Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Châu Á - Thái Bình Dương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Châu Á - Thái Bình Dương. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2018

Về thế và lực quân sự hiện nay của Trung Quốc

Đến nay, bức tranh toàn cảnh về thế và lực quân sự của Trung Quốc đã có những thay đổi đáng chú ý. Tuy lực và thế quân sự của Trung Quốc được cải thiện, nhưng thiếu kinh nghiệm tác chiến thực tế, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn lớn khi tiến hành chiến tranh với cường quốc khác. Trong khi đó, Trung Quốc có ưu thế hơn hẳn các nước khu vực.


Tóm tắt

Năm 2015, Trung Quốc thực hiện điều chỉnh chiến lược quốc phòng, nhằm xây dựng quân đội trở nên hùng mạnh bậc nhất thế giới vào dịp kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (01/10/2049). Cùng năm 2015, Trung Quốc công bố Sách trắng Quốc phòng nêu rõ tăng cường hiện đại hóa quân đội, quốc phòng, đối phó với thách thức an ninh của Trung Quốc đang tăng lên. Năm năm qua, một trong những thay đổi lớn nhất ở Trung Quốc là thay đổi tiềm lực, lực lượng, cơ cấu tổ chức quân đội. Đến nay, bức tranh toàn cảnh về thế và lực quân sự của Trung Quốc đã có những thay đổi đáng chú ý. Tuy lực và thế quân sự của Trung Quốc được cải thiện, nhưng thiếu kinh nghiệm tác chiến thực tế, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn lớn khi tiến hành chiến tranh với cường quốc khác. Trong khi đó, Trung Quốc có ưu thế hơn hẳn các nước khu vực.


Trung Quốc tăng cường mạnh mẽ tiềm lực quân sự

Nhờ kinh tế liên tục tăng trưởng từ khi cải cách, mở cửa bốn thập kỷ qua, ngân sách quốc phòng cũng tăng lên. Từ năm 1996, Trung Quốc tăng chi phí quân sự trung bình 11%/năm. Mấy năm gần đây, ngân sách quân sự của Trung Quốc tăng 7,6%.

Tổ chức quân đội Trung Quốc chuyển sang cơ bản giống mô hình quân đội Mỹ. Hệ thống chỉ huy gồm Quân ủy Trung ương, đứng đầu là Chủ tịch Quân ủy (cũng chính là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đảm nhiệm) có quyền chỉ huy tối cao và tuyệt đối, thông qua Bộ Tổng tham mưu liên hợp (như mô hình Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ) và các Bộ Tư lệnh liên hợp chiến khu, các Tổng bộ.1 Lãnh đạo Trung Quốc nắm toàn quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang. Quân đội Trung Quốc đặt công tác xây dựng chính trị, tư tưởng lên hàng đầu, chú trọng sáng tạo phát triển lý luận quân sự mới, loại bỏ quan niệm “một khẩu súng, một đôi chân, ba bát cơm, bốn quả lựu đạn”. Trung Quốc đứng thứ sáu châu Á về quân số tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc.

Trung Quốc thành lập ba Bộ tư lệnh mới.2 Lục quân chuyển từ “phòng ngự khu vực” sang cơ động liên khu vực và toàn cầu, nâng cao khả năng tác chiến liên chiến trường. Hải quân giữ nguyên ba (03) hạm đội và một (01) Sư đoàn thủy quân lục chiến, nhưng tăng lên ba (03) chi đội hộ vệ khu trục cho mỗi hạm đội. Hải quân chuyển trọng tâm từ “phòng thủ ngoài khơi” sang kết hợp với “bảo vệ vùng biển mở”; tăng cường khả năng cơ động và tác chiến liên hợp trên biển. Không quân Trung Quốc chuyển trọng tâm từ phòng thủ lãnh thổ sang tiến công và phòng thủ. Quân chủng hỗ trợ chiến lược được thành lập, trên cơ sở sáp nhập Lực lượng pháo binh II (tên lửa chiến lược), bộ đội tác chiến điện tử (mạng) và bộ đội phát triển vũ khí chiến tranh không gian,3 tăng cường khả năng đánh đòn trả đũa hạt nhân, tiến công tầm trung và tầm xa.

Trung Quốc cắt giảm quân số,4 tiến tới đưa tỉ lệ lục quân so với hải quân, không quân tiếp cận tỉ lệ 4/6 như các nước Mỹ, Anh, Pháp. Nét nổi bật là Trung Quốc cắt giảm quân số lục quân, nhưng tăng quân số hải quân, không quân và tên lửa chiến lược,5 tức tăng quân số ở các đơn vị được trang bị vũ khí công nghệ cao.

Trung Quốc chú trọng đầu tư trang bị, hiện đại hóa, bổ sung trang bị mới, tăng cường đáng kể sức mạnh của quân đội. Ngoài lực lượng đã có,6 năm 2017, hải quân Trung Quốc có thêm 1 tàu sân bay, dẫn đầu công nghệ đẩy cho tàu ngầm. Tháng 3/2017, Trung Quốc bắt đầu đóng tàu đổ bộ tấn công loại lớn. Tháng 6/2017, Trung Quốc hạ thuỷ tàu chiến tân tiến nhất châu Á, tạo bước chuyển lớn trong quá trình hiện đại hóa trang bị hải quân.

Tại Thái Bình Dương, Trung Quốc hoàn tất bồi đắp đảo quy mô lớn trên 7 thực thể;7 nối liền các đảo nhân tạo, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng 3 đường băng dài 3.300 m, cho phép các máy bay chiến đấu hiện đại hạ cánh, biến chúng thành những “căn cứ dân sự - quân sự” nhằm tăng cường sự hiện diện lâu dài trên Biển Đông. Trung Quốc đạt được thỏa thuận xây dựng cảng nước sâu ở Cô Công (Cam-pu-chia), thời hạn sử dụng là 99 năm, cách Biển Đông vài trăm cây số, có thể trú đậu tàu thuyền có lượng giãn nước đến hàng vạn tấn; tuần dương hạm và tàu sân bay Trung Quốc có thể ghé cảng, từ đây nhanh chóng vươn ra Biển Đông hoặc vươn tới Ấn Độ Dương.

Ngoài Quân chủng Hải quân, Trung Quốc chú trọng xây dựng lực lượng Dân quân biển từ ngư dân, sử dụng tàu đánh cá để tập trận trong vùng tranh chấp. Ngư dân được huấn luyện quân sự, trợ cấp về nhiên liệu và đá trong các chuyến đánh bắt cá, có nhiệm vụ thu thập thông tin về các tàu nước ngoài đi qua Biển Đông, tham gia tìm kiếm cứu hộ, vận chuyển nguyên vật liệu để xây dựng, cải tạo đảo đá hay ngăn chặn tàu nước ngoài trong trường hợp hải quân không tiện can thiệp. Đây là chiến lược “đánh cá, bảo vệ, chiếm giữ và quản lý” - một phần trong chiến lược tổng thể nhằm làm chủ vùng Tây Thái Bình Dương.

Tại Ấn Độ Dương, Trung Quốc mở rộng sự hiện diện quân sự trên đại dương này. Lần đầu tiên, Trung Quốc có căn cứ quân sự ở nước ngoài, trong chủ trương thiết lập chuỗi các căn cứ quân sự ven biển dọc các tuyến đường vận tải từ Trung Quốc sang châu Phi, Trung Đông. Căn cứ quân sự đầu tiên đặt tại Di-bu-ti, nối Biển Đỏ và Vịnh A-đen, gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại châu Phi và Ấn Độ Dương, đồng thời còn nhằm ngăn Mỹ hỗ trợ lực lượng cướp biển vùng Sừng châu Phi hoạt động trên tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng của Trung Quốc. Trung Quốc hiện đang tham gia vào các dự án cơ sở hạ tầng tại Pa-ki-xtan, Nê-pan, Xri Lan-ca, Mi-an-ma và Man-đi-vơ, thực chất là nhằm mở rộng hoạt động ở Ấn Độ Dương và khống chế Ấn Độ.

Về không quân: tháng 12/2016, Trung Quốc đưa vào biên chế máy bay chiến đấu tàng hình FC-3 thế hệ thứ 5, chấm dứt độc quyền của phương Tây sản xuất loại máy bay này. Tháng 3/2017 Trung Quốc đưa vào sử dụng máy bay chiến đấu tàng hình loại mới nhất J-20, tương đương máy bay tàng hình F-35 của Mỹ.

Lực lượng tên lửa: Trung Quốc liên tục hiện đại hóa tên lửa, tăng cường khả năng răn đe chiến lược. Năm 2017, Trung Quốc đưa vào sử dụng tên lửa mới DF-31AG,9 cải tiến tên lửa phòng không tầm trung DF-16G với độ chính xác hơn. Năm 1996, Trung Quốc mới bắt đầu nghiên cứu phát triển tên lửa đạn đạo thông thường, nhưng tiến bộ nhanh, đến năm 2015, Trung Quốc đã triển khai hơn 1.200 tên lửa đạn đạo (tầm bắn của tên lửa DF-21C bao phủ toàn bộ Đông Nam Á) với độ lệch mục tiêu chỉ vài mét. Tháng 2/2017, Trung Quốc đưa vào biên chế tên lửa đạn đạo có độ chính xác cao, có thể đặt trên các bệ phóng di động và tấn công tất cả tàu chiến, tàu ngầm, căn cứ không quân cách biên giới Trung Quốc 2.000 km,10 đe doạ các căn cứ quân sự của Mỹ đóng ở Nhật Bản, đe dọa Nhật Bản, Đài Loan, Phi-líp-pin.11 Như vậy, khả năng giành quyền kiểm soát trên không, trên biển và mục tiêu tấn công tầm xa của Trung Quốc nâng lên rõ rệt, có thể phòng ngự biển gần hiệu quả.

Một số hạn chế về Lực của Trung Quốc về quân sự

Tuy Trung Quốc liên tục tăng ngân sách quân sự, nhưng đến nay mới đạt khoảng 147,7 tỷ USD, trong khi đó ngân sách quân sự năm 2017 của Mỹ đã lên tới 626 tỷ USD, tức là ngân sách quốc phòng Trung Quốc mới bằng một phần tư chi phí quân sự của Mỹ. Ngân sách này lại phải chi phí cho giảm quân, tăng cường trang bị hiện đại quân đội, nên chi phí cho huấn luyện sẽ bị hạn chế.

Trung Quốc chậm thu hẹp khoảng cách với các cường quốc phát triển về sản xuất những trang bị chủ yếu. Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc đứng thứ tư trên thế giới,12 không phải là nước nắm công nghệ gốc, nên hạn chế khả năng nghiên cứu, phát triển các phương tiện chiến đấu chủ yếu như máy bay chiến đấu hay tên lửa không đối không tiên tiến.

Việc tinh giảm biên chế gặp khó khăn về tạo việc làm, bảo đảm phúc lợi xã hội. Chính phủ khó bố trí ngân sách hỗ trợ quân nhân giải ngũ.

Nội trị Trung Quốc gặp không ít thách thức, như khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề Hồng Công, Ma Cao... khiến quân đội phải dàn trải nguồn lực để đối phó.

Quân đội Trung Quốc nhìn chung vẫn ít dịp thử thách, thiếu kinh nghiệm tác chiến, năng lực sử dụng vũ khí hạn chế, khả năng tấn công từ xa và kỹ thuật tác chiến chống tàu ngầm còn yếu; chưa phát triển được năng lực tác chiến biển xa đáng tin cậy.

Tương quan về Thế

Một số điểm “thuận lợi” đối với Trung Quốc

Các thách thức an ninh đối với Mỹ hiện không chỉ có ở Đông Bắc Á mà cả ở Đông Nam Á, nơi Mỹ gần như không hiện diện quân sự.13 Trung Quốc sẽ nhiều cơ hội “rảnh rang” hơn để vươn ra làm chủ khu vực.

Nhờ thi hành chính sách đối ngoại láng giềng, Trung Quốc thành công trong việc dùng quan hệ thương mại, viện trợ kinh tế để dành “tình cảm” của nhiều nước ASEAN. Tiềm lực quân sự của Trung Quốc hiện nay vượt xa tất cả các nước khu vực cộng lại.

Hợp tác quốc tế nổi bật nhất đến nay của quân đội Trung Quốc là tập trận với hải quân Nga, rèn luyện khả năng hoạt động ở các vùng biển xa nhằm mục tiêu ngăn chặn Mỹ. Trung Quốc còn mở rộng hoạt động sang Ấn Độ Dương, châu Phi, Địa Trung Hải, Ban-tích, Pri-mô-ri-e.

