17/7/12- (The Nation) Báo chí gần đây âm ỉ về tranh chấp Biển Đông, nơi đang trở thành một điểm nóng tiềm năng cho các cuộc xung đột vũ trang và những cú giật chỏ sắc nét (*) trong cuộc ẩu đả giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Nguy cơ gia tăng các cuộc đụng độ vũ trang liên quan đến các tàu hải quân Trung Quốc, Philippines và Việt Nam trong khu vực tranh chấp chắc chắn là đáng lo ngại. Một năm trước, Việt Nam phản đối giận dữ sau khi một tàu tuần tra của Trung Quốc cắt cáp giám sát địa chấn nhiều triệu đô la được sử dụng bởi một tàu thăm dò dầu của Việt Nam trong vùng biển Việt Nam nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền.
Mùa xuân này, một tàu hải quân Philippines và một số tàu Trung Quốc tuần tra thủy sản rơi vào một tình thế bế tắc trong vài tuần tại bãi cạn Scarborough của Philippines trước khi Bắc Kinh và Manila tiến đến một sự thỏa hiệp tạm thời. Tuần trước, một tàu chiến của Trung Quốc bị mắc cạn ở quần đảo Trường Sa đang tranh chấp, gần đảo Palawan của Philippines.
Trong khi đó, trò chơi lớn cũng diễn ra khó khăn trên mặt đất. Khi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton khiến Bắc Kinh bị sốc hai năm trước đây bằng cách tuyên bố rằng Biển Đông là một "lợi ích quan trọng" của Hoa Kỳ, ném trọng lượng của Washington vào các nước đối thủ của Trung Quốc, tình thế căng thẳng trong tranh chấp đã được nâng lên đáng kể.
Washington bước đầu khai thác những sai lầm của Bắc Kinh trong những năm gần đây - chẳng hạn như từ chối đàm phán đa phương và sử dụng quá nhiều chiến thuật mạnh tay - và hậu thuẩn một số nước trong tranh chấp, đặc biệt là Việt Nam và Philippines. Nhìn lại, cú sốc Clinton là bước đi mở đường cho "trục" Mỹ ở Đông Á, một sự định hướng lại tập trung vào an ninh của Mỹ đối với khu vực.
Bên trong Trung Quốc, một sự đồng thuận đã nhanh chóng được hình thành. Trên một mức độ chiến lược rộng lớn hơn, trục Mỹ được nhìn nhận như một động thái thù địch, nếu không phải là một bước rõ ràng hướng tới một chiến lược ngăn chặn rõ ràng hơn. Trong tranh chấp Biển Đông, Bắc Kinh xem sự thay đổi chính sách của Washington là sự can thiệp ngấm ngầm trong một cuộc tranh cãi, trong đó Mỹ không nên tham gia, và cũng là nguyên nhân khiến Việt Nam và Philippines cứng gắn hơn.
Nhưng sau khi hồi phục từ thất bại ngoại giao lớn nhất của mình trong vụ thảm sát Thiên An Môn, chính phủ Trung Quốc dường như đã giải quyết trên một chiến lược truy cập. Trái ngược với mong đợi sẽ có một cách tiếp cận đàm phán linh hoạt hơn, tuyên bố tuân thủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và ký kết một quy tắc ứng xử, Bắc Kinh không chịu nhúc nhích.
Trung Quốc đã lựa chọn một vị trí đàm phán mà dường như ngày càng không đứng vững được và phản tác dụng. Một lý do có thể là Bắc Kinh hiểu rằng nhiều chỉ trích "đường chí chấm", trong đó tuyên bố chủ quyền toàn bộ Biển Ðông là lãnh hải của Trung Quốc, có thể không được hỗ trợ bởi luật pháp quốc tế hiện có.
Ngẫu nhiên, Việt Nam đã thực hiện những tuyên bố mở rộng tương tự như Trung Quốc, nhưng không giống như Bắc Kinh, Hà Nội đã đồng ý đàm phán đa phương và tuân thủ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Hà Nội hiểu rằng đó là một thái độ tích cực kể từ khi Việt Nam kiểm soát khoảng 80% (bãi đá và rạn san hô) quần đảo Trường Sa.
Kiểm soát hiệu quả của Hà Nội sẽ giúp họ có được công nhận pháp lý trong các tuyên bố của mình đến vùng biển xung quanh theo tương phản luật pháp hiện tại. Với quốc tế, Trung Quốc kiểm soát chỉ có sáu đảo và sẽ phải mất đi nhiều nếu đồng ý để giải quyết tranh chấp theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển.
Vì vậy, bản chất của chiến lược của Bắc Kinh là sự chậm trễ và từ chối. Trung Quốc dường như tin tưởng rằng bằng cách kéo dài bế tắc hiện tại, nó sẽ từ chối được chủ quyền các nước khác, chủ yếu là Việt Nam và Philippines, cơ hội để đạt được sự công nhận pháp lý cho các yêu cầu của mình và truy cập vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú trong khu vực tranh chấp.
Trung Quốc muốn giải quyết tranh chấp, nhưng chỉ trên điều kiện riêng của mình mà sẽ chỉ có thể đạt được một khi Trung Quốc không còn đối thủ trong tranh chấp, sự thống trị khu vực và các bên tranh chấp không có sự lựa chọn, đành để Trung Quốc độc chiếm.
Bắc Kinh rõ ràng đã nhận thức được rằng chiến lược của mình, ít nhất trong ngắn hạn, phải chịu một tổn thất ngoại giao khổng lồ. Để bù đắp các tổn thất này, Trung Quốc đã cố gắng để đạt được sự hỗ trợ từ một số quốc gia Đông Nam Á để các bên tranh chấp khác không thể hình thành một liên minh khu vực để cô lập Trung Quốc.
Kể từ khi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), bao gồm tất cả các bên có yêu sách khác, có thể đưa ra quyết định chỉ dựa trên sự đồng thuận, Trung Quốc cần phải làm là đảm bảo rằng một số nước trong các thành viên ASEAN thông cảm với Trung Quốc và từ chối để công bố một lập trường tập thể sẽ làm suy yếu vị trí của Trung Quốc.
Bởi vì Trung Quốc có nguồn tài nguyên kinh tế phong phú để đạt được mục tiêu này, họ có thể đã thành công. Trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN tuần trước tại Campuchia, tổ chức khu vực này không thể để đạt được một tiếng nói chung về tranh chấp Biển Đông, chiến thắng rõ ràng dành cho Bắc Kinh.
Tuy nhiên, chiến lược Trung Quốc không phải không có rủi ro. Vắng mặt một giải pháp ngoại giao, Trung Quốc chỉ có thể mong đợi cuộc đối đầu với Việt Nam và Philippines qua việc đánh bắt cá và thăm dò tài nguyên thiên nhiên để tiếp tục leo thang. Trong trường hợp xấu nhất, va chạm xảy ra có thể trở thành những cuộc đụng độ hải quân.
Với đường lối trỗi dậy hòa bình và ổn định của Trung Quốc, người ta phải tự hỏi liệu Bắc Kinh đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn cuộc khủng hoảng như vậy. Chúng tôi chỉ có thể hy vọng nó có thể.
Tác giả Minxin Pei là một giáo sư tại Trường Cao đẳng Claremont McKenna và một thành viên cao cấp tại Quỹ Marshall Đức của Hoa Kỳ
(*): Đánh giật chỏ, đánh giật cùi chỏ.
Nguồn: The Nation
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét