của Hoa Kỳ không phải là chọn đứng về bất cứ bên nào trong những vấn đề chủ quyền hoặc quyền sở hữu đối với các bãi ngầm tranh chấp, mà là để duy trì tự do hàng hải cho các tàu quân sự của Hoa Kỳ. Nước Pháp cũng có quan điểm tương tự, tôi thấy điều này rất rõ trong chuyển đi của tôi.

Ngoài ra, Hoa Kỳ quan tâm sâu sắc đến việc Trung Quốc quân sự hoá các đảo, điều mà Bộ trưởng Quốc phòng Mattis phê phán tại hội nghị quốc tế Shangri-la vào đầu tháng 6. Như một phản ứng ban đầu, Hoa Kỳ đã rút lời mời Trung Quốc tập trận RIMPAC. Điều này dường như không có bất kỳ tác động nào đối với Trung Quốc. Ông Tập Cận Bình còn đáp trả một cách thẳng thừng với Bộ trưởng Quốc phòng Mattis tại Bắc Kinh vào ngày 27 tháng 6 rằng, Trung Quốc sẽ không từ bỏ dù chỉ là một tấc đất lãnh thổ của họ ở Biển Đông.

Số lượng các chiến dịch tự do hàng hải (FONOPs) dưới chính quyền Trump ngày càng tăng nhưng nhận được ít sự chú ý từ cấp cao. Vào thứ 7 mùng 2 tháng 6, Tổng thống Trump đã đăng lên Twitter cá nhân của mình rằng “Thật ngạc nhiên khi Trung Quốc làm điều này”, như một phản ứng đối với nhận định của ông Mattis về “sức ép” của Trung Quốc ở Biển Đông. Câu này cho thấy sự không chắc chắn trong chính sách. Mặc dù vậy, qua các trao đổi của mình, các quan chức ở Hội đồng An ninh Quốc gia nói với tôi rằng, nên hiểu lời của Trump là ông bất ngờ một cách tiêu cực về hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này dường như nhằm khẳng định chính sách hiện tại. Có thể kết luận rằng, có vẻ như Tổng thống Trump chưa để ý nhiều tới Biển Đông và tự do hàng hải.

Điều này cũng có nghĩa là không nên loại trừ cách tiếp cận mang tính giao dịch của Trump trong quan hệ quốc tế sẽ bao gồm cả vấn đề Biển Đông. Nó có thể trở thành một miếng bánh trong cuộc đàm phán lớn hơn với Trung Quốc, nơi ưu tiên dành cho thương mại và Bắc Triều Tiên. Có lẽ sự không chắc chắn về các cam kết dài hạn của Hoa Kỳ sẽ khiến các nước như Philippines dưới chính quyền Duterte ngày càng ngả về phía tìm kiếm hợp tác về kinh tế với Trung Quốc về quyền tiếp cận nguồn tài nguyên Biển Đông bất chấp thực tế là như vậy sẽ làm suy yếu các tuyên bố chủ quyền của Philippines.

Câu hỏi lớn về chính sách là nếu muốn ngăn chặn việc Trung Quốc âm thầm quân sự hoá các đảo, Hoa Kỳ cần phải có đồng minh. Liên minh tự do hàng hải ngày càng mở rộng. Tôi đã tận mắt nhìn thấy điều này khi chúng tôi đến Trường Sa và thấy các tàu của Anh, Úc và Hoa Kỳ đi qua khu vực này. Bước đi tiếp theo để cho Trung Quốc thấy rằng không chỉ có Hoa Kỳ muốn duy trì tự do hàng hải là việc thực hiện các cuộc tuần tra biển với đồng minh. Các biện pháp cấm vận đối với các công ty tham gia bồi đắp, cải tạo cũng là một trong số các công cụ có thể được tính đến. Về phương diện luật pháp quốc tế, việc thông qua Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) sẽ không làm Hoa Kỳ thiệt hại, nhưng điều này dường như càng khó xảy ra. Khuyến khích các quốc gia yêu sách theo bước chân của Philippines và đưa vấn đề này lên Toà án Trọng tài quốc tế có thể là bước hữu ích buộc Trung Quốc và các quốc gia yêu sách phải làm rõ những đòi hỏi của họ và cả những cơ sở pháp lý của các đòi hỏi đó dựa theo luật pháp quốc tế.

Nước Pháp đang tìm cách thúc ép các nước châu Âu có lập trường rõ ràng hơn về tự do hàng hải. Những cuộc tuần tra của quân đội Pháp đang thúc đẩy các tuyên bố của EU về việc duy trì tự do hàng hải và luật quốc tế đi vào thực tiễn. Các nước châu Âu khác có thể sẽ tham gia vào các cuộc tuần tra biển trong tương lai. Và tất nhiên, Liên minh châu Âu còn cần phải đóng một vai trò lớn hơn nữa ngoài chức năng an ninh cứng là bảo đảm tự do hàng hải.