Một số điểm hạn chế về “Thế quân sự”

Việc thực hiện mục tiêu “cường quân” của Trung Quốc thách thức trực tiếp lợi ích và địa vị của Mỹ, làm cho thách thức an ninh của Trung Quốc tăng lên. Mỹ tăng cường hiện diện, củng cố các liên minh quân sự trong khu vực. Mỹ có căn cứ ở Hawaii, 54.000 quân đóng tại Nhật Bản, 28.500 quân đồn trú tại Hàn Quốc, tăng cường quan hệ quân sự, bán vũ khí cho Đài Loan. Tuy thực hiện chính sách “một Trung Quốc”, nhưng Mỹ vẫn đối xử với Đài Loan như “đồng minh”. Đồng thời, Mỹ lại có kế hoạch triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm xa giai đoạn cuối (THAAD) tại Hàn Quốc, đem mối họa đến gần biên giới Trung Quốc hơn, tạo nên thế bao vây, kiềm chế Trung Quốc ở phía Bắc. Mỹ tăng cường quan hệ quân sự với Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Áp-ga-ni-xtan, tạo thế kiềm chế Trung Quốc ở phía Nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và phía Tây. Biển Đông là môi trường tác chiến thuận lợi cho hải quân và không quân Mỹ khi can thiệp vào eo biển Đài Loan để bảo vệ vùng lãnh thổ này.

Do vậy, việc giành và giữ quyền khống chế Biển Đông trở nên rất quan trọng đối với việc duy trì sức mạnh quân sự của Mỹ ở Đông Á. Mỹ tỏ thái độ cứng rắn trong vấn đề Biển Đông, trong hoạt động ngoại giao cũng như trên thực địa nhằm kiềm chế Trung Quốc, cam kết đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không trên vùng biển này. Ngoài ra, từ năm 2016 tới nay, Mỹ tập trận chung với Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc để tăng cường khả năng phối hợp. Kiểm soát Biển Đông, tranh chấp trên Biển Hoa Đông, tăng cường sức mạnh tổng hợp, Trung Quốc đang tạo nên sức ép, nguy cơ đối với Mỹ, ngăn chặn sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Biển Đông. Không những thế, Trung Quốc từng bước ép Việt Nam, Phi-líp-pin và tất cả các nước khác phải chấp nhận yêu sách về Biển Đông của Trung Quốc, buộc các nước ven Biển Đông chạy đua vũ trang, làm cho khu vực thêm bất ổn.

Trong khi Mỹ có trên 60 đồng minh quân sự trên thế giới, thì Trung Quốc gần như không có đồng minh (trừ Triều Tiên và chừng mực nào đó là Cam-pu-chia); Trung Quốc vẫn bị bao vây trong vành đai đảo thứ nhất (từ Nhật kéo xuống Phi-líp-pin và Ma-lai-xi-a); ít kinh nghiệm tác chiến thực tế và chính trị nội bộ bất ổn. Những thách thức này sẽ tiếp tục gây khó khăn cho Trung Quốc.

Nhật Bản nỗ lực hiện đại hóa quân đội và tăng cường các chính sách an ninh, phản ứng nhanh, mạnh đối với việc Trung Quốc triển khai hoạt động “quân sự hóa” ở Biển Đông, tranh chấp quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư ở biển Hoa Đông. Nhật Bản lo lắng về các giàn khoan mới do Trung Quốc xây dựng trên vùng biển mà cả hai nước đều tuyên bố là vùng đặc quyền kinh tế. Nhật Bản luôn khẳng định không có tranh chấp vì quần đảo này thuộc chủ quyền của Nhật Bản cả về pháp lý lẫn lịch sử. Trong khi đó, các tàu hải giám Trung Quốc ngang nhiên đi vào vùng lãnh hải của Nhật Bản ở gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, khiến một số nhà phân tích dự đoán rằng cuộc tranh chấp này có thể leo thang thành xung đột.
Trung Quốc không chỉ cạnh tranh chiến lược với Mỹ, tranh chấp với Nhật Bản mà còn tranh chấp biên giới với Ấn Độ. Tranh chấp này tồn tại từ khi Ấn Độ mới ra đời. Ấn Độ cho rằng địa vị địa - chính trị của mình ở Nam Á bị Trung Quốc thách thức khi Trung Quốc thúc đẩy toàn diện ý tưởng “Vành đai và Con đường” đi qua khu vực Nam Á và Trung Á gần Ấn Độ.

Cạnh tranh, tranh chấp không chỉ diễn ra giữa Trung Quốc với các nước lớn, mà Trung Quốc còn uy hiếp chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển của các nước có yêu sách chủ quyền ở Trường Sa, làm gia tăng cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực, khiến môi trường an ninh Trung Quốc và các nước xung quanh Biển Đông phức tạp hơn.14 Trung Quốc có “truyền thống” dùng vũ lực đánh chiếm các đảo,15 do đó các nước khu vực tỏ lo ngại trước việc Trung Quốc tôn tạo đảo, đá, triển khai tên lửa, quân sự hóa các đảo nhân tạo.

Thay lời kết luận

Từ sau năm 2012, tiềm lực, sức mạnh, cũng như thế quân sự của Trung Quốc cải thiện rõ rệt. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 đặt mục tiêu đến năm 2035 cơ bản thực hiện hiện đại hóa quốc phòng và quân đội; đến giữa thế kỷ XXI, hoàn thành xây dựng quân đội Trung Quốc thành quân đội hàng đầu thế giới. Đây là nhiệm vụ không dễ dàng.

Hiện nay, Trung Quốc gặp không ít thách thức bên trong, lo bất ổn nội trị, sợ bị phong tỏa, sợ không kiểm soát được vấn đề Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao, sợ bị láng giềng tấn công trên bộ, sợ có lãnh thổ ly khai, sợ bị ném bom tầm xa, sợ bị tấn công vào các vị trí chiến lược, sợ tình hình leo thang hoặc mất kiểm soát. Bên ngoài, trên các hướng, trừ hướng phía Bắc, đều tồn tại những nguy cơ an ninh; những thách thức này tăng lên cùng với quá trình Trung Quốc vươn lên thành cường quốc khu vực, cường quốc toàn cầu, nên không dễ gì Trung Quốc có thể dành chiến thắng dễ dàng nếu gây ra chiến tranh với các nước lớn. Bên cạnh đó, cạnh tranh Trung - Mỹ gay gắt, “không hòa, không chiến”, không có điểm kết thúc ngay tại khu vực.

Không phải lúc nào cạnh tranh, xung đột giữa cường quốc mới nổi lên và cường quốc đang suy yếu cũng nổ ra chiến tranh. Nhưng với “giấc mộng Trung Hoa” và so sánh lực và thế quân sự Trung Quốc hiện nay với từng nước khu vực, không loại trừ khả năng Trung Quốc xâm lấn, đánh chiếm các đảo của các nước ven Biển Đông. Đây là điều các nước, nhất là các nước nhỏ và trung bình, cần cảnh giác, chuẩn bị lực lượng, phương án để sẵn sàng đối phó./.
Thiếu tướng, PGS, TS. Nguyễn Hồng Quân, Viện Chiến lược Quốc phòng. Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Học viện Ngoại giao, Số 1 (112) Tháng 3/2018.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Ngoại giao. Về cải cách quân đội Trung Quốc. Báo cáo tháng 12/2015.
2. Quốc vụ viện Trung Quốc. Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc. Năm 2015.
3. Robert, Haddick. Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific, Appapolis: Naval Institute Press. 2014.
4. South China Morning Post, ngày 14/7/2017. http://www.scmp.com/news/china.

1 Bộ Ngoại giao, Về cải cách quân đội Trung Quốc, Báo cáo tháng 12/2015.
2 là Bộ Tư lệnh Lục quân, Bộ Tư lệnh Tên lửa và Bộ Tư lệnh Hỗ trợ chiến lược.
3 Bộ Ngoại giao, Về cải cách quân đội Trung Quốc, Báo cáo tháng 12/2015.
4 Năm 2013, lục quân có 850.000 binh sĩ, hải quân có 235.000 binh sĩ và không quân có 3 98.000 binh sĩ.
5 Theo Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc, năm 2013, quân đội Trung Quốc có 1,483 triệu người, trong đó, lục quân 850.000, hải quân 235.000, không quân 398.000 người. Tháng 9/2015, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố tiếp tục cắt giảm 13% quân số (khoảng 300.000 quân), hoàn thành vào cuối năm 2017.
6 Trung Quốc đã có 2 tàu sân bay, 75 tàu ngầm, 29 tàu khu trục, 52 tàu hộ vệ, 162 tàu rải, quét thủy lôi, 265 tàu tên lửa, 240 tàu pháo, 98 tàu đổ bộ, 208 tàu bảo đảm và hậu cần. Bên cạnh đó, Trung Quốc có lực lượng không quân, hải quân với 140 máy bay ném bom, rải ngư lôi; 144 chiếc máy bay cường kích Q-5, JH-7, Su-30MK2; 10 máy bay tiêm kích; 31 máy bay trinh sát, tuần tra, chống ngầm; 3 máy bay tiếp dầu (nhằm phục vụ tác chiến xa, lâu); 174 trực thăng và máy bay vận tải; 122 máy bay huấn luyện. Số lượng tàu chiến hiện đại của Trung Quốc chiếm 7 % số lượng tàu nổi, trang bị tên lửa đất đối không tầm ngắn và tầm xa, tên lửa hành trình chống hạm siêu âm và hệ thống tác chiến chống ngầm nâng cấp. Tỷ trọng tàu ngầm tấn công hiện đại hóa của Trung Quốc năm 2010 tăng lên 48%, nay tăng lên 66%.
7 Trong hai năm, Trung Quốc đã bồi đắp các đảo nhân tạo, cải tạo 1.300 hecta đất trên các đảo ở Trường Sa, bằng tất cả các nước xung quanh thực hiện trong vòng 40 năm qua, diện tích rộng gấp 17 lần, không tính diện tích Trung Quốc đã cải tạo quần đảo Hoàng Sa.
8 Máy bay J-20 có tầm bay xa hơn, năng lực cung cấp nhiên liệu lớn hơn và mang được nhiều vũ khí hơn máy bay chiến đấu F-22 và F-35 của Mỹ. Đây là thách thức đối với Hàn Quốc và Nhật Bản.
9 DF-31 AG sử dụng nhiên liệu rắn, có khả năng di chuyển trên đường và có thể được phóng đi từ xe 8 cầu dùng để chuyên chở.So với tên lửa DF-31 và DF-31A, tên lửa DF-31AG có khả năng di chuyển và khả năng tồn tại tốt hơn. Tên lửa DF-31AG cùng với tên lửa DF-31A thể hiện vị thế cường quốc và năng lực quốc phòng của Trung Quốc.
10 Haddick, Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific, Appapolis: Naval Institute Press.
11 Dẫn theo South China Morning Post, ngày 14/7/2017.
12 Sau Mỹ, Nga và Pháp
13 Năm 1943, Mỹ xác định 66 vị trí chiến lược mà hải quân và không quân Mỹ cần bảo vệ để ngăn chặn các cuộc tấn công từ châu Á - Thái Bình Dương. Về sau, Mỹ lập các căn cứ quân sự trong khu vực đều dựa trên hệ thống 66 vị trí này. Sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ điều chỉnh, rút nhiều căn cứ và duy trì chủ yếu ở Đông Bắc Á.
14 In-đô-nê-xi-a tăng cường lực lượng tại quần đảo Natuna, triển khai hệ thống phòng không tối tân nhất, 4 đơn vị đặc nhiệm, trang bị hệ thống phòng không tầm trung trên đảo Pulau Natuna Besar, bố trí thêm 8 máy bay chiến đấu, một phi đội máy bay không người lái đến căn cứ không quân ở thủ phủ quần đảo Natuna; mở rộng hai căn cứ không quân và hải quân tại chỗ, tăng gấp đôi binh lính đồn trú, tới 2.000 quân. Mỹ giúp Phi-líp-pin hiện đại hóa Trung tâm Theo dõi Duyên hải và tăng cường chia sẻ tin tức tuyệt mật giữa Mỹ và Hải quân Phi-líp-pin.
15 Năm 1956 và năm 1974 Trung Quốc dánh chiếm Hoàng Sa, năm 1988 chiếm Johnson South Reef (đá Gạc Ma), Gaven Reef (đá Ga Ven), Hughes Reef (đá Tư Nghĩa) thuộc Trường Sa; năm 1995 Trung Quốc chiếm Mischief Reef (bãi đá Vành Khăn), năm 2012 chiếm bãi đá Scarborought...
0

Trung Quốc đang gian lận trong một trò chơi dối trá

Việc đổ lỗi cho Trung Quốc đe dọa kìm hãm tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do mà không thiết lập được bất cứ thứ gì thay thế cho nó – một cách tiếp cận mà chỉ có thể dẫn đến một vòng luẩn quẩn với hoạt động kinh tế bất thường ngày một gia tăng và xung đột mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa là nguyên nhân và kết quả của nhau và đẩy thế giới đi theo một chiều hướng rất nguy hiểm.


