Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính trị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính trị. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

Đằng sau việc Nga - Trung ký thỏa thuận khí đốt trị giá 400 tỉ USD

Sau hơn một thập kỷ trì hoãn, ngày 21/5, Nga-Trung đã ký thỏa thuận khí đốt lịch sử với giá trị lên tới 400 tỉ USD với thời hạn 30 năm. Ngay sau khi việc này được công bố, giá cổ phiếu của Tập đoàn năng lượng Gazprom (Nga) tăng nhanh. Nga coi đây là thắng lợi lớn vì đã tìm được thị trường mới, không phụ thuộc vào châu Âu, đồng thời giúp Moskva phát triển các mỏ mới ở phía Đông Siberia…

Tổng thống Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình uống mừng sau khi ký thỏa thuận khí đốt lịch sử.

Nhưng trong bài viết trên tờ Moskva Times mới đây, tác giả Alexei Bayer đã cảnh báo, có thể Tổng thống Putin đang cầm cố tương lai của nước Nga bằng hợp đồng 400 tỉ USD. Bởi mặc dù thỏa thuận khí đốt đã được ký từ hôm 21/5, nhưng cho tới nay giá bán vẫn được giữ bí mật. Tổng giám đốc Gazprom Alexei Miller từ chối nói rõ giá khí đốt cho Trung Quốc vì coi đó là "bí mật doanh nghiệp".

Sau khi bản hợp đồng khí đốt trị giá 400 tỷ USD được ký, Trung-Nga đều thoả mãn bởi Moskva giảm sự lệ thuộc vào thị trường châu Âu, còn Bắc Kinh có thêm nguồn cung quan trọng giải tỏa cơn khát năng lượng. Nhưng vấn đề không dừng lại ở đây bởi thông qua thỏa thuận này, Tổng thống Putin và Chủ tịch nước Tập Cận Bình càng thêm gắn bó - từ năm 2013 đến nay, lãnh đạo hai nước đã có 7 lần tiếp xúc trực tiếp.

Trong khi các nhà phân tích tại Sanford C. Bernstein & Co coi thỏa thuận kể trên sẽ đem lại lợi ích dài hạn cho Gazprom, kể cả khi giá chính xác không được công khai vì họ đang mua sự đa dạng hóa, nhưng giới chuyên môn lại không nghĩ như vậy. Nên nhớ, đây không phải là thỏa thuận dễ đạt được bởi thời gian thương thảo giữa hai bên đã kéo dài 10 năm, có lúc tưởng chừng tan vỡ. Giới phân tích cho rằng, thỏa thuận khí đốt Nga-Trung được ký vào lúc 4 giờ sáng (theo giờ Bắc Kinh), cho thấy phần nào sự khẩn cấp của cuộc đàm phán bởi Tổng thống Putin quyết không rời Thượng Hải mà không có thỏa thuận nào được ký về lĩnh vực nhạy cảm này. Nhưng để ký được thỏa thuận khí đốt lịch sử, ông Putin đã phải nhượng bộ bởi trước đó Trung Quốc chê giá khí đốt của Nga đắt.

Nhiều chuyên gia nhận định, Nga bán cho Trung Quốc với giá khoảng 350 USD/1.000m3 khí đốt. Hơn nữa, 38 tỉ m3/năm bán cho Trung Quốc thông qua đường ống có tên "Sức mạnh Siberia" không đủ bù đắp tổn thất từ thị trường châu Âu và giá bán có vẻ rất sát với giá sản xuất và vận chuyển nên lợi ích kinh tế không đáng kể. Hơn nữa, nếu xét về giá trị kinh tế, hợp đồng này chỉ chiếm 16% tổng lượng khí đốt xuất khẩu của Gazprom (từ năm 2018), trong khi tổng kim ngạch thương mại Trung-Nga chỉ bằng 1/3 kim ngạch Trung Quốc-Liên minh châu Âu và 1/5 kim ngạch Trung-Mỹ.

Phương Tây coi hợp đồng 400 tỉ USD ẩn chứa nhiều mưu đồ địa-chính trị hơn là ý nghĩa kinh tế. Bởi hợp đồng kể trên được ký sau khi Nga liên tiếp hứng chịu các lệnh trừng phạt của Mỹ và châu Âu liên quan đến việc sáp nhập Crimea. Trong khi đó, nhu cầu khí đốt của Trung Quốc sẽ vượt xa con số 38 tỷ m3/năm một khi các dự án đường ống vận chuyển hoàn tất và kinh tế của quốc gia đông dân nhất thế giới lấy lại đà tăng trưởng như trước đây.

Điều đáng nói là toàn bộ số khí đốt bán cho Trung Quốc được tính ngang bằng với mức giá bán cho châu Âu hiện nay, trong khi hợp đồng phải tới năm 2018 mới chính thức có hiệu lực. Ngoài ra, Nga phải chi khá nhiều tiền cho việc xây dựng đường ống dẫn khí mới nối sang Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn đẩy mạnh việc sử dụng đồng NDT trong thanh toán thương mại quốc tế để trả nguyên liệu thô của Nga, hoặc sẽ trừ dần số tiền thanh toán vào hàng hóa và dịch vụ xuất sang nước này. Hiện Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nga với buôn bán song phương dự kiến đạt 100 tỷ USD vào năm tới và 200 tỷ USD trước năm 2025.

Riêng hợp đồng khí đốt vừa ký sẽ được thanh toán bằng USD bởi đây là tuyên bố hôm 23/5 của Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak. Thương vụ lịch sử mà Tổng thống Putin đạt được nhân chuyến thăm Trung Quốc 2 ngày sẽ mở ra một thị trường lớn mới cho Moskva, trong bối cảnh châu Âu đang muốn giảm bớt sự lệ thuộc của họ vào các nguồn cung khí đốt từ Nga. Theo ông Ruslan Pukhov, Giám đốc Trung tâm phân tích chiến lược và kỹ thuật ở Moskva, Nga có những kẻ thù đầy thế lực, nhưng lại không có đồng minh mạnh mẽ, đó là lý do họ cần tới sự ủng hộ của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. Nhiều chuyên gia cũng đã tính tới những hệ lụy của thỏa thuận khí đốt Nga-Trung đối với cấu trúc địa-chính trị thế giới.

Theo nhận định của bà Morena Skalamera, chuyên gia quốc tế của Trường Harvard Kennedy (Mỹ), tuy Nga-Trung gắn kết với nhau về vấn đề năng lượng, nhưng Moskva luôn đề phòng toan tính của Bắc Kinh ở khu vực Bắc Thái Bình Dương và Bắc Cực, chưa kể tới cạnh tranh ảnh hưởng tại Trung Á. Trung Quốc đang tìm cách thúc đẩy quan hệ với khu vực Trung Á vốn được coi là sân sau của Nga. Tại hội nghị SCO ở Bishkek hồi tháng 9/2013, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra sáng kiến vành đai kinh tế "Con đường tơ lụa mới". Nếu được hình thành, vành đai này sẽ là đối thủ cạnh tranh với Liên minh Á-Âu của Tổng thống Putin



QT.KD - CAND
0

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Trung Quốc cấm đấu thầu tại Việt Nam, gây áp lực kinh tế

Bưu điện Hoa Nam ngày 9/6 đưa tin, chính phủ Trung Quốc đã cấm các doanh nghiệp nhà nước tham gia đấu thầu các hợp đồng mới tại Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng giữa 2 nước tăng cao (kể từ khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, gây hấn với lực lượng chức năng và đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam - PV).


Dự án năng lượng do nhà thầu Trunng Quốc thực hiện và lời cảnh báo về mưa axit do ô nhiễm môi trường (Ảnh minh họa).

Một quan chức doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc yêu cầu giấu tên nói với Bưu điện Hoa Nam, các doanh nghiệp nhà nước đã được Bộ Thương mại Trung Quốc thông báo về việc này. 3 nhà thầu Trung Quốc đang hoạt động tại Việt Nam cũng đã được thông báo.

Theo một nhân viên làm việc tại bộ phận cấp phép của Bộ Thương mại Trung Quốc, việc đình chỉ hoạt động đấu thầu là có thật và cho biết thêm, không biết lệnh cấm này sẽ kéo dài bao lâu.

Hứa Lợi Bình, một chuyên gia về quan hệ Trung Quốc - Đông Nam Á từ viện Chiến lược quốc tế thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh đang cố gắng gây áp lực kinh tế đối với chính phủ Việt Nam.

"Bất kỳ biện pháp nào để tăng cường đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đều không phù hợp với sự căng thẳng chính trị hiện nay. Đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang sử dụng thủ đoạn kinh tế. Nhưng hiệu quả của nó sẽ ra sao thì còn phải chờ", Hứa Lợi Bình cho biết.

Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam từ năm 2004, nhưng họ chỉ đứng thứ 11 về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2012. Có khoảng 113 doanh nghiệp Trung Quốc bao gồm cả các công ty về kỹ thuật công nghệ điện lực, hóa học đang hoạt động tại Việt Nam, theo hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc.

Trương Kiệt, một chuyên gia về quan hệ đối ngoại tại Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng, tác động lệnh cấm đấu thầu của Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ chỉ có ảnh hưởng giới hạn. "Trung Quốc không có khả năng đe dọa sự phát triển kinh tế của Việt Nam bởi số lượng công việc phát triển của chúng tôi là quá nhỏ", Trương Kiệt cho biết.

Theo học giả này, ngay cả khi doanh nghiệp Trung Quốc tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam trong điều kiện hiện nay cũng khó có thể giành phần thắng.

Giáo Dục VN
0

Trung Quốc cấm đấu thầu tại Việt Nam, gây áp lực kinh tế

Bưu điện Hoa Nam ngày 9/6 đưa tin, chính phủ Trung Quốc đã cấm các doanh nghiệp nhà nước tham gia đấu thầu các hợp đồng mới tại Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng giữa 2 nước tăng cao (kể từ khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, gây hấn với lực lượng chức năng và đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam - PV).


Dự án năng lượng do nhà thầu Trunng Quốc thực hiện và lời cảnh báo về mưa axit do ô nhiễm môi trường (Ảnh minh họa).

Một quan chức doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc yêu cầu giấu tên nói với Bưu điện Hoa Nam, các doanh nghiệp nhà nước đã được Bộ Thương mại Trung Quốc thông báo về việc này. 3 nhà thầu Trung Quốc đang hoạt động tại Việt Nam cũng đã được thông báo.

Theo một nhân viên làm việc tại bộ phận cấp phép của Bộ Thương mại Trung Quốc, việc đình chỉ hoạt động đấu thầu là có thật và cho biết thêm, không biết lệnh cấm này sẽ kéo dài bao lâu.

Hứa Lợi Bình, một chuyên gia về quan hệ Trung Quốc - Đông Nam Á từ viện Chiến lược quốc tế thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh đang cố gắng gây áp lực kinh tế đối với chính phủ Việt Nam.

"Bất kỳ biện pháp nào để tăng cường đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đều không phù hợp với sự căng thẳng chính trị hiện nay. Đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang sử dụng thủ đoạn kinh tế. Nhưng hiệu quả của nó sẽ ra sao thì còn phải chờ", Hứa Lợi Bình cho biết.

Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam từ năm 2004, nhưng họ chỉ đứng thứ 11 về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2012. Có khoảng 113 doanh nghiệp Trung Quốc bao gồm cả các công ty về kỹ thuật công nghệ điện lực, hóa học đang hoạt động tại Việt Nam, theo hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc.

Trương Kiệt, một chuyên gia về quan hệ đối ngoại tại Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng, tác động lệnh cấm đấu thầu của Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ chỉ có ảnh hưởng giới hạn. "Trung Quốc không có khả năng đe dọa sự phát triển kinh tế của Việt Nam bởi số lượng công việc phát triển của chúng tôi là quá nhỏ", Trương Kiệt cho biết.

Theo học giả này, ngay cả khi doanh nghiệp Trung Quốc tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam trong điều kiện hiện nay cũng khó có thể giành phần thắng.

Giáo Dục VN
0

Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014

Việt Nam đang có cơ hội tránh tác động về kinh tế từ Trung Quốc

(Chinhphu.vn) - Sự kiềm chế từ phía Việt Nam không những giúp ngăn căng thẳng leo thang mà chính phương thức giải quyết hòa bình nhất quán này cũng mang đến nhiều cơ hội khác về mặt ngoại giao, quân sự và kinh tế.

Giáo sư Zachary Abuza, chuyên gia về khoa học chính trị và đối ngoại khu vực Đông Á thuộc Đại học Simmons (Mỹ), cho rằng rõ ràng Việt Nam đang gặp rất nhiều thách thức từ một loạt các hành động của Trung Quốc nhằm khẳng định cái gọi là chủ quyền của họ trên Biển Đông. Căng thẳng vẫn chưa nguôi khi Trung Quốc vẫn không dừng các hoạt động quấy phá tàu của lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam xung quanh khu vực Bắc Kinh hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981. Sự kiềm chế từ phía Việt Nam không những giúp ngăn căng thẳng leo thang mà chính phương thức giải quyết hòa bình nhất quán này cũng mang đến nhiều cơ hội khác về mặt ngoại giao, quân sự và kinh tế.

Về ngoại giao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cập đến khả năng cân nhắc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Đây là một điểm quan trọng vì bốn lý do. Thứ nhất, bằng cách khởi kiện, Việt Nam sẽ cho thế giới thấy thiện ý muốn giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình và con đường pháp lý. Thứ hai, Việt Nam sẽ đồng hành với Philippines. Mặc dù khó có khả năng sẽ tìm được nhiều sự đồng thuận hơn từ các thành viên khác của ASEAN, vốn có quan hệ kinh tế lệ thuộc vào Bắc Kinh, nhưng ít ra việc cùng Philippines tham gia khởi kiện cũng sẽ hình thành một liên minh mạnh mẽ giữa các quốc gia có cùng quyền lợi liên quan. Nếu các quốc gia có tranh chấp khác nhìn vào Việt Nam, Philippines và cũng tham gia khởi kiện Trung Quốc, vấn đề Biển Đông sẽ tất yếu được quốc tế hóa. Đây là điều Bắc Kinh không bao giờ muốn xảy ra. Thứ ba, mặc dù khó có khả năng Bắc Kinh chấp nhận bị ràng buộc bởi phán quyết trọng tài theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển nếu phán quyết này chống lại họ, song điều đó sẽ càng cô lập Bắc Kinh và đặt ra nghi ngờ về lời khẳng định “trỗi dậy hòa bình” và sự cam kết của họ đối với luật pháp và chuẩn mực quốc tế. Cuối cùng, những chứng cứ pháp lý của Trung Quốc tại Biển Đông vừa mập mờ, không thuyết phục, lại mang tính hai mặt. Ví dụ, Bắc Kinh phủ nhận lập luận của Việt Nam là giàn khoan Hải Dương 981 nằm trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam - một điều hết sức rõ ràng. Trong khi đó, cũng chính Trung Quốc lại dùng lập luận thềm lục địa đó ra trong tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật ở Hoa Đông. Thật mỉa mai và đạo đức giả. Với yêu sách đường 9 đoạn, Bắc Kinh không thể bảo vệ cái không thể nào bảo vệ được. Vì lẽ đó, Trung Quốc đang cố tình tạo ra những “chuyện đã rồi” ở Biển Đông để củng cố cái gọi là chủ quyền của mình.

Trong bối cảnh đó, việc theo đuổi phương thức ngoại giao hòa bình để giải quyết vấn đề sẽ mang đến cho Việt Nam rất nhiều hậu thuẫn từ các nước trên thế giới, như Mỹ và Nhật, vốn ngày càng quan ngại vì những hành động khiêu khích của Trung Quốc.

Những mối nguy từ Biển Đông đã buộc Việt Nam phải chọn con đường hiện đại hóa quân đội vì mục đích tự phòng vệ. Các cuộc diễn tập song phương và đa phương với các đối tác truyền thống như Ấn Độ đã diễn ra, cũng như tăng cường hợp tác quân sự với ASEAN và Mỹ. Quốc hội Việt Nam tuần này cân nhắc duyệt chi ngân sách 16.000 tỷ đồng hỗ trợ lực lượng cảnh sát biển bảo vệ chủ quyền Biển Đông; Nhật cũng cam kết sẽ cung cấp tàu tuần duyên cho Việt Nam vào năm 2015. Đây là những động thái hoàn toàn chính đáng vì ba lý do. Thứ nhất, Việt Nam hoàn toàn có quyền trang bị tàu lớn để tàu Trung Quốc không thể tiếp tục tự tung tự tác. Thứ hai, sự hiện diện của tàu dân sự sẽ giúp ngăn ngừa căng thẳng leo thang. Thứ ba, phương pháp phòng vệ chính đáng này sẽ xác tín phương thức ngoại giao hòa bình nhất quán Việt Nam đang theo đuổi.

Về kinh tế, căng thẳng xung quanh giàn khoan Hải Dương 981 và những hệ lụy của nó sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm nay. Đây là điều tất yếu. Tuy nhiên, đó cũng chính là cơ hội để Việt Nam tránh tác động về kinh tế của Trung Quốc. Bắc Kinh là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, nhưng Việt Nam vẫn còn phải chịu nhập siêu quá lớn từ Trung Quốc. Đã đến lúc Việt Nam đa dạng hóa các đối tác thương mại của mình.

Đây cũng là dịp để tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, duy trì thế mạnh cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam. Việt Nam đang đứng trước cơ hội tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài, khi chi phí sản xuất ngày một gia tăng trong khu vực. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư nước ngoài đang quay lưng lại với Thái Lan vì bất ổn chính trị tại đây. Việt Nam sẽ hưởng lợi rất nhiều nếu tiến hành cải cách kinh tế triệt để và nghiêm túc vào lúc này.

Với những quyết định kịp thời và đúng đắn, Việt Nam sẽ càng vươn lên mạnh mẽ từ chính thời điểm khó khăn này.

Nguyễn Chiến (tổng hợp)
0

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2014

LS. Tạ Văn Tài lập luận chặt chẽ và thuyết phục các vấn đề pháp lý v/v kiện Trung Quốc

Giàn khoan Trung quốc Hải Dương 981 trong Vùng Đặc quyền Kinh tế và thềm lục địa Việt Nam tháng 5, 2014

Việt Nam Làm Gì Bây Giờ?

L.S. Tạ Văn Tài

LTS (thesaigontimes.vn): Việc khởi kiện Trung Quốc ra các tòa án quốc tế sau khi quốc gia này có hành động xâm lấn trái luật vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông là một trong số các biện pháp đấu tranh ngoại giao và pháp lý mà Chính phủ đang xem xét tiến hành. Nhưng kiện ở tòa nào, với những nội dung lập luận gì để có thể giành được thắng lợi?

Luật sư, Tiến sĩ Tạ Văn Tài, nguyên giảng viên và hiện là nghiên cứu viên Trường Luật thuộc Đại học Harvard (Hoa Kỳ) có bài giải thích các vấn đề này. Bài của luật sư Tài trình bày khá chi tiết những khía cạnh công pháp quốc tế liên quan đến vấn đề kiện Trung Quốc, lập luận chặt chẽ và thuyết phục. (http://www.thesaigontimes.vn/115436/)


Quyền của Việt Nam ở Biển Đông và lập luận của Trung Quốc

Trước khi đi vào chi tiết các biện pháp Việt Nam có thể sử dụng như đối sách, mà chúng tôi liệt kê dưới đề mục 2 câu hỏi sau, thì cần ôn lại những lợi ích hay quyền lợi gì mà Công Ưóc Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea UNCLOS) dành cho các quốc gia hôị viên , như Việt Nam.

Có hai loại lợi ích hay quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông:

(a) chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên nhiều đảo và đá tại hai vùng quần đảo Hòang Sa và Trường Sa, mà Việt Nam đã tuyên bố và thực thi với sự chiếm hữu và quản lý trong quá khứ, theo đúng luật quốc tế truyền thống đã có mấy trăm năm, cho đến khi một số địa điểm bị Trung Quốc chiếm đóng bằng bạo lực; và

(b) lợi ích hay quyền đối với những vùng nước và đáy biển dưới mặt nước tại Biển Đông, chiếu theo Công Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea, UNCLOS) năm 1982, gồm có quyền chủ tể (sovereign rights) khai thác tài nguyên sinh vật như cá biển và phi sinh vật như quặng mỏ, kim loại hay dầu khí ở đáy biển, trong một vùng dưới mặt nước gọi là Vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) rộng 200 hải lý tính từ mực nước thuỷ triều thấp nhất (gọi là đường cơ sỏ) chạy ra ngòai biển tới 200 hải lý (điều 56 và 57 UNCLOS), và trong Vùng Thềm Lục Địa (Continenal Shelf) tức mặt đáy biển và đất dưới đáy biển đi ra tới bờ của lục địa (continental margin) hay tới khỏang cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở, khi bờ lục địa không xa tới mức đó (điều 76 và 77 UNCLOS)

Giàn khoan HD-981 của Trung Quốc (chấm xanh) nằm sâu trong vùng Thềm lục địa và vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển UNCLOS (ranh giới là đường màu trắng)

Hơn nữa, cần nhấn mạnh là theo UNCLOS, các quyền chủ tể trên trong vùng EEZ và Thềm Lục địa của Việt Nam là dành riêng hay chuyên độc (exclusive) của quốc gia cận duyên, cho nên Việt Nam trong vùng EEZ, có chủ quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá thành những đảo nhân tạo, nghiên cứu biển, quy định bảo vệ môi sinh, miễn là tôn trọng quyền các quốc gia khác về tự do lưu thông hàng hải, và đặt giây cáp và ống dẫn dầu khí của các nước khác (điều 56, 58), và trong Thềm Lục Địa, Việt nam cũng đương nhiên có quyền chuyên độc khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không cần tuyên bố hay chiếm hữu, và các quốc gia khác không thể có các hoạt động khai thác tài nguyên mà không có sự minh thị đồng ý của Việt Nam (điều 77). Khi bàn luận về tranh chấp với Trung quốc, ta nên nhớ luật quốc tế đã nói chắc chắn về các quyền của Việt Nam như đinh đóng cột.