Khi tôi đi qua Biển Đông, tôi có thấy rằng vấn đề ô nhiễm và đánh bắt cá quá mức là những thách thức gần hơn là những vấn đề về chủ quyền hoặc trò chơi cạnh tranh quyền lực nước lớn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Ở đây, Liên minh Châu Âu có thể phát huy vai trò đặc biệt trong thúc đấy chủ nghĩa đa phương hàng hải vì tổ chức này đã có những thành công tuyệt vời trong việc quản lý các quyền đánh cá và bảo vệ môi trường ở những vùng nước giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, ở Biển Đông, với mức độ tin cậy giữa các đối tác rất thấp, những việc đó sẽ vô cùng nhạy cảm và khó khăn, mặc dù chúng có thể là tiền đề để giúp từng bước tạo ra được lòng tin. Nếu không hành động sớm, Biển Đông chắc sẽ thực sự trở thành một cái ao của Trung Quốc, vừa ô nhiễm vừa dần cạn kiệt nguồn cá.

Tác giả Jonas Parello-Plesner là nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Hudson. Bài viết được đăng trên Viện Hudson.

Tâm Hương (dịch)

Thanh Hải (hiệu đính)

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/7009-bien-dong-lieu-co-tro-thanh-ao-nha-cua-trung-quoc
0

Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2018

Năm bài học rút ra từ vụ Philippines kiện Trung Quốc về Biển Đông

Việc khởi kiện Trung Quốc là thời khắc lịch sử trong quan hệ đối ngoại của Philippines: Bởi đây là lần đầu tiên Philippines tìm đến luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp chính trị.


Đổi lại, nỗ lực này đã nhận được “sự đền đáp”, ít nhất là từ góc độ quan điểm pháp lý. Vào ngày 12/7/2016, hơn 3 năm sau khi khởi kiện vào ngày 22/1/2013, Manila đã đạt được phán quyết có lợi vốn làm rõ các khía cạnh quan trọng của tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Rodrigo Duterte đã gác “giải thưởng pháp lý” này vào xó tủ.
Giới chỉ trích nói rằng Tổng thống Duterte đã không tận dụng phán quyết này, song họ đã không nhìn nhận được những hạn chế tồn tại trong chính cách tiếp cận pháp lý này. Biện pháp pháp lý này đã chỉ rõ việc chuyển các tranh chấp lên một tòa án quốc tế để đưa ra một phán quyết có tính ràng buộc theo luật pháp quốc tế. Nếu Philippines cân nhắc sử dụng phán quyết này một lần nữa để giải quyết tranh chấp, thì các nhà hoạch định chính sách ngoại giao cần hiểu rõ về khả năng được tuân thủ cũng như những hạn chế của phán quyết này.

Phán quyết của Tòa trọng tài về Biển Đông có thể đem lại một số sự hiểu biết đáng giá về tính chất phức tạp của biện pháp pháp lý để xử lý tranh chấp. Rút kinh nghiệm từ Philippines, các nước có thể cân nhắc 5 vấn đề khi tính đến con đường pháp lý để giải quyết tranh chấp.

Thứ nhất, biện pháp pháp lý chỉ có tính khả thi nếu tuyên bố chủ quyền có cơ sở pháp lý chặt chẽ và nếu vụ kiện có thể được đưa lên một tòa án có quyền hạn xét xử. Trong trường hợp của Philippines, khi khởi kiện, Manila tin rằng tuyên bố chủ quyền của họ sẽ trụ vững trước tòa, nhất là trước quan điểm của Trung Quốc. Ví dụ, các tài liệu trong hồ sơ vụ kiện của Philippines có cơ sở vững chắc trong Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS), không giống như tuyên bố chủ quyền “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh.

Ngoài ra, các nước có thể xem xét đưa tranh chấp lên hai loại tòa án: Tòa thường trực và tòa trọng tài. Trích dẫn nhận định của một học giả, bài viết cho rằng chi phí trả cho tòa thường trực ít tốn kém hơn và nhìn chung thường có uy tín hơn, khiến các phán quyết mà tòa này đưa ra có thẩm quyền cao hơn. Vì vậy, sự lựa chọn loại tòa án cần mang tính chiến lược. Trường hợp của Philippines, Manila đã lựa chọn tòa trọng tài chứ không phải tòa thường trực. Lý do là trước đó, cả Trung Quốc và Philippines đều không chấp thuận đưa vụ kiện lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) hoặc Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển. Mặc dù Philippines lúc đó có thể đàm phán một thỏa thuận đặc biệt với Trung Quốc để cùng trao quyền hạn xét xử vụ kiện cho một trong hai loại tòa án thường trực nói trên, song Manila hiểu rõ rằng Bắc Kinh sẽ khước từ một thỏa thuận như vậy, đồng thời hiểu rõ rằng cơ chế trọng tài phân xử theo Phụ lục VII của UNCLOS cho phép tiến hành vụ kiện ngay cả khi Trung Quốc sẽ từ chối tham gia. Thế nên, Manila đã chọn một tòa trọng tài để khởi kiện.