Cuộc chiến thương mại là dấu hiệu của việc một hệ thống toàn cầu đã trở nên rất tồi tệ.

Một thái độ mới đối với Trung Quốc đang nhanh chóng được định hình trên mọi khía cạnh của chính trị nước Mỹ. Thượng nghị sĩ Bernie Sanders (chính trị gia độc lập đến từ bang Vermont) nhắc lại các luận điểm của Tổng thống Donald Trump, chỉ trích việc chuyển giao công nghệ của Mỹ cho Trung Quốc và việc đầu tư vào đó. Thượng nghị sĩ có tư tưởng tiến bộ Elizabeth Warren (đảng viên Đảng Dân chủ đến từ bang Massachusetts) đứng về phía cựu Chiến lược gia trưởng của Nhà Trắng Steve Bannon kêu gọi phải có một chính sách “hung hăng”. Các đảng viên Đảng Dân chủ thuộc giới quyền uy như Thượng nghị sĩ Chuck Schumer, lãnh đạo phe thiểu số, đang ủng hộ cuộc chiến thương mại của Trump với Trung Quốc. Những người trung thành ủng hộ thương mại tự do như ban biên tập tạp chí Wall Street Journal và các cơ quan trong bộ máy chính quyền như Hội đồng quan hệ đối ngoại đang tìm điểm chung với các liên đoàn bảo hộ như Liên đoàn công nhân ngành thép và những tổ chức chỉ trích công đoàn như Tổ chức giám sát thương mại toàn cầu. Mặc dù vẫn có những khác biệt đáng kể về chính sách và chiến lược, nhưng mọi người dường như đều nhất trí rằng Trung Quốc đang tiến hành hoạt động thương mại theo kiểu trục lợi gây tổn hại đến công việc kinh doanh và lao động ở Mỹ, và đã đến lúc cần phải đối đầu.

Điều gây tò mò là không có bất kỳ phân tích nào về động lực của chính sách Trung Quốc trong những cuộc tranh luận này. Thay vào đó, chúng ta lại thấy một hình ảnh thô kệch về việc những người Trung Quốc dối trá quyết tâm lợi dụng những người Mỹ ngây thơ. Như Thượng nghị sĩ bang Oregon Ron Wyden, đảng viên cấp cao của Đảng Dân chủ thuộc Ủy ban tài chính Thượng viện, đã phát biểu tại một phiên điều trần vào tháng 3/2018: “Trung Quốc đã đánh cắp tài sản trí tuệ của chúng ta, o ép các công ty của Mỹ cho đến khi họ tiết lộ bí mật thương mại của họ, và thao túng các thị trường của mình một cách chiến lược nhằm cướp lấy công ăn việc làm và các ngành công nghiệp của Mỹ”. Hay như Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa John Cornyn thuộc bang Texas đã nói: “Đơn giản là chúng ta không thể để Trung Quốc làm xói mòn lợi thế an ninh quốc gia của chúng ta bằng cách né tránh luật pháp của chúng ta và khai thác các cơ hội đầu tư vì những mục đích bất chính”.

Hình ảnh này phản ánh theo những cách đáng lo ngại lịch sử lâu dài của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bài Trung Quốc ở Mỹ. Và giống như việc những người Trung Quốc nhập cư vào thế kỷ 19 bị đổ lỗi là nguyên nhân dẫn đến sự bất lực của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do trong việc tạo ra sự thịnh vượng được chia sẻ rộng rãi, Trung Quốc giờ đây cũng bị đổ lỗi là nguyên nhân khiến cho tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do không đạt được sự tăng trưởng mang tính tổng hòa.

Sự đối đầu mới xuất hiện với Trung Quốc chỉ là dấu hiệu gần đây nhất cho thấy rằng một điều gì đó đã trở nên rất tồi tệ trong nền kinh tế toàn cầu. Những người chỉ trích Trung Quốc không sai khi cho rằng Mỹ và Trung Quốc hiện đang bị kẹt trong một cuộc cạnh tranh được mất ngang nhau vì sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề không phải là Bắc Kinh mà là bản thân cấu trúc kinh tế toàn cầu. Khi người ta ngày càng thấy rõ rằng hình thức toàn cầu hóa hiện tại không còn khả năng thúc đẩy sự phát triển, thì việc chê bai Trung Quốc đã trở thành một sự thay thế cho việc phải đối mặt một cách thành thật với nhu cầu cấp thiết là phải biến đổi bản chất của tăng trưởng toàn cầu.

Nếu người Mỹ đơn giản là chấp nhận những hạn chế do cấu trúc hiện tại áp đặt và cố gắng đấu tranh để giải quyết nó trong phạm vi những hạn chế này, thì chúng ta đang tiến vào một chu kỳ xung đột đang tăng tốc từng bước. Đối với Trung Quốc, đó là vì vấn đề trung tâm không phải là thương mại mà là sự phát triển. Khi được nhìn nhận từ khía cạnh này thì điều trở nên rõ ràng là những đòi hỏi mà Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đang đưa ra không khác gì việc cắt đứt con đường để Trung Quốc tiến tới một xã hội giàu có hơn. Đối với ban lãnh đạo Trung Quốc, điều này đặt ra một mối đe dọa mang tính sống còn.

Đúng là nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ cao nhất trong lịch sử của nó trong 3 thập kỷ qua, cải thiện đáng kể mức sống của hàng trăm triệu người dân. Tuy nhiên, phần lớn người dân Trung Quốc vẫn hết sức nghèo khó vì họ xuất phát từ một mức thu nhập thấp và vì của cải được phân phối rất không đồng đều. Một báo cáo gần đây đã đưa ra mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình, được điều chỉnh theo sức mua, là 6.180 USD. Con số đó ở Mỹ là 43.585 USD – nhiều hơn 7 lần.

Trong khi nhiều tỉnh ven biển của Trung Quốc đã đạt đến mức phát triển cao, thì rất nhiều tỉnh nội địa vẫn chìm trong nền nông nghiệp quy mô nhỏ năng suất thấp. Ngay cả ở Thượng Hải, thành phố giàu có nhất Trung Quốc, đại đa số lao động vẫn phải làm thuê những công việc lương thấp, thường kéo dài ít nhất 12 tiếng/ngày như lao động đến gãy lưng trên các công trường xây dựng, vắt kiệt mồ hôi tại các công xưởng trong điều kiện nguy hiểm, vận hành các cửa hàng nhỏ với lãi suất vô cùng ít ỏi, làm nghề mại dâm, quét rác trên đường phố hay bới rác.

Sự vật lộn để có được một cuộc sống tốt đẹp trong điều kiện cạnh tranh dữ dội và khan hiếm chung đã khiến cho bất ổn xã hội trở thành tình trạng kinh niên ở Trung Quốc. Chính phủ không còn công bố dữ liệu thống kê về số lượng các cuộc đình công và phản kháng, và các phương tiện truyền thông chính thức hiếm khi đưa tin về chúng, nhưng hầu như không ai nghi ngờ về việc sự bất mãn đó vừa có chiều rộng vừa có chiều sâu. Theo thống kê không chính thức của tổ chức China Labour Bulletin, con số các cuộc bạo loạn của người lao động trong năm 2017 dừng ở mức 1.257 và trong 7 tháng đầu năm 2018, con số này đã lên tới 1.063. Vì những con số này chỉ phản ánh các trường hợp có thể biết được trên mạng, chủ yếu thông qua truyền thông xã hội, nên nhóm thống kê tin rằng con số thực tế có lẽ cao hơn thế 10 đến 20 lần.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kết luận rằng cách duy nhất để kiểm soát tình trạng bất ổn nguy hiểm này là tiếp tục quỹ đạo phát triển hiện tại và duy trì việc dịch chuyển Trung Quốc sang nền sản xuất có giá trị cao hơn. Điều họ lo ngại hơn cả là Trung Quốc có thể rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” mà ở đó quỹ đạo phát triển của một nước dừng lại và trì trệ, không đạt đến được trình độ tiên tiến. Các nước như Ai Cập, Thái Lan và Brazil bị rơi vào tình trạng như vậy, không đáp ứng được nguyện vọng của người dân nước họ và gây hỗn loạn chính trị rộng khắp.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức sâu sắc về trải nghiệm này cũng như những tiền lệ trước đó của Trung Quốc, kể cả các cuộc phản kháng tại quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989 do tình trạng lạm phát cao và sự trục trặc của nền kinh tế gây ra. Cách đây vài năm, Vương Kỳ Sơn – thường được coi là người đàn ông quyền lực thứ hai ở Trung Quốc – đã yêu cầu các cán bộ cấp cao phải đọc tác phẩm “Chế độ cũ và cuộc cách mạng” của nhà sử học người Pháp Alexis de Tocqueville, cảnh báo rõ ràng rằng tình trạng hiện nay của Trung Quốc giống như tình trạng nước Pháp ngay trước khi cuộc cách mạng nổ ra.

Sẽ không có một sức ép nào từ phía Mỹ thuyết phục được các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ bỏ chiến lược phát triển của họ khi họ cảm thấy đã rơi vào bước đường cùng. Nhưng tại sao lại như vậy? Việc đưa một đất nước đi lên từ đói nghèo và làm gia tăng cơ hội cho tất cả mọi người sẽ không phải là những mục tiêu gây tranh cãi. Vậy thì tại sao lại có nhiều người ở Mỹ vội vàng tóm lấy cơ hội để chỉ trích Trung Quốc vì điều đó đến vậy? Câu trả lời là theo hình thái toàn cầu hóa hiện nay, cách duy nhất để có được sự phát triển là gian lận – được định nghĩa là sự can thiệp đáng kể của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Chỉ có những nước lớn tạo được bước đột phá trong phát triển mới đúng là những nước thao túng các điều kiện mà nền kinh tế toàn cầu đưa ra.

Kết quả tăng trưởng trong 3 thập kỷ toàn cầu hóa vừa qua đã chứng tỏ điều này. Trong số các nước đông dân nhất có thu nhập thấp và trung bình, chỉ có Trung Quốc là chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể và bền vững về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người. Ngược lại, các nước khác đã cho thấy sự gia tăng vừa phải về mức thu nhập nhưng lại không có sự đột phá trong phát triển. Cấu trúc chung của các nền kinh tế này vẫn trì trệ – hoặc tồn tại trong tình trạng nghèo xác xơ hoặc bị cản trở đến mức còn lâu mới trở thành các nước giàu có.

Kỷ nguyên tăng trưởng toàn cầu hậu Chiến tranh thế giới thứ hai, dễ thích nghi hơn với các cơ chế đầu tư do nhà nước dẫn dắt, đã chứng kiến các nước như Brazil và Mexico phát triển nhanh chóng. Nhưng trong thời kỳ toàn cầu hóa thị trường tự do, cơ hội phát triển duy nhất của các nước nghèo là thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất để xuất khẩu hàng hóa sang các nước giàu. Sự lựa chọn thay thế khác có ý nghĩa, xuất khẩu các hàng hóa cơ bản từ dầu mỏ đến đồng rồi đậu nành, đã làm giàu cho một số người ở những nước nghèo nhưng nhìn chung lại không biến thành sự tăng trưởng trên diện rộng bởi các chu kỳ thịnh-suy diễn ra nhanh chóng và các thành tựu của những thị trường này trong lĩnh vực việc làm là có hạn.

Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan vào những năm 1960 và 1970 đã đi tiên phong trong việc xuất khẩu hàng hóa sản xuất như một chiến lược phát triển. Là đồng minh của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Lạnh trước khi ý thức hệ thị trường tự do được áp đặt trở lại, những chính phủ này hoàn toàn được tự do hướng các nguồn lực vào các ngành công nghiệp chiến lược. Điều có ý nghĩa không kém là sự cạnh tranh mà họ phải đối mặt trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa giá rẻ là rất hạn chế.

Khi ngày càng có nhiều quốc gia hội nhập chế độ toàn cầu hóa thị trường tự do bắt đầu vào đầu những năm 1980, sự tranh giành đầu tư và các thị trường xuất khẩu trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Càng có nhiều quốc gia sử dụng chiến lược này, càng khó cho bất kỳ quốc gia đơn lẻ nào trong việc tích lũy tư bản họ cần để đổi mới căn bản nền kinh tế và duy trì sự gia tăng về của cải. Và không giống như sự phối hợp có chủ ý trong việc lập kế hoạch phát triển cho kỷ nguyên hậu chiến tranh, thị trường tự do có xu hướng chuyển các nguồn lực sang các nước vốn đã giàu có vì những nước này hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao nhất. Kết quả là, 3/5 đầu tư nước ngoài trong kỷ nguyên toàn cầu hóa rơi vào tay 1/8 dân số thế giới tập trung ở những nước giàu.