Khi đem gìan khoan dến vị trí giữa hai lô dầu 142 và 143 của Việt Nam trong vùng Đặc quyền Kinh tế Việt Nam (EEZVN) , như ghi trong bản đồ trên, thì trái với sự bàn luận cuộc một số người, Trung quốc không dùng cái Đường Lượi Bò hay Chín Đọan (Nine-dotted Line), vốn không có thể biện hộ được và bị tất cả các nước và học gỉa chất vấn, làm căn bản cho sự xâm lấn. Họ (TQ) nói đến hai yếu tố làm cơ sở pháp lý cho quyết định của họ:

Luận cứ (a) Bộ Ngọai giao Trung quốc đã nham hiểm mà tránh viện dẫn cái dường Lưỡi Bò vô duyên đó, mà dùng đến căn bản vùng EEZ của Trung quốc, để nói là gìan khoan “đặt hòan tòan trong vùng nước của các đảo Paracels của Trung quốc” (placed completely within the waters of China's Paracels”), ám chỉ trong vòng 200 hải lý của EEZ và thềm lục địa của Paracels, do Trung quốc quản lý (nhưng Việt Nam vẫn liên tục đòi) , vùng EEZ và thềm lục địa đó, UNCLOS sẽ công nhận cho Paracels nếu hội đủ diền kiện. Điều kiện mà Trung quốc gỉa định đã có rồi, là có đảo nào đó trong Paracels, như Tri Tôn cách giàn khoan 17 miles, hay đảo Phú Lâm (Woody hay Yongxing), đã có điều kiện quy định trong UNCLOS cho tính cách môt hòn dảo (island) là con người sinh sống với nền kinh tế tự túc (nước ngọt và thực phẩm trồng tại chỗ) khi mỏm dất hay đá đó còn trong trạng thái thiên nhiên [Còn nếu không có mỏm đất hay dá nào trong Paracels đủ điền kiện là đảo , thì chúng chỉ là đá (reef) theo UNCLOS và chúng chỉ có 12 hải lý của lãnh hải/territorial sea.] Việc của Phi kiện Tàu trước Tòa Án Luật Biển, sau khi chịu đựng thương lượng với Tàu 17 năm, về việc Tàu chiếm đá ngầm rất xa Trung quốc trong vùng Kinh tế dặc quyền / EEZ của Phi, thì dễ hơn vụ cuả VN, khó hơn, vì VN phải làm việc kiện Tàu đã vô trong vùng EEZ VN, mà vùng này trùng lấp với vùng EEZ của quần đảo Paracels, mà nay Tàu nói đang thuộc quyền quản lý của họ.

Luận cứ (b) Trung quốc cũng ám chỉ là gìan khoan cách đảo Hải Nam 180 hải lý về phiá nam (cách dảo Ly Sơn của Viêt Nam chứng 120 hải lý về phiá đông). Tức là có vùng chồng lấn giữa EEZ của VN tính từ đảo Lý Sơn của VN và EEZ của TQ tính từ đảo Hải Nam.

Việt Nam có thể kiện trước tòa án quốc tế nào?

Những nhận định và đề nghị nêu ra sau đây hầu hết là dựa trên căn bản luật pháp, tức là khí giới của kẻ yếu, nhưng là “lạt mềm buộc chặt”, chứ còn võ lực chống Tàu thì nó có cớ dánh lớn, tàn phá VN và chiếm thêm hải đảo hay đất (trừ cách làm du kích, quấy rầy việc tiếp liệu giàn khoan, hay phá họai gián tiếp khác, làm cho nó khó tiến hành được, có thể làm đến đâu, thì bàn sau)

I. Câu hỏi đầu tiên được nêu ra là Việt Nam có thể kiện trước tòa án quốc tế nào không?

A) Luận cứ (a) của Trung quốc, dùng Paracels mà đòi quyền khai thác cho giàn khoan phải được bác khước bằng hai vụ kiện trong đó Việt Nam phải trình hồ sơ vế hai điểm:

(i) Paracels không phải thuộc chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) của Trung quốc mà của Việt Nam:

(ii) Paracels không có mỏm đá nào, kể cả Woody/Yongxing, xứng dáng gọi là đảo/island, tức có người sống trong nền kinh tế tự túc được trong trạng thái nguyên thuỷ sơ khai, mà tòan là đá/reef.

Vụ kiện thứ nhất về chủ quyền đất đai trên Paracels là thuộc luật quốc tế cổ truyền (traditional international law), theo đó VN phải minh chứng theo nguyên tắc luật quôc tế là một chính quyền muốn xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục hành sử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp bằng võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền bằng sự hành sử chủ quyền liên tục.

Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam theo luật quốc tế này, thì Việt Nam, trong chiều dài lịch sử từ nhiều thế kỷ, đã xác nhận và hành sử chủ quyền trên Hoàng sa và Trường Sa (tuy phạm vi hành sử ở Trường sa thì chưa xác định tới bao nhiêu đảo); và khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974 và Việt Nam Cộng Hòa phản đối, sau đó Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (nay là Cộng Hoà Xã Hội Việt Nam) – kế quyền của Việt Nam Cộng Hòa theo nguyên tắc thừa kế quốc gia (succession of state) – cũng phản đối vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa và rồi phản đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988 (gây thương vong cho nhiều lính hải quân Việt Nam) và các năm sau đó, thì chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa không thể bị coi là đã sói mòn vì thiếu sự tuyên bố và hành sử chủ quyền.

Chúng tôi không đủ trang giấy trong bài ngắn này để trình bày hết các bằng chứng lịch sử VN xác lập chủ quyền đất đai trên các đảo Paracels và Spratleys ở đây. Khi cần trình bày chi tiết về bằng chứng lịch sử, sẽ có một bài khác, làm phụ lục kèm theo.

Nhưng ngay tại đây, cần bác khước một vấn đề Trung quốc nêu ra: Trong một video trên Internet và báo không chính thức như Hoàn Cầu của Trung quốc, phổ biến vào tháng 5, 2014, để biện minh cho vị trí giàn khoan, và trong những lời tuyên bố rước đây nữa, nguời Tàu cũng viện đến công hàm hay công thư của Thủ Tướng Phạm văn Đồng năm 1958 mà họ cho là đã nhường Paracels và Spratleys cho Trung quốc.

Chúng tôi có đủ luận cứ quốc tê công pháp bác khước điểm này, ghi trong phần phụ lục ở cuối bào. Phải dùng luận cứ này trong dư luận quốc tế và trong vụ kiện về chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên Paracels tại tòa án có thẩm quyến về việc này là Tòa Án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice, ICJ).

International Court of Justice, ICJ

Trụ sở International Court of Justice, ICJ, ở The Hague (Netherlands)

Rất tiếc là trong hiện trạng luật quốc tế, không thể lôi Trung quốc ra tòa ICJ được (việc kiện đó chắc phải đợi sự đồng ý của một chế độ mới ở Trung quốc) như một số kiến nghị xin kiện ở Tòa ICJ của các nhà trí thức và họat dộng ở VN yêu cầu chính phủ, cũng như có sự trả lời là “đang suy nghĩ” của luật sư của Bộ Ngoại Giao hay Học Viện Ngọai giao, vì chắc chắn là Tàu sẽ không đồng ý ra tòa, theo nguyên tắc optional clause là một quốc gia có đồng ý ra tòa mới phải ra tòa.

B) Trong vụ kiện thứ hai, chúng tôi nghĩ là trước Tòa án Trọng Tài Luât Biển, VN có thể bác khước căn bản pháp lý của việc Trung quốc đặt vị trí gìan khoan, bác khước cả 2 luận cứ: luận cứ (b) về khỏang cách đảo Hải Nam tới giàn khoan chỉ có 180 miles , cùng với luận cứ (a) vế tư cách đảo /island của Paracels.

Tòa án Trọng Tài Luât Biển là tòa mà VN có thể lôi Trung Quốc ra, theo thủ tục bó buộc trong UNCLOS, Mục 2, như sau.

Mục 2

CÁC THỦ TỤC BẮT BUỘC
DẪN TỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH BẮT BUỘC

- ĐIỀU 286. Phạm vi áp dụng mục này

Với điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước khi không được giải quyết bằng cách áp dụng Mục 1, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được đưa ra trước tòa án có thẩm quyền theo mục này.

- ĐIỀU 288. Thẩm quyền

1. Một tòa án đã nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã được đưa ra cho mình theo đúng phần này.

2. Một tòa án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng điều ước này.

Chúng tôi nghĩ rằng VN có thể lôi Trung quốc ra Tòa án Trọng Tài luật Biển, mà Trung quốc không thể dùng sự bảo lưu (reservation) khi ký Công Ước, là không nhận thủ tục bó buộc cho các tranh luận việc trùng lấp của các vùng EEZ giữa VN và Trung quốc, như nói ở điểm (b) - giàn khoan ở chỗ trùng đè của hai EEZ tình từ bờ biển VN và từ Hải Nam - vì rằng Việt Nam cũng có thể xin Toà Trọng Tài xử về biên giới biển/sea boundary, mặc dầu Tàu có bảo lưu/reservation khi gia nhập Công Ước về vấn đề biên giới biển/sea boundary hay vịnh lịch sử/historical bays.

Quyền kiện đó của VN là chiếu theo điều 298 đọan 4, Công Ước UNCLOS dành quyến cho quốc gia duyên hải/coastal state, quyền có thể đối kháng:

4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố này. “.

Bây giờ nói về luận cứ (b), vị trí giàn khoan ở nơi trùng lấp giữa EEZ VN và EEZ TQ tính từ Hài nam: cả hai phía bờ biển VN và Trung quốc dều có thể phát sinh 2 EEZ và 2 Thềm Lục Địa, của cả hai nước VN và Trung quốc.

Nói cho VN, chúng tôi có thể biện luận theo luật là: vị trí giàn khoan ở trong Thềm Lục Địa nới rộng của VN, và hơn nữa, ở hẳn sang phía VN nếu cần phải thương lượng theo Công Ươc để tìm ra một đường trung tuyến (median line) giũa hai Thềm Lục Địa—như vẽ trong hình trên. Có thể thương lượng không xong, thì biện minh cho VN như vậy khi xin Tòa Trọng Tài gỉải thích Công ước.

» Trước Toà Trọng Tài, mục đích quan trọng nhất là xin một bản án gỉai thích (declaratory judgement) gỉai thích và áp dụng Công Ước về vấn đề không có mỏm đá, đât nào trong Paracels, kể cả Woody/Yongxing , xứng đáng là đảo (island) mà người ở được trong một nền kinh tế tự túc, trong trạng thái thiên nhiên trước khi Trung quốc xây các tòa nhà ở được, phi trường, cảng, để tiếp tế, và nhà máy lọc nước ngọt.

» Cũng còn một căn bản khác để kiện là xin Tòa gỉải thích việc Trung quốc, một quốc gia duyên hải /coastal state, đã đơn phương ngăn chặn tự do lưu thông, với vòng vây rộng lớn các tầu chiến và hải giám quanh giàn khoan, chiếu điều 297 đọan 1a :

1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, phải được xét theo các thủ tục giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây:

a) Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo Công ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do và quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58;

» Lại còn vi phạm khác nữa của Trung quốc , đó là trong khi chờ đợi các cơ quan tài phán gỉai quyết, VN chỉ giới hạn họat động vào các lô 118 và 119, thì Trung quốc—đáng lẽ phải theo đọan 3 các điều 74 và 83, về các bước đi thương lượng gỉải quyết bất đồng với VN về EEZ và thềm lục địa, để mà tự chế trong tinh thần hiểu biết và cộng tác (understanding and cooperation) kèm theo những biện pháp tạm thời (provisional measures), ngõ hầu không hại đến thỏa ước sau cùng --- thì Trung quốc lấn lưót, hung hăng. Hành động Trung quốc cũng là vi phạm Tuyên Bố Ứng xử của ASEAN.

