Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đặc biệt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đặc biệt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

Ngư dân đảo Lý Sơn bị đe dọa tước đoạt kế sinh nhai bao đời

09/11/2012- (Toquoc)-Trung Quốc dùng vũ lực bắt giam, đánh đập các ngư dân Việt Nam. Đòi hỏi về “vùng nước lịch sử” của họ bị bác bỏ bởi các bằng chứng lịch sử.

Những người dân đánh cá tại Biển Đông bị những cuộc tranh chấp lãnh thổ biển đảo do Trung Quốc gây ra đe dọa miếng cơm manh áo.

Áp đặt và cướp đoạt bằng vũ lực

Tờ Nhật Báo Hoa Nam Buổi sáng ngày 3/11/2012 đã đăng bài miêu tả cuộc sống của những người dân đảo Lý Sơn ra khơi đánh cá luôn gặp họng súng của lính Trung Quốc. Chiếc thuyền gỗ mà Trần Hiển làm thuyền trưởng đã bị lính Trung Quốc phát hiện. Trần Hiển, cùng các ngư dân bị bắt giữ, bỏ tù và đồ dùng đánh cá bị tịch thu. Những kẻ bắt giữ là các lính Trung Quốc đi trên các tàu tuần tra do Bắc Kinh phái tới để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc tại những vùng biển tranh chấp.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc tiến hành tuần tra tại các vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá, đuổi các tàu thuyền nước ngoài ra xa các khu vực ngư trường truyền thống.

“Họ dùng vũ khí. Họ chĩa súng vào chúng tôi, buộc chúng tôi ra khỏi khoang thuyền, sau đó nhảy xuống thuyền và bắt chúng tôi”. Hiển cho biết tháng 3 vừa rồi Hiển bị bắt cùng với 10 ngư dân khác tại vùng biển gần Hoàng Sa và bị giam giữ 49 ngày.

Hiển nói: “Đứa con trai đầu lòng của tôi ra đời khi tôi nằm trong nhà tù của Trung Quốc. Họ tịch thu lưới và dụng cụ đánh cá cùng máy định vị. Tôi rơi vào cảnh nợ nần đầm đìa”.


Thuyền của ngư dân đảo Lý Sơn chuẩn bị ra khơi đánh cá: “Những người đánh cá tại đảo xem ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa như những vườn tược của họ, như những cánh đồng lúa của họ”. (Ảnh Nhật báo Hoa Nam buổi sáng)

Hiển và các ngư dân trên thuyền cùng bị giam giữ với các ngư dân trên một thuyền đánh cá khác của Việt Nam bị bắt cùng ngày. Cả hai thuyền trưởng bị đánh đập. “Không bao giờ đủ đồ ăn cho 21 người”.

Một quan chức theo dõi nghề cá của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho biết, các nước giáp Biển Đông khuyến khích việc đánh cá xa bờ và tăng cường sự hiện diện tại vùng lãnh hải của họ.

Bắc Kinh chiếm Hoàng Sa trong một cuộc hải chiến ngắn với quân đội Nam Việt Nam năm 1974 và cũng đòi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, nơi Đài Loan, Malaysia, Philippines, Brunei và Việt Nam cũng đòi chủ quyền.

Tiến sĩ Sam Bateman, chuyên gia hàng hải của Trường Đại học kỹ thuật Singapore cho rằng “tình hình thực sự nguy hiểm khi một thuyền đánh cá bị tàu tuần tiễu bắn, có thể dẫn tới phản ứng mạnh của phía bên kia".

Những người dân đánh cá ở đảo Lý Sơn bị sốc khi thấy họ rơi vào trung tâm của cuộc tranh chấp quốc tế chỉ đơn giản vì họ đánh cá tại những ngư trường nơi thế hệ này nối tiếp thế hệ khác sinh sống dựa vào nghề cá.

Ông Phạm Hoàng Linh cán bộ ở đảo Lý Sơn nói: “Những người đánh cá tại đảo xem ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa như những vườn tược của họ, như những cánh đồng lúa của họ”.

Nếu không có giải pháp, xung đột hầu như không tránh khỏi khi các ngư dân Lý Sơn nói rằng họ sẽ tiếp tục đánh cá tại những vùng nước mà Trung Quốc tranh chấp. Anh Khuẩn, một ngư dân, nói: “Đó là nghề thu nhập kiếm sống duy nhất của chúng tôi. Đó là lãnh thổ của chúng tôi, là lãnh hải của chúng tôi. Chúng tôi sẽ bảo vệ quyền của mình và chúng tôi sẽ tiếp tục đánh cá”.

Trung Quốc không có quyền gì với đòi hỏi “vùng nước lịch sử”

Việc đi lại bằng thuyền tại Biển Đông đã có từ thời cổ đại. Cư dân trong vùng biết đóng thuyền bè mảng và thuyền đi biển. Kỹ thuật đi biển xuất hiện sớm nhất ở vùng duyên hải khoảng 8000-9000 năm trước và đạt đến đỉnh cao vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Những hình thuyền dáng to lớn, kiểu cong mũi, cong lái được khắc trên nhiều trống đồng Đông Sơn cho biết điều đó. Trên tường khu đền Borobudur còn lưu lại các phù điêu hình con thuyền buồm lớn nhiều mái chèo, gần giống với những hạm thuyền của người La Mã cổ đại.

TS. Renato Cruz De Castro, Giáo sư Quan hệ quốc tế, Đại học De La Salle, Manila, Philippines, phát biểu tại Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông tổ chức ở Hà Nội, ngày 4-5/11/2011, nêu bật sự hình thành dân cư Đông Nam Á gắn với hoạt động trên vùng biển chung này từ rất lâu trước các ghi chép của người Trung Quốc: “Không có gì nghi ngờ rằng các nhà hàng hải và ngư dân Trung Quốc đã đi qua Biển Đông trong hai nghìn năm qua. Tuy nhiên, cũng có nhiều bằng chứng rằng tổ tiên của các quốc gia Đông Nam Á ngày nay cũng đi qua và đánh cá ở các đảo đó rất lâu trước bất kỳ ghi chép nào của Trung Quốc. Xét quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cằn cỗi và không thích hợp cho con người sinh sống, dân cư thời tiền sử của các quốc gia Đông Nam Á đã đánh cá và khai thác kinh tế các nguồn tài nguyên ở Biển Đông thậm chí trước cả triều Hán và triều Minh. Các quốc gia ven Biển Đông (như Philippines, Indonesia và cả Đài Loan) đều được định hình từ những dân cư đi biển, những người đã đến vùng đất này qua một số làn sóng nhập cư từ rất xưa khoảng 25.000 năm trước. Không có gì nghi ngờ rằng những người đi biển này đã đi qua và đánh cá ở Biển Đông, giống như những gì mà con cháu họ đang làm hiện nay. Do đó, bình luận về bằng chứng lịch sử của Trung Quốc về chủ quyền đối với Biển Đông, một chuyên gia Hoa Kỳ về các vấn đề hàng hải đương đại lưu ý rằng:

"…Không có bằng chứng chỉ ra lợi ích kinh tế độc nhất của Trung Quốc hay bất kỳ quốc gia nào khác đối với các đảo hay khu vực xung quanh các đảo ở Biển Đông. Thay vào đó, bằng chứng cho thấy điều ngược lại - rằng các vùng biển ở Biển Đông và đảo nằm rải rác ở đó…từ bao thế kỳ nay đã trở thành khu vực đánh cá và tuyến đường thương mại chung của các cư dân trong khu vực. Thực sự, việc sử dụng chung lâu đời này cho thấy Biển Đông đã phát triển như một vùng biển khu vực chung, ở đó các bên theo đuổi các lợi ích của mình mà không phải lo sợ bị chính quyền của các quốc gia khác làm phiền”./.

Nguồn: Tổ quốc
0

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Công bố nhiều tài liệu quý hiếm về Hoàng Sa, Trường Sa

31/10/2012- Những châu bản triều Nguyễn khẳng định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, các nghị định, quyết định thiết lập chế độ hành chính ở hai quần đảo này… được công bố tại hội thảo khoa học về biển đảo Việt Nam.

Ngày 30/10, Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước (Bộ Nội vụ) tổ chức tại TP.HCM hội thảo “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm và phát huy giá trị nguồn sử liệu về biên giới, hải đảo của Việt Nam”.


Cục trưởng Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước Vũ Thị Minh Hương trao đổi với chuyên gia nghiên cứu Biển Đông Nguyễn Nhã. Ảnh: Tá Lâm

Bà Nguyễn Hồng Nhung - Trung tâm Lưu trữ quốc gia I cho biết, có 772 tập châu bản triều Nguyễn đang được bảo quản tại trung tâm, trong đó có một số châu bản về Hoàng Sa và Trường Sa. Cụ thể, những châu bản này đề cập đến việc nhà Nguyễn cử người đi khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ ở Hoàng Sa. “Những châu bản có tại Trung tâm khẳng định rõ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này thông qua việc nhà Nguyễn cứu thuyền buôn nước ngoài gặp nạn ở Hoàng Sa và Trường Sa”, bà Nhung cho biết.

Tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I còn có nhiều tài liệu gốc quý hiếm bằng tiếng Pháp quy định về việc đi lại qua biên giới Trung Quốc - Việt Nam…

TS Nguyễn Xuân Hoài - Trung tâm Lưu trữ quốc gia II cho biết, ở đây đang lưu trữ các tài liệu bao gồm: các nghị định, quyết định thiết lập chế độ hành chính ở các địa phương biên giới và các hải đảo như Hoàng Sa và Trường Sa…Tài liệu về việc phân định ranh giới, giải quyết tranh chấp lãnh thổ và thềm lục địa với các nước trong khu vực, các báo cáo và tường trình về các vụ xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải trái phép…

“Điển hình như năm 1932, nghị định số 156-QC của Chính phủ bảo hộ Pháp thiết lập quần đảo Hoàng Sa thành một quận hành chính thuộc tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên - Huế). Nghị định này sau đó được xác nhận bởi Dụ số 10 của Hoàng đế Bảo Đại ngày 8/3/1938”, ông Hoài nói.

Ngoài ra, ông Hoài cũng cho biết thêm nhiều tài liệu quý về tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tài liệu này cho thấy, việc tranh chấp chủ quyền bắt đầu từ sau năm 1945, tiếp đó là việc chính quyền Sài Gòn tập hợp các tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.

“Đây là những tài liệu có giá trị đặc biệt, là những minh chứng hùng hồn, có tính lịch sử và pháp lý liên quan đến vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của dân tộc. Song, những tài liệu này vẫn còn nằm trong kho lưu trữ, chưa được khai thác.Việc công bố, giới thiệu những tài liệu này sẽ phát huy tối đa giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, TS Hoài nói.

TS Nguyễn Nhã, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông nói: “Hội thảo này là bước ngoặt để các nhà nghiên cứu tiếp cận với tài liệu quý hiếm về chủ quyền biển đảo Việt Nam”.

Ông đề nghị các cơ quan lưu trữ cần thay đổi tư duy, rộng cửa để các nhà nghiên cứu có điều kiện tiếp cận, đồng thời công bố công khai những tài liệu quý hiếm về biển đảo Việt Nam, nhất là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cục trưởng Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước Vũ Thị Minh Hương khẳng định, thời gian tới, các cơ quan lưu trữ sẽ mở rộng cửa để các nhà nghiên cứu, các học giả, nhà khoa học… tiếp cận nguồn tài liệu này, đồng thời nhanh chóng tìm kiếm các tư liệu quý hiếm về chủ quyền biển đảo Việt Nam từ nhiều nguồn khác trong và ngoài nước.

“Nhiệm vụ được đặt ra đối với các cơ quan lưu trữ nói chung và Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước nói riêng là phải khẩn trương tích cực sưu tầm, sưu tập và phát huy giá trị nguồn sử liệu về biên giới, chủ quyền hải đảo, góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo Việt Nam”.

Tá Lâm/ Vietnamnet


0

Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012

Chứng cứ xác thực về chủ quyền biển đảo Việt Nam

24/10/2012- ANTĐ - Việt Nam có đầy đủ các chứng cứ lịch sử minh bạch chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình… Đó là những nội dung được các giáo sư nước ngoài nhấn mạnh tại hội thảo quốc tế với chủ đề “Thực trạng vấn đề chủ quyền Biển Đông và giải pháp” diễn ra ngày 23-10 tại Đại học Tổng hợp Chosun (Hàn Quốc).