Thứ hai, biện pháp pháp lý không loại trừ các biện pháp khác để xử lý tranh chấp một cách hòa bình, và trên thực tế, có thể kết hợp với các biện pháp khác, như thương lượng, tham vấn, trung gian hòa giải, và tìm kiếm sự hỗ trợ của các cơ quan quốc tế và khu vực. Mặc dù Hiến chương Liên hợp quốc nói rằng biện pháp pháp lý là cách duy nhất để giải quyết tranh chấp nhưng trên thực tế, Philippines đã kết hợp đồng thời 2 biện pháp khác: biện pháp chính trị thông qua sự can dự đa phương của ASEAN và biện pháp ngoại giao tức là tiếp tục thảo luận song phương với Trung Quốc về các vấn đề khác.
Thứ ba, nếu các nước quyết tâm theo đuổi con đường pháp lý thì họ cần đồng thời tìm cách ngăn chặn xung đột và tìm ra các chiến lược quản lý xung đột. Bởi thực tế là ngay cả khi con đường pháp lý mang tính hòa bình và phụ thuộc vào sự chấp thuận của cả hai bên, song bên bị kiện vẫn coi hành động này là mang tính thù địch, do đó có nguy cơ hủy hoại quan hệ song phương. Đơn cử là Philippines đã hứng chịu việc Trung Quốc áp đặt các lệnh cấm nhập khẩu hàng nông sản từ Philippines.

Thứ tư, biện pháp pháp lý rốt cục phải phụ thuộc vào việc chính các bên thực thi phán quyết, nếu chỉ dừng lại ở việc đạt được một phán quyết nghiêng về một bên, thì chưa thể coi là biện pháp pháp lý này đã kết thúc. Việc Trung Quốc bác bỏ thực thi phán quyết đã chứng minh điều này vì nó cho thấy không có quyền lực nào cao hơn để có thể buộc các nước tuân thủ các phán quyết quốc tế. Thông thường, khi một bên không sẵn sàng thực thi phán quyết, thì bên còn lại sẽ phải tìm các cách để buộc phải tuân thủ. Chính quyền Philippines ban đầu đã nỗ lực kêu gọi quốc tế gia tăng sức ép trước việc Trung Quốc không tuân thủ, song đến thời Duterte, Manila đã quyết định gạt phán quyết sang một bên để cải thiện quan hệ với Bắc Kinh, hy vọng rằng điều này cuối cùng sẽ giúp định hình môi trường khu vực thuận lợi hơn cho việc tuân thủ. Các nước khác có thể đối mặt với vấn đề tương tự như tình huống này vì ngay cả khi một bên đồng ý đưa tranh chấp lên tòa quốc tế hoặc tòa trọng tài giải quyết thì sự chấp thuận này không phải là một tấm thẻ căn cước để đảm bảo rằng bên đồng ý đó rốt cục sẽ tuân thủ phán quyết.

Thứ năm, biện pháp pháp lý không thể đảm bảo tranh chấp được giải quyết. Bản thân phán quyết của tòa trọng tài là một bước đi quan trọng tiến tới giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, song phán quyết này lại luôn được đặt trong mối quan hệ với các thực tế chính trị. Mặc dù phán quyết của tòa trọng tài về vụ kiện của Philippines mang tính toàn diện khi làm rõ các vấn đề trong vụ kiện, nhưng các tranh chấp sẽ không thể được giải quyết khi vẫn tiếp tục thiếu vắng ý chí chính trị và cam kết của các bên.

Với 5 lưu ý trên, rõ ràng bài học rút ra từ vụ kiện Trung Quốc của Philippines là biện pháp pháp lý vốn tự thân có hạn chế và tính hiệu quả của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Sự lựa chọn loại hình tòa án, cách triển khai đồng thời các biện pháp quản lý và ngăn chặn xung đột, và một chiến lược hậu phán quyết để đảm bảo sự tuân thủ là những yếu tố quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng hơn cả việc soạn thảo được các tuyên bố chủ quyền có cơ sở pháp lý chặt chẽ.

Tác giả Adcel John A.Ibarra là chuyên gia nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ quốc tế và chiến lược. Bài viết đăng trên “Foreign Service Institute.

Viết Tuấn (gt)

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/6927-nm-bai-hc-rut-ra-t-v-philippines-kin-trung-quc-v-bin-ong
0

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Ấn Độ giúp Việt Nam hiện đại hóa quốc phòng

New Delhi: Ấn Độ đã bắt đầu thực hiện công tác đào tạo các kíp thủy thủ vận hành tàu ngầm Lớp Kilo cho hải quân Việt Nam, bao gồm từ những thao tác cơ bản cho đến những kỹ năng chiến thuật tác chiến phức tạp của tàu ngầm, khi mà cả hai quốc gia quyết định tiếp tục mở rộng mối quan hệ quân sự song phương.

    Mô phỏng tàu ngầm Lớp Kilo 636 Việt Nam chiến đấu trên biển Đông - Trịnh Thái Bằng

Cả hai quốc gia đều có sự cảnh giác với các hành vi quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mối quan hệ hợp tác quân sự giữa Ấn Độ và Việt Nam diễn ra chậm nhưng đều đặn và đều nằm trong khuôn khổ hợp tác huấn luyện và "xây dựng năng lực quốc phòng" cũng như trong khai thác dầu khí trên Biển Đông và đã gây nên sự bất mãn cho Bắc Kinh đến nay vẫn chưa nguôi.

Trong cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh và Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng hôm thứ tư, hai bên đã đồng ý rằng Ấn Độ sẽ chuyển giao bốn tàu tuần tra cho lực lượng hải quân Việt Nam theo một hạn mức tín dụng 100 triệu USD.

Ấn Độ sẽ đào tạo các kíp thủy thủ vận hành tàu ngầm Lớp Kilo 636 cho Việt Nam tại trường tàu ngầm của hải quân Ấn Độ, INS Satavahana, ở thành phố Vishakapatnam. Tại đây các học viên sẽ được đào tạo toàn diện về các kỹ năng chiến thuật chiến đấu phức tạp trên cả tàu ngầm hiện đại và thiết bị mô phỏng. Đây là một sáng kiến hợp tác song phương lớn trong mối quan hệ đối tác chiến lược đang lên giữa Việt Nam và Ấn Độ. 



Tàu chiến săn ngầm Lớp Petya được sự giúp đỡ của Ấn Độ nâng cấp đã cải thiện đáng kể khả năng săn ngầm cho lực lượng hải quân Việt Nam trên Biển Đông - Ảnh TTVNOL

Trong khi đó "Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ấn Độ AK Antony đã hứa rằng sẽ giúp đỡ Việt Nam với tất cả các nỗ lực của mình trong việc củng cố và nâng cao năng lực quốc phòng. Hiện tại đã có vài trăm cán bộ và chiến sỹ Việt Nam, cùng với các phiên dịch, tại Vizag. Hơn 500 thủy thủ vận hành tàu ngầm Việt Nam sẽ được hải quân Ấn Độ đào tạo theo từng đợt," một quan chức cao cấp Bộ Quốc phòng Ấn Độ tiết lộ.

Hành vi hung hãn của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như những yêu sách về chủ quyền của các nước như Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia, đã khơi dậy mối quan tâm trong khu vực. Việt Nam đã thực hiện các bước để tăng cường khả năng quân sự của mình, bao gồm cả việc chuẩn bị về mọi mặt cho việc tiếp nhận, vận hành và sẵn sàng chiến đấu với sáu tàu ngầm Lớp Kilo của Nga.


       
                Clip mô phỏng tàu ngầm Kilo Hải quân Việt Nam chiến đấu - Trịnh Thái Bằng


Hải quân Ấn Độ đã được trang bị tàu ngầm Lớp Kilo của Nga trong một thời gian dài, từ những năm 1980, Ấn Độ sẽ giúp Việt Nam vận hành và xử lý các tình huống trên những chiếc tàu ngầm mới của họ. Trong những năm trước, Ấn Độ đã cung cấp các phụ tùng thay thế và sửa chữa cho loại tàu chiến săn ngầm Petya và tàu tên lửa Ong Bắp Cày OSA- II của Hải quân Việt Nam, ngoài việc tiếp tục giúp đào tạo các cán bộ quân sự trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì Ấn Độ còn giúp đào tạo về kỹ năng Anh ngữ.

"Ấn Độ sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo các cán bộ lực lượng quốc phòng và an ninh cũng như trong việc hiện đại hóa quân đội Việt Nam, như việc cung cấp khoản tín dụng 100 triệu USD cho công việc mua sắm quốc phòng," Thủ tướng Manmohan Singh cho biết hôm thứ Tư.

Tàu chiến Ấn Độ cũng đã "đối mặt" với lực lượng Hải quân Trung Quốc trên biển Đông, Ấn Độ đã phải yêu cầu Trung Quốc phải tôn trọng quyền "tự do lưu thông hàng hải trong vùng biển quốc tế" và các quyền khác theo các nguyên tắc đã được quy định của luật pháp quốc tế.


TheoTimesofindia
0