Vì thị trường người tiêu dùng toàn cầu vẫn luôn có giới hạn, nên các nước nghèo bị buộc phải cạnh tranh gay gắt với nhau. Việc theo đuổi sự phát triển thông qua các công xưởng bóc lột công nhân thậm tệ có nghĩa là chỉ có những nước duy trì được nguồn lao động rẻ mới thu hút thành công đầu tư nước ngoài. Nếu giá lao động bắt đầu tăng – nghĩa là nếu tăng trưởng kinh tế bắt đầu mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người lao động – thì nguồn đầu tư nước ngoài sẽ dịch chuyển đi nơi khác.

Kết quả là, nhiều nước đã chứng kiến việc dòng đầu tư đổ vào không để lại bất kỳ di sản lâu dài nào vì nguồn vốn nhanh chóng ra đi khi người lao động bắt đầu đưa ra các yêu cầu hay khi có sẵn các lựa chọn rẻ hơn. Chẳng hạn, Mexico đã chứng kiến một vài làn sóng đầu tư nước ngoài quy mô lớn. Tuy nhiên, mức lượng là không đổi trong hơn một thập kỷ, tỷ lệ đói nghèo chiếm hơn một nửa dân số, và số lượng công ăn việc làm trong ngành sản xuất hiện giờ vẫn giữ ở mức như trong năm 1960.

Trung Quốc đã thoát khỏi cái bẫy này chính xác là vì họ có các phương tiện cần thiết để gian lận trong khi chơi trò chơi dối trá này. Khi Trung Quốc bước vào cuộc cạnh tranh để phát triển trong những năm 1980, họ lấy làm hãnh diễn vì có một lực lượng lao động có kỷ luật và học thức đến mức khác thường, cơ sở hạ tầng đặc biệt tiên tiến và một nền tảng công nghiệp rất đa dạng so với các nước khác có cùng trình độ phát triển. Từ năm 1989 đến năm 2016, Trung Quốc đã thu hút 1/5 toàn bộ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước đang phát triển.

Nhưng chỉ mình đầu tư thì không tạo ra được sự phát triển. Khu vực Mỹ Latinh, trong cùng giai đoạn, đã thu hút được một phần thậm chí còn lớn hơn trong số FDI cho các nước đang phát triển – 1/4 – mà không đạt được sự tăng trưởng bùng nổ như đã thấy ở Trung Quốc.

Giống như ban lãnh đạo của hầu hết các nước nghèo, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) xác nhận sự phát triển là mục tiêu trung tâm cho tính chính danh của mình. Nhưng ở các nước khác, quyền lực chủ yếu được thiết lập thông qua các mạng lưới nhà bảo trợ-khách hàng chắp vá, chỉ liên kết theo kiểu ký sinh với hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại, nhà nước Trung Quốc là nhà nước trung ương tập quyền tới mức khác thường và sở hữu quyền kiểm soát cũng ở mức độ khác thường đối với nền kinh tế.

Trung Quốc chắc chắn không phải là không có sự bảo trợ và tham nhũng, nhưng trong hệ thống đảng-nhà nước từ trên xuống dưới, các quan chức thăng tiến bằng cách có được những con số thống kê đẹp về nền kinh tế vĩ mô và đóng góp vào chính sách công nghiệp do trung ương quyết định. Do có mối quan hệ gần gũi giữa quan chức và doanh nghiệp nên có thể theo đuổi sự bảo trợ thông qua việc đầu tư có hiệu quả thay vì chỉ thông qua việc bòn rút các nguồn lực.

ĐCSTQ đã nuôi dưỡng các lực lượng thị trường để đưa lực lượng lao động vào kỷ luật và các công ty tư nhân vẫn duy trì khả năng của họ trong việc giám sát các mô hình đầu tư lớn. Bằng việc dồn vốn để tăng cường các ngành công nghiệp chiến lược và kiến thức chuyên môn, ban lãnh đạo đã từng bước dịch chuyển lần lượt các lĩnh vực của nền kinh tế hướng đến một nền sản xuất ngày càng tiên tiến. Trong các lĩnh vực từ đồ chơi và dệt, đến thép và hóa chất, rồi đến xe hơi và hàng không và bây giờ là công nghệ thông tin và robot tiên tiến, nhà nước đã từng bước thúc đẩy nền sản xuất đi lên.

Nếu tầm nhìn đặc biệt này và năng lực của nhà nước mang lại động lực thúc đẩy Trung Quốc phát triển, thì chính vị thế thương lượng vững chắc có một không hai của Trung Quốc đã cho phép nước này thực hiện thành công các kế hoạch của mình. Thị trường rộng lớn và ngày càng phát triển của Trung Quốc đã thuyết phục được các tập đoàn lớn của nước ngoài đầu tư theo các điều khoản đã được đàm phán với nước này thay vì đơn phương áp đặt các điều kiện của riêng họ, như họ từng làm với ngành sản xuất ở Mỹ Latinh hay ngành công nghiệp khai khoáng ở châu Phi. Đáng chú ý nhất là Trung Quốc đã yêu cầu các tập đoàn nước ngoài bước vào thị trường trong nước phải tham gia liên doanh với các công ty Trung Quốc, điều cho phép các công ty trong nước học được các thông lệ về quản lý và công nghệ của thế giới các nước phát triển. Trung Quốc cũng đã đặt ra các quy định nhằm đảm bảo các điều kiện có lợi để các doanh nghiệp Trung Quốc được cấp phép sử dụng công nghệ của các công ty nước ngoài.

Chính phủ Trung Quốc và cá nhân một số công ty của Trung Quốc cũng đã giành được quyền tiếp cận công nghệ tiên tiến thông qua tình báo công nghiệp. Trong việc này, họ đã đi theo một con đường mà mọi quốc gia khác từng thành công về kinh tế đã đi qua – nhất là Mỹ. Vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, nước Mỹ non trẻ và lạc hậu về công nghệ đã hăng hái tham gia đánh cắp và chuyển giao bất hợp pháp các kỹ thuật sản xuất mũi nhọn từ nước Anh.

Tuy nhiên, việc công khai đánh cắp chỉ đóng một vai trò nhỏ trong chiến lược của Trung Quốc. Ngay cả Đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer, một người hiếu chiến ủng hộ đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc, cũng không dám nói rằng tình báo công nghiệp là một thành tố chính cấu thành nên chính sách của Trung Quốc nhằm thâu tóm thành công công nghệ tiên tiến. Báo cáo của Văn phòng Đại diện thương mại Mỹ sau cuộc điều tra của họ về “chế độ chuyển giao công nghệ bất hợp pháp” của Trung Quốc theo Mục 301 của Luật thương mại Mỹ năm 1974 tập trung rất nhiều vào các cuộc chuyển giao được thực hiện thông qua hoạt động liên doanh, các quy định về cấp phép và việc các công ty Trung Quốc thu mua các công ty nước ngoài – tất cả những điều này hẳn sẽ không xảy ra nếu các công ty nước ngoài có liên quan đều không sẵn sàng thỏa thuận. Mỗi một hình thức chuyển giao công nghệ đơn giản là một trường hợp khác của nguyên tắc chung về thị trường rằng các bên tham gia có sức mạnh thương lượng lớn hơn sẽ luôn đạt được những thỏa thuận tốt hơn cho mình. Phân tích cho cùng, Trung Quốc đã giành được quyền tiếp cận công nghệ không phải bằng cách gian lận mà vì họ không yếu đến mức thảm hại như những nước khác cũng đang hy vọng phá vỡ thế độc quyền của các nước giàu vốn dựa vào kỹ thuật để đạt năng suất cao.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã phải trả giá rất đắt cho chiến lược phát triển. Nhu cầu của Trung Quốc về đầu tư nước ngoài xuất hiện đồng thời với chiến dịch dài hạn của các tập đoàn ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản nhằm cắt giảm tiền lương và phá vỡ sức mạnh của các liên đoàn. Sự sẵn có của lao động Trung Quốc giá rẻ cho phép các tập đoàn này ép buộc người lao động phải chấp nhận mức lương trì trệ và điều kiện làm việc ngày càng tồi tệ trước sự đe dọa dịch chuyển sản xuất ra nước ngoài, góp phần đáng kể vào sự sụp đổ của khế ước xã hội ở những nước phát triển.

Chiến lược của Trung Quốc cũng tước đi khả năng phát triển của các nước nghèo khác. Một lần nữa ở đây, sức mạnh của nhà nước Trung Quốc đảm bảo nước này có một lợi thế quan trọng so với các đối thủ cạnh tranh, không chỉ trong việc cung cấp cho tư bản nước ngoài một lực lượng lao động giá rẻ và có kỷ luật và cơ sở hạ tầng có chất lượng cao một cách khác thường, mà còn bằng việc duy trì tỷ giá hối đoái thấp cho đồng nhân dân tệ. Điều này bảo đảm lợi thế về giá cả cho hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc khiến các nước khác bị gạt sang một bên.

Đặc biệt là người dân Trung Quốc cũng phải chịu đựng rất nhiều. Vì sự tăng trưởng dựa vào xuất khẩu đòi hỏi phải khai thác mạnh mẽ lực lượng lao động, nên Trung Quốc đã phá hủy có hệ thống sức dao động. Kết quả là, lao động Trung Quốc đã phải chịu đựng điều kiện làm việc nguy hiểm, mức lương nghèo nàn, tình trạng thường xuyên bị đánh cắp tiền lương và bị sỉ nhục ở nơi làm việc trong nhiều thập kỷ. Điều gây kinh hoàng là 38.000 lao động Trung Quốc đã mất mạng trong các tai nạn xảy ra tại nơi làm việc vào năm 2017.

Mặc dù sự phát triển đã mở ra các cơ hội kinh tế cho phần lớn người Trung Quốc, nhưng hệ thống trung ương tập quyền từ trên xuống dưới vốn cần thiết để đạt được sự phát triển theo tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do đã hạn chế đáng kể những lĩnh vực tự do khác ở Trung Quốc. Xuất hiện cùng với sự gia tăng về của cải là tình trạng tham nhũng mang tính đặc hữu, sự sa sút của các dịch vụ công và việc của cải rõ ràng chỉ được phân phối cho các tầng lớp trên. Vì dân thường ngày càng dễ bị ảnh hưởng bởi các lực lượng thị trường, nên họ đã phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng dữ dội, tình trạng bất ổn gia tăng và sự đổ vỡ lòng tin và cộng đồng đi kèm tình trạng như vậy. Sự phát triển làm xói mòn thay vì thúc đẩy các triển vọng dân chủ hóa của nước này.

Những vấn đề này không phải chỉ có ở Trung Quốc. Tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do đã khiến cho người lao động ở tất cả các nước phải cạnh tranh với nhau trong tình trạng đối kháng theo kiểu “cuộc đua đến đáy” (các công ty cạnh tranh với nhau bằng cách cắt giảm tiền lương và điều kiện làm việc – ND). Không nên đổ lỗi cho bên thắng cũng như bên thua trong cuộc chiến này về các hậu quả. Vấn đề là bản thân cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu.

Sự dư thừa năng lực là vấn đề thực sự, cũng như sự cạnh tranh khắc nghiệt mà việc phát triển có kế hoạch của nền sản xuất công nghệ cao của Trung Quốc có thể gây ra cho các khu vực năng động nhất của nền kinh tế Mỹ. Nhưng thay vì cản trở sự phát triển ở Trung Quốc, một hình thức toàn cầu hóa mới có thể giải quyết các vấn đề này bằng cách nâng cao mức lương và năng suất trên toàn thế giới. Cách tiếp cận mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa tìm cách hạn chế sự cạnh tranh bằng cách giới hạn nguồn cung, trong khi cách tiếp cận thay thế sẽ giải quyết tình trạng dư thừa năng lực và hạn chế về thị trường bằng cách mở rộng nhu cầu.

Nhưng một giải pháp như vậy đòi hỏi phải có một sự suy tính lại về sự tăng trưởng toàn cầu ở mức độ sâu sắc hơn nhiều so với những gì mà các chính trị gia dù là cánh tả hay cánh hữu đã dự tính. Nó đòi hỏi phải chấm dứt “cuộc đua đến đáy”: một chế độ toàn cầu về các quyền của người lao động mà sẽ phân phối lợi ích thu được từ sự tăng trưởng một cách rộng rãi hơn và đồng thời buộc các tập đoàn phải cạnh tranh bằng cách đầu tư vào lao động của họ thay vì làm cho các điều kiện làm việc trở nên tồi tệ hơn. Nó cũng đòi hỏi phải dành các khoản đầu tư đáng kể cho hàng tỷ người hiện đang cần vốn – các khoản đầu tư mà thị trường tự do từ chối bỏ ra – nhằm biến những người bị mắc kẹt trong các khu ổ chuột, khu biệt cư và các khu vực nông thôn bị bần cùng hóa trở thành người lao động và người tiêu dùng trong tương lai.

Việc đổ lỗi cho Trung Quốc đe dọa kìm hãm tiến trình toàn cầu hóa thị trường tự do mà không thiết lập được bất cứ thứ gì thay thế cho nó – một cách tiếp cận mà chỉ có thể dẫn đến một vòng luẩn quẩn với hoạt động kinh tế bất thường ngày một gia tăng và xung đột mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa là nguyên nhân và kết quả của nhau và đẩy thế giới đi theo một chiều hướng rất nguy hiểm. Một con đường khác sẽ đòi hỏi đối đầu với các nhóm lợi ích đầy quyền lực, ở Mỹ cũng như ở Trung Quốc. Trái ngược với tư duy dân tộc chủ nghĩa lợi ích ngang nhau, lựa chọn thay thế là một tầm nhìn thực sự mang tính toàn cầu về sự phát triển.

Jake Werner là nhà sử học về Trung Quốc hiện đại. Ông là Phó giáo sư về Khoa học Xã hội Đại học Chicago, Mỹ. Bài viết được đăng trên Foreign Policy.

Trần Quang (gt)
0

Các điểm yếu chiến lược của Trung Quốc

Trung Quốc trong thế kỷ 21 có thể sở hữu cỗ máy quân sự mạnh mẽ với kho vũ khí tên lửa có khả năng bắn tới lục địa Mỹ, tuy nhiên, Vạn lý trường thành trên bộ và Vạn lý trường thành trên biển, là những đảo đá được gia cố và cải tạo ở Biển Đông, vẫn có thể khiến Trung Quốc dễ bị tổn thương.


Trung Quốc có thể có một Tập Cận Bình chỉ huy bộ máy quân sự đáng gờm này và kể từ năm 2013 đã tiến hành chủ nghĩa phiêu lưu quân sự, song con đường theo đuổi “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập đang ngày càng làm tính dễ bị tấn công chiến lược của Bắc Kinh gia tăng. Vì vậy, cơ quan chính sách của Ấn Độ và các cơ quan tình báo liên quan cần tập trung nghiên cứu tính chất dễ bị tấn công mang tính chiến lược này của Trung Quốc và thường xuyên có những đánh giá về cách thức lợi dụng tính chất này để đối phó với sức mạnh quân sự vượt trội của Bắc Kinh. Phải thừa nhận rằng trong vòng 10 năm trở lại đây, Trung Quốc có tiềm lực quân sự có khả năng đe dọa về mặt quân sự và chính trị trong phạm vi các nước láng giềng. Mặc dù vậy, Bắc Kinh vẫn thiếu cả khả năng viễn chinh và khả năng tập hợp lực lượng để triển khai các chiến dịch ở tận Vùng Vịnh hoặc ở quy mô mà Mỹ và Nga có thể làm được.

Vì vậy, những nước đối địch của Trung Quốc cần nghiên cứu tính chất dễ bị tấn công về mặt chiến lược và địa chính trị của Trung Quốc khi đánh giá sức mạnh quân sự của Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh môi trường an ninh khu vực hiện nay. Việc đánh giá này không đơn thuần dựa trên những năng lực quân sự cũng như những hành động gây hấn của Bắc Kinh, mà dựa vào tính khách quan và các thuật ngữ quân sự đơn giản.

Đối với khía cạnh dễ bị tổn thương hay dễ bị tấn công về mặt địa chính trị, Trung Quốc nằm giữa hai cường quốc Mỹ và Nga. Ngoài ra, khu tự trị Tây Tạng, một điểm yếu khác của Trung Quốc, lại sát với Ấn Độ. Bắc Kinh và Washington trong năm 2018 này vẫn trong tình trạng đối đầu và mối quan hệ giữa Bắc Kinh và New Delhi cũng trong tình trạng tương tự. Moskva có thể duy trì quan hệ chiến lược với Bắc Kinh song đây chỉ là một kiểu quan hệ mang tính chiến thuật. Trong khi đó, sườn phía Thái Bình Dương của Trung Quốc là các quốc gia có mối quan hệ liên minh quân sự với Mỹ ở các cấp độ khác nhau. Trong đó, Nhật Bản là một cường quốc có quan hệ liên minh quân sự mạnh mẽ với Washington và vai trò của Tokyo cũng nổi lên trong cấu trúc an ninh khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Sự phân cực cạnh tranh hàng hải với Trung Quốc cũng nổi lên mạnh mẽ sau những hành động quyết đoán của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Xét ở khu vực địa chính trị châu Á hẹp hơn, Trung Quốc không có bạn bè. Tại Đông Á, ngoài Triều Tiên thì các nước khác không ưa gì Bắc Kinh. Ở khu vực Đông Nam Á, mặc dù Trung Quốc có thể thành công trong việc chia rẽ ASEAN song nhìn chung, ngoài Campuchia và và ở mức độ nào đó là Thái Lan, thì Trung Quốc không thể dựa vào bất kỳ nước nào sau những hung hăng quân sự của họ ở Biển Đông. Khu vực Nam Á lại đặt ra thách thức địa chính trị nghiêm trọng cho Bắc Kinh bất chấp sự nổi lên của trục Trung Quốc-Pakistan. Còn ở Trung Đông, Bắc Kinh không phải là nhân tố làm thay đổi cuộc chơi trong khu vực đang chứng kiến sự cạnh tranh giữa các cường quốc như Mỹ và Nga. Tóm lại, ở châu Á, mặc dù Trung Quốc gia tăng mở rộng quân sự nhưng cán cân quyền lực về mặt địa chính trị vẫn là những thách thức mà Bắc Kinh phải đối mặt trước mạng lưới liên minh quân sự và đối tác chiến lược của Mỹ với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Úc.

Xét ở góc độ chiến lược, Trung Quốc vẫn còn kém xa các liên minh quân sự và địa chính trị đối đầu với Bắc Kinh. Do không có sức mạnh nào bù đắp cho sự yếu kém này, Bắc Kinh khó có thể đem lại cái gọi là “cấp số nhân lực lượng” cho mình. Bên cạnh đó, không thể nói rằng môi trường chính trị và an ninh nội bộ lại giúp tăng cường sức mạnh tổng thể cho Bắc Kinh khi các khu vực biên giới như Tây Tạng và Tân Cương vẫn chìm trong bất ổn. Cùng với sự suy giảm tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu hàng chế tạo kèm theo đó là thu nhập giảm và tình trạng thất nghiệp, sự bất bình trong nước sẽ gia tăng. Thêm vào mối đe dọa này là sự che dấu tình trạng bất ổn (chính trị) có thể gây nên bởi giới chức cấp cao trong Đảng Cộng sản, trong quân đội và những quan chức bị xử với cáo buộc tham nhũng do họ chống lại quyền lực của Tập. Trung Quốc hoàn toàn không thể bị tổn thương như giới phân tích chiến lược lâu nay tuyên bố. Thực tế, Bắc Kinh cũng có những yếu tố dễ bị tổn thương mang tính chiến lược rõ ràng vốn có thể hủy hoại sức mạnh tổng thể của mình nếu đi sâu phân tích kỹ lưỡng.

Theo “Eurasia review”
Hương Trà (gt)

Nguồn bài đăng: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-trung-quoc/6903-cac-diem-yeu-chien-luoc-cua-trung-quoc
0

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2018

Biển Đông liệu có trở thành "ao nhà" của Trung Quốc?

Nếu không hành động sớm, rất có thể Biển Đông sẽ thực sự trở thành một cái ao của Trung Quốc, vừa ô nhiễm vừa dần cạn kiệt nguồn cá.


Mười hai ngày đêm trên biển trên một tàu chiến của Pháp đã cho tôi một cơ hội để suy ngẫm về những gì đang nằm phía trước ở vùng biển tranh chấp.

Vào đầu tháng 6, tôi đi bằng đường biển từ thành phố Darwin, Úc đến Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tôi là quan sát viên trên hai tàu chiến Pháp đi qua vùng biển tranh chấp và quần đảo Trường Sa thuộc Biển Đông. Ngoài những cuộc chạm trán khuấy động với hải quân Trung Quốc trong khu vực quần đảo Trường Sa, thì mười hai ngày trên biển đã cho tôi thật nhiều thời gian để suy ngẫm về tương lai Biển Đông.

Hãy bắt đầu với những điều cơ bản. Đầu tiên là cách gọi tên. Trong tiếng Anh, vùng biển này được gọi là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea). Theo nghĩa nào đó, cách gọi tên như vậy dường như củng cố thêm yêu sách của Trung Quốc nhưng nhiều người lại không để ý rằng phần phía nam của Biển Đông nằm cách xa bờ biển của Trung Quốc những hơn 1000 dặm. Trong tiếng Trung Quốc, vùng biển này được gọi là Nam Hải (Nanhai). Mặt khác, ở Việt Nam và Philippines, khu vực này lần lượt được gọi là Biển Đông và Biển Tây Philippines. Từ vị trí địa lí của vùng biển đối với hai quốc gia này, thì cách gọi tên như vậy hoàn toàn có lý.

Trước khi các quốc gia-dân tộc hiện đại được hình thành ở Châu Á, các nhà sử học chia sẻ quan điểm rằng, Biển Đông đã từng là một vùng giao lưu quan trọng cho những ngư dân bám biển, thương nhân và hải tặc. Thế nhưng hiện nay, mỗi quốc gia láng giềng đều cố xoá nhoà lịch sử và nêu những yêu sách về chủ quyền lịch sử lâu dài của mình. Riêng Trung Quốc ưu tiên thúc đẩy yêu sách đường chín đoạn, còn gọi là đường lưỡi bò, kéo dài gần 1000 dặm từ bờ biển Trung Quốc đến sát các bờ biển của Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.

Bill Hayton, một học giả tại Chatham House, đã chứng minh cách thức Trung Quốc nhận thức về quyền lợi của mình là nguồn gốc của xung đột tiềm tàng trên biển, và cách thức Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gắn các tuyên bố chủ quyền của họ với các hoạt động tuyên truyền về tự hào dân tộc. Thậm chí, chính phủ Bắc Kinh còn in hình bản đồ có đường chín đoạn trên hộ chiếu Trung Quốc. Khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam cố khiêu khích bằng cách mặc áo có hình “đường lưỡi bò”.

Trên thực tế, đường chín đoạn xuất phát từ bản đồ không chính xác do Chính phủ Quốc dân Đảng vẽ ra từ những năm 1940. Khi Chính phủ Quốc dân Đảng rút sang Đài Loan, họ tiếp tục duy trì tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông – và chính phủ đó vẫn giữ lập trường đó cho tới nay.

Chính tên của các hòn đảo thể hiện phần lịch sử được viết ra muộn. Rất nhiều rạn san hô trong vùng tranh chấp có tên bằng tiếng Anh do các thuỷ thủ đã đi qua khu vực này đặt cho. Richard Spratly là tên một người Anh săn cá voi. Đá Vành Khăn, một thực thể mà chúng tôi đã đi qua trên hành trình của mình, có thể đã được đặt tên theo tên một con tàu đi qua, còn bằng tiếng Trung Quốc được gọi là Mĩ Tế (Meij), là tên phiên âm từ tiếng Anh. Người Trung Quốc đã sử dụng bản đồ tiếng Anh để làm cơ sở cho những tuyên bố hiện nay của họ. Vậy một câu hỏi rất lớn được đặt ra là những yêu sách về quyền sở hữu từ thời cổ đại của Trung Quốc có cơ sở không? Nhóm các nhà khoa học quốc tế cần phải nghiên cứu kỹ những kho lưu trữ ở Đài Loan mà trong đó có chứa các tài liệu vô giá về lịch sử này, để loại bỏ những lẫn lộn từ các luận điểm quốc gia của các nước.

Tuy nhiên, ngay cả khi nắm rõ được lịch sử, Biển Đông vẫn sẽ là một điểm xung đột thực sự. Đây là một trường hợp để kiểm định lại tính toàn vẹn của luật biển quốc tế và cách giải quyết tranh chấp bằng ngoại giao. Đây cũng là một trường hợp để kiểm định đối với sự “trỗi dậy hoà bình” của Trung Quốc và để thấy rằng sự trỗi dậy đó có xung khắc gì với các nước láng giềng hoặc Hoa Kỳ. Tôi đã chứng kiến tận mắt lực lượng hải quân rất ấn tượng của Trung Quốc với các tàu khu trục bảo vệ Đá Vành Khăn, Đá Xu Bi và Đá Chữ Thập. Một chỉ huy hải quân người Pháp có nói với tôi rằng Trung Quốc đã chế tạo số lượng tàu chiến mới tương đương với toàn bộ tàu hải quân Pháp trong bốn năm qua. Ngoài ra, điều này ảnh hưởng tất cả chúng ta bởi phần lớn thương mại quốc tế và nhập khẩu năng lượng đi qua vùng này và nút thắt eo biển Malacca. Xung đột ở Biển Đông sẽ ngăn cản tất cả những hoạt động này.