Trong việc kiện Trung quốc, VN có thể theo gương Phi luật Tân, nhờ các văn phòng luật sư quốc tế giỏi, như Cotvington & Burling, khi xưa đã giúp VN thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cũng trong vấn đề Biển Đông (chúng tôi có thể liên lạc qua một luật sư của họ là LS Thomas Johnson có đi dự Hội nghị 2012 về dầu khí ở Houston và chủ tọa phiên họp về boundary dispute—GS Nguyễn Hồng Thao, đại diện VN, có trả lởi một câu ông hỏi về joint development.)

Vai trò của cộng đồng quốc tế.

II. Nếu tình thế tiếp tục căng thẳng thì VN phải dùng thêm các biện pháp chính trị, ngọai giao và quân sự nào? Vai trò cộng đồng quốc tế.

Công ước luôn đòi hỏi các bên thương nghị và cả hòa gỉai nữa trước khi đem ra các thủ tục bó buộc. Vì thế các cuộc thương nghị ngọai giao song phương, đa phương phải luôn có. Nếu thương nghị song phương mà bá quyền lấn áp, thì phải dùng thương nghị đa phương qua ASEAN và , nhất là nếu các nước nhỏ quá ngại nghênh Trung quốc, phải dùng cả sự can thiệp của các nước lớn có quyền lợi ở Biển Đông như Nhật, Úc, Nga, Ấn và nhất là Mỹ.

Một nền ngọai giao đa phương đã có thể làm chùn bớt hành vi hung hăng của Trung quốc, ngay từ khi trong chuyến du hành của Thủ Tướng Việt Nam qua Mỹ năm 2008: lúc đó, Tổng Thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung Mỹ Việt "nhắc lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ" và nói đến nhu cầu "củng cố đối thoại cấp cao" và ủng hộ "thành lập các cuộc họp hoạch định chính sách về chính trị, quốc phòng để có các trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh".

Nhưng rồi Việt nam vẫn chậm chạp trong việc xích lại gần Tây Phương. Năm 2010 mới có một sự đột biến quan trọng. Hồi hạ tuần tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố tại Hà Nội rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam “không những thật sự là một quốc gia quan trọng mà còn là một bộ phận của chiến lược nhắm tăng cường cam kết của người Mỹ trong khu vực Á châu Thái bình dương, đặc biệt là trong vùng Đông Nam Á.”

Khi phát biểu tại hội nghị của Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội, bà Clinton còn nói rằng Hoa Kỳ xem việc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) bằng đường lối đa phương, theo luật quốc tế, mà không đe dọa hay dùng võ lực, là một “quyền lợi quốc gia” của Mỹ. Những phát biểu này đã khiến cho giới lãnh đạo Trung Quốc phật lòng.

Báo cáo Chính trị cho Đại Hội Đảng Việt Nam 2011 cho ghi rõ mục tiêu tăng cường hợp tác với các nước chung quanh Biển Đông và Thái Bình Dương: "giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, việc xác định ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương."

Theo giáo sư Úc Carl Thayer chuyên nghiên cứu về Việt Nam, thì lãnh đạo Việt Nam có hai khuynh hướng: một muốn mở rộng quan hệ quốc tế, liên hệ với nhiều quốc gia; một muốn nể nang, liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc hơn nước khác (gọi là nhất biên đảo), nhưng cũng theo GS Thayer, trước khuynh hướng chống Trung Quốc của nhân dân, nhóm thân Trung Quốc này hình như cũng phải đồng ý phải tìm con đuờng quốc phòng khác dựa vào quan hệ đa phương, không thể chỉ dựa hay tin vào Trung Quốc.

Cơ chế các tổ chức quốc tế hòan vũ (global international organizations) là diễn đàn nêu sự bắt nạt củaTrung quốc trước dư luận quốc tế và có thể đi đến những nghị quyết hãm bớt sự hung hăng của Trung quốc. Sự hung hăng đe dọa hòa bình trong video trên Internet nói về công hàm P V Đồng đã lộ rõ trong câu nói là: chỉ cần một vài giờ là đánh tan hải quân VN; và có tin mấy hôm này , tháng 5, ngày 20, là Trung quốc dồn quân đến biên giới Việt Trung (điều này không chắc có hay không) . Nên đưa vấn đề ra Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc/United Nations General Assembly hay ngay cả Hội Đồng Bảo An/Security Council (SC) . Một nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là áp lực công luận quốc tế, có thể làm chùn bước Trung quốc. Tuy ở Hội Đồng Bảo An , khi lấy quyết định có thể vấp vào phiếu phủ quyêt của Trung quốc, nhưng VN vần cần đưa ra hay nhờ cường quốc dưa ra, vì đó là thủ tục có thế làm bất cứ khi nào có đe dọa hòa bình và an ninh tuốc tế/threat to international peace and security, như Tàu đem chiến hạm đe dọa và dùng nhiều đòn võ lực với hải giám và dân chài VN, như vậy để tạo dư luận quốc tế có lợi cho VN.

Có học giả Mỹ nhận xét là VN có vẻ sẵn sàng dùng biện pháp mạnh để ngăn cản giàn khoan họat động. Tiến sì Bower thuộc Center for Strategic and International Studies ở Hoa Thịnh Đốn có viết là Việt Nam có vẻ cương quyết ngăn cản việc họat động của gìan khoan và có đủ khá năng quân sự hơn Phi luật Tân để làm việc đó, như tầu ngầm Kilo, và có hạm đội và không đòan lớn, tuy cũ; và tuy hành động đâm vào tầu Việt nam có nguy cơ làm leo thang hơn mức hiện nay. Phía Trung quốc có vẻ bớt hung hăng và cẩn trọng hơn, chỉ dùng các tầu bảo vệ duyên hải (coast guard) để ngăn tầu VN tiến gần giàn khoan, dù họ có tầu chiến hải quân quanh gìan khoan; hơn nữa, lãnh đạo hai nước không lạ gì nhau và có các đường giây liên lạc, kể cả đường điện thọai nóng. Việt Nam cũng cho lệnh các tầu hải giám chỉ tiến gần đền giàn khoan, hô hóan các khẩu hiệu về chủ quyền của VN, nhưng nếu tầu Trung quốc ép quá thì rút lui, chứ không dùng bạo lực khí giới, có thể làm leo thang đến chiến tranh—có lẽ đó là đối sách tối ưu vào lúc này.

Những yếu tố đó có thể giúp tránh một cuộc xung đột lớn. Tuy nhiên, sự đương đầu giữa hai nước Việt Trung cũng vẫn cần sự can thiệp của cường quốc khác và các nước láng giềng để làm hai bên giảm căng thẳng và giúp tránh chiến tranh. Việt Nam đã có sự hỗ trợ của nhiều nước về mặt chính trị ngọai giao, và rồi có thể cả về mặt quân sự, như việc phát biểu sự ủng hộ Viêt Nam trong việc kiện ra Tòa Án quốc tế (Tổng Thống Phi , ngọai trưởng Mỹ) và trong việc có thể nâng cấp quan hệ đối tác tòan diện hiện có của Mỹ với Việt Nam lên cấp đối tác chiến lược, tức là gồm cả hợp tác an ninh và quốc phòng, giống như Mỹ đã có với một số nước đồng minh, việc nâng cấp này áp dụng cho Việt Nam và các nước khác, việc nâng cấp này do Tư lệnh Lực Lụơng Mỹ ở Thái Bình Dương Locklear đề cập tới ngày 23 tháng 5, 2014, sau khi ông cảnh báo là mọi tính toán sai của Việt Nam và Trung quốc có thể làm xung đột lan rộng.

Chính phủ VN chắc cũng biết là giàn khoan cần tiếp tế thường xuyên, đào giếng dầu cần nhiếu công ty quốc tế cộng tác trong các vấn đế kỹ thuật, mà Trung quốc không có đủ kỹ thuật cao (thí dụ ngay trong việc thử nghiệm các bùn hút lên thì phải đem về các phòng thí nghiệm cao cấp xem có dầu tốt và đủ để bỏ khai thác được, hay không ), cho nên có thể Trung quốc hung hăng muốn dùng giàn khoan để gìanh chủ quyền, nhưng rồi thấy tốn kém vô ích trong một vùng biển ít có khả năng có dầu hơn là vùng phía nam Biển Đông, phải rút đi, nhứt là nếu Trung quốc có lý do không mất thể diện là không tìm thấy dầu hay mùa bão biển đã tới.

Về phía Trung quốc, họ cũng biết là có thể có nguy cơ bị phá hoại bởi các phần tử quốc tế không ưa Trung quốc, những người này chỉ cần có người nhái, hay hành vi cảm tử/ kamikaze khác, với khí giới có thể thuộc đủ lọai, phá đổ một trong 4 chân của giàn khoan, thì giàn khoan chìm, và Trung quốc mất cả tỷ Mỹ kim. Chúng tôi là luật sư, cái nghề khiến có khuynh hướng chủ trương dùng luật là chính, vả lại tất cả những ai ở Mỹ thì phải theo luật Neutrality Act, luật không cho phép người Mỹ dùng biện pháp quân sự nào đối với một quốc gia có bang giao bình thường với Mỹ, như Trung quốc. Nhưng chúng tôi, với tư cách học gỉa ước tính tình hình khách quan, phải nói lên nguy cơ có thể có kẻ nghĩ là họ có thể phá họai giàn khoan dễ dàng vì họ biết cấu trúc giàn khoan, như kẻ khủng bố biết rõ cấu trúc World Trade Center nên phá dễ dàng hơn mọi người nghĩ.

 


Phụ Lục 1:

Về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Luận cứ của Trung Quốc khi họ viện dẫn Công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là để nói rằng ông Đồng đã ra công hàm ủng hộ tuyên bố của Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai , do đó công nhận

" 1. Lời tuyên bố chủ quyền Trung quốc trên các lãnh hải, kể cả lãnh hải tính từ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

2- Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc

3- Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuân thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. ”

Ông Phạm Văn Đồng gửi bức công hàm cho Ông Chu Ân Lai nguyên văn như sau:

“Thưa đồng chí Tổng lý,

 Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ : Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.”

Công thư không đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa. 

Nên ghi chú ngay rằng ông Đồng chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói về đảo, đất. Nhưng chúng tôi xin đi vào chi tiết 2 luận cứ pháp lý để bác luận cứ của Trung Quốc về Công hàm Phạm Văn Đồng như sau :

(a) Thứ nhất, và quan trọng nhất, Hiệp Định Geneva trao quyền quản lý hành chánh Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở phía nam vĩ tuyến 17, cho chính phủ Miền Nam Việt Nam , tức Việt Nam Cộng Hòa (VHCH), ở phía nam vĩ tuyến đó, cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa phải thuộc thẩm quyền Việt Nam Cộng Hòa, và chính phủ này cũng như hải quân của họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong và sau biến cố hải chiến 1974, còn ông Đồng, đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) lúc đó, không có thẩm quyền hay không có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đât đai về Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm đó, mà chỉ dưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12 hải lý của Trung quốc.