Đại Nam nhất thống toàn đồ (bản đồ Việt Nam vẽ năm 1834)
đã có Hoàng Sa, Vạn lý Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam - Nguồn: NXB Bản Đồ

Giáo sư chuyên ngành Việt Nam học Lee Yun-boem thuộc trường Đại học Chungwoon (Hàn Quốc) đi sâu phân tích, đánh giá về những giải pháp mà Việt Nam đã và đang tiến hành nhằm giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Giáo sư Lee Yun-boem nhấn mạnh Việt Nam công khai kiên quyết giữ vững lập trường đối với vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thể hiện trên hai nội dung chính: Thứ nhất, Việt Nam có đầy đủ các chứng cứ lịch sử minh bạch chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; Thứ hai, Việt Nam chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.

Trong khi đó, Giáo sư Ahn Kyong-hwan thuộc Đại học Chosun cho rằng về mặt lịch sử, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được chứng minh một cách rõ ràng là đã được Việt Nam cai quản một cách hiệu quả. Theo Giáo sư, việc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông một cách hòa bình có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc duy trì hòa bình thế giới và thúc đẩy nền kinh tế khu vực. Tuy nhiên, vấn đề chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là vấn đề khó có thể giải quyết nếu chỉ bằng nỗ lực của riêng Việt Nam mà cần phải có sự chia sẻ và thấu hiểu của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, theo Giáo sư, việc tổ chức các cuộc hội thảo khoa học định kỳ với sự tham gia của các nhà khoa học Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Malaysia... để cùng chia sẻ các tài liệu lịch sử và tìm kiếm biện pháp giải quyết hòa bình là việc làm có ý nghĩa quan trọng.


Tấm bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” do Trung Quốc xuất bản từ thời nhà Thanh (năm 1904) thể hiện rõ cực Nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam -(Ảnh tư liệu)

Về những căn cứ lịch sử liên quan đến chủ quyền trên biển Đông, Tiến sĩ Isabel, Viện Giáo dục Ngôn ngữ thuộc Đại học Chosun, có tham luận “Căn cứ và sự thật lịch sử về chủ quyền quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam”, trong đó khẳng định rằng: “Không chỉ từ luật quốc tế và thực tiễn của tình hình quốc tế mà cả từ những kết luận và chứng cứ lịch sử đã được đề cập, có thể đưa ra ba luận điểm quan trọng sau: Thứ nhất, Việt Nam chứ không phải quốc gia nào khác đã sở hữu một cách thực chất quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ lâu. Thứ hai, từ sau thế kỷ 17, trong hàng trăm năm, Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa theo phương thức hòa bình và liên tục. Thứ ba, Việt Nam đã bảo đảm được danh phận và quyền lợi hợp pháp để đối phó với các ý đồ và hành động xâm phạm chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.

Trong tham luận về “Thực trạng tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và một số quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông hiện nay”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Đình Chỉnh (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) nhấn mạnh với chính sách đối ngoại hòa bình, trong giai đoạn hiện nay, với tư cách là một thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam đã thể hiện tinh thần trách nhiệm và có bước đi linh hoạt, mềm dẻo cần thiết, tiếp tục các nỗ lực to lớn, tuân thủ các cam kết trong Tuyên bố về cách ứng xử ở Biển Đông (DOC), đồng thời kêu gọi các nước liên quan thực hiện đúng cam kết trong văn kiện này. Việt Nam cho rằng DOC thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với việc duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông. Nghiêm túc tôn trọng tinh thần DOC và thực hiện đầy đủ DOC sẽ có lợi cho cả ASEAN và Trung Quốc, đồng thời đáp ứng được mong mỏi và nguyện vọng chung của khu vực và thế giới về một Biển Đông hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

(Theo TTXVN)
1

Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012

UAV Việt Nam bay thử nghiệm


22/10/2012- Hệ thống UAV TITAN do Công ty Đông Giang Việt Nam tự nghiên cứu, thiết kế sản xuất cho mục đích hoạt động dân sự và quân sự.


Dưới đây là một số hình ảnh thử nghiệm UAV TITAN do công ty Đông Giang cung cấp:


UAV TITAN thiết kế phục vụ cho mục đích dân sự và quân sự
UAV TITAN thiết kế phục vụ cho mục đích dân sự và quân sự.
Cận cảnh
Cận cảnh "thiết bị quan sát" - máy ảnh số NIKON trên UAV TITAN.
Chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến bay, UAV thiết kế một chong chóng chính và chong chong đuôi ổn định. TITAN có khả năng cất hạ cánh hoàn toàn tự đông, bay theo lập trình định sẵn
Chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến bay, UAV thiết kế một chong chóng chính và chong chong đuôi ổn định. TITAN có khả năng cất hạ cánh hoàn toàn tự đông, bay theo lập trình định sẵn.
UAV TITAN đạt tầm bay 10km, tốc độ tối đa 80km/h
UAV TITAN đạt tầm bay 10km, tốc độ tối đa 80km/h.
Va li điều khiển (màu vàng trong cốp xe) gọn nhẹ, dễ mang vác. Bên trong vali chứa phần điều khiển với 3 màn hình quan sát hoạt động
Va li điều khiển (màu vàng trong cốp xe) gọn nhẹ, dễ mang vác. Bên trong vali chứa phần điều khiển với 3 màn hình quan sát hoạt động.
Hoặc UAV TITAN có thể điều khiển thông qua bộ điều khiển cầm tay
Hoặc UAV TITAN có thể điều khiển thông qua bộ điều khiển cầm tay.
UAV TITAN trưng bày tại Triển lãm - Hội nghị Quốc tế Mobile Vietnam 2012
UAV TITAN trưng bày tại Triển lãm - Hội nghị Quốc tế Mobile Vietnam 2012.
Cận cảnh giá điều khiển thiết bị camera quan sát, cảm biến trên UAV TITAN
Cận cảnh giá điều khiển thiết bị camera quan sát, cảm biến trên UAV TITAN.
UAV TITAN trang bị động cơ xăng đốt trong và 2 bình xăng loại 3 lít
UAV TITAN trang bị động cơ xăng đốt trong và 2 bình xăng loại 3 lít.
Nhìn từ đuôi UAV TITAN, bố trí 2 ống xả khói động cơ
Nhìn từ đuôi UAV TITAN, bố trí 2 ống xả khói động cơ.
 



Theo Phượng Hồng

Đất Việt

0

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

Hội thảo Biển Đông tại Paris : Giáo sư quốc tế vô hiệu hóa Văn thư 1958 của TT. Phạm Văn Đồng

Hôm 16/10/2012, tại hội trường Nhà Hóa học ( Maison de la Chimie ) ở Paris, một cuộc hội thảo về Biển Đông đã được mở ra với chủ đề chính : « Biển Đông phải chăng là một không gian khủng hoảng mới ? », do Học viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược (IRIS ), phối hợp với hội Fondation de Gabriel Péri tổ chức.

Cuộc hội thảo quy tụ rất nhiều chuyên gia tên tuổi, quan tâm đến Biển Đông nói riêng và châu Á nói chung. Từ cuộc hội thảo, Trọng Nghĩa gởi về bài tường trình.

Hội thảo Biển Đông tại Paris : Giới chuyên gia cảnh báo về tình hình căng thẳng by Vibay

Tin âm thanh từ RFI
0

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

80 bản đồ chứng tỏ Trường Sa-Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc

02/10/2012- Một người Việt ở Mỹ sưu tập 80 bản đồ Tây phương và 3 sách toàn đồ Trung Hoa cho thấy Trường Sa-Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc.


Ông Thắng Trần, Chủ tịch Viện văn hóa & giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York (Hoa Kỳ). Ảnh chụp ông Thắng với sách toàn đồ 1933 tại tiệm bán đồ cổ, New York

Ông Thắng Trần, Chủ tịch Viện văn hóa & giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York (Hoa Kỳ) nói về bộ sưu tập của ông:

“80 bản đồ này có niên đại từ 1626 tới 1980 thể hiện rất rõ hai điều. Thứ nhất, miền Nam của Trung Quốc dừng lại ở đảo Hải Nam và không đi xuống xa hơn về phía Nam. Thứ hai, một số bản đồ Tây phương có chỉ đường hàng hải Bắc-Nam Châu Á, tất cả đường này đi ngang Hoàng Sa những năm 1800 và 1900 khi vùng biển và đảo ở Indochina do người Pháp quản lý. Sau hiệp định Geneva năm 1954, Pháp trao trả toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam thì tất nhiên Hoàng Sa-Trường Sa nằm trong khu vực trao trả lại cho Việt Nam.”

Ông Thắng cho biết các bản đồ này do ông đích thân tới những nơi bán đồ cổ hoặc lên mạng mua về.
​​
Ông Thắng Trần nói ông bắt đầu có ý định sưu tầm những chứng cứ lịch sử này kể từ nghe tin Tiến sĩ Mai Hồng, nguyên Trưởng phòng tư liệu thư viện - Viện Hán Nôm, công bố tấm bản đồ Trung Quốc thực hiện dưới thời nhà Thanh xuất bản năm 1904 ghi rõ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam, không bao gồm Hoàng Sa-Trường Sa.

Tấm bản đồ của Tiến sĩ Hồng đã được giao lại cho Bảo tàng Lịch sử Quốc gia bảo quản và trưng bày hồi cuối tháng 7 vừa qua.

Ông Thắng Trần đã quyết định gửi tặng toàn bộ 80 bản đồ ông sưu tập được cho Viện phát triển Xã Hội Ðà Nẵng.

Tiến Sĩ Trần Ðức Anh Sơn, Viện Phó Viện phát triển Xã Hội Ðà Nẵng, người đang phụ trách công tác nghiên cứu về Hoàng Sa - Trường Sa, phát biểu:

“Những phát hiện này của anh Trần Thắng rất quý bởi vì đã giúp cho những người nghiên cứu như chúng tôi có thêm cơ sở khoa học, chứng lý để có thể góp phần chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa-Trường Sa và bác bỏ những đòi hỏi vô lý của Trung Quốc về chủ quyền đối với hai quần đảo này.”

Toàn bộ hình ảnh về bộ sưu tập này được chủ nhân lưu lại tại trang web của Viện Văn hóa và Giáo dục Việt Nam ở địa chỉ ivce.org.

Theo VOA


0

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

Biển Đông là vấn đề đại sự trong quan hệ Việt - Trung

04/9/12- Hai bên cho rằng vấn đề Biển Đông cần được xử lý thỏa đáng để không ảnh hưởng đến đại cục tốt đẹp giữa hai nước.

Xử lý tranh chấp ở Biển Đông là vấn đề đại sự trong quan hệ Việt – Trung và là vận mệnh chung của hai nước, hai dân tộc. Đó là khẳng định của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam tại cuộc đối thoại chiến lược cấp thứ trưởng lần thứ 3 giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra ngày 3/9 tại Hà Nội.

Đồng chủ trì cuộc đối thoại này là Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Hai bên cũng trao đổi nhiều vấn đề liên quan đến quan hệ song phương và đa phương.


Đối thoại chiến lược quốc phòng Việt-Trung lần 3

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật nhằm xây dựng niềm tin vững chắc, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và Thượng tướng Mã Hiểu Thiên đã trao đổi thẳng thắn về những tồn tại giữa hai nước liên quan đến Biển Đông và đều khẳng định lại sự cần thiết phải giải quyết những tồn tại đó trên cơ sở đại cục quan hệ giữa hai Đảng, hai nước.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nêu rõ, xử lý tranh chấp ở Biển Đông là vấn đề đại sự trong quan hệ Việt – Trung và là vận mệnh chung của hai nước, hai dân tộc. Giải quyết vấn đề này rất khó khăn, rất nhạy cảm và rất lâu dài nhưng với thiện chí, nỗ lực của cả hai bên, trên tinh thần hữu nghị truyền thống, tôn trọng lẫn nhau, công khai minh bạch, chúng ta nhất định sẽ tìm ra biện pháp giải quyết phù hợp với luật pháp quốc tế, đáp ứng được lợi ích chính đáng của cả hai nước, hai dân tộc.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cho rằng, vì đại cục quan hệ Việt - Trung, việc cấp bách hai bên cần làm ngay là tiếp tục hợp tác, đối thoại tăng cường lòng tin chính trị giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai Quân đội: “Không có lòng tin chính trị thì không thể hợp tác phát triển, cũng không thể giải quyết bất đồng”. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đề nghị tăng cường chia sẻ lợi ích song phương và hợp tác trên diễn đàn đa phương cũng như đẩy mạnh hợp tác trên mọi mặt.