Lập trường của Hoa Kỳ không phải là chọn đứng về bất cứ bên nào trong những vấn đề chủ quyền hoặc quyền sở hữu đối với các bãi ngầm tranh chấp, mà là để duy trì tự do hàng hải cho các tàu quân sự của Hoa Kỳ. Nước Pháp cũng có quan điểm tương tự, tôi thấy điều này rất rõ trong chuyển đi của tôi.

Ngoài ra, Hoa Kỳ quan tâm sâu sắc đến việc Trung Quốc quân sự hoá các đảo, điều mà Bộ trưởng Quốc phòng Mattis phê phán tại hội nghị quốc tế Shangri-la vào đầu tháng 6. Như một phản ứng ban đầu, Hoa Kỳ đã rút lời mời Trung Quốc tập trận RIMPAC. Điều này dường như không có bất kỳ tác động nào đối với Trung Quốc. Ông Tập Cận Bình còn đáp trả một cách thẳng thừng với Bộ trưởng Quốc phòng Mattis tại Bắc Kinh vào ngày 27 tháng 6 rằng, Trung Quốc sẽ không từ bỏ dù chỉ là một tấc đất lãnh thổ của họ ở Biển Đông.

Số lượng các chiến dịch tự do hàng hải (FONOPs) dưới chính quyền Trump ngày càng tăng nhưng nhận được ít sự chú ý từ cấp cao. Vào thứ 7 mùng 2 tháng 6, Tổng thống Trump đã đăng lên Twitter cá nhân của mình rằng “Thật ngạc nhiên khi Trung Quốc làm điều này”, như một phản ứng đối với nhận định của ông Mattis về “sức ép” của Trung Quốc ở Biển Đông. Câu này cho thấy sự không chắc chắn trong chính sách. Mặc dù vậy, qua các trao đổi của mình, các quan chức ở Hội đồng An ninh Quốc gia nói với tôi rằng, nên hiểu lời của Trump là ông bất ngờ một cách tiêu cực về hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này dường như nhằm khẳng định chính sách hiện tại. Có thể kết luận rằng, có vẻ như Tổng thống Trump chưa để ý nhiều tới Biển Đông và tự do hàng hải.

Điều này cũng có nghĩa là không nên loại trừ cách tiếp cận mang tính giao dịch của Trump trong quan hệ quốc tế sẽ bao gồm cả vấn đề Biển Đông. Nó có thể trở thành một miếng bánh trong cuộc đàm phán lớn hơn với Trung Quốc, nơi ưu tiên dành cho thương mại và Bắc Triều Tiên. Có lẽ sự không chắc chắn về các cam kết dài hạn của Hoa Kỳ sẽ khiến các nước như Philippines dưới chính quyền Duterte ngày càng ngả về phía tìm kiếm hợp tác về kinh tế với Trung Quốc về quyền tiếp cận nguồn tài nguyên Biển Đông bất chấp thực tế là như vậy sẽ làm suy yếu các tuyên bố chủ quyền của Philippines.

Câu hỏi lớn về chính sách là nếu muốn ngăn chặn việc Trung Quốc âm thầm quân sự hoá các đảo, Hoa Kỳ cần phải có đồng minh. Liên minh tự do hàng hải ngày càng mở rộng. Tôi đã tận mắt nhìn thấy điều này khi chúng tôi đến Trường Sa và thấy các tàu của Anh, Úc và Hoa Kỳ đi qua khu vực này. Bước đi tiếp theo để cho Trung Quốc thấy rằng không chỉ có Hoa Kỳ muốn duy trì tự do hàng hải là việc thực hiện các cuộc tuần tra biển với đồng minh. Các biện pháp cấm vận đối với các công ty tham gia bồi đắp, cải tạo cũng là một trong số các công cụ có thể được tính đến. Về phương diện luật pháp quốc tế, việc thông qua Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) sẽ không làm Hoa Kỳ thiệt hại, nhưng điều này dường như càng khó xảy ra. Khuyến khích các quốc gia yêu sách theo bước chân của Philippines và đưa vấn đề này lên Toà án Trọng tài quốc tế có thể là bước hữu ích buộc Trung Quốc và các quốc gia yêu sách phải làm rõ những đòi hỏi của họ và cả những cơ sở pháp lý của các đòi hỏi đó dựa theo luật pháp quốc tế.

Nước Pháp đang tìm cách thúc ép các nước châu Âu có lập trường rõ ràng hơn về tự do hàng hải. Những cuộc tuần tra của quân đội Pháp đang thúc đẩy các tuyên bố của EU về việc duy trì tự do hàng hải và luật quốc tế đi vào thực tiễn. Các nước châu Âu khác có thể sẽ tham gia vào các cuộc tuần tra biển trong tương lai. Và tất nhiên, Liên minh châu Âu còn cần phải đóng một vai trò lớn hơn nữa ngoài chức năng an ninh cứng là bảo đảm tự do hàng hải.

Khi tôi đi qua Biển Đông, tôi có thấy rằng vấn đề ô nhiễm và đánh bắt cá quá mức là những thách thức gần hơn là những vấn đề về chủ quyền hoặc trò chơi cạnh tranh quyền lực nước lớn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Ở đây, Liên minh Châu Âu có thể phát huy vai trò đặc biệt trong thúc đấy chủ nghĩa đa phương hàng hải vì tổ chức này đã có những thành công tuyệt vời trong việc quản lý các quyền đánh cá và bảo vệ môi trường ở những vùng nước giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, ở Biển Đông, với mức độ tin cậy giữa các đối tác rất thấp, những việc đó sẽ vô cùng nhạy cảm và khó khăn, mặc dù chúng có thể là tiền đề để giúp từng bước tạo ra được lòng tin. Nếu không hành động sớm, Biển Đông chắc sẽ thực sự trở thành một cái ao của Trung Quốc, vừa ô nhiễm vừa dần cạn kiệt nguồn cá.

Tác giả Jonas Parello-Plesner là nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Hudson. Bài viết được đăng trên Viện Hudson.

Tâm Hương (dịch)

Thanh Hải (hiệu đính)

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/7009-bien-dong-lieu-co-tro-thanh-ao-nha-cua-trung-quoc
0

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2018

Biển Đông: Sự va chạm giữa đại chiến lược của các cường quốc


Thế giới hiện nay đang dần hình thành trật tự đa cực mới, với hàng loạt chính sách đối ngoại - an ninh toàn cầu của các nước lớn. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến các nước nhỏ và những khu vực địa chính trị chiến lược quan trọng - trong đó có Việt Nam và khu vực Biển Đông. Trong quá trình hình thành trật tự thế giới mới, sự va chạm giữa đại chiến lược của các cường quốc là khó tránh khỏi.
0

Thứ Năm, 8 tháng 3, 2018

Nga : Kho vũ khí mới “bất khả chiến bại” của Putin có gì?

“Có tầm bắn không giới hạn”, “siêu thanh” hoặc dùng laser, kho vũ khí mới “bất khả chiến bại” của Nga đã được tổng thống Vladimir Putin giới thiệu trước Nghị Viện trong gần suốt một giờ hôm 01/03/2018.


Một tên lửa liên lục địa được tổng thống Nga Vladimir Putin giới thiệu trước Nghị Viện Nga ngày 01/03/2018. Ảnh chụp màn hình Huffington Post.
0

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017

Phản kháng toàn cầu chống Trung Quốc đang gia tăng

(kbchn) - Một sự phản kháng toàn cầu (global backlash) chống lại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đang hình thành.

Ở châu Âu, lời cảnh báo ngày càng gay gắt nhắm vào lối làm ăn kiểu con buôn của Trung Quốc và tham vọng của nước này muốn thâu tóm nhanh các doanh nghiệp châu Âu có công nghệ sáng tạo…


Ở Hoa Kỳ, cộng đồng các doanh nhân, từ lâu là nền móng cho quan hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, giờ đã không còn nhất trí trong vấn đề làm thế nào theo đuổi quan hệ với Bắc Kinh. Nhiều doanh nghiệp Mỹ bị thua lỗ ở Trung Quốc. Kết quả là, nhiều vấn đề khác – chẳng hạn như hoạt động gián điệp công nghiệp của Trung Quốc, yêu cầu có tính cưỡng bức về chuyển giao công nghệ, sử dụng truyền thông do nhà nước quản lý để tuyên truyền thân Bắc Kinh ở Hoa Kỳ và những nỗ lực tác động tới các cơ sở giáo dục Hoa Kỳ… – đang thôi thúc phải có phản ứng. Thực tế, các doanh nghiệp Trung Quốc tìm cách mua các công nghệ cao của Hoa Kỳ đã phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn. Đã có những cuộc thảo luận ở quốc hội về việc buộc các đài truyền hình và mạng cáp do nhà nước Trung Quốc điều hành nhưng hoạt động ở Hoa Kỳ phải đăng ký như là cơ quan đại diện cho chính phủ nước ngoài.

Sự phản kháng này xảy ra vào lúc Bắc Kinh thể hiện một niềm tin chưa từng có trước đây vào mô hình kinh tế và chính trị của họ, trong đó kết hợp sự cai trị độc tài của đảng Cộng sản Trung Quốc với một chính sách công nghiệp đặt mục tiêu bảo đảm các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ thống trị nền kinh tế của tương lai. Mục tiêu này được thực hiện thông qua trợ cấp của chính phủ, hoạt động nghiên cứu và phát triển được chính phủ tài trợ lớn và thâu tóm công nghệ của phương Tây. Từ tháng 7-2016, trong bài diễn văn chào mừng kỷ niệm 95 năm thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã bắt đầu sử dụng cụm từ “giải pháp Trung Quốc” để khẳng định rằng Trung Quốc đã tìm ra cái gọi là “giải pháp cho cuộc tìm kiếm của nhân loại về những thiết chế xã hội tốt hơn”. Từ đó đến nay, cụm từ này lan truyền chóng mặt ở Trung Quốc và được các lý thuyết gia của đảng Cộng sản Trung Quốc chọn làm ý tưởng để đối lập với ảnh hưởng của phương Tây trên thế giới. Như một cây bút của tờ Nhân dân nhật báo – cơ quan phát ngôn của đảng – viết hôm 6-12, giải pháp Trung Quốc “vượt qua ‘chủ nghĩa lấy phương Tây làm trung tâm’ (Western centrism) và kích thích mạnh mẽ sự thăng tiến của nhiều quốc gia đang phát triển tự tin ‘đi theo con đường của riêng mình’”.

Sự phản kháng cũng hình thành khi nhiều người ở phương Tây lo ngại rằng Trung Quốc đang thắng cuộc cạnh tranh toàn cầu giành tài nguyên, thị phần và ảnh hưởng tư tưởng. Trong khoảng thời gian tổng thống Trump họp thượng đỉnh ở Trung Quốc hồi tháng 11, báo chí Hoa Kỳ đầy những nỗi lo lắng rằng Trung Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ trong cuộc đua lãnh đạo toàn cầu. “Tại sao Trung Quốc thắng năm 2017 và ông Donald Trump đã giúp họ thực hiện điều đó như thế nào” là một nhan đề trên trang web của đài CNN ngày 3-11. “Trung Quốc đã thắng” là cách tạp chí Time đưa lên trang bìa tiêu đề một bài của nhà phân tích chính trị Ian Bremmer. USA Today cũng vậy.

Điều thú vị là phản ứng tiêu cực với sự trỗi dậy của Trung Quốc lại trái ngược với các báo cáo rằng Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của ông Trump đã không còn khả năng hợp tác với các đồng minh truyền thống của Mỹ. Nhưng trong các tuần lễ gần đây, chính phủ của ông Trump đã tham gia cùng Liên minh châu Âu (EU) bác bỏ yêu cầu của Trung Quốc rằng theo các điều khoản mà nước này tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì Trung Quốc cần được cấp quy chế nền kinh tế thị trường – một quy chế giúp bảo vệ Trung Quốc khỏi thuế chống bán phá giá. Tại hội nghị các bộ trưởng WTO ở Buenos Aires (Argentine) tuần trước, Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản đã đối đầu với Trung Quốc về sự miễn cưỡng của nước này trong việc giảm bớt sản xuất công nghiệp và những cung cách buôn bán có vấn đề khác.