Tuy nguyện vọng 'dân tộc Việt nam là một, nước Việt Nam là một” là chính đáng, nhưng tình trạng hiện hữu của một quốc gia là một vấn đề sự kiện thực tại (question of fact) trong luật quốc tế, cho nên thực tại có hai nước Việt Nam, VNDCCH và VNCH, trong thời gian 1954-1975, là đúng với luật quốc tế và có lợi về mặt chính trị và pháp luật trong việc bảo vệ chủ quyền đất đai trên HS/TS bởi VNCH trong thời gian đó, mà ngày nay, sau khi thống nhất dất nước năm 1976, thì VNDCCH rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là quốc gia kế quyền (successor state) trong sự bảo vệ chủ quyền đất đai đó. Sự kế quyền trong việc bảo vệ chủ quyền đất đai này đã được chính Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nói tới.

Vào ngày 25 tháng 11/2011 tại Quốc Hội, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những phát biểu về Hoàng Sa và Trường Sa:

Việt Nam chúng ta khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự ít nhất là từ Thế kỷ XVII. Chúng ta làm chủ 2 quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào và chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục hòa bình. Nhưng đối với Hoàng Sa, năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Trường Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên hợp quốc can thiệp. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc thì Hải Quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa, đó là đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca, năm đảo này do quân đội của chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang quản lý chúng ta tiếp quản. Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo, với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm, 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển này, vùng biển trong phạm vi mà 200 hải lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta. Trong khi đó ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc cũng đã chiếm 7 bãi đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi, Philipine chiếm 9 đảo, Malaixia chiếm 5 đảo, còn Bruney có đòi hỏi chủ quyền trên vùng biển nhưng không có chiếm giữ đảo nào.

Khi một quốc gia đã hội đủ 4 điều kiện sau đây của Hiệp Ước Montevideo 1933 (nó xác lập truyền thống luật quốc tế mấy thế kỷ về tình trạng quốc gia/statehood), thì phải được coi là một quốc gia (state) thành viên trong cộng đồng quốc tế: (a) một dân số ổn định vĩnh cửu (a permanent population); (b) một lãnh thổ rõ rệt (a defined territory); (c) một chính quyền (a government); và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác (capacity to enter relations with other states). VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện này.

Còn vấn đề các nước khác nhìn nhận một state có đủ 4 điều kiện trên để lập bang giao thì là một vấn đề chính trị và tiêu chuẩn chính trị thêm vào 4 tiêu chuẩn luật, và chính phủ nào ghét một nước nào mà không nhìn nhận thì cũng không thể xóa bỏ tư cách state của nước đó—đó là trường hợp Cuba bị Mỹ ghét, không nhìn nhận, mà Mỹ đâu có xóa tư cách state của Cuba được.

Tòa án Mỹ vào các năm 1920’s công nhận chính phủ Bolshevik của Liên Sô có đặc miễn như chủ thể quốc tế khi có các vụ kiện đòi các tiền ký thác khi xưa trong ngân hàng ở Nga bị Bolsheviks quốc hữu hóa, mặc dù chinh phủ Mỹ hồi đó chưa nhìn nhận nước Liên Sô. Nước VNCH 1954-75 đã được mấy chục nước nhìn nhận ngọai giao, có lúc Liên Xô đã đề nghị cả hai nước VN vaò Liên Hiệp Quốc. Việc có vô Liên Hợp Quốc hay không vô được (thí dụ bị một trong 5 quốc gia hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An phủ quyết) , thì là chuyện chính trị, không phải là tiêu chuẩn về sự khai sinh một nước/state.

Những ai, cứ viện dẫn Hiệp Định Genève nói sẽ có một nước VN sẽ được thành lập với tuyển cử thống nhất hai phần đất tạm thời chia cắt, mà coi nước VNCH như không có trong trời đất, là không hiểu luật quốc tế mấy trăm năm về statehood và lẫn lộn tiêu chuẩn pháp lý về statehood trong luật quốc tế với những sự sắp xếp chính trị của các cường quốc trong một Hiệp Định giữa vài nước mà thôi, đã cố tình quên cái thực tại chính trị là đã có mấy chục nước nhìn nhận sự khai sinh của VNCH, và cũng quên mất luật quốc tế theo nghĩa là một số ít nước ký HĐ Geneve không thể truất cái quyền chuyên độc (sovereign) của mấy chục nước kia đã nhìn nhận VNCH.

Bây giờ ông Thủ Tướng Dũng nói, và trước đây gỉả thử tiền nhiệm của ông là ông Đồng nói một cách minh thị hơn nữa, nói đến 2 nước Việt Nam trong giai đọan 1954-1975, thì cũng không giảm giá trị của sự nghiệp thống nhất đất nước làm vào năm 1975-76, vì trong lịch sử thế giới, đã có nhiều quốc gia chia ra nhiều mảnh rồi lại thống nhất, và cũng có quốc gia chia ra hai. Thí dụ, Pakistan chia thành hai, nửa kia thành Bengladesh, Sudan trước là một thì nay là hai quốc gia, mà các quốc gia đó vẫn có vị trí được nhìn nhận trong cộng đồng các quốc gia; và các lãnh tụ chính trị đưa hai quốc gia của một dân tộc đến thống nhất, mà biết tôn trọng quyền lợi của cả dân tộc sau khi thống nhất, thì cũng được lịch sử khen ngợi—như Lincoln, sau Chiến tranh Nam Bắc Mỹ, đã nói “Cùng nhau, chúng ta sẽ săn sóc cho cô nhi, quả phụ của cả hai bên”

Vậy xin nhắc lại là ông Phạm văn Đồng, đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCH) lúc đó, phải được gỉai thích là không có thẩm quyền hay không có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đât đai về Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia khác, vào thời điểm đó, mà chỉ dưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12 hải lý của Trung quốc. Có gỉải thích như vậy mới không bị Trung quốc bắt bí, và cứ quy cho Việt Nam cái thế “há miệng mắc quai” vì lối giải thích Công hàm Phạm Văn Đồng của Trung quốc.

(b) Thứ hai, một bản tuyên bố đơn phương (unilateral declaration) như Công Hàm Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý về mặt quốc tế. Trong luật quốc tế, không thể cố áp dụng lý thuyết estoppel, tức là lý thuyết trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia có quy định là “Đã nói ra thì không nói ngược lại được”, vì lý thuyết này không áp dụng trong luật quốc tế theo cùng các điều kiễn như trong luật quốc nội, vì có những điều kiện ngặt nghèo, và do đó không thể coi lời nói đơn phương có hiệu lực ràng buộc đương nhiên trong luật quốc tế.

Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Ngòai ra, theo một án lệ khác, khi xét ý nghĩa của lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải xét một cách chặt chẽ ý định (intention) của người tuyên bố.

Theo án lệ NUCLEAR TESTS CASE AUSTRALIA& NEW ZEALAND v. FRANCE 1974 I.C.J. 253, thì “dĩ nhiên là không phải hành vi đơn phương nào cũng tạo ra nghĩa vụ; nhưng một quốc gia có thể chọn theo một lập trường về một vấn đề nào đó với ý định sẽ tự ràng buộc—miễn là ý định này phải xét kỹ bằng sự giải thích hành vi đó. Khi các quốc gia đưa ra lời tuyên bố hạn chế tự do hành động của mình, thì phải gỉải thích hạn hẹp..”

Tòa án cũng nói là : “chỉ cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong lời tuyên bố có biểu lộ một ý định rõ rệt không ….Tòa án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và phạm vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý, và tòa không thể bị ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác vốn không thể là một bên đương sự trong lời tuyên bố đó. (Of course, not all unilateral acts imply obligation; but a State may choose to take up a certain position in relation to a particular matter with the intention of being bound--the intention is to be ascertained by interpretation of the act. When States make statements by which their freedom of action is to be limited, a restrictive interpretation is called for......The Court further stated in the same case: “... the sole relevant is whether the language employed in any given declaration does reveal a clear intention...”(Ibid., p. 32). Court must however form its own view of the meaning and scope intended by the author of a unilateral declarationwhich may create a legal obligation, and cannot in this respect be bound by the view expressed by another State which is in no way a party to the text.).

Ý định của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong cái câu ông nói ở Công hàm 1958 (“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc'') phải được xét trong khuôn khổ quyền hạn thủ tướng chiếu Hiến Pháp 1946, theo đó Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các (điều 44), trong nội các đó, có Thủ Tướng (điều 44), và Chủ tịch nước mới là người thay mặt cho nước (điều 49 đọan a) mà ký hiệp ước với nước khác (điếu 49 đọan h) ràng buộc VN về việc quan trọng. Thí dụ chủ quyến đât đai như việc nhượng đất, kèm theo quyết định chuẩn y hiệp ước bởi nghị viện là cơ quan quyền lực cao nhất, thì mới có quyền về nhượng đất (điều 22 và 23).

Còn thủ tướng không thể vượt quá quyền, theo "học lý luật pháp ultra vires," và công hàm của ông, trong ngôn ngữ dùng, chỉ có ý định ủng hộ ngọai giao cho Trung quốc về một điểm là 12 haỉ lý hải phận mà Trung quốc đang lo lắng tuyên bố để chống sự đe dọa lúc đó của Mỹ từ hai đảo Kim Môn và Mả Tổ quân đội Đài Loan chấn giữ với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ và đe dọa lớn hơn của Mỹ từ eo biển Đài Loan với Hạm đội 7.

Hơn nữa, ý định của ông Đồng không thể được gỉải thích là liên quan đến nhượng đất, vì Trung quốc yêu sách về tất cả các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó nhiều đảo thuộc quyền chiếm hữu của một số quốc gia Đông Nam Á, mà ông Đồng không là đại diện để nói về chuyện nhượng đất. Lời ông Đồng nói, Trung quốc không thể đem đối kháng với các quốc gia Đông Nam Á đó được—kể cả VNCH. Theo án lệ Nuclear Tests case nói trên, Toà án quốc tế không cần nghe giải thích chủ quan, thủ lợi theo ý mình, của Trung quốc.

Phụ Lục 2:

Phản biện các luận cứ "cãi cố" khác của TQ

NGÒAI RA, CÓ THỂ CÓ NHỮNG BIỆN LUẬN CÃI CỐ CỦA TRUNG QUỐC,

●» Trong việc Trung quốc cố biện luận là Việt Nam đã có những lời tuyên bố nhìn nhận chủ quyền của họ trên Hòang Sa, Trường Sa, thì ngoài Công hàm Phạm Văn Đồng, họ còn có thể viện dẫn báo Nhân Dân ngày 6 tháng 8 năm 1958 khi đăng tuyên bố của Chu Ân Lai có in cả đoạn nói về Tây Sa và Nam Sa; và bài báo Nhân Dân ngày 9 tháng 5 năm 1965 khi phản đối Mỹ cũng nói là Mỹ đã vi phạm lãnh hải của TQ ở Tây Sa và Nam Sa. Họ cũng có thể viện ra lời của Thứ Trưởng Ngoại giao Ưng văn Khiêm. Họ cũng có thể nói thêm Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã im lặng nhiều năm, không phản đối chuyện mất Hòang Sa về tay họ năm 1956 (khu vục Amphitrite với đảo Woody , phía đông Hòang sa) và 1974 (khu vực Crescent có đảo Pattle/Hòang Sa phía tày Hòang Sa). Sau hết, Việt Nam có in bản đồ ghi Tây Sa, Nam Sa (Trung quốc).