Đồng tình với ý kiến của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Mã Hiểu Thiên nêu rõ, Trung Quốc mong muốn các tranh chấp phải được giải quyết hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực, tuân thủ luật pháp quốc tế. Phía Trung Quốc cũng bày tỏ mong muốn vấn đề này được xử lý thỏa đáng để không ảnh hưởng đến đại cục tốt đẹp giữa hai nước và sự phát triển của mỗi nước.

Cũng tại cuộc đối thoại này, hai bên đã trao đổi các vấn đề song phương và đa phương. Về quan hệ song phương, hai bên nhất trí đẩy mạnh quan hệ giao lưu, hợp tác, phối hợp giữa Hải quân, Biên phòng, Cảnh sát biển… Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đề nghị lực lượng Biên phòng các tỉnh giáp biên của Việt Nam và Trung Quốc tăng cường hợp tác, chống tội phạm xuyên quốc gia; tiến hành giao lưu giữa các cơ quan nghiên cứu chiến lược và tăng cường hợp tác giữa các cơ quan truyền thông của quân đội. Hai bên đã ký Thỏa thuận mở rộng hợp tác đào tạo giữa quân đội hai nước.

Về quan hệ đa phương, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và Thượng tướng Mã Hiểu Thiên đã dành thời gian trao đổi khách quan về tình hình quốc tế, đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Việt Nam và Trung Quốc đều đánh giá tình hình thế giới, khu vực hiện nay mở ra cả những cơ hội và thách thức cho các quốc gia, hợp tác phát triển với các nước trong và ngoài khu vực sẽ có lợi cho cả Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia liên quan, duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực. Tuy nhiên, sự tăng cường can dự của các nước lớn vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng sẽ đem đến những thách thức, hệ luỵ nếu không tạo ra môi trường bình đẳng, đối thoại, tôn trọng luật pháp quốc tế và tôn trọng lợi ích chính đáng, chế độ chính trị của các quốc gia trong khu vực.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định lại quan điểm đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, không đi với nước này chống nước khác, nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đồng thời đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới./.

Theo Hương Giang/VOV

Đăng trên Infonet
1

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

Báo Trung Quốc: Quân cảng Cam Ranh lợi hại nhất châu Á

02/9/2012- Báo Trung Quốc nói cả châu Á cũng không thể tìm kiếm được quân cảng nào độc đáo và “nguy hiểm” như quân cảng Cam Ranh của Việt Nam.

Trong số ra ngày 20/8/2012, tạp chí “Tuần tin tức Trung Quốc” đã có một bài viết rất công phu phân tích sự “hấp dẫn” và lợi thế của quân cảng Cam Ranh của Việt Nam đồng thời phân tích vị thế của quân cảng này đối với tình hình an ninh khu vực trong bối cảnh hiện nay. Infonet xin trích lược bài viết này để giới thiệu với độc giả.

“Có lẽ cả châu Á cũng không thể tìm kiếm được quân cảng nào độc đáo và “nguy hiểm” như quân cảng Cam Ranh của Việt Nam”, tạp chí Tuần Tin tức viết, đồng thời trích dẫn nhận xét của báo chí Mỹ: “Ai chiếm được vịnh Cam Ranh, người đó sẽ chiếm được một nửa Trung Quốc, có thể kiểm soát được tuyến đường giao thông biển Á-Âu…”.


Chiến hạm Đinh Tiên Hoàng của Hải quân Việt Nam neo đậu ở Quân cảng Cam Ranh

Lợi hại hiếm có

Bán đảo Cam Ranh chạy từ Bắc xuống Nam và được bao quanh bởi rất nhiều đảo to nhỏ khác nhau, biến Cam Ranh trở thành một cảng nước sâu tránh gió rất tuyệt vời. Bên cạnh lối ra vào nhỏ hẹp, Cam Ranh còn được các dãy núi cao khoảng 400m vây quanh nên không những gió bão không thể xâm nhập mà địa thế cao điểm này có thể khống chế cả khu vực xung quanh cảng một cách rất dễ dàng.

Nhờ thế, quân cảng này trở thành một pháo đài vô cùng lợi hại, khó công, dễ thủ. Cửa vào Cam Ranh tuy nhỏ nhưng tổng diện tích mặt nước rộng 98 km2, nước sâu phổ biến ở mức 16-25m, nơi sâu nhất có thể lên đến 32m, cho phép đồng thời khoảng 40 tầu chiến cỡ lớn cùng neo đậu, kể cả tàu sân bay.

Nếu bố trí tên lửa phòng không ở vịnh Cam Ranh và những cao điểm xung quanh thì toàn bộ eo biển Malacca và eo biển Singapore đều nằm trong tầm khống chế của hỏa lực những tên lửa đó.

Ngoài ra, vịnh Cam Ranh còn có thể cho phép triển khai hệ thống giám sát điện tử để kiểm soát toàn bộ khu vực Bắc Ấn Độ Dương, vịnh Persia, biển Hoa Đông và Nam Hải (Biển Đông của Việt Nam).
Vừa có lợi thế tự nhiên rất có lợi cho quân sự, quốc phòng lại cận kề tuyến đường vận tải biển quốc tế trọng yếu nên từ hàng trăm năm nay vịnh Cam Ranh luôn được hải quân các cường quốc coi là “trung tâm dịch vụ hậu cần” quan trọng.

Sân bay quốc tế Cam Ranh với đường băng dài hơn 3.000m đủ khả năng đón máy bay chở khách cỡ lớn. Sân bay có thể đảm bảo cho các máy bay vận tải hạng nặng (C-141, C-5 Galaxy, Il-76), máy bay ném bom chiến lược (B52, Tu-95) cất/hạ cánh.

Bắt đầu từ năm 1905, Nga hoàng, Pháp, Nhật Bản đã đua nhau chiếm Cam Ranh. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ thậm chí đã chi tới hơn 300 triệu USD để mở rộng Cam Ranh.

Từ năm 1979, vịnh Cam Ranh trở thành căn cứ quân sự lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài, đồng thời là vị trí tiền đồn để Liên Xô kiềm chế Trung Quốc và cạnh tranh với Mỹ. Tuy nhiên, do tình hình thế giới có nhiều biến đổi nên từ năm 2002 đến nay, Cam Ranh trở thành một cảng biển “đìu hiu và tĩnh lặng”.

Nhưng kể từ đầu năm 2012 đến nay, Cam Ranh đã bắt đầu “nhộn nhịp” trở lại. Trong chuyến thăm Việt Nam hồi đầu tháng 6 vừa qua, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã ghé qua Cam Ranh và làm dấy lên tin đồn rằng Mỹ sẽ trở lại Cam Ranh trong một tương lai rất gần.


Cán bộ vùng 4 Hải quân chụp ảnh lưu niệm với sĩ quan thủy thủ tàu khu trục Hải quân Liên Xô tại Cảng Cam Ranh (năm 1982). Ảnh tư liệu

Chưa hết, hồi cuối tháng 7/2012, khi chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đi thăm Nga đã đồng ý để Nga thành lập một cơ sở sửa chữa tàu ở Cam Ranh. Đến lúc này, Cam Ranh đã bộc lộ rõ vai trò là một quân cảng mang lại nguồn tài chính lớn đồng thời là con bài chiến lược của Việt Nam khi đối đầu với các nước khác.

Chiến lược kinh tế

Kể từ lần “xuất hiện” trở lại vào tháng 10/2010, quan điểm của chính phủ Việt Nam về Cam Ranh rất thống nhất: Biến cảng này thành một cảng biển cho phép tàu quân sự nước ngoài sử dụng nhưng có thu phí.

Cựu đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, người đã từng đến thăm Cam Ranh hồi năm 2005, bình luận: “Lần này Nga đến Cam Ranh để sử dụng chứ không phải để thuê. Việt Nam sẽ không cung cấp vịnh Cam Ranh cho nước thứ 3 dùng làm căn cứ quân sự và thái độ đó của Việt Nam là không thay đổi”.

Rõ ràng sự thay đổi lần này rất quan trọng, từ sự thuê dùng đến sử dụng khác nhau một trời, một vực. Thuê dùng nghĩa là ai thuê thì người đó sẽ có đặc quyền sử dụng còn sử dụng là có tính chất mở cửa. Trong chuyến thăm Nga, ông Trương Tấn Sang cũng nói rõ, Việt Nam cung cấp cơ sở trên biển cho Nga hoàn toàn không phải là căn cứ quân sự.

Nhờ có Cam Ranh, Nga đã đồng ý cho Việt Nam vay 10 tỷ USD, nguồn tài chính quan trọng trong việc phát triển kinh tế trong nước. Cùng với đó, mối quan hệ hợp tác về năng lượng, đặc biệt là hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí Nga-Việt sẽ có bước tiến đáng kể.

Một quan chức ngoại giao giấu tên của Trung Quốc còn cho rằng Việt Nam đã rất khôn khéo trong việc sử dụng con bài Cam Ranh trong cuộc chơi với Nga và Mỹ.

“Di chứng từ cuộc chiến tranh Việt Nam đã khiến Việt Nam không thể cởi mở hơn với quân đội Mỹ nhưng họ vẫn có thể dùng Cam Ranh để khiến Mỹ hài lòng đồng thời việc cho phép Nga trở lại có tác dụng cân bằng tâm lý rất tốt”, vị quan chức ngoại giao này nói, “Cam Ranh có thể là trận chiến tương đối ôn hòa trong chiến lược trở lại châu Á mà cả Nga và Mỹ cùng đang thi hành. Có điều trận chiến lần này đã được bày ngửa trên bàn”.

Nâng tầm vị thế Việt Nam

So với những đồn đoán vội vàng của dư luận về sự trở lại của hải quân Nga, nhiều ý kiến khác cho rằng tác dụng chuyến thăm Cam Ranh của ông Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Leon Panetta cũng mang đến những tác dụng rất lớn.

Trong chuyến thăm này, ông Panetta đã phát biểu rằng Mỹ rất hy vọng hợp tác với Việt Nam trong vấn đề biển và sự kiện tàu hậu cần USNS Richard E.Byrd cập cảng Cam Ranh là một sự thể hiện nguyện vọng này. Chắc hẳn, ông Panetta chưa thể quên chuyến thăm Cam Ranh của cựu Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson hồi năm 1966.


Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon E. Panetta họp báo trên boong tàu nhân chuyến thăm Cam Ranh hồi đầu tháng 6 vừa qua. Ảnh: Nguyên Huy

Trong chuyến thăm đó, báo chí Mỹ đã ca ngợi Cam Ranh rằng: “Ai chiếm được Cam Ranh, kẻ đó sẽ chiếm được một nửa Trung Quốc, có thể kiểm soát được tuyến đường vận tải biển huyết mạch Á – Âu, có được địa vị bá quyền thế giới vì thế Mỹ phải chiến thắng Nga, hải quân Mỹ phải được đóng ở Cam Ranh”.

Phải tạo được vị thế cân bằng giữa các cường quốc là quan điểm nhất quán của chính phủ Việt Nam. Với Cam Ranh, Việt Nam không chỉ tìm kiếm lợi ích về kinh tế mà còn tranh thủ sử dụng quân cảng này làm bàn đạp nâng tầm vị thế của họ. Cam Ranh giờ đây không chỉ là sự thèm khát của Nga, Mỹ mà còn có cả Ấn Độ, Nhật Bản…

>> Video: Kỳ vỹ Cam Ranh qua góc nhìn cựu binh Nga

Quan chức ngoại giao kỳ cựu của Trung Quốc kết luận: “Khi các cường quốc tiến vào Cam Ranh ngày càng nhiều, Việt Nam sẽ cảm thấy tự tin hơn khi tham gia nói chuyện với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông”.

Trung Quốc hiểu rằng, chắc chắn Mỹ sẽ không thể thờ ơ với Cam Ranh được lâu hơn nữa. Tất cả các căn cứ quân sự của họ ở châu Á – Thái Bình Dương như Changi (Singapore), Yokosuka (Nhật Bản), Busan (Hàn Quốc) hay Apra ở đảo Guam đều không thể so sánh vị thế với Cam Ranh trong vấn đề Nam Hải (Biển Đông). Đáng chú ý, từ Cam Ranh ra đến Trường Sa chỉ có khoảng 600km.

Minh Tân/Infonet
0

Việt Nam 'bủa lưới' Trung Quốc

William Choong, Cây bút cao cấp - The Straits Times - 31/8/2012

Trong cuốn sách mới nhất của Hugh White, "The China Choice: Why America Should Share Power" - "Lựa chọn Trung Quốc - Tại sao Hoa Kỳ Phải Chia sẻ Quyền lực", vị giáo sư Australia cho rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc phải chia nhau Châu Á nhằm giữ hòa bình trong khu vực.


TQ và Việt Nam đang tiếp tục căng thẳng vì Biển Đông

Một vấn đề cụ thể là Hoa Kỳ phải nhường Đông Dương cho Trung Quốc, vị cựu quan chức quốc phòng nói thêm.

Gợi ý này đã làm cả vùng tức hộc máu, nhất là Việt Nam, nước có lịch sử sóng gió với Trung Quốc.

Nhưng nếu người ta có cái nhìn thực tế khách quan thì chuyện Việt Nam bị rơi vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc không có gì là đáng ngạc nhiên.

Dù sao thì Trung Quốc cũng đã bốn lần thống trị Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ thứ nhất tới thế kỷ thứ mười lăm.

Vào cuối thập niên 1960 trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc đã đổ viện trợ kinh tế và quân sự vào Bắc Việt Nam khi nước này đang chống lại Hoa Kỳ khiến cả hai bên coi quan hệ giữa họ như "môi với răng".

Nhưng bất chấp điều này, "môi với răng" đã trở thành chứng viêm lợi và sâu răng trầm trọng.

Hồi năm 1971, sự tiếp cận Washington của Bắc Kinh là màn dạo đầu cho xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc trong năm 1979.

Trong năm 1988, hai nước đã giao tranh tại đảo Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa.
Máu nóng vẫn tiếp diễn cho tới ngày nay khi Hà Nội và Bắc Kinh tranh chấp lãnh hải tại Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).

Vậy nên không có gì đáng ngạc nhiên khi quan hệ Trung-Việt ngày nay đầy phức tạp.

Không 'ăn phân Tàu'

Theo lời Tiến sỹ Tim Huxley, giám đốc phụ trách Châu Á của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế có trụ sở ở London, Việt Nam đã có 1000 năm chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc.

Ông nói thêm rằng đưa Việt Nam vào quỹ đạo của Trung Quốc cũng giống như "bắt đầu một cuộc chiến".

Cựu nhà báo của Hãng Thông tấn Pháp, ông Robert Templer, trong cuốn sách ra năm 1999 "Bóng Và Gió", cũng nghĩ như vậy khi nói rằng "điểm nhấn chủ đạo" trong lịch sử chính thức của Việt Nam luôn là sự kháng cự Trung Quốc.

Ông [Templer] đưa ra ví dụ về ông Hồ Chí Minh, người lãnh đạo thân Trung Quốc và từng có nhiều kỳ nghỉ ở Trung Quốc.

Khi được hỏi liệu tình huống nào tốt hơn, nằm dưới sự cai quản của quân đội Quốc dân Tưởng Giới Thạch hay sự quay trở lại của Pháp, câu trả lời có tiếng của ông Hồ là ông "thà ngửi chút phân Pháp trong vài năm còn hơn phải ăn phân Tàu trong ngàn năm tới".

Đối mặt với mối đe dọa hiển hiện từ sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc, Việt Nam cũng không thiếu các sáng kiến địa chính trị.

Giống như nhiều nước Châu Á khác, Việt Nam đã áp dụng chiến lược ngoại giao phổ biến là nhập cuộc nhưng "không chọn" giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Hà Nội làm ra vẻ có chút tình đoàn kết với Bắc Kinh.

Kể từ khi bình thường hóa quan hệ hồi năm 1991, cả hai bên đã có những cơ chế vững chắc để xử lý quan hệ với hơn 100 đoàn thăm viếng lẫn nhău mỗi năm.

Trung Quốc cũng là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam.

Việt Nam cũng cố gắng hàn gắn và xây dựng quan hệ với Hoa Kỳ [và coi đó] như bảo hiểm chiến lược trước Trung Quốc.

Họ cho các tàu hải quân Hoa Kỳ cập cảng.

Trong tháng Sáu, Việt Nam đã đón Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta, báo hiệu tầm cao mới của quan hệ.

Nhưng tiếp cận cả Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng có giới hạn của nó.

Dù sao thì Việt Nam cũng có sự ngờ vực thâm sâu đối với Trung Quốc từ lịch sử ngàn năm và với Hoa Kỳ sau cuộc chiến Việt Nam đau thương.

Đây là điểm mà mảng thứ hai trong chiến lược của Hà Nội được áp dụng - bủa lưới.

Bằng cách trói Trung Quốc vào mạng lưới các tổ chức khu vực - chẳng hạn Thượng đỉnh Đông Á và Diễn đàn Vùng Asean - Việt Nam hy vọng những luật lệ của những thực thể như thế sẽ trói gã khổng lồ Gulliver Trung Quốc bằng những sợi dây của các chú tí hon Liliput.

'Tức phát điên'

Bủa lưới không phải là điều gì mới mẻ.

Khi viết bài cho báo Business Times [của Singapore] hồi năm 1992, quan chức Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Hồng Thạch nói quan hệ Trung - Việt phải được kết nối với "mạng lưới lợi ích kinh tế và chính trị lớn hơn".

Hồi năm 2010, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã làm Trung Quốc tức phát điên khi tuyên bố tại Diễn đàn Vùng Asean ở Hà Nội rằng Washington sẵn sàng đóng vai trò trong đàm phán đa phương nhằm giải quyết tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa.

Một số nhà phân tích nghi ngờ rằng tuyên bố của bà Clinton một phần được sự trợ giúp của Hà Nội, nước chủ tịch Asean trong năm đó.

Kéo Trung Quốc vào các đàm phán đa phương sẽ tăng vị thế của các nước nhỏ như Việt Nam và Philippines.

Tại cuộc gặp của Asean mới đây ở Phnom Penh, Việt Nam đã [phải] nếm vị thuốc chính họ [kê đơn].
Trung Quốc đã dùng ảnh hưởng của họ đối với Campuchia - nước chủ tịch Asean - để ngưng công bố thông cáo trong đó có đề cập tới Biển Nam Trung Hoa.

Đó là một cuộc đảo chính ngoại giao cho Trung Quốc. Nhưng chiến thắng này cũng làm tăng lo ngại trong khu vực về tham vọng đầy tự phụ của Trung Quốc và ngoại trưởng nước này đã phải có chuyến thăm nhanh chóng trong vùng nhằm giảm thiểu thiệt hại.

Chiến lược hỗn hợp

Về lâu dài, chiến lược hỗn hợp tiếp cận và bủa lưới sẽ mang lại kết quả.

Nhưng chiến lược hỗn hợp chỉ tồn tại khi Hà Nội không phải chọn giữa Bắc Kinh và Washington.

Những căng thẳng gần đây ở Biển Nam Trung Hoa cho thấy Việt Nam có thể sẽ phải sớm có lựa chọn.

Philippines, nước đã có căng thẳng ngoại giao với Trung Quốc về Biển Nam Trung Hoa, rõ ràng đang trục lợi từ liên minh quân sự với Hoa Kỳ.

Những trao đổi gia tăng của Việt Nam với quân đội Hoa Kỳ có thể sẽ khiến họ nhờ tới sự trợ giúp của Chú Sam nếu có xung đột với Trung Quốc.

Giáo sư White cũng nhắc tới điểm này trong cuốn sách mới của ông. Trong một kịch bản, Việt Nam và Trung Quốc giao chiến trong một sự cố khác trên Biển Nam Trung Hoa và Hà Nội đề nghị Hoa Kỳ trợ giúp.

Điều này khiến căng thẳng tăng nhanh và tạo rủi ro có chiến tranh hạt nhân giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Đây cũng chính là thế tiến thoái lưỡng nan của Hà Nội nếu họ lại giao chiến với Bắc Kinh tại Biển Nam Trung Hoa.

Họ sẽ thấy mình bị kẹt trong thế bất khả thắng - nhờ tới Hoa Kỳ và tạo rủi ro căng thẳng leo thang, hay chịu thua Trung Quốc và có nguy cơ bị hút vào quỹ đạo của nước này - một lần nữa.

Bài viết nguyên văn của tác giả William Choong, tựa đề do BBC đặt.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/08/120831_viet_china_comment.shtml
4

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông chỉ đạo đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974

14/8/12- (GDVN) - Thực chất bài báo này của Tân Hoa Xã là một sự thừa nhận công khai, Mao Trạch Đông chỉ đạo quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974.

Ngày 6/8 vừa qua, Tân Hoa Xã dẫn nguồn tin tờ Nhật báo Tế Nam giật tít: “Quyết định đánh trận cuối cùng trong đời Mao Trạch Đông: Đồng ý đánh Hoàng Sa” nói thẳng, việc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 là quyết định “đánh trận cuối cùng” của Mao Trạch Đông và là quyết định “đánh trận đầu tiên” của Đặng Tiểu Bình khi được phục chức.


Ảnh chụp màn hình bài báo "Quyết định đánh trận cuối cùng trong đời Mao Trạch Đông: Đồng ý đánh Hoàng Sa" Tân Hoa Xã xuất bản ngày 6/8 vừa qua dẫn nguồn Nhật báo Tế Nam. Hình ảnh phía dưới là Đặng Tiểu Bình (bên phải) chỉ huy tác chiến đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974

Trong thời điểm Biển Đông liên tục căng thẳng do những động thái leo thang lấn lướt trên thực địa Bắc Kinh đã và đang gây ra, phía Trung Quốc còn tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch truyền thông bóp méo sự thật về cái gọi là "chủ quyền" của Trung Quốc ở Biển Đông. Thực chất bài báo này của Tân Hoa Xã là một sự thừa nhận công khai, Mao Trạch Đông chỉ đạo quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974.

Nhằm rộng đường dư luận và cung cấp đến độc giả thông tin về các hoạt động tuyên truyền bóp méo sự thật về Biển Đông của truyền thông nhà nước Trung Quốc, xin trân trọng đăng tải một số nội dung chính trong bài báo này của Tân Hoa Xã.

Theo Tân Hoa Xã, năm 1974 Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình đã nhóm họp bàn mưu đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà hiện nay giới truyền thông nhà nước Trung Quốc vẫn đang bóp méo sự thật lịch sử với tên gọi “cuộc chiến phản kích tự vệ trên biển”?!


Mao Trạch Đông chỉ đạo quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974

Lúc này Mao Trạch Đông đã 81 tuổi, ông ta cũng tự thấy sức khỏe yếu hơn trước nhưng theo Tân Hoa Xã, đầu óc vẫn còn tỉnh táo và chính Mao Trạch Đông là người ra quyết định đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa.

Tân Hoa Xã tuyên truyền, ngày 11/1/1974 Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra cảnh cáo (phi lý, phi pháp – PV) đối với chính quyền miền nam Việt Nam là thực thể đang quản lý, thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo đó, phía Trung Quốc nhận vơ Hoàng Sa, Trường Sa là của mình. Chính thể miền nam Việt Nam lúc đó đã bác bỏ thẳng thừng những cáo buộc phi lý, vô hiệu của Bắc Kinh.

Trước âm mưu của Bắc Kinh xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày càng lộ rõ, theo tài liệu tuyên truyền của Tân Hoa Xã, ngày 15/1/1974 chính thể miền nam Việt Nam lúc đó đã phái 3 tàu khu trục và một tàu hộ vệ ra nhóm đảo Lưỡi Liềm (gồm Trăng Khuyết và Nguyệt Thiềm) mà phía Trung Quốc gọi là Vĩnh Lạc thuộc quần đảo Hoàng Sa để tăng cường phòng thủ và dội pháo vào đảo Hữu Nhật (phía Trung Quốc gọi là Cam Tuyền), nơi phía Trung Quốc vừa cắm trộm cờ.