Trong chuyến công du châu Á hồi tháng 11, tổng thống Trump bắt đầu sử dụng cụm từ “Ấn Độ-Thái Bình Dương” chứ không phải là “châu Á-Thái Bình Dương” như một cách báo hiệu cho khu vực này về ý định của Hoa Kỳ đưa cả Ấn Độ vào nỗ lực cân bằng sức nặng đang tăng lên của Trung Quốc về quân sự và kinh tế. Bên lề hội nghị Cấp cao Đông Á tại Manila, các quan chức Hoa Kỳ đã gặp gỡ các đối tác từ Úc, Nhật Bản và Ấn Độ, làm hồi sinh cái sẽ được biết tới như là “bộ Tứ” (the Quad) – một tập hợp lỏng lẻo bốn nền dân chủ duyên hải đang lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Ngoài ra, cái ấn tượng được cảm nhận rộng rãi rằng ông Trump thắng cử dẫn tới sự suy yếu ảnh hưởng của Hoa Kỳ cũng đã thôi thúc các quốc gia châu Á tiếp tục tìm phương thức an toàn để kháng cự lại Trung Quốc khi không có Hoa Kỳ. Chẳng bao lâu sau ngày bước vào Phòng Bầu dục, ông Trump đã kéo nước Mỹ ra khỏi hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định thương mại quy tụ 12 quốc gia bên bờ Thái Bình Dương. Động thái đó được coi là báo hiệu cho cái chết của TPP, nhưng không phải như vậy. Lo ngại rằng cái chết của hiệp định này sẽ cho phép Trung Quốc áp đặt các điều kiện của họ lên quan hệ kinh tế ở châu Á, 11 nước còn lại đã tiếp tục tiến về phía trước với một hiệp định sửa đổi. Bên cạnh đó, quan hệ song phương giữa các nền dân chủ châu Á vẫn tiếp tục vững mạnh và đang được cải thiện. Nhật Bản đã giữ một vai trò quan trọng, nếu không nói là thiết yếu, trong việc khích lệ Ấn Độ gia tăng ảnh hưởng ở châu Á. Nhật đã giúp điều phối một hội nghị cấp cao ở New Delhi, giữa Ấn Độ và các thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó tập trung vào cách làm thế nào Ấn Độ có thể giúp các quốc gia này bớt lệ thuộc vào Trung Quốc về thương mại và đầu tư.

Phản ứng kháng cự lại Trung Quốc không chỉ bó hẹp trong các nước dân chủ. Ngay cả những quốc gia có quan hệ gần gũi với Trung Quốc trong lịch sử cũng đã bắt đầu nổi giận với cách đối đãi cậy quyền cậy thế xuất phát từ Bắc Kinh như là một phần của chương trình hạ tầng “Một vành đai, một con đường”. Trong lúc Trung Quốc cố gắng giới thiệu chương trình này như là phiên bản Trung Quốc của kế hoạch Marshall, càng ngày nó càng được coi như một thứ gì đó họ hàng với chủ nghĩa thực dân phương Tây hơn là với sự hào phóng phương Tây. Sri Lanka hiện mắc nợ các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc hơn 8 tỉ đô la Mỹ. Tuần trước, chính phủ nước này đã phải giao hải cảng chiến lược Hambantota cho Trung Quốc thuê 99 năm như là một phần kế hoạch thoát ra khỏi bẫy nợ nần – một động thái mà những người phê phán nói rằng sẽ đe dọa chủ quyền quốc gia của đất nước. Ở Ấn Độ, các học giả đề cập tới động thái của Trung Quốc như là “chính sách ngoại giao bẫy nợ”. Ngay cả Pakistan, có lẽ là đối tác nước ngoài gần gũi nhất của Trung Quốc, cũng có vẻ như đang suy nghĩ lại việc nhận tiền từ Bắc Kinh. Express Tribune, một nhật báo Pakistan, tường thuật rằng chính phủ nước này đã hủy bỏ một dự án thủy điện trị giá 14 tỉ đô la sau khi Bắc Kinh nói rõ rằng họ muốn sở hữu dự án sau khi xây dựng nó. Nepal cũng đã công bố rằng nước này hủy bỏ một dự án thủy điện do Trung Quốc tài trợ cũng với những lý do tương tự.

Cho đến nay, phản ứng của Trung Quốc đối với mối lo ngại ngày càng tăng về sức mạnh của Trung Quốc có xu thế nghiêng về hướng công kích. Ở Úc, đại sứ quán Trung Quốc cảnh cáo chính phủ Úc không nên gây thiệt hại cho “sự tin tưởng lẫn nhau” khi nước này xem xét thông qua các đạo luật nhằm bảo vệ hệ thống chính trị của Úc trước ảnh hưởng của đồng tiền nước ngoài. Sau khi thủ tướng Úc Malcolm Turnbull lưu ý “các báo cáo đáng lo ngại về ảnh hưởng của Trung Quốc”, thì đại sứ quán Trung Quốc lưu ý các quan chức Úc không được đưa ra “những nhận xét vô trách nhiệm”. Đại sứ quán Trung Quốc cũng cáo buộc báo chí Úc ngụy tạo những tin tức về “cái gọi là ảnh hưởng của Trung Quốc và sự thâm nhập vào nước Úc”.

Trong nhiều thập niên, các chính phủ nối tiếp nhau ở Washington đã làm việc vì một nước Trung Quốc vững mạnh hơn. Nhưng giờ đây khi Trung Quốc đã mạnh mẽ hơn thì Hoa Kỳ, cùng với nhiều nước khác trên khắp thế giới, đã không còn dám chắc rằng, đó là điều mà họ mong muốn.

John Pomfret: The global backlash against China is growing
Washington Post, 19 December 2017

Người dịch: Huỳnh Hoa

(*) John Pomfret từng là trưởng văn phòng báo Washington Post tại Bắc Kinh. Ông cũng là tác giả sách “The Beautiful Country and the Middle Kingdom: America and China, 1776 to the Present”.
0

Thứ Năm, 7 tháng 12, 2017

Ấn Độ bán 'sát thủ' BrahMos cho Việt Nam để triển khai chiến lược mới

Ấn Độ có chiến lược của riêng mình, mong muốn hợp tác với Việt Nam về an ninh biển ở phía đông Ấn Độ Dương, đang có kế hoạch bán tên lửa hành trình siêu âm BrahMos cho Việt Nam.


Tên lửa hành trình Brahmos

Tờ Nihon Keizai Shimbun Nhật Bản ngày 4/12 cho rằng Ấn Độ đang gia tăng mở rộng vai trò ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương, nơi mà họ coi là thuộc phạm vi ảnh hưởng của mình.

Vừa qua, không quân Ấn Độ đã lần đầu tiên phóng thử thành công tên lửa hành trình siêu âm BrahMos. Trong tương lai, những tên lửa này sẽ trang bị cho khoảng 40 máy bay chiến đấu triển khai ở phía đông và tây Ấn Độ. Hải quân Ấn Độ cũng đang chế tạo tàu sân bay.

Ấn Độ tìm cách xây dựng được thể chế để có thể tác chiến trên hai mặt trận. Ấn Độ ngày càng ý thức mạnh hơn về nguy cơ quân đội Trung Quốc tiến vào Ấn Độ Dương, do đó đang mở rộng phòng tuyến đến eo biển Malacca.

Tên lửa hành trình siêu âm BrahMos vừa được phóng thử nghiệm vào ngày 22/11, tại vịnh Bengal, phương tiện phóng là máy bay chiến đấu Su-30. Tên lửa đã bắn trúng mục tiêu trên biển theo quỹ đạo dự định.

Tên lửa BrahMos nổi tiếng với độ chính xác cao, đã bắn thử ở trên bộ và trên tàu chiến. Su-30 phóng thành công tên lửa BrahMos vừa qua là lần phóng đầu tiên.

Ấn Độ khẳng định: "Năng lực tác chiến của Ấn Độ đã được tăng cường vượt bậc, có thể ngăn chặn hành động quân sự liều lĩnh của đối phương. Trong tương lai sẽ lắp cho khoảng 40 máy bay chiến đấu Sukhoi”.

Theo một nguồn tin khác, tầm bắn của tên lửa hành trình siêu âm Brahmos có thể bao trùm toàn bộ Ấn Độ Dương. Nếu phóng ở căn cứ trên quần đảo Andaman - Nicobar thì có thể bao trùm lên eo biển Malacca.

Ngày 22/11/2017, máy bay chiến đấu Su-30 Ấn Độ phóng thử thành công tên lửa hành trình siêu âm BrahMos. Ảnh: Guancha.

Ấn Độ hoàn toàn không công bố địa điểm triển khai, nhưng đa số quan điểm cho rằng tên lửa BrahMos sẽ được triển khai ở quần đảo Andaman - Nicobar, phía đông Ấn Độ Dương, ở Visakhapatnam – bên bờ vịnh Bengal và ở bang Gujarat - phía tây của biển Ả rập.

Ấn Độ sở dĩ tăng cường khả năng quân sự áp sát eo biển Malacca là do lo ngại Trung Quốc thông qua tuyến đường này để thâm nhập vào Ấn Độ Dương.

Từ cuối năm 2013 đến đầu năm 2014 và nửa cuối năm 2014, tàu ngầm Ấn Độ đã lần lượt xuất hiện khoảng 3 tháng ở Ấn Độ Dương, đồng thời đã cập cảng của Sri Lanka, láng giềng lân cận của Ấn Độ.

Mùa hè năm 2017, quân đội Trung Quốc và Ấn Độ đã xảy ra đối đầu ở khu vực biên giới – khu vực Doklam. Khi đó nhiều tàu chiến của Trung Quốc trong đó có tàu ngầm đã xuất hiện ở Ấn Độ Dương.

Để tăng cường quyền kiểm soát biển ở Ấn Độ Dương, hải quân Ấn Độ đang thúc đẩy chế tạo tàu sân bay đầu tiên INS Vikrant. Do tháng 3/2017 có một tàu sân bay nghỉ hưu, Ấn Độ hiện chỉ còn một chiếc tàu sân bay, nhưng tàu sân bay INS Vikrant sẽ bắt đầu hoạt động trong vài năm tới, hình thành 2 biên đội tàu sân bay, có khả năng đồng thời tiến hành tác chiến trên hai phương hướng chính với Trung Quốc và Pakistan.

Các động thái tăng cường quân bị trên không, trên biển của Ấn Độ ở Ấn Độ Dương là một mắt khâu trong "chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và mở cửa" do 4 nước Nhật - Mỹ - Australia - Ấn đưa ra nhằm kiềm chế Trung Quốc. Tuy nhiên, lập trường của các nước trong vấn đề bảo đảm an ninh khu vực vẫn tồn tại sự khác biệt.

Ngày 12/11, Ngoại trưởng các nước Nhật Bản, Mỹ, Australia và Ấn Độ đã tổ chức hội nghị 4 bên tại Manila, tiến hành bàn bạc hợp tác bảo đảm tự do và an ninh hàng hải của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. 10 năm trước, 4 nước này cũng đã từng tổ chức một hội nghị bàn về hợp tác an ninh. Sau khi kết thúc hội nghị, các nước đã ra tuyên bố chung.

Giáo sư Srikanth Kondapali, Đại học Nehru Ấn Độ cho rằng: "Nhật Bản, Mỹ và Australia hầu như hoàn toàn đạt được nhất trí trong 9 nội dung chủ yếu có liên quan đến chiến lược này như bảo vệ trật tự pháp lý và không phổ biến vũ khí hạt nhân. Nhưng tuyên bố của Ấn Độ không đề cập đến 3 nội dung trong đó có bảo đảm an ninh hàng hải, đã cho thấy sự khác biệt về quan điểm".

Ấn Độ cũng không trao đổi với Mỹ về chính sách an ninh liên quan đến phóng thử thành công tên lửa BrahMos lần này. Ấn Độ mong muốn hợp tác với Việt Nam về an ninh biển ở phía đông Ấn Độ Dương, đang có kế hoạch bán tên lửa BrahMos cho Việt Nam. Nhưng Mỹ sẽ không để cho Ấn Độ làm xáo trộn kế hoạch an ninh khu vực do họ đóng vai trò chủ đạo.

Nhìn vào bề ngoài, Ấn Độ tham gia hợp tác 4 nước, duy trì thống nhất về hành động, nhưng trên thực tế Ấn Độ lại ưu tiên tăng cường sức mạnh quân sự, xây dựng "chiến lược Ấn Độ Dương" của riêng mình. "Chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương" chẳng qua là một tuyến mở rộng của chiến lược này.

Phong Vân
0

Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2017

'Tứ giác kim cương': Bước đầu lập NATO của châu Á?

Gắn kết nhau bằng các lợi ích an ninh chung, Bộ tứ Mỹ - Nhật - Ấn - Australia có thể tác động mạnh mẽ đến cấu trúc an ninh khu vực trong những thập niên tới.


Cụm từ "Ấn Độ — Thái Bình Dương" liên tục được Mỹ và một số đồng minh của nước này sử dụng, thay vì cách gọi phổ biến "châu Á — Thái Bình Dương". Không chỉ là vấn đề về ngữ nghĩa, sự thay đổi này có khả năng tạo ra một cơn địa chấn làm thay đổi tình hình địa — chính trị của khu vực, SCMP nhận định.

Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ hồi tháng này tuyên bố thống nhất thiết lập một liên minh có thể tiến hành hoạt động tuần tra và tăng cường ảnh hưởng ở vùng biển từ Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương, tại (các khu vực tranh chấp) Biển Đông và biển Hoa Đông.

Ý tưởng về việc tập hợp nhóm 4 nước có cùng tư tưởng — được biết với cái tên Đối thoại An ninh Bốn bên hay Bộ tứ — lần đầu tiên được Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đưa ra vào năm 2007. Tuy nhiên sáng kiến bị "thui chột" sau khi Bắc Kinh phản đối, nói rằng sự hợp tác quốc phòng của các nước với Ấn Độ nhằm kiềm chế Trung Quốc phát triển.

Ý tưởng này quay trở lại khi các quan chức cấp cao từ 4 nước gặp gỡ tại Manila, Philippines hôm 11/11, bên lề hội nghị thượng đỉnh khu vực trong chuyến công du châu Á của Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Đối trọng với Bắc Kinh

Rõ ràng là chương trình nghị sự của Bộ tứ sẽ tập trung đối trọng với Trung Quốc. Sự hồi sinh của tứ giác này cho thấy các nhà ngoại giao ở Washington, Tokyo, Canberra và New Delhi đang ngày càng cảm thấy hoài nghi, bất an về sự trỗi dậy kinh tế, quân sự của Trung Quốc.

Trong tuyên bố sau cuộc gặp, 4 nước cho biết họ cam kết đảm bảo duy trì khu vực "tự do và rộng mở", "tôn trọng luật pháp quốc tế", và "trật tự dựa trên nguyên tắc ở Ấn Độ — Thái Bình Dương". Điều này phản ánh nhận thức chung của họ rằng Trung Quốc đang không tuân thủ các quy tắc về lãnh thổ, hàng hải và thương mại.

Chiến lược mới nhằm đối trọng với Trung Quốc khởi đầu bằng việc tập hợp liên minh 4 nước trên Mỹ cho thấy rõ sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa Bắc Kinh và Washington trong khu vực.

Cuộc gặp Bộ tứ diễn ra vào thời điểm Mỹ dường như đang thay đổi trọng tâm chiến lược. Trong chuyến công du Đông Á, ông Trump cũng nhắc tới khu vực bằng cụm từ "Ấn Độ — Thái Bình Dương", không phải là "châu Á — Thái Bình Dương" như những người tiền nhiệm.

Triển vọng hình thành một 'NATO của châu Á'

Chiến lược này có vẻ thuộc về nội dung "cân bằng cứng" trong chính sách ngoại giao Đông Á của Tổng thống Trump. Ông coi đó là cách để duy trì sự hiện diện của Mỹ trong khu vực sau khi hủy bỏ chính sách "xoay trục" của người tiền nhiệm Barrack Obama và rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, những động thái cho thấy sự rút lui của Mỹ khỏi khu vực.

Mặc dù luôn đóng vai trò cường quốc số 1 ở Thái Bình Dương kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Mỹ hiếm khi mở rộng hoạt động quân sự và ngoại giao ra Ấn Độ Dương. Những động thái mới của Mỹ một mặt cho thấy sự cam kết của Washington — cả về an ninh và ngoại giao — với khu vực, mặt khác nhấn mạnh tầm quan trọng của Ấn Độ như một đồng minh.

Những nước nhỏ như Hàn Quốc, Singapore, Indonesia, Philippines và Việt Nam có thể có lợi từ một liên kết do Mỹ dẫn đầu trong một "Ấn Độ — Thái Bình Dương" đa cực, nhằm kiểm soát sức mạnh của Trung Quốc.

Nó cũng thể hiện tầm quan trọng ngày càng lớn của địa chính trị hàng hải trong một thế giới ngày càng hội nhập. Về mặt kinh tế, chiến lược này có thể coi là một phản ứng đối với "Vành đai, Con đường" của Trung Quốc, sáng kiến nhằm thiết lập tuyến thương mại lấy Trung Quốc làm trung tâm từ Philippines đến biển Địa Trung Hải.

Các thành viên Bộ tứ không tuyên bố công khai mục đích kiềm chế Trung Quốc. Họ nói mục tiêu của nhóm là nhằm thúc đẩy tự do, dân chủ và đảm bảo chủ nghĩa tự do thắng thế trong khu vực.

Thế nhưng, cái giúp gắn kết Bộ tứ không phải hệ ý thức chung giữa các thành viên mà là lợi ích tương đồng trong các vấn đề an ninh khu vực, bao gồm Triều Tiên, Biển Đông, biển Hoa Đông. Liên minh các quốc gia dân chủ này mở ra tiềm năng để xây dựng một NATO của châu Á, có thể thay đổi mạnh mẽ tình hình an ninh khu vực trong những thập niên tới.

Nguồn: news.zing.vn
0

Thứ Bảy, 4 tháng 11, 2017

Chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương đặt cược vào Việt Nam để đối trọng Trung Quốc

Hợp tác khu vực nên cởi mở và toàn diện, giúp ích cho việc thúc đẩy sự hợp tác cùng thắng của tất cả các bên, và tránh những sự dàn xếp bị chính trị hóa hoặc bị loại trừ.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng đã nói như vậy khi trả lời câu hỏi về thái độ của Trung Quốc đối với chiến lược Ấn Độ —Thái Bình Dương.

Đây là phản ứng đầu tiên của Bắc Kinh đối với dự án mới của Mỹ ở Châu Á được giới thiệu vào ngày Chủ nhật ở Manila bên lề Hội nghị ASEAN với sự tham gia của các nhà ngoại giao cao cấp từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc. Về mặt chính thức, hội nghị đã xem xét đề xuất của Nhật Bản về việc tổ chức một cuộc đối thoại chiến lược 4 bên. Trong khi đó, chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương và sáng kiến "đối thoại an ninh 4 bên" nhanh chóng trở thành hai cụm từ đồng nghĩa. Không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì hai khái niệm này bổ sung cho nhau. Ví dụ, các nhà quan sát cho rằng, Hoa Kỳ đã thay đổi chiến lược ở châu Á — thay cho chiến lược châu Á-Thái Bình Dương họ sử dụng cụm từ Ấn Độ-Thái Bình Dương — để làm xói mòn sự thống trị của Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương bằng cách tăng cường vị thế của Ấn Độ như một đối trọng với Trung Quốc. Nói về "đối thoại chiến lược 4 bên" — một dự án mà Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Taro Kono đã công bố vào tháng 10, thì Tokyo đề xuất thiết lập cuộc đối thoại giữa các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc nhằm chống lại Trung Quốc. Tờ Nikkei trích dẫn lời tuyên bố của Bộ trưởng Taro Kono.

Trong cuộc phỏng vấn với Sputnik, ông Piotr Topychkanov, chuyên viên khoa học cao cấp của Trung tâm an ninh quốc tế thuộc Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế IMEMO (Viện Hàn lâm khoa học Nga), nhận định rằng, vì những lý do chính trị, quân sự Ấn Độ thể hiện sự quan tâm đến các sáng kiến ​​của Hoa Kỳ và Nhật Bản:

"Không còn nghi ngờ gì rằng, cuộc đối thoại chiến lược nhằm chống lại Trung Quốc. Đồng thời, sáng kiến này ảnh hưởng không chỉ đến Trung Quốc. Trong một số vấn đề Trung Quốc không phải là chủ đề chính, nhưng, các vấn đề đó vẫn mang yếu tố Trung Quốc, ví dụ, cơ sở hạ tầng giao thông, an toàn hàng hải và tự do hàng hải. Nếu trên cơ sở cuộc đối thoại 4 bên sẽ thành lập một cơ chế đầy đủ giá trị thì chắc là sẽ sử dụng những kinh nghiệm của tập trận chung Malabar của lực lượng hải quân Ấn Độ, Mỹ và Nhật Bản. Đồng thời, theo tôi, không nên nói về những cố gắng tạo ra một liên minh quân sự.

Theo tôi, vẫn còn sớm để nói rằng, "đối thoại 4 bên" là một phương án thay thế dự án thương mại "Con đường tơ lụa". Mọi người đều hiểu rằng, trong số 4 nước này không quốc gia nào có thể một mình cung cấp cho khu vực những khoản đầu tư, những dự án lớn và tầm nhìn toàn diện sánh được với Trung Quốc. Nhưng, nếu 4 nước này hoạt động cùng nhau thì có thể thay thế dự án của Trung Quốc ở một số vùng trong khu vực. Nhưng, ở mỗi giai đoạn có thể xuất hiện những mâu thuẫn. Ví dụ, các nước này có thái độ khác nhau với Trung Quốc, nhưng, tất cả đều không muốn chứng kiến các mối quan hệ với Trung Quốc xấu đi. Đồng thời, trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, Ấn Độ dễ bị tổn thương hơn so với Mỹ, Úc và thậm chí cả Nhật Bản. Vì vậy, cuộc đối thoại là rất quan trọng đối với New Delhi. Nhưng, theo tôi, từ cuộc đối thoại này đến hiệp ước an ninh tập thể khi các bên đưa ra cam kết bảo vệ an ninh cho tất cả các thành viên, tham gia vào hoạt động chiến sự trong trường hợp một nước thành viên có xung đột vũ trang với Trung Quốc là một chặng đường dài. Rõ ràng là hiện nay Hoa Kỳ có cam kết bảo vệ Nhật Bản và Úc, nhưng, Ấn Độ không ấp ủ ảo tưởng nào về mặt này".

Cả Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ đều không tham gia sáng kiến "Con đường tơ lụa" ​​của Trung Quốc. Do đó, theo ý kiến của chuyên gia Valery Kistanov từ Viện Viễn Đông, sáng kiến ​​của Nhật Bản "chỉ là phản ứng của Nhật với dự án "Con đường tơ lụa" ​​của Trung Quốc. Đồng thời, vào ngày thứ hai tuần này, Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản Yoshihide Suga cho biết rằng, nếu chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương nhận được sự ủng hộ rộng rãi hơn, Nhật Bản muốn hợp tác với Trung Quốc trong khuôn khổ sáng kiến này. Chuyên gia Valery Kistanov nhắc nhở rằng, nói chung, chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương đã được tạo ra như một phương pháp kiềm chế Trung Quốc:

"Vấn đề là ở chỗ: Tokyo muốn "bắt cá hai tay". Nhật Bản coi Trung Quốc là mối nguy cơ lớn nhất đe dọa họ. Tuy nhiên, bây giờ, mối đe dọa từ phía Bắc Triều Tiên đã nổi lên hàng đầu. Nhưng, đây là chỉ là một tình huống tạm thời. Bắc Triều Tiên với tiềm năng quân sự và kinh tế khiêm tốn, đặc biệt là đang bị cô lập, không thể tạo ra mối nguy cơ nghiêm trọng đe dọa Nhật Bản trong thời gian dài. Đồng thời, những mâu thuẫn với Trung Quốc, cường quốc đang nổi lên, sẽ gia tăng.

Trung Quốc đang trên đà tăng trưởng, cải thiện lĩnh vực quân sự. Chiến lược tấn công của Bắc Kinh ở biển Hoa Đông và Biển Đông gây sự lo ngại của Nhật Bản.Tokyo hiểu rằng, Trung Quốc có thể thống trị khu vực này. Chính bởi vậy Nhật Bản đưa ra sáng kiến ​​ "đối thoại 4 bên" như sự đối trọng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Tokyo giải thích rằng, đây không phải là một khối quân sự, nhưng, mọi người hiểu rõ lý do tại sao họ muốn thành lập cơ chế này. Mặt khác, Nhật Bản hiểu rõ Trung Quốc là quốc gia quan trọng nhất từ ​​quan điểm đảm bảo an ninh và phát triển kinh tế, cần phải tìm ra ngôn ngữ chung với Bắc Kinh để giải quyết các vấn đề gây tranh cãi. Vì vậy, ông Shinzo Abe tìm kiếm sự cân bằng: ông muốn tăng cường quan hệ đối tác với Hoa Kỳ, Ấn Độ và Úc đồng thời đang tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc".

Theo ý kiến của các nhà phân tích, các tác giả của chiến lược Ấn Độ — Thái Bình Dương và "đối thoại 4 bên" đang đặt cược vào Việt Nam — đất nước có thể đối trọng với Trung Quốc tại khu vực. Cần lưu ý rằng sau cuộc đàm phán giữa Tổng thống Hoa Kỳ và Chủ tịch nước Việt Nam tại Hà Nội, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thực hiện chuyến thăm chính thức Việt Nam.

Nguồn: Sputniknews
0