THÌ TA  TRẢ LỜI NHƯ SAU:

NHƯNG Việt nam có thể bác khước là:

Ngay cả lời tuyên bố đơn phương/unilateral declaration của ông Thủ Tướng Đồng cũng không có giá trị về chuyển nhượng lãnh thổ, nũa là mấy bài báo Nhân dân của mấy ký giả Việt Nam hay lời nói thóang qua của Bộ Trưởng ngọai giao Khiêm chỉ nhắc lại nguyên văn bản tuyên bố của Trung quốc hay chỉ nịnh Trung quốc bằng những lời không có nội dung chuyển nhượng lãnh thổ hay bằng những lời của những ai không có tư cách như chủ tịch nước phát ngôn chuyển nhượng lãnh thổ.  

●» Còn việc Trung quốc biện luận là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa im lặng khi mất Hòang Sa trong những năm trước 1975, thì có thể trả lời là

Lúc đó, việc phản đối thuộc thẩm quyến chính phủ có quyền quản lý là quốc gia VNCH và VNCH đã mạnh mẽ phản đối, kể cả chống cự bằng võ lực. Sau khi thống nhất, hay khi sắp sửa thống nhất, thì hải quân VNDCCH cũng đã vội chiếm trong tay quân đội VNCH các đảo ớ Trường Sa vào năm 1975 và từ 1976 trở đi, chính phủ của nước Việt Nam thống nhất liên tục lên tiếng phản đối để bảo lưu chủ quyền VN.

●» Sau hết, việc in bản đồ ghi Tây Sa, Nam Sa (Trung quốc), ta trả lời là

Việt Nam chỉ nói để làm được lòng Trung quốc, đồng minh của VNDCCH đang viện trợ lúc đó, muốn yêu sách như vậy, cũng như Trung quốc bây giờ in khung Đường Lưỡi Bò vào trong sổ hộ chiếu họ dùng, nhận vơ hầu như tất cả Biển Đông trong khung Đường Lưỡi Bò đó;

cả hai việc đó không có giá trị của một lời hay một hiệp ước nhượng đất của các cơ quan hiến định Việt Nam có quyền nhượng đất, là chủ tịch nước và nghi viện hay quốc hội.

Tạ Văn Tài

Bài viết trên MS-Word tác giả gửi ngày 31 tháng 5, 2014


.. -- o0o -- ..
.... ---oo0oo --- ....


Phụ đính của sachhiem:

1. Danh sách đảo san hô, cồn cát, rạn đá ngầm và bãi ngầm thuộc quần đảo Hoàng Sa

http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A7n_%C4%91%E1%BA%A3o_Ho%C3%A0ng_Sa

2. Nhiều bằng chứng giá trị khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam

http://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C1657/N16341/Nhieu-bang-chung-gia-tri-khang-dinh-Hoang-Sa,-Truong-Sa-cua-Viet-Nam.htm

3. Những bản đồ cổ:

Bản đồ Prevost Bellin (Đức) xuất bản năm 1747

Bản đồ Prevost Bellin (Đức) xuất bản năm 1747 ghi rõ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam bấy giờ - Ảnh: Anh Sơn

 

 

Trang Tôn Giáo

1

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2014

Trận Chiến Ngọai Giao, Công Luận và Pháp Lý

Lắng nghe tiếng nói của người dân để lấy “thế nước”. Lắng nghe ý kiến các bậc sĩ phu để hình thành “sách lược”. Dân là thế mạnh của nước, nhưng đánh thắng họăc giữ yên bờ cõi là trí tuệ của sĩ phu. Quần chúng cuồng nhiệt xuống đường biểu tình nhưng sau đó lại về nhà lao vào cuộc sống áo cơm và không có sách lược. (ĐVB)




Hai tuần lễ sau cùng của Tháng 5, Nhật Ký Biển Đông ghi nhận những biến chuyển quan trọng như sau:

-Báo Điện Tử Thanh Niên ngày 19/5/2014: “Nhật Bản có thể can dự vào xung đột ở biển Đông nếu quyết định mở rộng quyền phòng vệ tập thể đối với các nước Đông Nam Á. Đó là nhận định của Asahi Shimbun, tờ báo lớn thứ hai của Nhật. Theo Asahi Shimbun, một số quan chức cấp cao của Nhật đã đề cập khả năng mở rộng quyền phòng vệ tập thể không chỉ đối với Mỹ mà còn cả những quốc gia như Philippines, Malaysia, Indonesia và Việt Nam.

-TTX/VN Ngày 20/5/2014: “Trả lời câu hỏi của phóng viên TTX/VN tại Liên hợp quốc trong cuộc họp báo ngày 19-5, ông Stephane Dujarric (Xti-phen Đu-gia-rích), người phát ngôn LHQ, cho biết vấn đề căng thẳng trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được Tổng Thư ký Ban Ki-moon (Ban Ki Mun) thảo luận với giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc nhân chuyến thăm nước này.



Thủ Tướng nước Đức tặng ông Chủ Tịch Trung Hoa Tập Cận Bình một tấm bản đồ Trung Hoa ở thế kỷ 18- ngày 28 tháng 3, 2014

-BBC tiếng Việt ngày 20/5/2014: Trong cuộc họp các bộ trưởng quốc phòng Asean tại Miến Điện hôm 20/5. 
“Thông Tấn Xã Việt Nam tường thuật Bộ trưởng Phùng Quang Thanh phát biểu tại Myanmar rằng Việt Nam "sẽ hết sức kiềm chế để không xảy ra xung đột quân sự trên biển. Chúng tôi không sử dụng máybay, tàu tên lửa, tàu pháo, lực lượng đặc công người nhái tấn công, phá hủy giàn khoan của Trung Quốc. Việt Nam chỉ sử dụng các tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư và tàu cá của ngư dân để bảo vệ chủ quyền." Trong khi đó, Tân Hoa Xã đưa tin Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn đã mạnh mẽ chỉ trích Việt Nam khi gặp người tương nhiệm Phùng Quang Thanh tại hội nghị ở Naypyidaw, Myanmar





Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa. Reuters


-RFI tiếng Việt ngày 20/5/2014: Với tiêu đề “Giàn khoan HD-981 : Indonesia can dự mạnh mẽ hơn vào cuộc đối đầu Việt-Trung” RFI đưa tin, “Mục tiêu được Ngoại trưởng Indonesia tuyên bố vào hôm nay 20/05/2014 là để giúp ổn định tình hình, nhưng theo giới phân tích, Jakartađã tung ra một thông điệp cứng rắn hơn về phía BắcKinh. Trả lời phỏng vấn nhật báo Mỹ Wall Street Journal, Ngoại trưởng Marty Natalegawa như đã lần lượt phản bác một số quan điểm từng được Trung Quốc đưa ra để biện minh cho hành động leo thang tranh chấp với Việt Nam tại vùng quần đảo Hoàng Sa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.” Ngọai trưởng Indonesia nói rằng hai bên đều nói tự kiềm chế, nhưng thế nào là tự kiềm chế?

-Voive of Russia ngày 21/5/2014: Tại Hội Nghị Tương Giao và Những Biện Pháp Xây Dựng Niềm Tin Ở Châu Á (Conference on Interaction and Confidence BuildingMeasures in Asia, or CICA) diễn ra ở Thượng Hải. Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố, "Khu vực này đòi hỏi phải có một kiến ​​trúc an ninh đảm bảo tính chất bình đẳng của sự qua lại, sự cân bằng đích thực và hài hòa lợi ích”. Còn ông Tập Cận Bình ngầm cảnh cáo những liên minh quân sự mới đây là sẽ không đem lại lợi ích an ninh cho khu vực, nhưng cam kết sẽ giải quyết những tranh chấp tại Biển Đông bằng giải pháp hòa bình. Nhưng không biết chuyện vẽ “Đường Lưỡi Bò” rồi áp đặt luật lệ đánh cá, chuyển bãi đá ngầm thành phi đạo, đặt giàn khoan rồi đem cả trăm tàu chiến, máy bay, tàu hải giám, tàu ngư chính tới để bảo vệ giàn khoan có phải là biện pháp “hòa bình” không? Nhân dịp này Ô. Tập Cận Bình cũng đề nghị thiết lập một cấu trúc hợp tác an ninh bao gồm Trung Quốc, Nga và Iran để ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ mà ông gọi là “những tình huống khẩn cấp lớn lao”.

-VOV ngày 21/5/2014: “Trong phiên điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ vào sáng nay (21/5, theo giờ Việt Nam), các nghị sỹ Mỹ đã bày tỏ mối lo ngại đặc biệt trước hàng loạt các hành động gây căng thẳng của Trung Quốc trong thời gian qua. Ngay trong phần hỏi đáp đầu tiên với Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, Daniel Russel, nhiều Hạ nghị sỹ đã mạnh mẽ lên án việc Trung Quốc đặt giàn khoan dầu trong vùng biển của Việt Nam.Trả lời câu hỏi về phản ứng của Mỹ, Trợ lý Ngoại trưởng Daniel Russel cho biết: "Mỹ đã trao đổi trực tiếp với Trung Quốc về những vấn đề này qua kênh ngoại giao và nói thẳng rằng Trung Quốc phải sử dụng biện pháp ngoại giao thay vì vũ lực. Vấn đề ở đây không phải là tiềm lực của Trung Quốc mạnh như thế nào mà là cơ sở pháp lý của nước này mạnh như thế nào trong các tranh chấp lãnh thổ. Mỹ không phản đối quyền đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc nhưng phản đối các hành vi cưỡng ép, hăm dọa và phi ngoại giao".

-BBC tiếng Việt ngày 21/5/2014: Nhân dịp tham dự Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới về Đông Á 2014 tổ chức tai Phi Luật Tân, “Thủ tướng Việt Nam nói trong chuyến thăm Philippines hôm 21/05 rằng việc Trung Quốc đặt giàn khoan ở vùng biển Đông đe dọa nghiêm trọng hòa bình. Sau cuộc họp với Tổng thống Philippines Benigno Aquino, ông Nguyễn Tấn Dũng nói lãnh đạo hai nước đã đồng thuận trong việc Trung Quốc nên bị cộng đồng quốc tế lên án về vụ giàn khoan và rất nhiều các hành động trái phép khác trên biển.” Cũng theo BBC, Giáo Sư Carl Thayer nhận định như sau, “Việc Việt Nam cùng sát vai với một đồng minh của Hoa Kỳ và kêu gọi trực tiếp để có sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế là chưa có tiền lệ." GS. Carl Thayer cũng nói rằng, “Việt Nam phải chơi tất cả lá bài họ có trong tay vì rõ ràng là ASEAN đã không phản đối Trung Quốc.