Tàu chiến Trung Quốc kéo ra đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 (ảnh tư liệu được giới truyền thông Trung Quốc sử dụng tuyên truyền bóp méo sự thật về Biển Đông)

Ngày 17/1/1974, các chiến hạm của miền nam Việt Nam đã giành lại quyền kiểm soát đảo Hữu Nhật và Quang Ảnh (phía Trung Quốc gọi là Kim Ngân). Ngay trong đêm 17/1/1974, Chu Ân Lai nhận báo cáo tình hình từ Trường Lý Lực, Cục phó Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu quân Trung Quốc, sau đó cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị phái quân ra quần đảo Hoàng Sa.

Mao Trạch Đông phê vào bản báo cáo của Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh: “Đồng ý!”, đồng thời nói thêm, “trận này không thể không đánh”. Mao Trạch Đông giao cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa.

Thời điểm này Đặng Tiểu Bình mới được phục chức sau 7 năm đi "cải tạo" đã lập tức bắt tay vào chỉ huy đánh chiếm Hoàng Sa. 10 giờ 25 phút sáng 19/1 quân Trung Quốc nổ súng đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. 11 giờ 32 phút cùng ngày, quân Trung Quốc tăng viện và bắn chìm chiến hạm hải quân miền nam Việt Nam.


àu chiến Trung Quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 (ảnh tư liệu truyền thông Trung Quốc sử dụng để tuyên truyền bóp méo sự thật lịch sử Biển Đông)

Theo tuyên truyền của Tân Hoa Xã, trong trận hải chiến này 4 chiến hạm Trung Quốc bị bắn trúng, 18 lính Trung Quốc bị bắn chết, 67 lính bị thương. Đặng Tiểu Bình được Tân Hoa Xã miêu tả, lúc đó đang “ngồi hút thuốc thơm” tại sở chỉ huy Bắc Kinh, sau khi nghe báo cáo tình hình đã chỉ thị cho đại quân khu Quảng Châu tiếp tục đánh chiếm các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật và Quang Ảnh.

Cũng trong bài báo này, Tân Hoa Xã cho biết, sáng sớm ngày 14/3/1988 quân Trung Quốc đã bất ngờ tấn công Đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam và chiếm đoạt bãi đá này. Từ năm 1988 đến nay, quân Trung Quốc đặt lực lượng chốt giữ tại đây để phục vụ âm mưu độc chiếm biển Đông thành ao nhà.

* Trích dẫn, đăng tải lại toàn bộ hoặc một phần thông tin từ bài viết này phải chịu trách nhiệm và ghi rõ "theo báo Giáo Dục Việt Nam" hoặc "theo Giaoduc.net.vn"

-------------
4

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

Cần có những đối tác chiến lược hùng mạnh để bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước

12/8/12- VHNA: Việc nước là trên hết. Người Việt Nam ta xưa nay là thế. Trong bối cảnh bị nhà cầm quyền Trung Quốc xâm lấn, vi phạm chủ quyền ở Biển Đông, người dân hết sức quan tâm đến kế sách giữ nước. Để rộng đường dư luận và cùng mọi người hướng đến trách nhiệm và mục tiêu giữ nước, chúng tôi giới thiệu một góc nhìn của người dân về việc nước. Đây là ý kiến cá nhân của tác giả, không phải là quan điểm của VHNA.


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hilary Clinton

Đây là ý kiến của chúng tôi được hình thành khi nhìn lại một số sự kiện lịch sử hiện đại có liên quan đến Việt Nam, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự kiện thứ nhất, năm 1972, lúc Tổng thống Hoa Kỳ - Richard Nixon, lần đầu tiên trong lịch sử chính thức viếng thăm Trung Quốc. Chuyến công du này chỉ có thể xảy ra một khi Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trao Đông đã dứt khoát và công khai vứt bỏ quan hệ với đảng Cộng Sản Liên Xô. Lập trường này rất rõ rệt là Bắc Kinh không đi nước đôi, và Mỹ- Trung dù không là đồng minh nhưng vẫn thành đối tác chiến lược vì cùng chung một đối thủ.

Sự kiện thứ hai, khi Đặng Tiểu Bình sang viếng Hoa Kỳ năm 1979, hai tuần trước khi xua quân vào biên giới phía Bắc Việt Nam, mục tiêu nhằm đánh hỏa mù khiến Mạc Tư Khoa đắn đo không biết nếu Liên Xô tấn công trả đũa thì liệu Mỹ có sẽ nhảy vào can thiệp hay không? Kết quả là Liên Xô không dám phản ứng nên họ Đặng mới chế nhạo rằng sờ đuôi cọp mới biết cọp giấy(!)

Ở đây chúng tôi không nhằm phân tích hậu quả của các quyết định trên vốn đã khiến biết bao dân chúng Việt Nam phải hy sinh xương máu, mà chỉ để rút ra bài học và tiên đoán Hoa Kỳ sẽ thấy cần thiết xác định Việt Nam là đối tác chiến lược nếu Việt Nam dứt khoát lập trường của mình.

Điều này không có nghĩa là hai quốc gia sẽ trở thành đồng minh, vì giống như Mỹ-Trung trước đây, giữa hai xã hội và thể chế chính trị còn quá nhiều dị biệt. Hơn nữa, người Việt Nam vẫn chưa thể quên được những ký ức đau buồn của cuộc chiến tranh kéo dài mấy chục năm cuối TK trước mà chính người Mỹ đã đi đêm cùng với Trung Quốc trên xương máu của người Việt Nam. Dù vậy lãnh đạo hai nước vẫn có thể cùng chung chia xẻ quan điểm chiến lược vì lợi ích của mỗi nước.

Nước Nga vốn là cái nôi của ý thức hệ cộng sản và đã đỡ đầu cho Trung Quốc trong cuộc cách mạng 1949 cùng chiến tranh Triều Tiên 1950, nhưng Mao Trạch Đông - Đặng Tiểu Bình đã không sợ đưa Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào thế bị bỏ rơi vì họ tin rằng tranh chấp xảy ra thì chính Liên Xô mới bị quốc tế cô lập. Bắc Kinh dù không thể đoán chắc Liên Xô sẽ không tấn công bằng vũ khí nguyên tử nhưng giới cầm quyền Trung Quốc vẫn có sự tư tin và viễn kiến rằng trước hết phải bảo tồn, rồi sau đó canh tân đất nước thì mới hy vọng duy trì quyền lực mà không lệ thuộc ngoại bang.

Trong hoàn cảnh bị đe doạ từ phương Bắc thì Việt Nam tuy đã mở rộng bang giao với quốc tế nhưng phải tìm ra đối tác chiến lược, nếu không giống như một người dù nhiều bạn nhưng không thân đến khi hoạn nạn chẳng ai ra mặt giúp đỡ.

Mỹ là một cường quốc và có thể trở thành đối tác chiến lược với chúng ta. Tuy nhiên, qua quan sát chúng ta có thể thấy rằng muốn tạo sự tin tưởng, củng cố và nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ thì cả hai phía cần phải thể hiện rõ quan điểm, thiện chí. Nếu Việt Nam chứng tỏ độc lập với Bắc Kinh kiên quyết hơn nữa thì chắc chắn phía Mỹ sẽ nâng tầm quan hệ chiến lược như bán vũ khí sát thương và hợp tác chặt chẽ hơn về quân sự.

Trung Quốc dùng hạm đội tàu đánh cá và hải giám khiêu khích giăng bẩy cho Việt Nam và Philipin bắn phát đạn đầu tiên để có cớ trả đũa bằng quân sự; còn không phản ứng tức là chấp nhận nguyên trạng (status-quo). Bắc Kinh đang chờ cơ hội để lập lại bài học của Georgia khi bị Nga tấn công năm 2008 mà các nước Tây Phương không có phản ứng nào cụ thể. Chiến thuật của Philipin là cho tàu chiến Hoa Kỳ ra vào hải phận trong phạm vi hiệp ước an ninh chung năm 1951. Hiện Philipin còn quá yếu, nhưng lúc vừa đủ mạnh tuy không nổ súng nhưng có thể cho vây đuổi tàu đánh cá nước ngoài vi phạm lãnh hải; khi đó Bắc Kinh có muốn leo thang cũng phải đắn đo không biết Mỹ có sẽ nhảy vào can thiệp hay không - tức là Philipin dùng kế sách của Đặng Tiểu Bình năm 1979 dùng Mỹ để hù doạ Nga trong khi xâm lấn Việt Nam.

Phải có gan sờ đuôi cọp mới biết cọp giấy. Việt Nam tuy mạnh hơn Philipin về quân sự nhưng cần chuẩn bị đầy đủ hơn nữa về ngoại giao và có được những đối tác chiến lược hùng mạnh để bảo vệ vững chắc chủ quyền. Mỹ không phải là sự lựa chọn duy nhất. Trong lịch sử, và hiện tại, chúng ta cũng đã và đang có mối quan hệ tốt với các cường quốc như Nga, Ấn Độ...Chính nghĩa bảo vệ Tổ Quốc là điều kiện căn bản nhất để chúng ta có sự ủng hộ của thế giới.

Nguồn: VHNA
0

Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

Tấm bản đồ cổ chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc lãnh thổ Trung Quốc

15/7/12- ANTĐ - Tiến sỹ Mai Hồng nguyên là Trưởng phòng Tư liệu thư viện của Viện Hán Nôm, hiện ông đang là Giám đốc trung tâm nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam. Hơn 30 năm gắn bó với công tác lưu trữ, Tiến sỹ Mai Hồng đã sưu tập được rất nhiều tư liệu quý và có giá trị lịch sử cũng như giá trị thực tiễn cao. Trong số này, ông đặc biệt chú ý tới một bức bản đồ cổ có tên gọi “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” có xuất xứ từ Trung Quốc…


“Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” (Toàn bộ bản đồ địa lý của đất nước) là tập bản đồ Trung Quốc xuất bản tại Thượng Hải năm 1905 và tái bản năm 1910. Đây là một trong những tập bản đồ Trung Quốc được vẽ và ấn hành vào cuối triều Thanh, phản ánh nhận thức đương thời của người Trung Quốc, quan chức, học giả đối với cương giới, lãnh thổ Trung Quốc thời điểm đó.

Điều đáng chú ý là: Trên bản đồ toàn quốc và bản đồ tỉnh Quảng Đông chỉ vẽ đến đảo Hải Nam. Đảo Hải Nam trên bản đồ là điểm cực Nam lãnh thổ Trung Quốc và bản đồ tỉnh Quảng Đông, chứng minh các quần đảo ở Biển Đông nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc.

Tấm “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” được in màu khá đẹp gồm 35 miếng ghép bằng giấy bồi dán trên mặt vải bố, trong đó mỗi miếng ghép có kích cỡ khoảng 20x30cm. Nói về cơ duyên có được tấm bản đồ này, Tiến sỹ Mai Hồng cho biết: “Khoảng thời gian cuối những năm 1970 thế kỷ trước, lúc này đang công tác tại Viện Hán Nôm và được cố Giáo sư Phạm Huy Thông giao cho việc trông coi kho sách cổ, trong một lần có một cụ ông ở Phú Xuyên (Hà Tây cũ) gánh sách lên bán cho Viện, trong hành trang cá nhân của ông có đem theo tập “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”, biết tôi là người yêu thích sưu tập các văn tự cổ, ông lão đã bán tấm địa đồ này cho tôi…”. Sau khi có được tấm bản đồ ông Hồng đã cất giữ trong kho tư liệu của mình. Đến năm 2002, ông Hồng về hưu và cũng dần quên mất sự có mặt của tấm bàn đồ. Tình cờ trong một lần gần đây sắp xếp lại kho tư liệu ông mới tìm lại được tấm bản đồ quý này.

Phía trên của “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” có một văn bản bằng Hán tự cổ có nội dung đại ý rằng từ đời xưa người Hán đã có các tấm bản đồ nhưng không được rõ ràng, chính xác và không rõ ngọn nguồn. Đến đời Khang Hy thứ 47 Thánh tổ nhân hoàng đế đã sai phái 2 giáo sỹ người nước ngoài làm ra tấm “Vạn lý thành đồ” trong vòng hơn 1 năm. Sau khi các tỉnh đã duyệt quy mô như đã định trên bản đồ, đến năm Tân Mão đời Khang Hy thứ 50 các giáo sỹ đã tập trung ở Kinh đô cùng nhau vẽ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” gồm 13 tỉnh của Trung Quốc, trong đó có nói rõ “Chỗ nào bị tàn khuyết thì bổ sung, chỗ nào nhầm lẫn thì sửa lại cho đúng, khiến cho nó được rõ ràng như trong lòng bàn tay…”.

Nếu nhìn vào “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” có thể thấy đại đồ thể hiện cương vực Trung Quốc xưa (có giá trị như bản đồ hành chính Trung Quốc ngày nay), đó là cơ sở pháp lý để xác định chủ quyền cương vực quốc gia. Song trên tấm “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” điểm cực Nam của Trung Quốc chỉ dừng lại ở địa giới của đảo Hải Nam ngày nay mà không hề có sự xuất hiện các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở Biển Đông.

Ngược về quá khứ, có thể thấy Trung Quốc là nơi có truyền thống lâu đời về sử học nói chung và địa đồ nói riêng. Với những tấm địa đồ vẽ những địa phương nhỏ đã xuất hiện và có niên đại từ rất sớm (năm 229 trước Công nguyên phát hiện 7 bức Bãi thả ngựa sông Thiên Thủy có niên đại thời Chiến Quốc). Song địa đồ được xem là thể hiện cương vực quốc gia hoàn chỉnh sớm nhất xuất hiện vào năm 1121 (đời Tống) và được khắc trên đá có tên gọi Cử vực thú lệnh đồ. Giới hạn cương vực nhà Tống trong Cửu vực thú lệnh đồ về phía Nam đến Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam ngày nay). Theo các nhà nghiên cứu, các địa đồ sau này trải qua các đời Nguyên, Minh như Quảng dư đồ (hoàn thành năm 1541, khắc in năm 1555), Hoàng triều chức phương địa đồ (khắc in năm 1636)… là những địa đồ hành chính toàn quốc, được thực hiện theo chủ trương của chính quyền Trung ương các đời. Những địa đồ này thực hiện dưới sự ảnh hưởng của kỹ thuật vẽ địa đồ phương Tây, tuy nhiên điểm cực Nam của Trung Quốc trong cương vực tổng thể vẫn không vượt quá Quỳnh Châu.

Theo Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Hà thuộc Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa, Thành cổ Hà Nội, “Hoàng Triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” được ấn hành vào năm 1905 và tái bản năm 1910. Trước đó trên các bản đồ của Việt Nam như Hồng Đức bản đồ, trong các ghi chép của Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục”…chủ quyền đã thuộc về Việt Nam. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, luật pháp chứng minh. Trao đổi với chúng tôi, Tiến sỹ Mai Hồng cho biết, tấm “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” là tấm bản đồ do người Trung Quốc xây dựng và ấn hành thời gian đầu thế kỷ XX, do vậy bên cạnh giá trị về mặt lịch sử nó còn là cơ sở giúp các học giả Việt Nam trong các nghiên cứu chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa hoặc các nghiên cứu chung về Biển Đông. Vì vậy ông sẵn sàng hiến tặng tài liệu quý này cho các cơ quan chức năng có trách nhiệm để phục vụ vào mục đích chung.

Duy Minh

An ninh thủ đô
0

Thứ Tư, 11 tháng 7, 2012

Bài học lịch sử của Việt Nam và các tử huyệt của Trung Quốc

10/7/12- “Trung Quốc có dân số đông, vũ khí nhiều, GDP đứng thứ 2 trên thế giới, là uỷ viên thường trực HĐBA Liên hợp quốc, được nhiều nước nể nang vì có một thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng có những điểm yếu chết người”.

Được biết đến không chỉ với những phát biểu mạnh mẽ trên nghị trường về các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước mà còn là một học giả có uy tín, GS.TS Nguyễn Minh Thuyết - nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã có những nhận định rất sắc sảo về tình hình Biển Đông cũng như về Trung Quốc trong thời điểm hiện nay.

Nguy cơ và những bài học lịch sử đối với Việt Nam

Nhận định về tình hình hiện nay, GS Nguyễn Minh Thuyết nói: “Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta đang đứng trước thử thách rất lớn bởi tham vọng bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc.

Từ lâu, họ đã thực hiện đường lối nhất quán xưng hùng xưng bá ở Biển Đông. Có thể nói là họ đã làm được nhiều việc: Một mặt tích cực tuyên truyền nhằm kích động tinh thần dân tộc của người trong nước, đồng thời công khai hoặc ngấm ngầm đưa ra những thông tin xuyên tạc nhằm tác động vào dư luận quốc tế theo hướng có lợi cho họ và trên thực tế cũng đã có những tổ chức khoa học và cơ quan truyền thông nước ngoài nhầm tưởng về chuyện này.

Mặt khác, họ cũng đang khẩn trương hiện đại hóa quân đội và hải quân với việc đóng tàu sân bay, tàu ngầm, lập căn cứ hải quân trên Biển Đông... Họ cũng làm nhiều động tác để chứng tỏ chủ quyền tại nơi họ gọi là “đường lưỡi bò”, biến vùng biển không có tranh chấp thành vùng biển có tranh chấp, gây ra những vụ khiêu khích, xung đột bộ phận để lôi kéo sự chú ý của dư luận và thăm dò phản ứng của các nước có liên quan…


Đảo Trường Sa Lớn (quần đảo Trường Sa) nhìn từ trên cao

Về mặt kinh tế, hiện nay, trên 90% các gói thầu lớn của Việt Nam đều rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc. Họ đưa hàng chục ngàn lao động sang Việt Nam và những khu vực sát sườn Việt Nam. Thương lái Trung Quốc xuôi ngược khắp nơi, từ Bắc chí Nam, cài cắm cả ở những vùng biển nhạy cảm.

Đây là tình thế rất nguy hiểm. Nếu chúng ta không đánh giá đúng mức tình thế này thì nguy cơ là rất cao. Trung Quốc mà áp đặt được “đường lưỡi bò” trên Biển Đông thì Biển Đông chỉ còn là “cái ao”, và biển của chúng ta sẽ trở thành cổ tích với các thế hệ mai sau”.

GS Thuyết phân tích: “Chúng ta cần nhớ những bài học thất bại trong lịch sử nước nhà. Điểm lại từ buổi đầu dựng nước đến giờ, Việt Nam ta đã ba lần mất nước, rơi vào vòng nô lệ của ngoại bang.

Lần thứ nhất vào thời An Dương Vương, mà nguyên nhân là mất cảnh giác, đem giặc vào nhà. Từ đó, nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Bắc suốt 1000 năm (từ năm 179 tr. CN đến năm 938). Lần thứ hai mất nước là vào thời nhà Hồ. Hồ Quý Ly có tài nhưng không được lòng dân nên mới lập ra triều Hồ được 7 năm thì nước mất vào tay giặc Minh. Lần đô hộ này kéo dài chẵn 20 năm (1407 – 1427).

Lần thứ ba mất nước là vào thời Nguyễn. Khiếp nhược trước sức mạnh của giặc ngoại xâm, nhà Nguyễn không những không cho quân dân ta đánh Pháp mà còn đem quân triều đình đi “dẹp loạn”. Đó là lần mất nước do triều đình hèn nhát, sợ dân hơn sợ giặc, khiến nước ta trở thành thuộc địa của thực dân (1884 – 1945).

Đó là những bài học đắt giá cho chúng ta hôm nay. Chúng ta phải luôn mài sắc tinh thần cảnh giác, không vì bất kỳ lý do nào để người ngoài “ru ngủ” dẫn đến tình thế khó gỡ của An Dương Vương. Về đối nội thì phải khoan sức dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phải làm cho mỗi người Việt Nam thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và tin tưởng vào sức mạnh Việt Nam trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ".

Những điểm yếu chết người của Trung Quốc

Nói về mặt mạnh, mặt yếu của Trung Quốc, GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng: “Trung Quốc có dân số đông, vũ khí nhiều, GDP đứng thứ 2 trên thế giới, là uỷ viên thường trực HĐBA Liên hợp quốc, được nhiều nước nể nang vì có một thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng có những điểm yếu chết người”.

Thứ nhất, theo GS Thuyết, dân số Trung Quốc đông nhưng do thực hiện chính sách mỗi gia đình một con nên đông mà không mạnh. Chỉ cần chịu một tổn thất lớn về người trong một trận chiến thôi, cả nước sẽ rung chuyển và sức chiến đấu sẽ bị suy yếu một cách nhanh chóng.

Thứ hai, “về kinh tế, GDP của Trung Quốc đứng thứ 2 sau Mỹ và trên cả Nhật. Nhưng chất lượng GDP rất thấp, GDP bình quân đầu người lại càng thấp. Sẽ chẳng ai dám nói rằng chất lượng nền kinh tế của Trung Quốc cao hơn Nhật Bản. Thậm chí, còn thua cả Hàn Quốc. Thêm nữa, nền kinh tế phát triển nhanh và nóng dẫn đến nguy cơ phát triển thiếu bền vững.


Dù GDP của Trung Quốc đứng thứ 2 thế giới nhưng chất lượng kinh tế của Trung Quốc lại thấp

Thứ ba, về mặt xã hội, sự phân hóa giàu nghèo giữa các đối tượng và các vùng khác nhau ngày càng gia tăng khiến nội bộ Trung Quốc ngày càng trở nên bất ổn.

Thứ tư, vấn đề dân tộc tại Trung Quốc cũng đang chứa đựng sự bất ổn thường xuyên. Nóng nhất, tiềm ẩn nguy cơ lớn nhất là ở các vùng Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông. Đây là vấn đề khiến chính quyền Trung Quốc phải dành sự quan tâm đặc biệt và xếp vào hàng “lợi ích cốt lõi”. Nếu tranh chấp Biển Đông biến thành chiến tranh kéo dài thì bất ổn nội bộ càng có điều kiện bùng phát, dẫn đến hệ quả khó lường.

Thứ năm, về mặt quân sự, Trung Quốc là nước sở hữu vũ khí hạt nhân. Nhưng trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc sử dụng vũ khí hạt nhân là điều gần như không thực hiện được, nhất là trong điều kiện Trung Quốc đã ký hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân. Trung Quốc đã trải qua gần 60 năm không có chiến tranh ngoài những cuộc chiến nhỏ ở biên giới nên kinh nghiệm chiến đấu cũng là một vấn đề lớn của quân đội.

Vũ khí nhiều nhưng xét về độ chính xác, hiện đại thì không thể so với Nga và các nước phương Tây. Mà vũ khí thì nước nào cũng có thể bỏ tiền ra mua những vũ khí hiện đại nhất, chỉ trừ bom hạt nhân.

Thứ sáu, về mặt pháp lý, căn cứ xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa rất yếu. Đường lưỡi bò lại càng phi lý. Nếu có căn cứ pháp lý vững thì chắc chắn Trung Quốc đã chấp nhận thách thức của một số nước liên quan đưa ra Toà án công lý quốc tế rồi.

Trên trường quốc tế, họ vướng phải thái độ e dè của các nước trên thế giới nhất là đối với châu Phi sau khi các nước tại lục địa này nhận được những khoản hỗ trợ rất hào phóng từ Trung Quốc. Chính sự tham lam cùng với một ý đồ bá quyền đã lật tẩy mặt nạ của họ trước cộng đồng quốc tế.”.

Trung Quốc đang lo ngại nhất điều gì?

Theo ông Thuyết, Trung Quốc còn đang phải tính toán thêm để không bộc lộ mưu đồ bá quyền một cách “quá đáng”, trái với lời dặn của Đặng Tiểu Bình: “nép mình chờ thời”, “nhất quyết không đi đầu” khi chưa thực sự đủ mạnh. Thể hiện tham vọng quá sớm không khác gì Cao Biền dậy non, sẽ bị các nước đề phòng, ghẻ lạnh, tẩy chay và bị các cường quốc chèn ép.

Thực tế cho thấy cùng với sự thể hiện tham vọng quá rõ của Trung Quốc ở Biển Đông, nước Mỹ đang xuất hiện trở lại khu vực này và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói chung. Trước tình hình đó, Trung Quốc không thể gây căng thẳng với các nước trong khu vực mà không làm cho họ xích về phía Mỹ. Đó là điều cho đến nay vẫn ngăn trở Trung Quốc có những hành động mạnh hơn.


Ông Nguyễn Minh Thuyết: "Trung Quốc còn đang phải tính toán thêm để không bộc lộ mưu đồ bá quyền một cách “quá đáng”, trái với lời dặn của Đặng Tiểu Bình: “nép mình chờ thời”, “nhất quyết không đi đầu” khi chưa thực sự đủ mạnh".

Theo ông Thuyết, một lý do nữa khiến Trung Quốc khó có thể có những hành động mạnh hơn là vì nếu chiến tranh nổ ra trên biển Đông thì con đường vận chuyển 60% lượng dầu mỏ phục vụ cho nền kinh tế khồng lồ của nước này sẽ trở nên thiếu an toàn. Thiếu dầu mỏ, nền kinh tế của Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Còn nếu Trung Quốc định chiếm các đảo của nước khác thì dù có chiếm được cũng không giữ nổi vì các đảo ở quá xa nước này, trong khi lại rất gần Việt Nam và các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền.

“Thời gian tới đây, chúng ta phải tăng cường công tác tuyên truyền về chủ quyền biển đảo. Tôi biết hiện nay trong sách giáo khoa lịch sử của chúng ta, phần thông tin về các quần đảo và chứng cứ pháp lý về chủ quyền của ta tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn quá ít. Đó là thiếu sót của chúng ta. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần khắc phục ngay hạn chế này.

Thêm nữa, những diễn biến trên Biển Đông phải được thông tin đầy đủ, thường xuyên tới người dân để tăng cường nhận thức chung cho công dân về chủ quyền lãnh thổ trên biển.

Ngoài ra, chúng ta nên tin vào thái độ của nhân dân. Đó là một sự hỗ trợ đắc lực cho Nhà nước trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Sự phản đối mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân sẽ làm Trung Quốc phải chùn tay", ông Nguyễn Minh Thuyết gửi gắm những điều tâm huyết của mình và hẹn chúng tôi quay trở lại đề tài này khi có dịp.

HỒNG CHÍNH QUANG (GIÁO DỤC VIỆT NAM)
0

Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2012

Liệu sẽ có quan hệ đồng minh Việt-Mỹ?

07/6/12- Trong những ngày gần đây, căng thẳng trên khu vực biển Đông lại gia tăng.

LS Nguyễn Văn Đài
Gửi tới BBC từ Hà Nội

Ngày 21 tháng 6, Bộ Dân chính Trung Quốc cho biết Quốc vụ viện nước này đã phê chuẩn việc thành lập thành phố Tam Sa bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Và buổi sáng cùng ngày, Quốc hội Việt Nam thông qua luật Biển, trong đó khẳng định chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngay lập tức, ngày 23 tháng 6, Trung Quốc đã cho mời thầu quốc tế 9 lô thăm dò dầu khí trên khu vực thềm lục địa của Việt Nam. Đồng thời Trung Quốc đã cho bốn tàu hải giám tiến hành diễn tập ở khu vực quần đảo Trường Sa. Việt Nam đã điều tàu cảnh sát biển để ngăn chặn hành động xâm phạm chủ quyền này.

Ngày 4-7, báo Thanh Niên trích lại tin của tờ Liên Hợp của Đài Loan nói rằng Trung Quốc đã thành lập một lữ đoàn tên lửa mang số hiệu 827 đặt căn cứ tại thành phố thiều Quang, tỉnh Quảng Đông. Căn cứ này được trang bị tên lửa Đông Phong 16 có tầm bắn 1200km, trong khi khoảng cách từ Thiều Quang đến Hà Nội chỉ là 1000km.

Trung Quốc cũng tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa và xây dựng bộ chỉ huy quân sự Tam Sa.
Tờ Tin báo Hong Kong đánh giá thêm rằng việc xuất hiện thông tin thành lập lữ đoàn 827 cùng những tuyên bố nói trên có ý nghĩa tương hỗ lẫn nhau, nằm trong âm mưu “đe dọa, giương oai” nhằm vào các bên có tranh chấp trên biển.

Bất kể một người Việt Nam nào còn một chút lương tâm và trách nhiệm với đất nước thì đều không khỏi lo lắng cho chủ quyền biển đảo của quốc gia, sinh mạng của ngư dân và của các chiến sĩ cảnh sát biển, hải quân đang bảo vệ lãnh hải.

Bên trong, giặc nội xâm là các tập đoàn tham nhũng, các nhóm lợi ích đang ngày đêm tàn phá đất nước. Chúng liên kết với nhau vơ vét của cải, tham nhũng tiền thuế của nhân dân, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, hủy hoại môi trường, hủy hoại và làm tha hóa chuẩn mực đạo đức xã hội…
Bên ngoài giặc bành trướng đang rình rập chờ cơ hội để xâm chiếm biển đảo của Tổ quốc.

Chiến tranh trên biển Đông có thể xảy ra bất cứ lúc nào. An ninh, chủ quyền quốc gia đang bị đe dọa nghiêm trọng. Trong khi đó, về quan hệ bang giao quốc tế, đảng Cộng sản không có đồng minh, có một vài nước đồng chí thì họ cũng là đồng chí của Trung Quốc.

Tại sao cần đồng minh?

Ở châu Âu, các cường quốc về kinh tế và quân sự như Anh, Đức, Pháp, Ý thì họ đều là đồng minh với nhau và là đồng minh với Hoa Kỳ. Các nước này không chỉ chia sẻ giúp đỡ nhau về kinh tế khi một thành viên nào đó gặp khó khăn.

Mà điều quan trọng hơn họ cùng nhau chia sẻ những lợi ích về an ninh, cùng nhau hợp tác để duy trì hòa bình và giải quyết các xung đột trên thế giới vì lợi ích của cả khối và lợi ích chung của cả nhân loại.

Mối quan hệ đồng minh này tạo nên sức mạnh to lớn hơn rất nhiều so với sức mạnh của mỗi quốc gia riêng lẻ. Khi có mối đe dọa nhằm vào bất kỳ thành viên nào của khối, thì họ sẽ tập chung toàn bộ sức mạnh về kinh tế, quân sự để bảo vệ lẫn nhau.

Trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, các cường quốc về kinh tế và quân sự như Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia. Họ đều xây dựng mối quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ và là đối tác của nhau trong việc bảo vệ lợi ích chung. Cường quốc kinh tế và quân sự Ấn Độ cũng đang hướng đến xây dựng mối quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia.

Trong cộng đồng Asean, Phillipines là đồng minh của Hoa Kỳ. Điều quan trọng nhất trong mối quan hệ đồng minh đó là khi một bên bị đe dọa, bị tấn công bằng quân sự, thì quốc gia đồng minh có trách sử dụng mọi tiềm lực quân sự để bảo vệ đồng minh của mình.

Điều này khác xa so với mối quan hệ bạn bè hay đối tác chiến lược. Khi một nước là bạn bè hay đối tác chiến lược bị tấn công quân sự thì nước kia cùng lắm thì họ cũng chỉ lên tiếng bênh vực về mặt ngoại giao.

Thực tế cho thấy là có nhiều nước đang là đối tác chiến lược của nhau những vẫn đang đe dọa lẫn nhau và sẵn sàng xung đột với nhau.

Rõ ràng việc các quốc gia có cùng lợi ích xây dựng mối quan hệ đồng minh với nhau là vô cùng cần thiết. Việc này sẽ làm cho sức mạnh của mỗi quốc gia thành viên được nhân lên trong việc bảo vệ lợi ích, chủ quyền quốc gia của mình.

Đồng minh để bảo vệ chủ quyền


Trong điều kiện của đất nước chúng ta, việc lựa chọn đối tác để xây dựng mối quan hệ đồng minh là hết sức cần thiết. Việc chúng ta xây dựng mối quan hệ đồng minh không phải nhằm mục đích để chống lại các quốc gia khác. Mà mục đích chỉ tăng cường sức mạnh của quốc gia nhằm bảo vệ chủ quyền và lợi ích của mình và của nước đồng minh.

Việt Nam muốn có được mối quan hệ láng giềng hữu nghị và bình đẳng với Trung Quốc đồng thời bảo vệ được chủ quyền và lợi ích của chúng ta ở biển Đông. Theo quan điểm của tôi, chúng ta phải dựa vào hai trụ cột trong quan hệ quốc tế:

Một là xây dựng mối quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ, dựa vào đó mở rộng quan hệ đồng minh với Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Khi có quan hệ đồng minh với các nước trên, chúng ta sẽ mua được và nhận được sự giúp đỡ về trang thiết bị quân sự tiên tiến và hiện đại, sự hỗ trợ trong huấn luyện, cung cấp và trao đổi thông tin.

Có mối quan hệ đồng minh, chúng ta không chỉ hợp tác trong lĩnh vực quân sự, mà chúng ta sẽ có mối quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế mạnh mẽ. Nhờ vào mối quan hệ đồng minh mà kinh tế, thương mại của chúng ta cũng sẽ phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng.

Hai là, dựa vào quan hệ đồng minh với các cường quốc nói trên. Chúng ta sẽ nâng cao được sức mạnh quân sự và có thể trở thành quốc gia lãnh đạo trong cộng đồng Asean trong lĩnh vực quân sự. Chúng ta sẽ cùng với các quốc gia có chung lợi ích trong Asean xây dựng mối quan hệ về quân sự gắn bó hơn. Từ đó có thể cùng nhau bảo vệ lợi ích chung trên biển Đông.

Như vậy dựa trên quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia cùng với cộng đồng Asean, chúng ta sẽ nâng cao được tiềm lực quốc phòng và phát triển kinh tế. Nhờ đó chúng ta mới có thể duy trì được hòa bình và bảo đảm được quan hệ láng giềng hữu nghị với Trung Quốc.

Việt Nam có mất chủ quyền quốc gia khi có quan hệ đồng minh với các nước lớn?

Chắc chắn là không. Thực tế của các mối quan hệ đồng minh trên thế giới cho thấy rằng các nước đồng minh không bao giờ can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Chủ quyền quốc gia của các nước thành viên luôn được tôn trọng măc dù có quân đội của nước này đóng trên lãnh thổ của nước khác.
Tại sao Việt Nam phải chọn Hoa Kỳ để xây dựng mối quan hệ đồng minh?

Điều quan trọng đầu tiên mà chúng ta thấy được đó là cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều có chung lợi ích với nhau trên biển Đông: Với Việt Nam là chủ quyền quốc gia và lợi ích kinh tế; với Hoa Kỳ là tự do hàng hải, lợi ích kinh tế và vai trò cường quốc trong khu vực. Hai nước không có bất kỳ tranh chấp hay mâu thuẫn nào trên khu vực này.

Điều quan trọng thứ hai là Hoa Kỳ thực sự mong muốn xây dựng mối quan hệ đồng minh với một nước Việt Nam dân chủ. Gần đây nhất là Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã tới thăm quân cảng Cam Ranh, và mong muốn quân cảng này cung cấp dịch vụ cho quân đội Hoa Kỳ.

Chúng ta cùng nhìn ra thế giới thì thấy rằng hầu hết các cường quốc về kinh tế, quân sự trên thế giới đều là đồng minh hoặc là bạn bè, đối tác tin cậy của Hoa Kỳ.

Trở ngại chính


Phần cuối bài viết bàn về chính trị, nếu bạn quan tâm thì nhấp vào đây để xem tiếp trên BBC
0

Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2012

Việt Nam giữa hai bờ Trung – Mỹ


Việt Nam duy trì tình hữu nghị với Trung Quốc
(BBC-03 /7/2012) Một trong những thành tựu lớn nhất của Việt Nam trong những năm 1990 là việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991) và Mỹ (1995).

Việc bình thường hóa với Trung Quốc giúp Việt Nam bước đầu phá thế bị bao vây cô lập, cho phép Việt Nam cải thiện quan hệ với ASEAN và Mỹ. Trong khi đó, việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ giúp Việt Nam lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các cường quốc trên thế giới.

Ngoài ra, các sự kiện trên cũng giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập quốc tế, góp phần đưa Việt Nam gia nhập vào một loạt các tổ chức và diễn đàn quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, WTO, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), và gần đây nhất là các vòng đàm phán về Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi Việt Nam cũng gặp phải một thách thức không nhỏ: làm sao duy trì được sự cân bằng giữa hai siêu cường vốn đang ngày càng có xu hướng mâu thuẫn nhau?

Quan hệ Việt – Trung

Đây là một thách thức không mới đối với Việt Nam. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, sau khi Trung Quốc và Liên Xô chia rẽ, việc Việt Nam không duy trì được cân bằng trong quan hệ với hai cường quốc này đã góp phần dẫn tới sự lao dốc của quan hệ Việt – Trung trong những năm 1970, trong đó đỉnh cao là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 cùng tình trạng thù địch giữa hai nước trong thập niên 1980.

Những kinh nghiệm cay đắng đó vẫn còn dư vị, và Việt Nam hẳn nhiên không muốn lịch sử lặp lại. Vì vậy Việt Nam coi quan hệ hệ hòa bình và ổn định với Trung Quốc là một trong những ưu tiên đối ngoại hàng đầu của mình. Bên cạnh việc duy trì một môi trường khu vực hòa bình có lợi cho phát triển trong nước, còn có một số lí do khác khiến các nhà hoạch định chính sách Việt Nam muốn bảo vệ quan hệ với Trung Quốc.

Trước hết, Trung Quốc là một đồng minh ý thức hệ thân cận của Việt Nam. Đầu những năm 1990, khi chủ nghĩa cộng sản rơi vào thoái trào, ý thức hệ là một yếu tố góp phần dẫn tới sự bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Ngày nay, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là hai đảng cộng sản lớn duy nhất còn cầm quyền trên thế giới, và hai đảng tin rằng sự hỗ trợ lẫn nhau sẽ giúp họ duy trì được quyền lực của mình.

Hai đảng đã có những biện pháp cụ thể hướng tới mục tiêu này. Ví dụ, hai đảng đã tổ chức các cuộc hội thảo thường niên nhằm thảo luận các chủ đề tư tưởng và trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề như xây dựng đảng, dân vận, hay ngăn chặn “diễn biến hòa bình”. ĐCSVN nhận thấy sự cầm quyền nếu được duy trì của ĐCSTQ không chỉ mang lại cho mình một nguồn chính danh từ bên ngoài mà còn là một sự hỗ trợ đối với an ninh của chế độ. Trong trường hợp ĐCSTQ sụp đổ, ĐCSVN sẽ gặp những thách thức vô cùng lớn trong việc duy trì quyền lực của mình ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai nước cũng ngày càng gia tăng. Kể từ năm 2004 Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2010, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 27 tỉ đô la Mỹ, chiếm 17% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam trong năm. Vì vậy, bất chấp những vấn đề có thể gây căng thẳng trong quan hệ hai nước, đặc biệt là tình trạng thâm hụt thương mại kinh niên của Việt Nam, Việt Nam vẫn coi quan hệ kinh tế song phương là có lợi và hữu ích cho mối quan hệ hòa bình và hợp tác giữa hai nước.

Tuy nhiên, những căng thẳng gia tăng gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc đang đe dọa xóa bỏ những cải thiện trong quan hệ hai nước đã đạt được trong hơn hai thập kỷ qua. Sự căng thẳng này xuất phát từ nhiều yếu tố. Một mặt, sự trỗi dậy và quy mô hiện đại hóa quân đội vô tiền khoáng hậu của Trung Quốc đã làm sống dậy sự lo sợ của Việt Nam đối với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.


Trước đây ít ai nghĩ có một ngày Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lại được đón tiếp nồng hậu ở Hà Nội

Mặt khác, các tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước trong Biển Đông càng làm nỗi lo sợ này của Việt Nam trở nên sâu sắc hơn. Trong khi không muốn thù địch với Trung Quốc, Việt Nam cũng không thể hi sinh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ để làm đẹp lòng Bắc Kinh. Chính vì thế, Việt Nam đã và đang tìm cách kết nối với các cường quốc bên ngoài để có thể ít nhất là răn đe, ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc trên Biển Đông, và xa hơn là giúp cân bằng với sức mạnh vượt trội của nước này trên bình diện khu vực.

Quan hệ Việt - Mỹ

Trong bối cảnh đó, Mỹ rõ ràng là một đối tác được ưa thích của Việt Nam. Sau khi hai cựu thù bình thường hóa quan hệ năm 1995, quan hệ song phương đã tiến triển nhanh chóng tới mức đã có những lời kêu gọi từ hai phía nâng cấp quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược.

Quan hệ kinh tế đã được tăng cường làm nền tảng vững chắc cho hợp tác song phương. Sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực năm 2001, kim ngạch thương mại song phương đã tăng hơn 12 lần trong vòng chỉ 10 năm, đạt 21,8 tỉ đô la Mỹ năm 2011. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Bên cạnh đó, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam cũng gia tăng trong những năm gần đây, biến Mỹ trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Việt Nam trong năm 2010. Quyết định của Việt Nam tham gia vào đàm phán TPP cũng cho thấy độ chín ngày càng tăng của quan hệ song phương cũng như mong muốn của Việt Nam thúc đẩy quan hệ với cựu thù, không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn vì các lí do chiến lược.

Bên cạnh quan hệ kinh tế gia tăng, quan hệ chính trị giữa hai nước cũng làm bất ngờ nhiều nhà quan sát. Trong thập kỷ qua, hai nước đã trao đổi nhiều chuyến viếng thăm cấp cao. Các mối quan hệ quân sự dù còn khiêm tốn cũng đã không ngừng được tăng cường. Sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như sự hung hăng ngày càng tăng của nước này trong tranh chấp Biển Đông rõ ràng là những yếu tố cơ bản trong nỗ lực của Việt Nam nhằm xích lại gần hơn với Mỹ.

Nhiệm vụ này dường như đã được tiếp sức bởi quyết định gần đây của Mỹ trong việc tăng cường vai trò và sự hiện diện ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Bên lề hội nghị thượng đỉnh APEC tại Hawaii tháng 11/2011, Ngoại trưởng Clinton đã tuyên bố Mỹ coi trọng và mong muốn thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, trong đó có việc nâng tầm quan hệ, hướng tới đối tác chiến lược.

Dù sự xích lại gần nhau giữa hai cựu thù là thật sự ấn tượng, vẫn còn đó những trở ngại mà hai nước phải vượt qua nếu muốn đưa quan hệ song phương tiến lên phía trước. Rào cản lớn nhất có lẽ chính là sự khác biệt giữa hệ thống chính trị hai nước và nhận thức khác nhau về các giá trị như dân chủ và nhân quyền.

Trong khi một bộ phận ĐCSVN vẫn nghi ngờ ý định thực sự của Mỹ trong việc cải thiện quan hệ với Việt Nam và coi Mỹ là kẻ chủ mưu chính trong âm mưu “diễn biến hòa bình”, thì Mỹ cũng coi Việt Nam là một nước có thành tích nhân quyền yếu kém. Một số chính trị gia Mỹ đã nhấn mạnh rằng sự cải thiện hơn nữa trong quan hệ song phương sẽ phụ thuộc vào việc Việt Nam có cải thiện được hồ sơ nhân quyền của mình hay không.

Lập trường của Mỹ không chỉ xuất phát từ chính sách mở rộng dân chủ và nhân quyền khắp toàn cầu, mà còn xuất phát từ sức ép của cộng đồng người Việt tại Mỹ. Phần lớn trong số hơn 1,7 triệu người Mỹ gốc Việt rời khỏi Việt Nam sau năm 1975 và vẫn còn giữ thái độ thù địch với chế độ của ĐCSVN. Họ đã tiến hành các chiến dịch đòi chính phủ Mỹ hạn chế quan hệ với Việt Nam nhằm thúc ép Việt Nam tự do và dân chủ hóa chính trị.

Dưới sức ép đó, Mỹ đã thực thi một số biện pháp, bao gồm ban hành một báo cáo thường niên về tình hình nhân quyền của Việt Nam và đôi lần can thiệp với chính quyền Việt Nam về việc bắt giữ các nhà bất đồng chính kiến. Mỹ cũng đã từng liệt Việt Nam vào danh sách các “quốc gia đặc biệt quan ngại” về tự do tôn giáo. Một dự luật tìm cách gắn viện trợ của Mỹ với hồ sơ nhân quyền của Việt Nam cũng đã đôi lần được thông qua bởi Hạ viện Mỹ nhưng chưa từng được Thượng viện phê chuẩn.

Tuy nhiên, với sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự tái ưu tiên chiến lược của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, vấn đề nhân quyền có khả năng sẽ giảm vai trò là rào cản trong quan hệ hai nước. Lịch sử đã chỉ ra rằng vì các lý do chiến lược Mỹ sẵn sàng thúc đẩy quan hệ gần gũi với một số quốc gia nhất định bất chấp tình hình chính trị nội bộ của các nước đó, bao gồm cả tình trạng nhân quyền. Mỹ đã từng là đồng minh với Iraq của Saddam Hussein hay Ai Cập của Hosni Mubarak, và đã từng có bước xích lại chiến lược với Trung Quốc nhằm đối phó với Liên Xô những năm 1970.

Vì vậy nếu Mỹ nhận thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa lợi ích của mình và cần phải được ngăn chặn, Mỹ có thể sẽ bỏ qua tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam để theo đuổi một mối quan hệ đối tác chiến lược gần gũi hơn.

Lựa chọn của Việt Nam?

Tuy nhiên, ngay cả trong tình huống đó, vẫn còn một câu hỏi cần đặt ra: Việt Nam sẽ sẵn sàng đi xa tới đâu trong mối quan hệ này? Câu trả lời khả dĩ nhất lúc này có lẽ là “Không quá xa!” Một mối quan hệ Việt – Mỹ mật thiết hơn sẽ gây nên những căng thẳng không mong muốn trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, đặc biệt khi mà quan hệ Trung – Mỹ có khả năng xấu đi do cạnh tranh chiến lược, và Việt Nam không muốn tiếp tục trải qua những kinh nghiệm khó khăn thời kỳ những năm 1970-1980.

Cho dù tình thế đã thay đổi trong hơn ba thập kỷ qua, và Việt Nam giờ có khả năng và điều kiện tốt hơn trong việc chống chọi với áp lực từ Trung Quốc trong trường hợp quan hệ song phương xấu đi, nhưng sự gần gũi về mặt địa lý cũng như sự bất đối xứng quá lớn về quyền lực giữa hai nước vẫn khiến Việt Nam phải cân nhắc trước khi thực hiện bất cứ bước đi nào có thể làm quan hệ của mình với người làng giềng khổng lồ phương Bắc trở nên bất ổn.

Hơn nữa, với tư cách là một nước nhỏ, Việt Nam không muốn bị vướng vào cuộc chơi quyền lực giữa các nước lớn. Trong trường hợp muốn khai thông bế tắc trong quan hệ song phương, các nước lớn có thể sẵn sàng thỏa hiệp trên lưng của các đồng minh nhỏ của mình. Hiệp định Geneva năm 1954 hay Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 là hai trường hợp điển hình, trong đó Việt Nam bị chính các đồng minh nước lớn của mình phản bội.

Chính vì vậy chính sách tối ưu của Việt Nam vẫn là duy trì cần bằng trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Với định hướng đó, trong khi Việt Nam tiếp tục muốn thúc đẩy quan hệ với Mỹ như là một biện pháp nhằm răn đe các hành động hiếu chiến của Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam sẽ cố gắng không đẩy quan hệ với Mỹ đi quá xa làm tổn hại quan hệ với Trung Quốc.

Một khả năng duy nhất có thể khiến Việt Nam vượt quá giới hạn và tạm thời ngả hẳn vào tay Mỹ là khi Trung Quốc có các hành động hiếu chiến chống lại Việt Nam, như xâm lược các đảo hay bãi đá Việt Nam đang nắm giữ ở Trường Sa.

Còn trong thời gian trước mắt, Việt Nam sẽ tiếp tục chính sách cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc. Theo đó, Việt Nam sẽ coi quan hệ với Mỹ và Trung Quốc như là một phần của chiến lược “đa dạng hóa và đa phương hóa” quan hệ đối ngoại nhằm phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong nước của mình mà thôi.

Đây là bản lược dịch một phần trong báo cáo “Vietnam’s strategic trajectory: From internal development to external engagement” do Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI) xuất bản. Tác giả Lê Hồng Hiệp hiện đang là Nghiên cứu sinh Tiến sĩ ngành Khoa học chính trị tại Đại học New Southwales, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/07/120702_viet_china_us_strategy.shtml
2