Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thu vien. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thu vien. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

Những điều ít được biết đến về Tướng Giáp

Vào hôm nay, 13/10/2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp về đến nơi an nghỉ cuối cùng tại quê nhà tỉnh Quảng Bình. Từ lúc ông qua đời đến nay, đã có rất nhiều bài viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Trong khuôn khổ tạp chí đặc biệt hôm nay, RFI Việt ngữ xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Carl Thayer - chuyên gia kỳ cựu về quân sự và chính trị Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales) - về một số yếu tố ít được nói đến, nếu không muốn nói là hoàn toàn vắng bóng - trong tiểu sử chính thức của Đại tướng Giáp.


Tải xuống

 RFI : Cho đến nay, các nhà báo và các nhà bình luận đã nói rất nhiều về cuộc đời của tướng Giáp. Theo quan điểm của Giáo sư, di sản chính của ông Giáp là gì ?

CarleThayer : Sự nghiệp của Tướng Võ Nguyên Giáp trải dài trên 64 năm kể từ năm 1927, khi ông bị trục xuất khỏi trường Quốc Học vì hoạt động chính trị, cho đến năm 1991 khi ông chính thức rời bỏ tất cả các chức vụ trong Đảng và Nhà nước. Sự nghiệp của ông có thể chia thành năm giai đoạn :

- 1927-1944 : Ông còn là một học sinh đấu tranh, nhà báo, một nhà tuyên truyền chính trị, một tù nhân, một giáo viên và một sinh viên sau đại học ;

- 1944-1973 : Ông giữ nhiều chức vụ trong đó có chức chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Ủy viên Bộ Chính trị ;

- 1974-1980 : Ông từ bỏ quyền kiểm soát hoạt động của quân đội và giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Ủy viên Bộ Chính trị ;

- 1980-1991 : Ông thôi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Ủy viên Bộ Chính trị ; trong thời gian này, ông phụ trách khoa học và công nghệ, dân số và kế hoạch hóa gia đình, và sau đó giáo dục ;

- 1991-2013 : Tướng Giáp rời khỏi chức vụ cuối cùng là Phó Thủ tướng chính phủ và nghỉ hưu vĩnh viễn.

Di sản chính của Tướng Giáp xuất phát từ vai trò tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hai (1944-1973). Ông bắt đầu chỉ huy một trung đội 34 người và phát triển lực lượng này thành một đạo quân nhân dân gồm vài trăm ngàn người trong không đầy mười năm. Tướng Giáp đồng thời kết hợp các tác phẩm quân sự của Napoleon, Clausewitz và Mao Trạch Đông với truyền thống quân sự cổ xưa của Việt Nam.

Tướng Giáp nắm vững nghệ thuật chiến tranh nhân dân bằng cách vận động dân chúng để chiến đấu và trở thành nhân công trong mạng lưới hậu cần rộng lớn của ông. Tướng Giáp biết kết hợp đấu tranh chính trị và quân sự. Mục tiêu của ông là đuổi Pháp ra khỏi Việt Nam trong một cuộc chiến tranh trường kỳ.

Chiến công lẫy lừng nhất của ông là chiến dịch dẫn đến sự thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ. Tướng Giáp dùng chiến thuật nghi binh, gửi lực lượng của mình sang Lào và rồi sau đó cấp tốc chuyển hướng tiến đến vùng thung lũng Điện Biên Phủ. Tướng Giáp đã nhanh chóng bác bỏ lời khuyên của các chuyên gia Trung Quốc tung các làn sóng người tấn công vào doanh trại quân Pháp. Ông đã sử dụng chiến thuật bao vây, với lực lượng được tiếp ứng liên tục về mặt hậu cần, cung cấp lương thực, thiết bị vật tư, vũ khí và đạn dược cho chiến trường.

Tầm quan trọng của trận Điện Biên Phủ là nó không chỉ đánh dấu sự thất bại của thực dân Pháp ở Đông Dương, mà cả của chủ nghĩa thực dân như một hệ thống trên toàn thế giới. Trong vòng tám năm sau đó, Pháp sẽ phải chịu thất bại ở Algeri.

Hai tiểu sử : Chính thức và không chính thức

RFI : Giáo sư đánh giá sao về một số « điều được che giấu » về cuộc đời của Tướng Võ Nguyên Giáp, những điều không hề xuất hiện trong tiểu sử chính thức ?

Carl Thayer : Có hai phiên bản về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trước hết là tiểu sử chính thức mang tính chất tôn vinh, gán cho ông tất cả những thành công quân sự của Việt Nam kể từ năm 1944 và miêu tả ông như một viên tướng tài ba hoàn hảo.

Phiên bản thứ hai về sự nghiệp của Tướng Giáp không mang tính chất chính thức và cho thấy rằng ông là một người kiên định – có người cho đây là tính kiêu ngạo về mặt trí thức – một người cá nhân chủ nghĩa dễ nổi giận khi bị can thiệp vào vai trò tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang của ông. Ông được mô tả như là "ngọn núi lửa dưới lớp băng tuyết" chính vì yếu tố được cho là nóng nảy đó.

Tướng Giáp có nhiều người ủng hộ nhưng cũng bị nhiều người gièm pha. Lúc còn công tác, ông thường xuyên đụng chạm với những người gièm pha và các đối thủ của ông, những người không ngần ngại chỉ trích ông. Những người phê phán ông xuất phát từ hai động cơ : Chủ nghĩa giáo điều về mặt ý thức hệ và lòng ghen tị, sợ rằng Tướng Giáp nổi tiếng sẽ làm quyền lực của họ suy yếu. Đấy là thời kỳ lãnh đạo tập thể vô danh.

Trong suốt sự nghiệp của mình, ông Giáp từng bị chỉ trích vì đã tìm kiếm một học bổng của chính quyền thực dân Pháp, có người thậm chí còn hàm ý rằng - nếu không nói là buộc tội ông - là một nhân viên Sở Mật thám Pháp.

Ông cũng bị đả kích vì học chương trình Pháp, có được bằng tú tài baccalauréat, học tại trường Trung học Albert Sarraut có uy tín, nơi ông đứng đầu môn triết học, và Trường Đại học Luật Hà Nội, nơi ông tốt nghiệp thủ khoa về kinh tế chính trị. Đối thủ của Tướng Giáp đã dùng thành tích học tập của ông để quật lại ông. Dẫu sao thì ông thành viên duy nhất trong ban lãnh đạo bên trong (tối cao) của Đảng có được một nền giáo dục phương Tây.

Các yếu tố không được phép nêu lên trong sự nghiệp của Tướng Giáp cho thấy một tập thể lãnh đạo chia rẽ và sự ganh đua rõ ràng giữa các cá nhân. Cuộc đối đầu giữa Tướng Giáp với nhà ý thức hệ Trường Chinh đã thành huyền thoại, tương tự như các cuộc đụng độ sau này của ông với Tướng Nguyễn Chí Thanh và ông Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất của Đảng Cộng sản.

Bất đồng với Trường Chinh về vai trò cố vấn Trung Quốc

Năm 1946, Trường Chinh, đứng thứ hai trong ban lãnh đạo sau Hồ Chí Minh, đã thất bại trong việc ngăn không cho ông Giáp được phong cấp Đại tướng và chức chỉ huy Quân đội Nhân dân. Trường Chinh và Tướng Giáp bất đồng về phạm vi và mức độ mà các cố vấn quân sự Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến chiến lược chiến trường của Việt Nam, và trên quyền của Tướng Giáp được đơn phương bổ nhiệm các trợ lý quan trọng.

Vào năm 1951, Tướng Giáp đã cho mở một cuộc tấn công quá sớm vào các vị trí kiên cố của Pháp ở đồng bằng sông Hồng. Chiến dịch thất bại và Quân đội Nhân dân bị thương vong nặng nề. Tướng Giáp bị buộc phải tự phê bình, cách chức một số phụ tá quan trọng, cho phép thành lập một hệ thống chính trị viên trong quân đội, và chấp nhận các cố vấn quân sự Trung Quốc ở các cấp độ khác nhau trong Quân đội Nhân dân.

Sau khi Chiến tranh Đông Dương đầu tiên (1946-1954) kết thúc Việt Nam bị chia cắt. Mặc dù Tướng Giáp đã có uy tín rất lớn, nhưng những kẻ đả kích ông vẫn tiếp tục thách thức quyền lực của ông và đặt nghi vấn về cách ông điều hành cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Bí thư Thứ nhất của Đảng là Lê Duẩn muốn đẩy mạnh việc lật đổ chính quyền miền Nam, ông Giáp thận trọng hơn và hai người kình chống nhau.

Phe gièm pha Tướng Giáp đã thành công trong việc đề bạt ông Nguyễn Chí Thanh (1959) và sau đó là ông Văn Tiến Dũng (1974) lên cấp Đại tướng. Trước lúc những người này được thăng cấp, chỉ có ông Giáp mang cấp Đại tướng mà thôi. Cả hai vị tướng mới đề bạt về sau, đều đã giành lấy quyền kiểm soát hoạt động chiến tranh trong Nam từ tay của ông Giáp.

Vào năm 1960, Tướng Giáp đã bị đẩy lùi từ hàng thứ tư xuống hàng thứ sáu trong Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba. Chủ trương chung sống hòa bình của lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev vào năm 1960 là điều đã tác hại đến nhiều người trong giới lãnh đạo Việt Nam.

Tướng Giáp, người thiên về phía Liên Xô – nước đã hỗ trợ quân sự cho Việt Nam – và có thái độ phê phán với Trung Quốc, đã không đồng nhịp với các lãnh đạo khác. Một lần nữa, ông đã bị các đồng chí chỉ trích.

Trong năm 1965, khi Hoa Kỳ tung lực lượng chiến đấu vào Việt Nam, Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh ra lệnh tung các đơn vị Quân đội Nhân dân miền Bắc vào cuộc chiến. Nguyễn Chí Thanh là người thiết kế chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 nhưng qua đời vì một cơn đau tim trước khi chiến dịch được thực hiện. Lực lượng Cộng sản miền Nam nằm vùng bị thương vong rất lớn, Tướng Giáp được phuc hồi và uy tín của ông tăng thêm.

Sau cái chết của Hồ Chí Minh vào năm 1969, một bộ ba lãnh đạo mới nổi lên : Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Vào thời điểm đó, Tướng Giáp nắm ba vai trò quan trọng : Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, ông không bao giờ lấy lại được quyền kiểm soát hoạt động của các lực lượng vũ trang. Tướng Giáp đã phản đối cả hai chiến dịch Tết Mậu Thân và chiến dịch Nguyễn Huệ 1972, và ý kiến ông đã bị bác bỏ cả hai lần.

Tháng 4 năm 1972, Tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ và đến tháng 10 năm 1973, ông được trao quyền chỉ huy của cuộc tấn công cuối cùng của cuộc chiến : Chiến dịch Hồ Chí Minh. Điểm đáng chú ý, đó là sự kiện chính một Ủy viên dân sự cao cấp của Bộ Chính trị - ông Lê Đức Thọ - chứ không phải là Tướng Giáp, là người ra chỉ thị cho Quân đội Nhân dân bắt đầu chiến dịch tấn công cuối cùng của mình bằng cách tấn công Ban Mê Thuột ở vùng Cao nguyên.

Sau năm 1975, bị gạt ra bên lề, nhưng vẫn lên tiếng

RFI : Về các hoạt động của ông sau năm 1975, một số người cho rằng ông đã hoàn toàn không còn vai trò gì, nhưng cũng có người thấy rằng người ta gạt được ông ra bên lề, nhưng không hoàn toàn bịt miệng được ông. Ý kiến ​​của Giáo sư như thế nào ?

Carl Thayer : Sau khi Việt Nam thống nhất, Tướng Giáp vẫn làm Bộ trưởng Quốc phòng cho đến năm 1980. Nhưng chính Tướng Văn Tiến Dũng là người chỉ huy quân đội Việt Nam đánh qua Cam Bốt vào cuối năm 1978 và bảo vệ miền Bắc Việt Nam vào tháng Hai - tháng Ba năm 1979 khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam để trả thù.

Rõ ràng ngôi sao của Tướng Giáp vào thời điểm đó lu mờ nhanh chóng. Năm 1976, Tướng Văn Tiến Dũng là người đọc báo cáo quân sự tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ tư, còn Tướng Giáp được phân công nói về các chính sách của Đảng về khoa học và công nghệ. Tướng Giáp cũng không thành công khi phản đối việc giao cho quân đội nhiệm vụ xây dựng đất nước sau chiến tranh. Ông đã phải cúi đầu trước nguyên tắc "tập trung dân chủ" của Đảng và bảo vệ chính sách của Đảng trước công chúng.

Tháng 2 năm 1980, Tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc phòng, nhưng vẫn giữ chức Phó Thủ tướng. Năm 1981, ông thoạt đầu bị giáng cấp từ Phó Thủ tướng thứ nhất xuống làm Phó Thủ tướng thứ ba. Đến tháng Ba năm 1982, Tướng Giáp bị loại ra khỏi Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ năm, nhưng vẫn giữ được chức Ủy viên Trung ương Đảng.

Tướng Võ Nguyên Giáp rất được lòng dân và có hậu thuẫn mạnh mẽ trong Đảng. Vào giữa những năm 1980, những người ủng hộ ông đã thất bại trong việc đưa ông lên thay thế ông Phạm Văn Đồng ở chức Thủ tướng. Cũng có rất nhiều tin đồn về việc những người ủng hộ Tướng Giáp vận động để ông trở thành lãnh đạo Đảng. Sau đó, ông Giáp lần lượt phụ trách vấn đề nhân khẩu học và kế hoạch hóa gia đình, rồi vấn đề giáo dục. Ông rời khỏi chính quyền vào năm 1991 khi về hưu trong tư cách là Phó Thủ tướng.

Rất khó đánh giá về những đóng góp của Tướng Giáp trong giai đoạn này. Việt Nam khi ấy được lãnh đạo tập thể, và cho đến năm 1986 vẫn tiếp tục đi theo mô hình kế hoạch tập trung không thành công của Liên Xô. Điều đáng nêu bật là Tướng Giáp tiếp tục hoạt động trong chính phủ cho đến năm tám mươi tuổi.

Kiên trì bảo vệ chủ quyền Việt Nam trước Trung Quốc

RFI : Có người cho rằng gần đây Tướng Giáp rất lo ngại về sự thao túng của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nhận định này có phần nào đúng hay không ?

Carl Thayer : Sự nghiệp quân sự lâu dài của Tướng Giáp cho thấy rõ là ông sẵn sàng chấp nhận sự giúp đỡ của Trung Quốc và kể cả những tư vấn, nhưng ông vẫn đấu tranh để giữ được sự tự chủ và độc lập trong hành động của Việt Nam.

Tướng Giáp nghiêng về Matxcơva nhiều hơn Bắc Kinh trong thời kỳ chiến tranh, vì sự chi viện quân bị to lớn của Liên Xô cho Việt Nam - bao gồm cả tên lửa phòng không. Mặc dù Liên Xô được cho là đã khuyên Tướng Giáp “thực hiện một vụ Afghanistan” bằng cách tấn công Cam Bốt và lật đổ chế độ Khmer Đỏ được Trung Quốc ủng hộ, Tướng Giáp vẫn chống lại việc can thiệp quân sự trên quy mô lớn.

Khi Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa quan hệ trở lại vào năm 1991, Tướng Giáp đã hoàn toàn nghỉ hưu

Trong những năm tháng nghỉ hưu, Tướng Giáp rất được biết đến với hai lần lên tiếng.

Năm 2004, ông đã viết thư cho Bộ Chính trị phê phán sự can thiệp của tình báo quân đội (Tổng Cục II) vào các công việc nội bộ của Đảng.

Năm 2009, ông thu hút sự chú ý của công luận khi viết ba thư ngỏ gửi tới các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cảnh báo tác động môi trường của dự án khai thác bauxite, do Trung Quốc tài trợ, ở Cao nguyên Trung phần. Ông đề cập đến vấn đề này với lập luận rằng đó là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia.

Sự kiện đó gây ra một dây chuyền cộng hưởng trong dân chúng nói chung, đang ngày càng lo lắng trước sự quyết đoán của Trung Quốc tại Biển Đông.

Vị anh hùng Việt Nam cần khi phải đối mặt với ngoại bang xâm lược

RFI : Giáo sư giải thích thế nào về việc Tướng Giáp được lòng dân đến như vậy ?

Carl Thayer : Tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà chiến lược quân sự tầm cỡ thế giới. Vào năm 1944 - khi ông chỉ huy một trung đội 34 người - ai có thể nghĩ được rằng trong vòng 10 năm, ông đã phát triển lực lượng lên thành một quân đội có hàng trăm ngàn binh sĩ và đánh bại được Pháp, một trong những thế lực quân sự mạnh nhất vào thời điểm đó ? Tướng Giáp đã có được uy phong rất lớn với chiến thắng tại Điện Biên Phủ, một sự kiện đã để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời ông.

Sự được lòng dân của ông dựa trên nhiều nền tảng. Trước tiên, hàng triệu người Việt Nam đã phục vụ trong Quân đội Nhân dân khi Tướng Giáp là Tổng chỉ huy và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông là nguồn cảm hứng của họ. Các cựu chiến binh và gia đình của họ là một thành phần to lớn trong cư dân tại Việt Nam.

Thứ hai, sau Hồ Chí Minh và có thể Phạm Văn Đồng, Tướng Giáp là lãnh đạo quốc gia duy nhất nổi bật bên trên một ban lãnh đạo tập thể mờ nhạt. Ông có sức lôi cuốn, phát biểu lưu loát và truyền cảm hứng cho người dân. Ông là vị anh hùng mà Việt Nam cần có khi phải đối mặt với sự xâm lược của ngoại bang, từ năm 1946 đến 1973 và sau đó, trong những năm 2000, khi Trung Quốc đe dọa chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.

Sau thời gian làm một nhà quân sự, Tướng Giáp đã phụ trách những lãnh vực quan trọng liên quan đến sự phát triển như khoa học và công nghệ, dân số và kế hoạch hóa gia đình và giáo dục. Đó là nền tảng thứ ba của việc ông được lòng dân.

Uy tín Tướng Giáp trong dân chúng còn dựa trên sự thành công của ông trong suốt 64 năm phục vụ Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam và đất nước Việt Nam. Ông sẽ luôn luôn được tưởng nhớ như là người chỉ huy chính, đã đánh bại hai cường quốc lớn.

Rõ ràng, Tướng Giáp đã thu hút được cảm tình của cả hai thế hệ trẻ và già tại Việt Nam. Điều này được thấy qua việc người dân đủ mọi lứa tuổi thể hiện sự đau buồn, tự động đổ xô đến nhà ông để thắp nến và hương.

Tướng Giáp là hiện thân của một chính khách Việt Nam biết sử dụng trí tuệ để đưa ra các chiến thuật và chiến lược cho phép kẻ có vẻ là yếu đánh bại được kẻ mạnh.


Nguồn: RFI
1

Chính sách đối ngoại đu dây của Việt Nam

Tác giả: Dennis C McCornac - Đại học Loyola Maryland

Người dịch: Huỳnh Phan

12-10-2013

Cách tiếp cận chính sách đối ngoại mới của Việt Nam, mà một số nhà phân tích đã gán cho là ‘thêm bạn, bớt thù’, phản ánh vị trí bấp bênh như một con chim trên dây giăng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.


Trong vài tháng qua, các quan chức Việt Nam đã tổ chức một số cuộc họp cấp cao với các nhà lãnh đạo của cả hai nước này. Vào cuối tháng 7, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến Washington để thảo luận về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Tổng thống Barack Obama, làm nổi rõ mối quan hệ đã được cải thiện giữa hai cựu thù theo chiến lược ngày càng chú trọng tới châu Á của Mỹ. Hơn một tháng sau đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và nhắc lại chính sách lâu dài và nhất quán về củng cố và tăng cường quan hệ láng giềng và hợp tác với Trung Quốc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Cơn lốc ngoại giao này là bằng chứng cho thấy Việt Nam mong muốn duy trì mối quan hệ kinh tế và quân sự ổn định và bình thường với cả Trung Quốc và Mỹ, một cái gì đó đặc biệt quan trọng trong điều kiện trước đây Việt Nam đã từng có xung đột với mỗi nước này trong lịch sử, và cũng cho thấy tầm quan trọng của hai nước này đối với mục tiêu của Việt Nam muốn hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam lo lắng về sự trỗi dậy của Bắc Kinh, và chính sách đối ngoại mới của họ là hướng tới việc chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực. Nhưng về mặt ý thức hệ, Việt Nam thấy thoải mái với Trung Quốc hơn với Mỹ. Còn về mặt kinh tế, Trung Quốc là một thị trường lớn, một nguồn giúp đỡ tài chính và một mô hình phát triển. Điều này đã đặt Việt Nam ở một vị trí không dễ chịu. Một quan chức chính phủ Việt Nam đã mô tả Việt Nam như đang đánh đu trên một sợi dây, do Trung Quốc giữ một đầu và Mỹ giữ đầu kia.

Một vấn đề về chính sách đối ngoại tiếp tục gây tai họa cho mối quan hệ Việt – Trung liên quan đến việc cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa. Vấn đề quan trọng nhất đang đe dọa là nước nào có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên trong và dưới các vùng biển xung quanh hai quần đảo này. Mặc dù trữ lượng đã qua kiểm chứng chưa xác định rõ, dự báo lạc quan nhất từ Trung Quốc cho thấy nguồn tài nguyên dầu tiềm năng của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và có thể lên đến 213 tỉ thùng dầu và khu vực này cũng rất giàu khí đốt tự nhiên. Cả hai quốc gia đã dự tính tới khả năng thực hiện hành động quân sự. Nhưng bây giờ, họ đã cam kết đàm phán một cách hòa bình tìm giải pháp bất chấp sức ép của những thành phần dân tộcchủ nghĩa ở cả hai bên vẫn kiên định về các vấn đề chủ quyền.

Căng thẳng kinh tế giữa hai nước cũng có thể phá hỏng mối quan hệ. Một mặt, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, đặc biệt là do nhu cầu vô độ của Trung Quốc về hàng hóa và các nguồn tài nguyên. Duy trì tăng trưởng kinh tế cho một quốc gia gần 1,4 tỉ công dân đòi hỏi một lượng tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, phần lớn trong số đó là phải nhập khẩu. Và vì Trung Quốc lùng sục khắp thế giới xây dựng các mối quan hệ kinh tế để bảo đảm nguồn cung cấp liên tục các mặt hàng như than đá, dầu thô, quặng sắt, nên việc họ tìm chỗ giúp đỡ ngay người láng giền gần gũi cũng là việc đương nhiên.

Mặt khác, các cách biệt giữa hai nước, đặc biệt là về tầm cỡ kinh tế và quyền lực chính trị, có nghĩa là việc mở cửa thị trường không phải là một tình thế win- win đúng nghĩa. Lưu lượng hàng hóa Trung Quốc, cả buôn lậu qua biên giới lẫn nhập khẩu hợp pháp vào thị trường Việt Nam, đã tác động tiêu cực đến sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng của Việt Nam, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Mối quan ngại đặc biệt ở Việt Nam là phần lớn các hàng hoá này đều có chất lượng thấp, nguồn gốc không rõ ràng và có thể chứa các chất độc và các chất có hại khác cho sức khỏe con người. Một số sản phẩm có thể làm ra được tại Việt Nam, nhưng vẫn còn nhập khẩu vì có lợi về giá thành. Sự phụ thuộc vào nhập khẩu Trung Quốc này đã đẩy nhiều doanh nghiệp Việt Nam tới mức báo động và việc Việt Nam nương tựa quá nhiều vào thương mại với Trung Quốc dự kiến là chỉ có tăng lên theo thời gian.

Tuy nhiên, ngoài những va chạm về kinh tế và tranh chấp lãnh thổ, mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam gần đây đã được cải thiện, và tính chất hòa giải các cuộc họp mới đây giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã mở ra một giai đoạn tương đối yên tĩnh. Cả hai nước đều có vẻ mong muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ song phương tốt hơn, và việc cải thiện trong quan hệ Trung- Việt có vẻ không có khả năng gây tổn hại mối quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, bất cứ khi nào Trung Quốc hoặc Mỹ rung sợi dây mạnh bạo hơn, Việt Nam cảm thấy mình đang ở một vị trí bấp bênh hơn, không biết đầu dây nào là điểm tựa an toàn nhất. Nếu chính phủ Việt Nam muốn tiếp tục đứng thẳng thì phải tránh liên kết quá chặt với nước này mà buông lơi mối quan hệ với nước kia.

Việt Nam hiện đang ở một thời điểm tương đối độc đáo trong lịch sử của mình. Đất nước thống nhất, và có đủ tiền đề kinh tế và chính trị để giữ một vai trò quan trọng trong khu vực. Nhưng sự trỗi dậy của tình cảm dân tộc dù ở Trung Quốc hay ở Việt Nam đều có thể báo trước nhiều thời kỳ rắc rối hơn trước mặt. Và như tuyên bố của một nhà ngoại giao Việt Nam, ‘Không ai nói ra một cách công khai, nhưng cái lôi kéo mỗi cuộc họp ở Đông Nam Á bây giờ là nỗi sợ hãi về việc khu vực sẽ như thế nào với sự khống chế của Trung Quốc’.

Dennis C McCornac là Giám đốc về các vấn đề toàn cầu tại Đại học Loyola Maryland. Ông chuyên về kinh tế và có hơn 20 năm kinh nghiệm sống ở Nhật Bản và Việt Nam.

Nguồn: East Asian Forum

Tiếng Việt: http://basam.info/2013/10/13/2065-chinh-sach-doi-ngoai-du-day-cua-viet-nam/
0

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Thời gian ‘chịu đựng’ của Tướng Giáp


Tại Việt Nam sau vài ngày có nhiều bài tập trung vào các chiến tích quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013), nay bắt đầu có các bài viết trên báo chí nói về giai đoạn ông bị thất sủng.

Trên trang PetroTimes, bài mới nhất của Đại tá nhà báo Nguyễn Như Phong thuộc ngành công an nói về “một số năm tháng Đại tướng không được như ý, đặc biệt là giai đoạn Đại tướng được phân công phụ trách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình."

Tác giả nhắc lại rằng "thời ấy, cũng đã có câu vè chua chát về việc này”.
Đại tá Phong còn bình luận:

“Xưa có câu ‘điểu tận cung tàng’ nghĩa là chim hết thì cung bị xếp xó, và vận vào công việc mới của Đại tướng ngày ấy mới thấy đúng làm sao”.

“Lại nữa, vào năm 1984, khi Kỷ niệm 30 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, chẳng hiểu vì lý do gì mà người ta không mời Đại tướng lên Điện Biên dự lễ kỷ niệm,”

“Đại tướng phải lên thăm lại chiến trường xưa và bà con Tây Bắc với tư cách cá nhân. Rồi trong các hội thảo tuyên truyền về Chiến thắng Điện Biên, người ta còn "ngại" không dám nói về vai trò của Đại tướng...”

Nhà báo Nguyễn Như Phong cũng nhắc lại rằng “có một thời kỳ, khu vườn ở 30 Hoàng Diệu nom như vườn hoang, với lá cây rụng đầy, ít người quét dọn và những bức tường cỏ mọc rêu phong”.

Một giai đoạn khác

Các nhà nghiên cứu bên ngoài đã viết nhiều về thời gian quan điểm của Tướng Giáp không được các lãnh đạo toàn quyền như Tổng Bí thư Lê Duẩn, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Lê Đức Thọ chấp nhận.

Nhưng tại Việt Nam, các bài viết chính thống vẫn chỉ nhằm nêu bật các điểm son trong sự nghiệp của ông Giáp.

Nay, một số cây viết bắt đầu nhắc đến những giai đoạn này.

Chẳng hạn, từ tháng 1 năm 1980, Tướng Giáp không còn làm Bộ trưởng Quốc phòng dù vẫn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Nhà văn Nguyễn Quang Vinh mô tả tâm lý người dân quê Tướng Giáp giai đoạn này trên trang giaoduc.net:

“Ngày ông không còn giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng, người Quảng Bình buồn, có người lặn lội ra Hà Nội gặp ông để hỏi cho ra mọi nhẽ “Vì sao Bác lại bị thôi chức?” “Vì sao Bác nghỉ” – “Vì sao Bác không có ý kiến?”. Đó là sự thật.”

“ Và ông mỉm cười hiền từ: "Mình vẫn đang làm việc cho cách mạng đấy chứ. Bác Hồ nói, Dĩ công vi thượng”.

Nhưng các cây bút này cũng nhấn mạnh về tính chịu đựng cao của vị tướng có chiến công lừng lẫy.
Ông Nguyễn Như Phong viết:

“Không thể nói rằng những năm tháng đó đối với Đại tướng là "thoải mái", và càng không thể nói rằng công việc mới mà Đại tướng được giao là vừa ý đối với Người...

“Nhưng tuyệt nhiên không có nửa lời bất đắc chí, không có một lời than thân, trách phận, không có nửa lời trách cứ... Thế mới biết, sức chịu đựng của Đại tướng thật phi thường và đúng là chỉ có bậc Thánh nhân mới chịu được như thế.”

Còn ông Nguyễn Quang Vinh chi sẻ cái nhìn từ góc độ một người Quảng Bình:

“Để làm được thế, như ông, có một chữ NHẪN, nhẫn mà không hạ mình, nhẫn mà không hèn, nhẫn không cho cá nhân mình mà cho cả giang sơn.”

Dù đa số các bài báo vẫn tiếp tục ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, dùng cả từ 'Người' chữ viết Hoa vốn thường dùng cho cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số bài báo cũng nhắc đến các chi tiết 'thật' hơn về Tướng Giáp.

Chẳng hạn như chuyện ông không có tài diễn thuyết như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Lê Trọng Tấn hay ăn nói hấp dẫn kiểu bình dân như Thượng tướng Đinh Đức Thiện.

Bài của tác giả Đỗ Tuyết, cũng trên giaoduc.net có viết:

"Viết đến đây, tôi lại nhớ chuyện vài người viết rằng Cụ không phải người hùng biện. Cụ có thể nói rất sắc sảo, khi cần. Nhưng Cụ đâu có cần thành người hùng biện,"

"Các vị Đại Tướng thực thụ trong lịch sử ít khi giỏi khoa hùng biện. Họ nhường cho người khác cái tài này."

Riêng về giai đoạn gây ra bàn tán trong sự nghiệp của Tướng Giáp là làm Phó Thủ tướng kiêm phụ trách mảng dân số, kế hoạch hóa gia đình, báo Lao Động có đăng bài kể lại lời người thư ký của ông, Đại tá Nguyễn Văn Huyên như sau:

"Sự thực là thế này, thời đó Thủ tướng Chính phủ là anh Phạm Văn Đồng. Trong một buổi họp của Chính phủ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đặt vấn đề 'Trước đây tôi kiêm phụ trách mảng Dân số, kế hoạch hóa gia đình, nay anh Văn phụ trách mảng khoa học kỹ thuật, thì có lẽ anh Văn phụ trách luôn về Dân số - kế hoạch hóa gia đình?'.

“Tất cả chỉ có thế, không có bất kỳ quyết định nào về việc này, không có phân công công tác... Tôi cũng biết sau đó dân đồn um lên, đàm tiếu, chê trách này kia… Tôi nghĩ anh Văn cũng nghe được dù không thấy anh nói gì với tôi,” theo Đại tá Huyên kể lại.

Nguồn: BBC
0

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

Giây phút cuối cùng của Đại tướng tại Viện quân y 108

(VNE- 10/10/13) Khoảnh khắc cuối cùng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên dương gian tại Viện Quân y 108, nơi ông đã điều trị suốt hơn 1.500 ngày, được khắc họa qua lời kể của những y bác sĩ đã trực tiếp chăm sóc ông. Đại tá Nguyễn Văn Nhựa, bác sĩ riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cho biết trước khi đi họp Hội nghị Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã vào thăm Đại tướng vào trưa 4/10 khi ông đã hôn mê. Đại tướng trút hơi thở cuối cùng vào hồi 18h09 cùng ngày. Thời khắc Đại tướng ra đi có đầy đủ Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương, lãnh đạo và các y bác sỹ Bệnh viện 108, gia đình ở bên cạnh. Con trai út của Đại tướng là anh Võ Hồng Nam chia sẻ: "Ba tôi như người đã đi hết quãng đường, như ngọn đèn đã cạn dầu để rồi ra đi một cách nhẹ nhàng. Bên cạnh ông những giây phút cuối có đầy đủ con, cháu và những người thân cận nhất".
Nguồn: VnExpress.
0

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Huyền thoại Võ Nguyên Giáp qua góc nhìn sử học

(RFI-06/10/2013) Đại tướng Võ Nguyên Giáp trút hơi thở cuối cùng chiều ngày thứ Sáu, 04/10/2013. Báo chí trong nước và quốc tế đồng loạt nhắc đến ông như một trong những bậc thầy chiến tranh kiệt xuất của thế kỷ XX, người có vai trò lớn trong việc làm thất bại tham vọng trở lại Đông Dương của đế quốc Pháp và các nỗ lực bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa của Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, sự ra đi của tướng Giáp gây nhiều xúc động.


Một ngày sau khi ông mất, Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam ra quyết định tổ chức quốc tang tướng Giáp trong hai ngày 12 và 13/10, như đòi hỏi của một số cựu tướng lĩnh, dù Võ Nguyên Giáp không nằm trong danh sách các lãnh đạo thuộc hàng tứ trụ. Tại Việt Nam, sự ra đi của tướng Giáp gây nhiều xúc động, cho dù công chúng đều biết việc ông liên tục điều trị tại bệnh viên trung ương quân đội ở Hà Nội từ nhiều năm nay, sự im lặng kéo dài của ông và khả năng sớm muộn ông sẽ ra đi.

Suốt cuộc đời mình, cho đến khi mất, tướng Giáp luôn nhận được một tình cảm đặc biệt từ một bộ phận đông đảo người Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ mang trên mình vầng hào quang của người tổng tư lệnh với những chiến thắng lẫy lừng, còn có một vầng hào quang khác bao phủ hàng chục năm trời kỳ lạ, khi ông nửa bị thất sủng, nửa vẫn được tin dùng.

Võ Nguyên Giáp không chỉ là một nhà quân sự xuất chúng. Trong giai đoạn trước và sau khi nghỉ hưu, ông dành nhiều thời gian để viết hồi ký về chiến tranh và tổng kết lý luận về chiến tranh. Đặc biệt điều mà công chúng rộng rãi ít để ý, đó là việc ông được coi là một trong những người đầu tiên dựng nên « tư tưởng Hồ Chí Minh » (trong những năm đầu thập niên 1990), tên gọi chính thống ở Việt Nam để chỉ hệ thống các nguyên tắc, quan điểm mang tính hành động của người mà ông luôn tự coi mình là một học trò trung thành, vào thời điểm Khối Liên Xô sụp đổ và chế độ cộng sản Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng ý thức hệ nghiêm trọng nhất kể từ khi ra đời. Gần mười năm sau, trong một xuất bản năm 2002 (bài "Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh"), nhà nghiên cứu Lữ Phương đã nhắc đến việc tạo ra khái niệm « tư tưởng Hồ Chí Minh » và đồng thời cũng chỉ trích việc xưng tụng « tư tưởng Hồ Chí Minh ». 

Trong những năm cuối đời, tên tuổi Võ Nguyên Giáp tiếp tục là nguồn động viên đối với nhiều trí thức, nhân sĩ Việt Nam, đặc biệt khi ông viết thư phản đối dự án khai thác bô xít tại Tây Nguyên, do Trung Quốc đầu tư. Phong trào phản đối bô xít quyết liệt, có tiếng nói của ông, sau đó buộc chính quyền phải hủy bỏ một phần kế hoạch, bị đánh giá là hết sức nguy hiểm cho môi trường và an ninh quốc gia.

Nếu như cách đối nhân xử thế, hay nói cách khác « đức độ » trong quan hệ con người của Võ Nguyên Giáp được một bộ phận đông đảo công chúng nhìn nhận, thì vai trò và thái độ của ông đối với tiến trình dân chủ hóa và việc xây dựng một thể chế chính trị thực sự của dân, do dân, vì dân tại Việt Nam, là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Một số người so sánh ông với tướng Trần Độ (1923-2002), người thực sự đứng về phía đổi mới trước hết trong văn nghệ, và sau này chủ trương triệt để đoạn tuyệt với chế độ độc đảng, độc tôn ý thức hệ Mác-Lênin.

Trong giới những người yêu quý và ngưỡng mộ Võ Nguyên Giáp, lan truyền giai thoại cho rằng trong nhà ông có treo chữ « Nhẫn », và nhờ thế, ông sống qua được suốt những năm tháng đầy biến động. Dù điều này bị thư ký của Võ Nguyên Giáp (đại tá Nguyễn Huyên) chính thức phủ nhận, bởi chữ « Nhẫn » có thể được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa tốt là « Kiên nhẫn » và nghĩa xấu « Nhẫn nhục ». Ngay cả cho đến khi qua đời, ắt hẳn nhiều bí ẩn vẫn bao trùm lên hình ảnh vị lão tướng nay đã đi vào lịch sử.

Trong tạp chí đặc biệt của RFI về đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng tôi hân hạnh có cuộc phỏng vấn với nhà sử học Dương Trung Quốc. Sau đây, xin mời quý vị nghe tiếng nói của một người đã có thời gần gũi với tướng Giáp trong tư cách một đồng nghiệp nghề sử.

Toàn bộ phần phỏng vấn với nhà sử học Dương Trung Quốc (Hà Nội)
 
06/10/2013
 
 

RFI : Thưa nhà sử học, vừa rồi chúng tôi chính thức được biết tin đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua đời. Mặc dù mọi người cũng đã chờ đợi, nhưng dẫu sao cũng là bất ngờ. Xin ông cho biết cảm nghĩ của ông trước sự kiện này.

Dương Trung Quốc : Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một nhân vật của lịch sử, mà đối với chúng tôi còn rất gần gũi, là một đồng nghiệp tiêu biểu của giới sử học hiện đại. Ông vừa là người làm nên lịch sử, và là người tổng kết lịch sử. Có thể nói, chính vì thế, đối với chúng tôi, cho dù ở tuổi đã rất thọ, và ai cũng biết rằng một thời gian dài, sức khỏe ông cũng đã rất là yếu, nhưng sự ra đi của ông đương nhiên cũng cảm thấy một sự đột ngột.

Sự ra đi có thể nói của người thuộc thế hệ cuối cùng, mà chúng tôi thường hay gọi là « thế hệ vàng ». Thế hệ sống vào thời điểm rất nhiều thử thách của lịch sử, và đã góp phần tạo ra những bước đi rất dài của lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự đánh giá về cái giai đoạn lịch sử này có thể còn khác nhau, nhưng ai cũng phải thừa nhận rằng, đó là bước đi rất dài của lịch sử, mà trong lịch sử ấy, đương nhiên Võ Nguyên Giáp sẽ là một tên tuổi không thể nào quên.

RFI : Thưa ông, để nói về câu chuyện đại tướng Võ Nguyên Giáp và lịch sử, xin ông cho biết thêm quan điểm của ông về vai trò của đại tướng Giáp đối với lịch sử, cụ thể là của Việt Nam và lịch sử nói chung.

Dương Trung Quốc : Tôi thấy, nếu chúng ta nghiên cứu kỹ, đại tướng Võ Nguyên Giáp không thuộc thế hệ đầu tiên, gắn liền với cái công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Thật ra ông tham gia vào những hoạt động chính trị từ rất sớm, nhưng vẫn thể hiện là một người trí thức đang đi tìm một con đường để đáp ứng một cái cao vọng, là giành lấy độc lập cho dân tộc, như rất nhiều người khác thuộc thế hệ ông ấy.

Nhưng có thể nói ông thực sự trở thành một Nhân vật, vào thời điểm mà lịch sử mà cuộc cách mạng giải phóng Việt Nam gắn liền với những biến cố của thế giới. Đó là khi cuộc chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ, và cơ hội cho dân tộc Việt Nam giành độc lập khỏi chế độ thực dân Pháp và đồng thời cũng chấp dứt chế độ phong kiến. Có thể nói, ở cương vị của một người hoạt động cách mạng sớm được đặt vào vị trí của một nhà lãnh đạo quân sự, mà rõ ràng đối với cuộc cách mạng này, vai trò của lực lượng vũ trang là hết sức quan trọng. Bởi vì, nếu nó có thể thành công nhanh chóng trong việc giành được độc lập dân tộc, thì để bảo vệ nền độc lập ấy, có thể nói người ta chứng kiến những cuộc chiến tranh triền miên, và đương nhiên cái vị thế của một nhà chính trị, nhưng lại giữ cương vị của một người đứng đầu lực lượng vũ trang, luôn luôn có một vai trò quan trọng trong nhận thức về lịch sử của mọi người.

RFI : Thưa ông, đại tướng Võ Nguyên Giáp mặc dù rất cao tuổi, nhưng trong giai đoạn cuối đời, cũng đã có những tham gia, được nhiều người đánh giá là có tính tích cực đối với sự chuyển đổi, hay nói cách khác, sự đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn rất kịch tích ở đầu thế kỷ XXI này. Rất mong được biết nhận định của ông.

Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ ở một góc nhìn hơi nghề nghiệp một chút. Đúng là ông trải qua những thời kỳ, có thể dùng chữ « oanh liệt », nhưng đồng thời cũng trải qua những thử thách rất là to lớn. Điều này thường xẩy ra trong những bước thăng trầm của lịch sử, đặc biệt ở những nhân vật đã từng có vai trò quan trọng ở những bước chuyển đổi. Nhưng có lẽ hơn nhiều người, là ông đã dành được khá nhiều thời gian để làm được việc tổng kết lịch sử, với tư cách là nhà lịch sử, một cái nghề mà ông đã xác định được ngay từ khi còn trẻ. Có thể nói rất ít chính khách lớn nào, mà có thể dành được thời gian tổng kết và đã viết nhiều pho sử, theo đúng nghĩa đen của chữ.

Chúng tôi thường hay khái quát, không biết có chính xác hay không, là hình như những người « không thành đạt trọn vẹn » trên con đường chính trị, thì lại thường là những người có đóng góp to lớn về tổng kết lịch sử, như một Đào Duy Anh, như một Trần Văn Giàu, như một Trần Huy Liệu chẳng hạn. Tôi cho rằng, trong cái rủi cũng có cái may. Vì thế mà đến nay chúng ta còn có được trong tay nhiều tác phẩm ông để lại. Tôi cho đó là cái đóng góp rất lớn của ông đối với lịch sử.

Và có lẽ một lợi thế khác, mà trời cho, là ông có được một tuổi thọ rất cao. Cho nên là chính vì thế mà ông không những có mặt trong những thời kỳ chiến tranh cách mạng, mà ngay trong quá trình chuyển đổi rất cơ bản, thì ông cũng có cơ hội được tham gia. Và trong chừng mực nào đó, ta hiểu là có những đối thủ chính trị, thì hầu như những đối thủ đó đã qua đời trước ông. Vì thế tôi cho là đấy cũng là một ngẫu nhiên của lịch sử, mà nó tạo cho một Võ Nguyên Giáp có một tuổi thọ, nhưng đồng thời có cả những độ dài, độ chín muồi trong những đóng góp của ông về lịch sử dân tộc Việt Nam và việc tổng kết lịch sử Việt Nam.

RFI : Vừa rồi ông có nói đến đại tướng có "sự không thành đạt" nhất định trong cuộc đời mình. Xin ông cho biết thêm về ý này.

Dương Trung Quốc : Tôi muốn hiểu sự thành đạt hiểu theo nghĩa thông thường, hiểu theo nghĩa thăng tiến trong vị trí chính trị - xã hội. Chắc ai cũng biết rằng, sau khi ông ấy đã có mặt ở trong những giai đoạn lịch sử hết sức quan trọng, mà sau đó ông cũng ở những thời điểm, mà rõ ràng ông đã ở trong những vị trí rất khiêm tốn trong hệ thống chính trị ấy. Nhưng ông đã biết cách sử dụng cái thời gian, cái hoàn cảnh để tiếp tục cống hiến cho xã hội, cho đời sống, bằng chính những hoàn cảnh của mình. Và tôi cho rằng đấy là bài học rất rõ, ít nhất là đối với các chính khách ở Việt Nam. Bởi vì khi tôi nhắc đến câu chuyện của Trần Huy Liệu, Đào Duy Anh hay là của Trần Văn Giàu chẳng hạn, thì chắc chắn nếu như những con người ấy thành đạt trong chính trị, thì thứ nhất, đơn giản là họ không có thời gian để làm cái tổng kết và có thể họ cảm thấy lịch sử chỉ là cái gì thuận chiều, mà không thấy cái khắc nghiệt, và cái « quy luật » của lịch sử. Vì thế thường là tổng kết của họ sâu sắc hơn những người thành đạt, hiểu theo nghĩa là (chính trị) chính thống.

RFI : Thưa ông, với những người không chuyên, những người hiểu biết ít về lịch sử, đặc biệt là thế hệ trẻ, về những « tổng kết » về lịch sử mà đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thực hiện, xin ông cho biết một đôi tác phẩm, mà theo ông là có dấu ấn.

Dương Trung Quốc : Thứ nhất, với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, có mặt trong những giai đoạn lịch sứ lớn, có thể nói ông là một trong những người sớm có ý thức tổng kết lịch sử ấy bằng chính trải nghiệm cuộc đời của mình, dưới hình thức những hồi ức đi suốt gần như tất cả các giai đoạn, từ khi ông tham gia vào các hoạt động chính trị ở Việt Nam. Và có thể nói điều đó rất hiếm có trong các chính khách lớn ở Việt Nam. Cái thứ hai là, với tư cách những người cầm quân, ông đã viết nhiều, đặc biệt là « chiến tranh nhân dân », « chiến tranh du kích », có thể nói đấy là những nét độc đáo, đặc trưng, không những đóng góp cho lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, mà đánh giá của những nhà lịch sử chiến tranh trên thế giới (về điểm này) rất cao. Đương nhiên, đây là cuộc chiến tranh chung của cả một dân tộc, hay là của một đảng cách mạng, đảng chính trị.

RFI : Thưa ông, ông nói phần cuối đời, mặc dù tuổi cao, nhưng tướng Giáp vẫn có một số đóng góp nhất định. Vậy xin ông cho biết cụ thể những đóng góp về những lĩnh vực nào ?

Dương Trung Quốc : Có thể có một may mắn, là năm 1988, khi Hội sử chúng tôi được phục hồi, ông cũng là Chủ tịch danh dự của Hội sử học Việt Nam. Nhờ đó, mà chúng tôi có nhiều cơ hội được gần gũi ông. Trước hết là trong những công việc liên quan đến lịch sử, đến giáo dục, đến truyền thống… Nhưng qua đó cũng thấy được tính chất tổ chức, cũng như tính chất trách nhiệm rất lớn của ông, không bỏ qua những vấn đề của đời sống và sẵn sàng góp tiếng nói của mình vào tiếng nói chung, như là một sự « phản biện » xã hội của một người có cả một bề dày lịch sử và một uy tín xã hội rất lớn. Tôi lấy ví dụ như, từ cái chủ trương xây nhà Quốc hội mới (năm 2007) chẳng hạn, hay liên quan đến những công trình lớn, chủ trương lớn, như thủy điện Sơn La (khởi công 2005, hoàn thành 2012, công suất 2400 MW, nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam). Ông bàn rất kỹ về vấn đề cao độ của đập, với phân tích của một nhà quân sự. Hay những việc liên quan đến chủ trương khai thác bô xít ở Tây Nguyên (với đầu tư của Trung Quốc, gây một làn sóng phản đối dữ dội tại Việt Nam từ năm 2009).

Ông luôn luôn đứng ở vị thế của một người có tinh thần trách nhiệm, với tất cả trải nghiệm và uy tín của mình, thẳng thắn nêu ra những quan điểm của ông. Nhưng tôi nghĩ ông là con người hết sức "có ý thức tổ chức", và ông làm đúng công việc mình cần phải làm, và tạo ra một dư luận xã hội đồng thuận cao. Còn tất nhiên, kết quả chúng ta đều biết rồi, cũng chỉ giới hạn là một tiếng nói thức tỉnh thôi.

RFI : Trở lại với câu chuyện « thế hệ vàng » mà ông vừa nói, thì đại tướng Võ Nguyên Giáp là người cuối cùng hay một trong những người cuối cùng của thế hệ này ?

Dương Trung Quốc : Chắc chắn đứng về mặt tuổi tác (so với những người thuộc) thế hệ cùng thời, thì có thể nói ông là người cuối cùng. Hơn một trăm linh ba tuổi thì khó có ai theo kịp về mặt sinh học thôi. Đối với những người thanh danh trong lịch sử thuộc thế hệ như ông, thì càng hiếm. Nên tôi nghĩ là người cuối cùng thì cũng không sai.

RFI : Thưa ông, có một câu hỏi nữa là : Thế hệ các trí thức và chính trị gia gọi là « thế hệ vàng » này có sự tiếp nối hay không, hay là có một sự hụt hẫng ?

Dương Trung Quốc : Khi chúng ta nói đến thế hệ vàng, thì không chỉ nói về các chính khách. Có thể nói là một thế hệ có một hoàn cảnh lịch sử chung, đó là họ đã tiếp nhận được, và vẫn còn giữ được những giá trị của nền quốc học cổ điển, cho dù đầu thế kỷ XX đã mai một rồi, đồng thời lại tiếp nhận được cả một nền văn minh phương Tây, cho dù đó là thời kỳ thuộc địa. Và cộng với đó là một khao khát cho mục tiêu dành độc lập, cũng như vươn tới những giá trị về dân chủ. Chính vì thế, chúng ta thấy xuất hiện, nẩy nở, không chỉ trong lĩnh vực chính trị, kiểu như đại tướng Võ Nguyên Giáp, hay như các chính khách cùng thời. Mà tôi thấy ngay trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, chúng ta cũng thấy cũng có một thế hệ, mà những thế hệ sau này gần như không còn được những phẩm chất ấy nữa. Tôi nói đây không phải là so sánh hơn kém, mà là hoàn cảnh lịch sử khi đó. Và sự kế thừa tôi nghĩ là có phần nào đó bị đứt đoạn.

RFI : Có liên quan đến thế hệ những nhân vật xuất sắc của thế hệ trước, mà vẫn còn sống, như giáo sư Hoàng Tụy chẳng hạn, không phải là người cao tuổi như đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhưng là người có nhiều đóng góp trước kia trong giáo dục, và bây giờ tiếp tục chủ trương trong việc chấn hưng giáo dục. Những con người đó có thể gọi là những người tiếp nối « thế hệ vàng » hay không ?

Dương Trung Quốc : Đương nhiên tôi nói sự đứt đoạn này là do những hoàn cảnh lịch sử tạo ra, do những bước ngoặt lịch sử. Thí dụ như từng thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, với mục tiêu dành độc lập dân tộc, cho đến thời kỳ xây dựng một xã hội được gọi là mới, nhưng phải nói là vẫn còn đầy những dấu hỏi, như hiện nay. Một sự tìm tòi. Sự tìm tòi có thể là cần thiết, nhưng mà rõ ràng có những yếu tố mà tạo nên sự hụt hẫng. Vì thế mà, không phải tự nhiên ta thấy dường như thế hệ như giáo sư Hoàng Tụy đã cố gắng vượt qua cái đó. Và thường ông là tiếng nói "phản biện" nhiều hơn là tiếng nói đồng thuận với "sự phát triển" hiện nay.

RFI : Tức là ông muốn nói đến là thế hệ tiếp nối đó, thì cũng phần nào tiếp tục được của cái thời trước, ý ông có phải thế không ạ ?

Dương Trung Quốc : Tôi hoàn toàn nghĩ như thế. Vì cái động lực lớn nhất của cái thời kỳ mà lịch sử đã chứng minh là tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước. Còn bây giờ, rõ ràng có rất nhiều động lực mới, mục tiêu mới, có thể nó chưa tạo được niềm tin, chưa tạo được sự đồng thuận. Tôi nghĩ sự phản biện của những người như giáo sư Hoàng Tụy, vào những vấn đề rất cụ thể của đời sống, đương nhiên là những vấn đề rất quan trọng, vấn đề giáo dục. Tôi cho là tiếng nói của sự kế thừa.

RFI : Thưa nhà sử học, có một vấn đề mà các nhà nghiên cứu cũng nói nhiều, nhưng mà công chúng cũng có thể ít người để ý đến, tức là vai trò của đại tướng Võ Nguyên Giáp trong việc nghiên cứu và phục dựng, điều mà sau này vẫn gọi là « tư tưởng Hồ Chí Minh ». Cuối những năm 1980, đầu 1990, có một số người cho rằng ông là người đầu tiên làm việc này. Xin ông cho biết cụ thể về việc này.

Dương Trung Quốc : Tôi có may mắn là lần đầu được tiếp xúc trực tiếp với đại tướng, thì ngoài mối quan hệ trong hội Sử ra, thì lúc đó tôi là phó viện trưởng Viện Sử học Việt Nam. Lúc đó, đại tướng có một chuyến đi sang Ấn Độ. Và theo tôi nhận thức, thì chính bài phát biểu tại Ấn Độ có thể là bài sớm nhất và hết sức sâu sắc về tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực ra tôi cũng chỉ đóng góp vào khâu chuẩn bị về mặt tư liệu, với tư cách là ở Viện Sử học mà thôi. Nhưng tôi thấy đại tướng rất là quan tâm đến bài viết này. Và sau này chúng tôi nhớ rằng, bài viết này được đăng tải và theo nhận thức của chúng tôi, đó là bài viết đầu tiên khởi động cho việc nghiên cứu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là thời điểm khoảng đầu năm 1990, lúc đó ông còn ở cương vị phó thủ tướng.

RFI : Cũng nhân câu chuyện này, về việc khôi phục tư tưởng Hồ Chí Minh, thì sau đó dường như "Cương lĩnh" của đảng Cộng sản Việt Nam (1991) lấy đó làm tư tưởng chính thức, và sau đó, 10 năm sau, thì trở thành một môn học trong nhà trường.

Dương Trung Quốc : Ta nhớ rằng, đó là thời điểm mà lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội đang khủng hoảng, với sự sụp đổ từng bước của các nước Đông Âu, và sau đó là Liên Xô. Cho nên cái việc ra đời của cái « tư tưởng Hồ Chí Minh », tôi nghĩ cũng là một giải pháp để điều chỉnh lại những quan điểm liên quan đến lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Bởi vì đại tướng Võ Nguyên Giáp có vai trò rất lớn trong chuyện này, xin ông cho một đôi nét về cái hệ quả của chuyện này đến đường lối chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm về sau.

Tôi nghĩ, nếu ra đặt vấn đề, nó như là sự khởi đầu, thì ta thấy không ngạc nhiên, khi cái người đặt nền tảng xây dựng cho nó chính là Võ Nguyên Giáp. Cho đến bay giờ, trong người dân, cũng như đánh giá chính thức của Nhà nước, vẫn cho ông là người học trò trung thành nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tất cả những giai đoạn lịch sử và những biến cố quan trọng nhất. Vì thế tôi nghĩ rằng, việc mà tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành trong thời kỳ, mà sự khủng hoảng của lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội, chính là điều chỉnh lại đường lối của cách mạng Việt Nam. Nó vẫn không từ bỏ con đường chủ nghĩa xã hội, nhưng nó muốn tìm lại những giá trị, trong đó có cả những giá trị truyền thống… và rõ ràng là nó góp phần làm cho người dân có thể giải thích được những cái thất bại của « học thuyết xã hội chủ nghĩa » (của khối Liên Xô cộng sản) trên thế giới, đang diễn ra vào thời điểm đó, như là những sai lầm mà Việt Nam muốn tiếp tục con đường ấy, thì tự phải điều chỉnh mình và tìm lại những giá trị của chính mình.

RFI : Sau này, sau khi « tư tưởng Hồ Chí Minh » được khẳng định, và trở thành một môn học, thì cái ý thức hệ theo kiểu cực đoan « Xít-ta-lin » như người ta gọi hồi xưa, thì bị loại bỏ dần dần ra khỏi ý thức hệ chính thống, về mặt lý thuyết ?

Dương Trung Quốc : Cái điều chỉnh quan trọng nhất, chính là nhận thức về thực tiễn Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều nhớ rằng, năm 1924, khi Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sang nước Nga nghiên cứu về học thuyết Mác-Lênin, thì có một tài liệu lưu trữ mà các nhà nghiên cứu đảng Cộng sản Pháp cũng phát hiện, và hiện nay nằm trong "Toàn tập Hồ Chí Minh". Đó là bản "báo cáo về Bắc Kỳ và Trung Kỳ" năm 1924. Có thể nói là ngay từ thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc có quan điểm là cần nhìn vào thực tế Phương Đông nói chung, và thực tế Việt Nam nói riêng, để khắc phục những yếu tố xa thực tế trong đường lối chính trị của Quốc tế Cộng sản lúc đó, về quan niệm đấu tranh giai cấp. Tôi nhớ rất rõ là trong văn bản ấy, Nguyễn Ái Quốc nói là cần phải nhìn nhận thực tiễn của Việt Nam, Việt Nam không phải là Châu Âu, thời điểm đó không phải là thế kỷ thứ 18, khi học thuyết của Mác hình thành. Bởi vậy, cho nên đấu tranh giai cấp hình như nó chưa thích hợp với thực tiễn của Việt Nam, và điều đó nó thể hiện rất rõ ở cả hai chiều hướng, ở trong những sai lầm của đảng Cộng sản Đông Dương, khi mà đặt đấu tranh giai cấp như hòn đá tảng, thì chính cái đó dẫn đến thất bại trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Và nếu nhìn vào cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, thì rõ ràng là tư tưởng của Hồ Chí Minh muốn nhìn Việt Nam trong hoàn cảnh của nó, dưới ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, chứ không phải là/thay vì đấu tranh giai cấp. Đã có những thành công rất rõ rệt trong thời kỳ Cách mạng tháng 8.

Tiếc rằng sau này, do nhiều tác động, thì gần như là những quan điểm ấy, có những lúc phải lùi bước trước những khuynh hướng tả khuynh trong phong trào cộng sản quốc tế nói chung, và ngay trong đường lối cách mạng Việt Nam nói riêng. Vì thế tôi cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhận thức lại thực tiễn của Việt Nam, và chấp nhận những giá trị mang tính chất truyền thống, và đây chính là vấn đề dân tộc.

RFI : Có một câu hỏi cuối cùng, nếu được ông cho phép. Trong cuộc đời của đại tướng Võ Nguyên Giáp, mọi người đều rất quan tâm đến giai đoạn lịch sử mà ông nói là thăng trầm, kéo dài tới hai ba mươi năm (từ những năm 1960 đến những năm 1990). Thì theo ông, câu chuyện này có thể trở thành một đề tài nghiên cứu lịch sử (của những nhà khoa học Việt Nam) được không ? Ở Việt Nam, dường như là giới sử học ít có thể làm việc được về điều này ?

Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ là bản thân mỗi một nhân vật lịch sử hay một hiện tượng lịch sử là cả một nhận thức, nó cũng phản ánh phần nào cái nhu cầu của đời sống chính trị, đời sống văn hóa của xã hội đương thời. Cho dù nó có thể xuất hiện trên những phương tiện thông tin đại chúng, hay là trong các cuộc sinh hoạt sử học hay không, thì tôi nghĩ nó vẫn tồn tại như một vấn đề, mà thực ra nghiên cứu về những sự kiện đó, nó không chỉ liên quan đến cá nhân một con người mà nó cũng phản ảnh những đặc trưng của một thời kỳ lịch sử, mà chắc là quốc gia nào, hay lịch sử của dân tộc nào cũng có những cái tương tự như vậy.

Riêng đối với tướng Võ Nguyên Giáp, thì tôi nghĩ là, chính thời gian ủng hộ ông. Không những ông được sống thọ hơn nhiều người khác, mà điều quan trọng hơn là cùng với thời gian là, gần như là, cái uy tín của ông ngày càng cao. Ngày càng cao, không chỉ bằng những đóng góp trong quá khứ, mà tôi nghĩ ngay là những gì ông đóng góp, khi ông đã ở tuổi rất cao rồi. Việc này càng khẳng định điều đó, nó tạo ra một cái vị thế của ông trong đời sống xã hội, đời sống tinh thần. Nói cách khác, có thể thấy ông không phải là người thành đạt, đạt tới cái đỉnh cao quyền lực, nhưng mà rõ ràng ông đã đạt tới đỉnh cao về mặt uy tín, và nhất là cái lòng người. Tôi nghĩ đấy là cũng là một hiện tượng xã hội, mà sau này cũng đáng để nghiên cứu.

RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà sử học Dương Trung Quốc đã dành thời gian cho tạp chí đặc biệt về đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Tin bài liên quan

Tin về Tướng Giáp : Internet qua mặt báo chí chính thức Việt Nam

Tướng Võ Nguyên Giáp: Từ nguyên khí đến vĩnh hằng

Tang lễ Đại tướng Võ Nguyên Giáp gây bối rối cho chính quyền

Kỷ niệm với Tướng Giáp trong thời ''sửa sai'' Cải cách ruộng đất

Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời

Võ Nguyên Giáp : Một nhà sử học thẳng thắn

Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu ngừng dự án khai thác bauxite tại Tây Nguyên

Tại Việt Nam, ưu tư hàng đầu của tướng Võ Nguyên Giáp vẫn là an ninh quốc gia

Công luận thế giới tiếp tục quan tâm đến cuộc chiến chống bauxite của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp

“Triết học Mác-Lê”, “Tư tưởng Hồ Chí Minh”: Môn bắt buộc ở đại học?

Stalin là lãnh tụ tài ba hay bạo chúa khát máu ?

Tại Việt Nam, « Sách giáo khoa hiện nay làm học sinh không tin cậy vào môn lịch sử »

Lễ hội đền Trần : Hào quang quá khứ, lo âu hiện tại

0

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

Trữ lượng dầu khí ở Biển Đông và thực trạng khai thác – cơ hội hay thách thức?

(NCBĐ-27/9/2013) Hoạt động khai thác và sản xuất ngoài khơi (offshore E&P) ở Biển Đông đang phát triển, nhờ vào tiềm năng dầu khí ở các vùng biển sâu trong khu vực và nhu cầu năng lượng tăng cao của Châu Á. Tuy nhiên, Biển Đông cũng mang lại nhiều thách thức chủ yếu dưới dạng các tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc, Việt Nam và Philippin.

Trữ lượng dầu khí ở Biển Đông (đã xác định và tiềm năng), tính theo triệu thùng quy dầu (Mmboe).

Nguồn: Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA)

Sự tăng trưởng kinh tế của Châu Á thúc đẩy nhu cầu phát triển sản xuất dầu khí ở Biển Đông. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ dự báo nhu cầu nhiên liệu hóa lỏng và khí hàng năm của khu vực sẽ tăng lần lượt là 2,6%/năm và 3,9%/năm trong thập kỷ tới. Đặc biệt là Trung Quốc, với mục tiêu tăng mạnh lượng tiêu thụ khí tự nhiên trước năm 2020, coi Biển Đông, là khu vực trọng tâm, nơi có nhiều tiềm năng trong việc tìm ra các mỏ khí mới.

Hầu hết các hoạt động dầu khí ngoài khơi ở Biển Đông diễn ra gần bờ, tuy nhiên Trung Quốc đang dần dần di chuyển ra những vùng nước sâu hơn, đặc biệt là khu vực lưu vực cửa sông Châu Giang (Pearl River Mouth). Tuy vậy, tiềm năng để phát triển hơn nữa các hoạt động khai thác biển sâu của khu vực đã bị đẩy lên cao bởi các tranh chấp biên giới nêu trên.

Các khu vực chính nằm trong khu vực tranh chấp gồm có Quần đảo Trường Sa (tổng diện tích đất khoảng xấp xỉ 3 dặm2/7,8 km2) và một nhóm các đảo nhỏ bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa, đảo Đông Sa và Bãi cạn Scarborough. Các yêu sách của Trung Quốc đối với những hòn đảo này dựa trên các chuyến thám hiểm lịch sử và một bản đồ chính thức có in đường đứt khúc chín đoạn được xuất bản vào năm 1947. Việt Nam cũng có yêu sách với Quần đảo Hoàng Sa và Trưởng Sa, và vào năm 1956, Philippin đã yêu sách Bãi cạn Scarborough và một phần của quần đảo Trường Sa.

Sản lượng hiện tại

Hầu hết các hoạt động xa bờ đều nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia. CNOOC là tập đoàn dầu khí của Trung Quốc có hoạt động mạnh nhất trong khu vực Biển Đông và tập đoàn này đang hợp tác với Husky ở mỏ khí Liwan (Liwan gas field) với trữ lượng đã được xác định và tiềm năng vào khoảng 4-6 tỷ feet khối.

Việc các mỏ trong nước như Duri và Minas đang dần cạn kiệt, tập đoàn dầu khí PT Pertamina của Indonesia đang hy vọng gia tăng sản lượng dựa vào những hợp đồng mới ở Biển Đông. Những hợp đồng đó bao gồm lô D-Alpha của Natuna và các lô trong bể Nam Côn Sơn của Việt Nam.

Bể Palawan là nguồn chính cho nhu cầu khí nội địa của Philippin. Dàn khoan Malampaya hoạt động trong khu vực này được điều hành bởi Shell trong một hợp tác với Chevron và Tập đoàn Dầu mỏ Quốc gia Philippin.

Mỏ dầu lớn nhất của Thái Lan là mỏ Benjamas của Chevron ở phía bắc của bể Pattani. Đồng thời, bể này cũng là nơi có sản lượng khí lớn nhất của Thái Lan tại Bongkot cùng với Tập đoàn BG.

PetroVietnam đã hợp tác với một số công ty nước ngoài để phát triển những mở ngoài khơi. Chevron hiện đang thực hiện các hợp đồng lớn ở bể Cửu Long và bể Phú Khánh. Những nhà đầu tư lớn khác gồm có Eni, ConocoPhillips, và Perenco – một công ty tư nhân của Pháp.

Singapore cũng đặt mục tiêu tham gia vào Biển Đông và đã nhận được quyền thăm dò các lô ở Vịnh Thái Lan, bể Cửa Sông Châu Giang (Pearl River Mouth), và ngoài khơi Indonesia.

Mỏ dầu khí lớn nhất của Brunei là mỏ Champion, trong khi đó, mỏ Tây Nam Ampa đóng góp phần lớn tổng sản lượng khí của nước này.

Nhu cầu năng lượng của Trung Quốc

Hiện tại, các hoạt động khai thác ngoài khơi của Trung Quốc đóng góp 15% cho tổng sản lượng dầu khí của nước này. Tuy nhiên, theo Paul Aston ở Holman Fenwick Willan Singapore, Trung Quốc tỏ ra cứng rắn đối với Biển Đông vì trữ lượng dầu khí trên cạn của nước này đang bắt đầu cạn kiệt. Một phần ba trữ lượng hiện tại của nước này là ở ngoài khơi, và trong đó, 33% là ở khu vực Biển Đông và hầu hết là nằm trong khu vực nước sâu. Aston vừa mới trở về Singapore sau bốn năm ở Thượng Hải. Ông này cho rằng sự phụ thuộc của Trung Quốc vào dầu mỏ nước ngoài tăng 56,3% trong năm ngoái, và phụ thuộc của nước này vào khí tự nhiên nhập khẩu tăng 21,5%. Aston nhận định thêm: Trung Quốc sẽ tiếp tục là một nhà nhập khẩu lớn, dù có hay không có Biển Đông. Tính đến năm 2030, nhu cầu cho nhiên liệu hóa lỏng của Trung Quốc sẽ tăng 70%, và nước này được dự báo sẽ nhập khẩu 75% lượng nhiên liệu đó.

 “Trung Quốc không phải chỉ quan tâm đến Biển Đông. Họ muốn trở thành một người chơi chính trong các hoạt động ngoài khơi,” Aston nói thêm. “Họ đang cạnh tranh với Keppel, Jurong và Daewoo để trở thành một nhà thầu xây dựng dàn khoan lớn, không phải chỉ đối với các tập đoàn của Trung Quốc mà với tất cả các công ty trên thế giới. Có nhiều quan điểm cho rằng Trung Quốc luôn có vấn đề về chất lượng nhưng 20 năm trước người ta cũng đã nói rằng người Hàn Quốc không thể đóng tàu LNG, và bây giờ họ đang đóng tới 85% loại tàu này. Trung Quốc đang xây dựng các dàn khoan. Họ đang đóng các loại tàu chuyên chở hạng nặng, tàu lắp ống dẫn và các loại tàu hỗ trợ lặn – mọi thứ cần thiết để vận hành như một nhà thầu EPC nhằm cạnh tranh với các tập đoàn như McDermott, SapuraClough, và Technip.”

 

Đường chín đoạn là đường Trung Quốc sử dụng để phân định yêu sách lãnh thổ và vùng biển ở Biển Đông

Nguồn: Viện Nghiên cứu Quốc tế Chiến lược Anh (IISS)

 

Theo nhà phân tích người Mỹ Gabe Collins thuộc China Signpost, Trung Quốc hiện chưa thể bắt kịp được với trình độ chuyên môn trong hoạt động ở vùng biển sâu của các tập đoàn dầu khí lớn phương Tây. Ông này cũng dự đoán rằng Trung Quốc sẽ mời các đối tác nước ngoài vào để giúp phát triển nguồn tài nguyên biển sâu của khu vực, và những tập đoàn dầu mỏ lớn với nhiều lợi ích ở Trung Quốc sẽ ít có khả năng hợp tác với các nước khác chẳng hạn như Việt Nam để phát triển ở các mỏ đang tranh chấp nếu điều đó làm hỏng quan hệ giữa họ với Trung Quốc. Tuy nhiên, ông này cũng nhận định rằng, hoạt động ở những khu vực có tranh chấp là bản chất của nền công nghiệp dầu khí. “Hãy nghĩ đến những nơi như Iraq,” ông ấy nói. “Hay những khu vực như Nigeria hay Nam Sudan. Các tập đoàn dầu mỏ sẽ chấp nhận đi vào cả những môi trường có nhiều xung đột nếu họ tin rằng ở đó có dầu mỏ.”

Các ước tính về trữ lượng

EIA ước tính có khoảng xấp xỉ 11 tỉ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên đã được xác định và có tiềm năng trong khu vực trải dài từ Singapore và eo biển Malacca đến eo biển Đài Loan. Hầu hết các mỏ hydrocarbon đều nằm ngoài khu vực tranh chấp.

Tuy nhiên, EIA thừa nhận rằng việc đưa ra một ước tính chính xác là rất khó vì khu vực này hiện chưa được thực hiện thăm dò đầy đủ và vì tình trạng tranh chấp lãnh thổ kéo dài ở đây. Khu vực tranh chấp ở Quần đảo Trường Sa gần như không có trữ lượng dầu mỏ xác định hoặc tiềm năng và có nguồn tin cho rằng khu vực này chỉ có khoảng gần 100 tỷ feet khối khí tự nhiên.

Tuy nhiên, một phân tích vào năm 2010 của Cơ quan Khảo sát Địa chấn Mỹ đưa ra ước tính có khoảng 0,8-5,4 tỷ thùng dầu và khoảng 7,6-55,1 nghìn tỉ feet khối khí tự nhiên nằm trong lượng tài nguyên chưa được phát hiện.

Khu vực Quần đảo Hoàng Sa tranh chấp không cho thấy dấu hiệu nào của các mỏ dầu khí lớn truyền thống , và bằng chứng địa chất cho thấy khu vực này cũng không có tiềm năng đáng kể. Tuy vậy, khu vực này lại có thể có một nguồn tài nguyên băng cháy lớn.

Børre Gunnerud, cộng tác viên ở Wikborg, Rein & Co., nhận định rằng, giống như những ước tính về trữ lượng ở phía Bắc Biển Đông, ước tính khoảng 10 nghìn tỉ feet khối khí tự nhiên trong vùng biển tranh chấp rộng 27.000 km2 (10.425 dặm2) giữa Thái Lan và Campuchia nên được xem xét cẩn thận. Gunnerud đã làm cố vấn cho Cơ quan Dầu khí Quốc gia Campuchia (CNPA) trong nhiều năm về khu vực yêu sách chồng lấn ở Vịnh Thái Lan.

 “Có rất ít thông tin,” bà nói. “Các con số đều chỉ mang tính phác họa.”

Địa chất vùng này bị phân mảnh rất nhiều và tỷ lệ phục hồi thành công có thể chỉ ở mức 10%.

Cơ quan Khảo sát Địa chấn Mỹ cũng ghi nhận sự phức tạp trong lịch sử kiến tạo của khu vực Đông Nam Á. Nó bao gồm sự đứt gãy và suy giảm lớp vỏ lục địa, sự đóng mở của các lưu vực đại dương, sự phát triển của hệ thống đứt gãy trong khu vực và những phần nâng lên cục bộ. Các hệ thống dầu khí nằm chủ yếu ở lưu vực Cenozoic và khí tự nhiên được tập trung trong các bể carbonate trẻ đàn hồi sau rạn nứt.

EIA dự báo dự trữ khí đốt sẽ có nhiều tiềm năng hơn so với dự trữ dầu mỏ ở Biển Đông. Tuy vậy, các công ty dầu khí sẽ phải xây dựng hệ thế đường ống ngầm dưới biển trong khu vực có nhiều thung lũng chìm và dòng chảy mạnh trong vùng nước sâu. Khu vực này cũng dễ bị bão nên không thể sử dụng dàn khoan sản xuất rẻ hơn với mũi khoan cứng. Một cách để xử lý vấn đề có thể là sử dụng mũi khoan kiểm soát áp lực để hoạt động trong môi trường nước sâu áp suất lớn.

Chuyên gia tư vấn năng lượng Wood Mackenzie đưa ra dự báo chỉ có khoảng 2,5 tỷ thùng quy dầu ở Biển Đông, và vào tháng 11/2012, CNOOC ước tính có khoảng 125 tỷ thùng dầu và 500 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên nằm trong khu vực chưa được phát hiện.

EIA chỉ ra tính nhạy cảm của khu vực đối với thương mại toàn cầu. Theo dữ liệu từ Lloyd's List Intelligence và GTIS Global Trade Atlas, mỗi ngày có khoảng 14 triệu thùng dầu thô được đi qua khu vực Biển Đông và Vịnh Thái Lan, tương đương 1/3 lượng dầu trung chuyển trên toàn cầu. Theo thông tin từ PFC Energy và Cedigaz, có khoảng 6 nghìn tỷ feet khối khí hóa lỏng, trên một nửa lượng buôn bán khí hóa lỏng toàn cầu, được vận chuyển qua Biển Đông trong năm 2011.

Kinh doanh như thường lệ

Theo Nick Haslam, Giám đốc điều hành Văn phòng Singapore của London Offshore Consultants, bất chấp những căng thẳng và bất ổn, nhiều dự án phát triển các khu vực rộng lớn vẫn được triển khai ở Biển Đông.

 “Cũng có một số vị trí nhỏ không có hoạt động – ví dụ như Vịnh Thái Lan, nơi có rất ít hoạt động đang diễn ra trong thời điểm hiện tại, nhưng nhìn tổng thể, khu vực này có thể ví như một tổ ong với rất nhiều dự án đang diễn ra. Nếu cộng tất cả lại, giá trị các dự án dầu khí ở khu vực Biển Đông có thể vượt con số 26 tỷ USD.”

Bán đảo Mã Lai, Đông Malaysia, Việt Nam, và Indonesia là những khu vực tập trung nhiều dự án nhất. Haslam cho rằng rất khó để xác định chắc chắn trữ lượng trong khu vực nhưng đây rõ ràng là một khu vực tập trung nhiều nhất các dự án. Chính số lượng các dự án đang thực thi và sắp tới ở những khu vực như Đông Malaysia, bán đảo Mã Lai, và ngoài khơi Việt Nam là minh chứng cho nhận xét này.

 “Brunei là một lãnh thổ cần theo sát,” Haslam nói. “Trong lịch sử, Shell đã từng hoạt động độc quyền một các hiệu quả trên tất cả các giếng dầu của Brunei. Nhưng mọi chuyện chắc chắn đang thay đổi. Nước này có vẻ như muốn tiếp cận những tập đoàn năng lượng lớn khác. Chẳng hạn như Total đã từng tiếp cận chúng tôi để cung cấp các dịch vụ bảo hành cho hoạt động về phía Tây Bắc Brunei.”

CNOOC dự kiến sẽ có khoảng 10 mỏ dầu khí ngoài khơi đi vào hoạt động trong năm nay, trong đó mỏ khí đốt Liwan 3-1 sẽ là mỏ khí tự nhiên nước sâu lớn đầu tiên ở ngoài khơi của Trung Quốc. Việc khai thác khí ở Liwan lần đầu tiên được dự kiến sẽ diễn ra vào khoảng cuối năm 2013 và đầu năm 2014. Liwan có trữ lượng xác định và tiềm năng ước tính ở vào khoảng 4-6 nghìn tỉ feet khối. Dự án Liwan nằm ở lô 29/26.300 km (186 dặm) về phía Đông Nam Hông Kông ở Biển Đông và trải rộng 979.773 héc-ta (3.965 km2). Husky Energy sẽ điều hành hoạt động và nắm giữ 49% lợi nhuận; CNOOC giữ 51% còn lại. CNOOC nắm giữ cổ phần ít nhất 51% tại tất cả các dự án ngoài khơi của Trung Quốc.table 

Ước tính trữ lượng dầu khí đã xác định và tiềm năng ở Biển Đông

Quốc gia

Trữ lượng dầu thô và hóa lỏng (tỷ thùng)

Trữ lượng khí tự nhiên (nghìn tỷ feet khối)

Brunei

1,5

15

Trung Quốc

1,3

15

Indonesia

0,3

55

Malaysia

5,0

80

Philippin

0,2

4

Thái Lan

-

1

Việt Nam

3,0

20

 Ghi chú: Trữ lượng không bao gồm trữ lượng trên cạn và ở vịnh Thái Lan. Giá trị trữ lượng ước tính dựa trên quyền sở hữu các mỏ dầu.

Nguồn: Báo cáo Biển Đông tháng 02/2013, EIA

 

Thêm vào đó, CNOOC sẽ khoan khoảng 140 giếng thăm dò, thu thập xấp xỉ 15.400km (9.571 dặm) dữ liệu địa chấn 2D và 24.800 km2 (9.575 dặm2) dữ liệu địa chấn 3D, và sẽ tiếp tục mở rộng các hoạt động thăm dò nước sâu. Tổng đầu tư cho các hoạt động là khoảng hơn 20 tỷ USD. Tháng 06/2012, CNOOC chào thầu 09 lô dầu khí ở khu vực Biển Đông nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam ở bể Jianna và Wan’an. Theo EIA, chưa có bất kỳ tập đoàn nước ngoài nào thực hiện chào giá.

Chevron nhận được một khu vực mới ở Biển Đông trong năm 2012 thông qua một vụ mua bán ở lô 15/10 và 15/28 ở khu vực nước sâu trong một hợp đồng chia sẻ sản xuất với CNOOC. Tập đoàn cũng quan tâm đến lô nước sâu 42/05, có diện tích thăm dò khoảng xấp xỉ 1,3 triệu héc-ta (5.216 km2), không nằm trong vùng biển tranh chấp.

Eni đã xuất hiện ở Trung Quốc kể từ năm 1980 và có khoảng 10 hợp đồng ở đây. Tập đoàn này ký một hợp đồng chia sẻ sản xuất với CNOOC vào năm 2012 để thăm dò lô 30/27 ở vào khoảng 400km (248 dặm) ngoài khơi bờ biển Hồng Kông. Lô này có diện tích khoảng 5.130 km2 (1.981 dặm2) nằm ở một trong những khu vực nhiều tiềm năng nhất của lĩnh vực khai thác ngoài khơi của Trung Quốc.

Một môi trường đang biến động

 “Chúng tôi liên tục đánh giá những cơ hội mới trong khu vực,” Ron Morris, Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí ROC ở Trung Quốc nói. “Trong một số trường hợp, các tranh chấp biên giới đã ảnh hưởng đến việc theo đuổi và nắm giữ những cơ hội mới, nhưng ROC đang có một kế hoạch quay vòng 20 năm vì thế chúng tôi liên tục xem xét tất cả các lô. Trung Quốc có một môi trường luôn thay đổi. Nó thay đổi hàng năm, hàng tháng nếu không muốn nói là hàng ngày.”

 

ROC nắm giữ 19,6% cổ phần trong Dự án ở Vịnh Bắc Bộ, nơi vừa thu sản lượng đầu tiên vào tháng 3. Các đối tác khác bao gồm Horizon Oil, 26,95%; CNOOC, 51%; và Oil Australia (Majuko Corp), 2.45%. Giai đoạn một của dự án là khai thác dầu mỏ từ mỏ Weizhou 6-12 Bắc và 12-8 Tây ở lô 22/12, khoảng 60 km (37 dặm) từ bờ biển phía nam Trung Quốc, tiếp nối với tổ hợp mỏ W12-1 của CNOOC. Dự án bao gồm việc xây dựng một dàn khoan xử lý theo mục đích và hai dàn khai thác thuộc sở hữu chung trong 30 m (98 feet) nước và tích hợp với cơ sở hạ tầng sẵn có của CNOOC.

Đi cùng với tin tức về việc bắt đầu sản xuất là sự xác nhận rằng kết quả của ba giếng khoan thăm dò/thẩm định ở khu vực WZ6-12 Bắc và Nam trong năm 2012 đã khiến độ chắc chắn về trữ lượng ở một số bể chứa tăng cao, cũng như bổ sung về việc tìm ra những bể mới ở WZ6-12N và Sliver. Kết quả của nó là việc tổng trữ lượng được xác định và tiềm năng tăng thêm 25%. Sau khi hoàn tất, tổng cộng 10 giếng khoan ở dàn khoan WZ6-12 sẽ được kết nối với hệ thống khai thác, so với chỉ năm giếng theo như trong kế hoạch phát triển cũ. Việc khai thác sẽ tăng dần trong năm khi việc xây dựng giếng khoan được hoàn tất và bắt đầu khai thác. Cuối cùng, dàn khoan mới sẽ cho phép CNOOC khởi động những mỏ cận biên khác trong khu vực.

 

Dự án Vịnh Bắc Bộ bao gồm việc xây dựng một dàn khoan xử lý theo mục đích (PUQB) thuộc sở hữu chung. Dàn khoan mới này sẽ cho phép CNOOC khởi động các mỏ cận biên họ có trong khu vực này.

Nguồn: Tin từ Tập đoàn Dầu khí ROC.

 

Đối với Morris, dự án đã đạt được thành công ở nhiều cấp. Trước đây đã từng tồn tại những thách thức về kỹ thuật. Tính chất địa chất của cả hai mỏ và tính chất dầu thô là rất khác biệt và khó. Thêm vào đó, W12-8W chỉ có thể được tiếp cận bằng mũi khoan thẳng đứng bên trên một lớp nước và bên dưới một tầng khí.

Morris cho rằng điều kiện trên sẽ không có hiệu quả về mặt kinh tế nếu suy nghĩ theo cách truyền thống. Vì thế, dự án này là một cột mốc quan trọng trong đó các bên bắt buộc phải hợp tác để giảm thiểu chi phí dự án và chia sẻ những cơ sở hạ tầng có sẵn.

 “Chúng tôi đã cùng với CNOOC đội chung một cái mũ và suy nghĩ làm sao để triển khai dự án như thể chúng tôi là một công ty,” Morris nói. “Với lối tư duy về quản lý khác nhau, việc này đã mất khá nhiều thời gian.”

Theo Morris, đó là một kiểu hợp tác chưa từng xảy ra ở Trung Quốc trước đây, và nó đã giúp làm giảm một nửa chi phí vốn và điều hành của dự án.

Ví dụ, sự phối hợp đã được thể hiện qua việc cho phép nước sản xuất chảy vào giếng xử lý nước hiện tại của CNOOC.

Thông thường, các liên doanh ở Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở độc lập, với một công ty tự khai thác một mình và xuất khẩu thông qua hệ thống xuất khẩu của họ. Vì thế, đối với dự án này, bản hợp đồng chuẩn đã được soạn lại sao cho CNOOC được đền bù xứng đáng cho những tài sản hiện có của họ, và việc phối hợp vận hành được điều chỉnh lại để phù hợp với lợi ích của tất cả các đối tác.

Một vài rào cản truyền thống đã được loại bỏ để đạt được một kết quả có lợi (win-win) cho tất cả các bên.

Sự cố tràn dầu ở Penglai 19-3 của ConocoPhillips ở Vịnh Bột Hải, phía bắc Trung Quốc, đã gây ra một sự đình trệ lớn khi tất cả các bên phải đánh giá lại các rủi ro.

 Morris cho rằng, “Nó đã ảnh hưởng đến tất cả mọi người”.

Do sự cố tràn dầu, công ty của ông ấy, ROC, đã phải trì hoãn nhiều tháng việc tất toán dự án.

 “Tôi tin rằng chúng ta chưa nhìn thấy hết những ảnh hưởng của nó. Trung Quốc chắc chắn đang thay đổi cái cách mà họ nhìn nhận về trách nhiệm doanh nghiệp và đang đặt ra những quy định mới để đảm bảo những cơ chế quản lý thích hợp được thực thi,” Morris nói.

Trung Quốc là một thị trường quan trọng của ROC, và Morris tỏ ra lạc quan về nền tảng hợp tác với CNOOC cho đến thời điểm hiện tại. Tuy ông ấy cho rằng khả năng tìm ra những mỏ dầu lớn trong vùng nước cạn ngoài khơi bờ biển Trung Quốc là ít khả năng, một bên chơi tầm trung như ROC cần phải tận dụng cơ hội thu được lợi nhuận từ những mỏ đã già hoặc khó phát triển. Công ty sẽ thúc đẩy khả năng đã được kiểm nghiệm này như một dịch vụ có giá trị không chỉ đối với các công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc, mà với toàn bộ các nước Đông Nam Á.

Những thách thức mới

Ernst Meyer, Giám đốc khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương của DNV, cho rằng sẽ tồn tại những thách thức về kỹ thuật cho ngành công nghiệp này. Khí đốt đang dần dần trở nên được quan tâm nhiều hơn dầu mỏ, và cùng với đó, cần phải phát triển những năng lực mới . Ví dụ, một số kết quả tìm kiếm gần đây đã được phân loại là khí đốt chua hay có tỷ lệ CO2 cao. Việc tiến vào khai thác ở vùng nước sâu sẽ mang đến các thách thức về kỹ thuật, và quan trọng hơn có lẽ là những thách thức về độ an toàn.

 “Cơ chế quản lý ở khu vực chưa được phát triển đúng mức,” Meyer nhận định. “Mọi thứ sẽ vận hành tốt nếu như luật lệ dễ dàng và đơn giản, nhưng tôi nghĩ nếu không có những nhà quản lý thực sự độc lập ở Biển Đông, đó sẽ là một thách thức lớn để duy trì mức độ an toàn có thể chấp nhận được. Ở một vài quốc gia, các tập đoàn dầu khí quốc gia hoạt động như những nhà quản lý trong khi cũng có lợi ích từ nguồn tài nguyên việc khai thác chúng.”

Tuy nhiên, Meyer vẫn tin khu vực này sẽ hấp dẫn các tập đoàn dầu khí, đặc biệt là khi đem so sánh với các khu vực như Bắc Băng Dương, nơi mà chi phí dự án được dự đoán sẽ rất cao.

 Meyer cho rằng, “Nếu bạn được tiếp cận với những dự án tốt và thỏa thuận chia sẻ phát triển tốt ở khu vực phía Nam châu Á, và nếu bạn có thể giải quyết mọi vấn đề về chính trị và kỹ thuật, tôi cho rằng đó là một khu vực có thể đem lại lợi nhuận lớn hơn rất nhiều ở thời điểm hiện tại”.

Wendy Laursen là Biên tập viên của tạp chí Offshore. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang Offshore Magazine ngày 18/9/2013.

 Người dịch: Tuấn Việt

 Hiệu đính: Minh Ngọc



http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/3689-tru-luong-dau-khi-o-bien-dong-va-thuc-trang-khai-thac-co-hoi-hay-thach-thuc
0