-Ngày 22/5/2014: Trả lời các câu hỏi của các phóng viên Reuters và AP, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam nói, “Tôi muốn nhấn mạnh rằng, Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. Có lẽ như tất cả các nước, Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế”. Trả lời câu hỏi trong bối cảnh căng thẳng leo thang hiện nay ở Biển Đông, Việt Nam có những đề nghị gì đối với cộng đồng quốc tế, có xem xét tham gia các liên minh an ninh không? Ô. Nguyễn Tấn Dũng đáp, “Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác. Đây là chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam. Chúng tôi đã công khai về điều này rất nhiều lần với thế giới. "

-Báo Điện Tử Thanh Niên ngày 22/5/2014: “Tham dự Hội thảo quốc tế về tương lai châu Á lần thứ 20 do hãng tin Nikkei tổ chức. Nikkei trích các nguồn tin chính phủ Nhật Bản cho hay, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam và Thủ tướng Shinzo Abe “đồng ý tăng cường hợp tác nhằm bảo đảm an ninh biển giữa lúc Trung Quốc ngày càng hung hăng trong các vùng biển lân cận”. Cũng trong hôm qua, nguồn tin chính phủ Nhật Bản cho biết Ngoại trưởng Fumio Kishida sẽ thăm Hà Nội vào cuối tháng 6 để thảo luận với Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nhằm đẩy nhanh kế hoạch hỗ trợ tàu tuần tra bảo vệ biển Đông cho Việt Nam.”

-Báo Điện Tử Thanh Niên ngày 22/5/2014: Khi được yêu cầu bình luận về phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Patrick Ventrell nói, “Mỹ ủng hộ việc dùng kênh ngoại giao và các biện pháp hòa bình khác để kiểm soát và giải quyết bất đồng, chẳng hạn như nhờ đến tòa án quốc tế hoặc các cơ chế pháp lý quốc tế khác”. Reuters bình luận động thái này của Mỹ nhiều khả năng sẽ khiến Bắc Kinh bực tức.

-AP ngày 23/5/2014: Tư Lệnh Thái Bình Dương, Đô Đốc Locklear nói với báo chí bên lề Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới về Đông Á tổ chức tại Manila, “Sau ba tuần đụng chạm căng thẳng tại Giàn Khoan Haiyang 981 tại Biển Đông, tôi thật lo lắng, theo tôi, nguy cơ tính tóan sai lầm thật cao, tôi khuyến khích hai bên kiềm chế.

-BBC tiếng Việt ngày23/5/2014: Trong một cuộc họp báo quốc tế tại Hà Nội, Ông Trần Duy Hải -Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia nói, “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa. Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy nên điều đó càng khẳng định công văn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý.

-Bloomberg News ngày 25/5/2014: Bộ Trưởng Quốc Phòng Nhật Bản tsunori Onodera tố cáo máy bay chiến đấu Trung Quốc đã bay sát máy bay trinh sát Nhật chỉ cách 30 mét và coi đây là hành động nguy hiểm. Còn Trung Quốc cảnh cáo Nhật Bản không được xâm nhập vào cuộc thao diễn hải quân Trung Quốc với Nga.



Tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc tại căn cứ Hải Nam

-Nguồn tin Canada ngày 25/5/2014: “Ba tàu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo liên lục địa với tầm bắn 4900 dặm đã được nhìn thấy ở vùng biển ngoài khơi Đảo Hải Nam, cực nam Trung Quốc. Tờ Washington Free Beacon ngày 28/5/2014 xác nhận tin và hình ảnh này.

-Thanh Niên Online ngày 25/5/2014: “Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long phát biểu tại hội nghị về tương lai châu Á ở Nhật ngày 23/5/2014: Chiến tranh tại châu Á không phải là điều không thể xảy ra nếu căng thẳng trong khu vực không được giải quyết một cách có trách nhiệm.

-VnExpress ngày 26/5/2014: “Ngày 26/5, lực lượng Kiểm ngư Việt Nam phát hiện Trung Quốc đưa tàu quét mìn hoạt động trong khu vực hạ đặt giàn khoan trái phép ngoài tàu tên lửa tấn công nhanh.

-Reuters ngày 26/5/2014: Vào ngày Thứ Hai 26/5/2014, phát ngôn viên Bộ Ngọai Giao Trung Quốc, “Nhìn Bộ Trưởng Ngọai Giao Việt Nam tổ chức cuộc họp báo vào Thứ Sáu vừa rồi về chủ quyền Biển Đông, tôi thấy chuyện rất là lố bịch (ridiculous)”.

-Thanh Niên Online ngày 27/5/2014: “Ngày 27/5/2014 Chánh Văn Phòng Thủ Tướng Nhật Bản yêu cầu Trung Quốc kiềm chế không để căng thẳng leo thang ở Biển Đông sau khi có tin tàu cá của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm trong vùng biển tranh chấp ngày 25/5/2014.

-BBC tiếng Việt ngày 27/5/2014: Tiến Sĩ Hoàng Ngọc Giao- Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Chính Sách Pháp Luật và Phát Triển (thuộc Vusta) nói với BBC, “Chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc về vụ giàn khoan Hải Dương 981 tại Hoàng Sa, trên Biển Đông không mất quá lâu về mặt thời gian”.

-RFI ngày 28/5/2014: “Hôm qua, 27/05/2014, Bắc Kinh đã phản ứng mạnh mẽ về tuyên bố của phía Nhật Bản lên án vụ tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Việt Nam trên Biển Đông. Trong khi đó, tờ Yomiuri của Nhật số ra ngày hôm nay, trích dẫn nguồn tin từ bộ Quốc phòng Nhật Bản, cho biết nước này sẽ điều một tàu vận tải đổ bộ có bãi đáp cho tám trực thăng chuyển quân và chống tàu ngầm thuộc Lực lượng Phòng vệ vùng biển đến Biển Đông chở theo 140 binh lính Mỹ và Úc tham gia diễn tập cứu hộ với Việt Nam, Cam Bốt và Philippines. Cuộc diễn tập cứu hộ này cũng là nhằm thể hiện tình đoàn kết của Nhật, Hoa Kỳ và Úc đối với các nước Đông Nam Á trước Trung Quốc. Tàu Kunisaki sẽ đến Việt Nam ngày 06/06. Đây là lần đầu tiên tàu Lực lượng phòng vệ vùng biển Nhật Bản tham gia vào một hoạt động như vậy.

-VOV ngày 28/5/2014: Trong cuộc gặp gỡ báo chí diễn ra chiều 28/5 tại Hà Nội, Thượng nghị sỹ Mỹ Benjamin Cardin, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á-Thái Bình Dương thuộc Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ nói, “Các hành vi của Trung Quốc không chỉ đe dọa đến an ninh của Việt Nam mà còn đe dọa đến an toàn, an ninh hàng hải của cả khu vực, ảnh hưởng đến những lợi ích của Mỹ.”

Thủ Tướng Nhật Bản Abe

- Bloomberg ngày 30/5/2014: Tại Diễn Đàn An Ninh Shangri-La, Singapore Thủ Tướng Nhật Bản Abe tuyên bố, “Nhật Bản sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào để giúp các quốc gia Đông Nam Á bảo vệ biển và cam kết trợ giúp mạnh mẽ cho Phi Luật Tân và Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc.” Tuyên bố này coi như lời tuyên chiến trực tiếp đối đầu với Trung Quốc tại Biển Đông.

-AP ngày 31/5/2014: Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel nói tại Diễn Đàn An Ninh Shangri-La, “Tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc làm bất ổn khu vực và chuyện Bắc Kinh không giải quyết những tranh chấp đe dọa sự phát triển lâu dài của Đông Á.

Nhận Định

Trong lúc trận chiến giằng co ngày đêm trên địa bàn giàn khoan Haiyang 981 với thiệt hại nặng nề cho lực lượng Cảnh Sát Biển và Kiểm Ngư kể cả ngư dân Việt Nam vẫn tiếp diễn (30 tàu bị đâm húc) thì trận chiến ngọai giao, tranh thủ công luận và chuẩn bị pháp lý cũng rất căng thẳng. Tin tức về những cọ sát ở giàn khoan và nhất là lời tuyên bố của Ô. Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến công du tham dự Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới về Đông Á, gặp gỡ tổng thống Phi Luật Tân được loan tải dường như muốn lấn át cả những tin tức nóng bỏng về cuộc khủng hoảng Ukraine.

Chưa bao giờ số lượng học giả, nhà bình luận, nghiêu cứu trên khắp thế giới lại đưa ra giả thuyết, lời bình, phỏng đoán về cuộc khủng hoảng Biển Đông nhiều đến như vậy. Trong mặt trận ngọai giao, Nhật Bản là nước hỗ trợ Việt Nam mạnh mẽ nhất. Quốc Hội Hoa Kỳ rất nhiệt tình. Còn hành pháp Hoa Kỳ tức Ô. Obama vẫn còn e dè, diễn văn thì quá nhiều văn chương, bóng bẩy. Nếu nổ ra chiến tranh, chắc chắn Nhật Bản sẽ đứng bên cạnh Việt Nam trong học thuyết “Phòng Thủ Tập Thể” qua việc làm và lời tuyên bố của Ô. Abe tại Đối Thọai Shangri-La ngày 30/5/2014.

Ba trận chiến này đang tạo áp lực nặng nề lên Bắc Kinh. Do thất thế về căn bản pháp lý và công luận, Hoa Lục bắt đầu mất bình tĩnh, hành xử man rợ và bộ ngọai giao nói năng thô lỗ không xứng với tư cách của một đại cường. Đây là khúc quanh nguy hiểm không phải chỉ liên quan đến vận mệnh Việt Nam mà cả vận mệnh của Trung Quốc. Khi Việt Nam còn do dự thì trận chiến âm ỉ. Khi Việt Nam “chấp nhận thương đau” và "Vàng quý nhưng không quý bằng chủ quyền quốc gia” thì trận chiến nổ lớn. Theo các nhà nghiên cứu, Hoa Lục đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng khi dồn Việt Nam vào chân tường. Nếu Việt Nam không thể sống chung với Trung Quốc thì không một ai trên thế giới này có thể sống chung với Trung Quốc. Dù Việt Nam có tan nát vì chiến tranh nhưng thế giới sẽ mau chóng giúp Việt Nam khôi phục. Nhưng Hoa Lục sẽ phá sản hoàn toàn trên các lãnh vực ngọai giao, uy tín và thương mại…trên quy mô toàn cầu. Thế giới sẽ nhìn Hoa Lục như một tái sinh của Hitler và Quân Phiệt Nhật và đẩy Hoa Lục vào chu kỳ khủng hoảng. Lúc đó một liên minh quân sự rộng lớn bao gồm: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn, Phi Luật Tân, Singapore, Ấn Độ, Nam Dương, Mã Lai sẽ không còn úp mở mà công khai ra mặt đối đầu với Trung Quốc. Ngày 24/5/2014 BBC tiếng Việt đã đăng bài bình luận của Giáo Sư Francois Huchet thuộc Viện Nghiên Cứu Quốc Gia về Ngôn Ngữ và Văn Hóa Phương Đông của Pháp tại Paris (INALCO):

Trung Quốc cần thận trọng nếu không muốn mắc sai lầm chiến lược khi làm cho Việt Nam và nhiều nước láng giềng nổi giận vì những hành động khiêu khích và thách thức chủ quyền…tính toán của ê kíp lãnh đạo do ông Tập Cận Bình đứng đầu có thể đang dẫn tới một sai lầm lớn. Sau một loạt các diễn biến, tôi cho rằng Trung Quốc đã đang nhận thấy một tình thế nguy hiểm, bên bờ xảy ra, khi một loạt quốc gia xung quanh Trung Quốc từ Nhật Bản tới Việt Nam, hay Philippines và Hàn Quốc thảo luận với nhau và đều nổi giận với Trung Quốc.” Reuters ngày hôm nay 31/5/2014 trích dẫn Tân Hoa Xã nói rằng trong dịp gặp gỡ Thủ Tướng Mã Lai Najib Razak đang thăm viếng nước này, Chủ Tịch Tập Cận Bình tuyên bố, “Chúng tôi sẽ không bao giờ khuấy động rắc rối, nhưng sẽ phản ứng một cách cần thiết đối với sự khiêu khích của quốc gia nào đó”.

Hiện nay cả thế giới đều nói Trung Quốc đang khiêu khích Nhật Bản, Philippines và Việt Nam. Nhưng báo chí Trung Quốc lại nói chính Nhật Bản, 
Philippines và Việt Nam khiêu khích Trung Quốc cho nên Trung Quốc buộc lòng phải “phản ứng một cách cần thiết”. Vậy thì lời tuyên bố của ông Tập Cận Bình chẳng có ý nghĩa gì cả.

Lịch sử cổ đại Trung Hoa đã từng sản sinh ra những nhân vật vĩ đại về tư tưởng, triết học, ngọai giao và an bang tế thế. Nhưng lịch sử cận đại Trung Hoa lại toàn sản sinh ra những nhân vật lãnh đạo ngu xuẩn và hung ác. Xã hội cũng như con người Trung Hoa cả trăm năm qua không phải mẫu mực, tốt lành để thế giới kính trọng, học hỏi. Nhưng không hiểu bằt nguồn từ đâu các nhà cai trị Trung Hoa luôn luôn coi mình là “cái rốn của vũ trụ”. Có thể tư tưởng ngạo mạn này phát xuất từ ý niệm “Con Trời” của thời phong kiến.

Trong thế giới tự do cạnh tranh ngày hôm nay không ai bài bác hay ghen tỵ chuyện Trung Quốc trở thành siêu cường hoặc tranh ngôi bá chủ thế giới với Hoa Kỳ. Nhưng sự “trỗi dậy để trở thành siêu cường” phải làm trong hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế và trong tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm có nghĩa là phải gìn giữ hòa bình và không gây bất ổn cho thế giới. Vạch một “Đường Lưỡi Bò” bao gồm 90% biển đảo của các nước lân bang nói rằng có từ đời Hán, rồi ban hành lệnh cấm đánh cá, đem tàu ngư chính, tàu hải giám và hằng trăm tàu dánh cá tới để vơ vét tài nguyên và chiếm đóng biển đảo, biến các bãi đá ngầm thành phi đạo, ngang nhiên thiết lập thành phố để quản trị hành chính các vùng biển đảo vừa cưỡng chiếm, cho đấu thầu khai thác tài nguyên trên các vùng thuộc thềm lục địa của các quốc gia khác. Và mới đây nhất cho giàn khoan khổng lồ tới khoan dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam với sự bảo vệ của chiến hạm, trực thăng và tàu vét mìn. Tất cả hành động trên không thề gọi là “hòa bình” mà là hành vi “cướp biển trên quy mô quốc gia” theo như nhận định của học giả Carl Thayer.

Vì quá nóng vội và tham vọng, cộng thêm với sự o ép của giới quân phiệt hiếu chiến, Hoa Lục đang lao vào cuộc phiêu lưu cực kỳ nguy hiểm cho Đông Nam Á và Á Châu. Không phải hiện nay Trung Hoa không có “hiền tài”. Nhưng “hiền tài” không được các nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc lắng nghe, chẳng hạn như học giả Lý Lệnh Hoa đã từng nói Trung Quốc chẳng có cơ sở pháp lý nào về Đường Lưỡi Bò. Nếu thực thi Đường Lưỡi Bò tức đẩy cả dân tộc Trung Hoa vào cuộc phiêu lưu không lối thóat. Khi trí thức bị gạt bỏ thì thế nào đất nước cũng xụp đổ cho dù có mạnh như Quốc Xã Đức, Quân Phiệt Nhật, Tần Thủy Hoàng, hay Mông Cổ đi nữa.

Lắng nghe tiếng nói của người dân để lấy “thế nước”. Lắng nghe ý kiến các bậc sĩ phu để hình thành “sách lược”. Dân là thế mạnh của nước, nhưng đánh thắng họăc giữ yên bờ cõi là trí tuệ của sĩ phu. Quần chúng cuồng nhiệt xuống đường biểu tình nhưng sau đó lại về nhà lao vào cuộc sống áo cơm và không có sách lược.

Ảnh minh họa

Đất nước mà còn có sĩ phu thì đất nước tồn tại, dù giang sơn có nguy biến như thế nào đi nữa. Sĩ phu ở đây là các bậc trí thức, các nhà quân sự, ngọai giao có khả năng hình thành sách lược như Lý Thường Kiệt, Thái Sư TrầnThủ Độ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi chứ không phải trí thức bàn tán vu vơ. Đây là thuật trị nước “Non sông muôn thuở vững âu vàng” của các bậc minh quân Đại Việt. Đó là lý do tại sao một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam vẫn tồn tại sau bao nhiêu giông bão của lịch sử và ngửng cao đầu với thế giới.


Trung Quốc muốn trở thành siêu cường nhưng phải biết lãnh đạo một siêu cường không dễ. Phạm sai lầm bình thường thì còn sửa chữa được. Nhưng nếu phạm phải sai lầm chiến lược thì tiêu vong. Sai lầm chiến lược của Trung Quốc ở đây là đòi khống chế một vùng biển - không phải là vùng biển hoang - mà là “nồi cơm hũ gạo của thế giới” bằng cách chiếm đọat biển đảo của các nước nhỏ, khiến các đại cường liên minh lại để “thế thiên hành đạo” tru diệt mình. Sự thất bại đưa tới xụp đổ của Trung Quốc nếu xảy ra theo như tiên đoán thì cũng chỉ là “Thuận thiên giả tồn. Nghịch thiên giả vong”. Thiên ở đây là lòng người. Khi mà toàn bộ Đông Nam Á, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Châu nhìn Hoa Lục như một đe dọa an ninh của họ thì “lòng người không còn tựa Hoa Lục nữa rồi”. Khi “lòng người” đã không còn thì thế ngọai giao sụp đổ. Đó là lúc Hoa Lục dù mạnh gấp ba lần bây giờ cũng sẽ bại vong.


Đào Văn Bình


(California ngày 31/5/2014)

Theo Sách Hiếm (Sachhiem.net)
0

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Đảng Việt Tân giật dây Quan Làm Báo?

18/9/12- Cách đây đúng 2 tuần, ngày 4.9.2012 ông Bùi Tín đưa lên blog bài viết “Quan Làm Báo“: Đắt khách nhưng bí hiểm”, trích một đoạn đầu ông viết: “Hơn 1 tháng nay, mạng Quan Làm Báo đã trở thành một hiện tượng thông tin chấn động dữ dội công luận. Mạng này xuất hiện bất ngờ, không báo trước. Chẳng có tuyên ngôn, khẩu hiệu, phương châm. Chẳng có địa chỉ, tên tuổi người hay nhóm chủ trương, như một số mạng, blogger khác, trong hay ngoài nước.

Nhưng một điều rất rõ : Quan này rất đông khách vào thăm thú. Có thể nói Quan giật ngay kỷ lục về đắt khách. Vượt mạng Bauxite, vượt mạng Anh Ba Sàm, bỏ xa cả Dân Làm Báo. Đạt hàng triệu và sắp đạt chục triệu người vào đọc từ khi trình làng.

Vậy mà cho đến nay mặt mũi, chân dung, tiểu sử, lý lịch, quan điểm chính trị của Quan Làm Báo ra sao vẫn là điều bí mật, bí hiểm.”



Đảng phản động Việt Tân giật dây Quan Làm Báo?

Bài viết của Bùi Tín được nhiều trang mạng xã hội đăng lại trở thành đề tài bàn tán xôn xao, trong những ý kiến phỏng đoán được ăn ý nhất cho rằng “Trang blog Quan làm báo là của (华南情报局 – Phân Cục tình báo Hoa Nam) do trung tá Trương Hiểu Long (张 绕 龙 – Zhang Rao Long) chỉ huy với sự tham gia của Quách Đại Hung (郭 大雄 – Guo Da Xiong) và Hồ Huấn Nghiệp (胡 训业 – Hu Xun Ye) là những người Hoa, quốc tịch Mỹ trực thuộc thuộc phòng 10 chuyên về tin tức chính trị và gây nhiễu thông tin.

Nhóm này có văn phòng tại California – USA, với nhiệm vụ chính là liên kết và lôi kéo một người Việt mang quốc tịch Mỹ hợp tác trong việc phối hợp sản xuất, pha chế các tin tức với mục đích kích động, gây chia rẽ và gây nhiễu loạn thông tin theo phương châm “vứt xương chó chó cắn nhau”, nghĩa là kích động tất cả các bên nhằm chơi trò “ngao cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi”.

Điều đó đã khiến nhà nước Việt nam phải tiến hành buộc các nhà cung cấp dịch vụ Internet đang phong tỏa blog nhằm hạn chế các tiếng nói khác biệt và đòi tự do dân chủ của các blogger trong nước từ tháng 6 đến đầu tháng 7 khi Phạm chí Dũng bị bắt xong xuôi. Việc ngăn chặn của chính quyền đã gặp phải sự phản ứng dữ dội từ các blogger và dư luận quốc tế về việc hạn chế và kiểm duyệt thông tin của chính quyền Việt nam.”

Nếu nói đoán thì là phỏng chừng vì trên mạng ảo khó ai biết được người ngồi phía sau màn hình tên họ là gì .

Lời đồn đoán chưa tới hồi kết thúc thì ngày 17.9, nhà báo Umberto Bacchi trên tờ Quốc Tế Kinh Doanh Thời Báo của Anh Quốc phỏng vấn đại diện của 2 trang mạng xã hội “Dân Làm Báo và “Quan Làm Báo” qua bài “Vietnam Dissident Bloggers Warn: We Fight on despite 20-year Jail Threat”.

Chúng tôi xin miễn bàn tới nội dung bài phỏng vấn trên vì thừa biết rằng cuộc phỏng vấn chỉ là diễn đàn dành cho những lời lẽ bóp méo sự thật, bêu xấu đất nước . Cuộc phỏng vấn giữa nhà báo Umberto Bacchi và “Dân & Quan Báo” qua hình thức voice chat .

Đại diện Dân Làm Báo thì lo sợ bị bắt nên ẩn danh, còn phía Quan Làm Báo thích khoe người đại diện tên là Trần Hưng Quốc và Trần Hưng Quốc cũng chính là bí danh của Lý Thái Hùng tổng bí thư Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng và cũng là chồng của bà Trần Diệu Chân chủ biên đài phát thanh Chân Trời Mới thuộc xứ bộ X113 thuộc đảng Việt Tân .

Đây tuyệt đối không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà là giấu đầu lòi đuôi, Quan Làm Báo chính là đảng Việt Tân.

Nguồn: Tập Viết Báo
1

Thứ Tư, 1 tháng 2, 2012

Những việc Việt Nam 'cần làm trước hết'

Trả lời BBC ngày 31/1/2012, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói về nhu cầu tái cấu trúc bộ máy nhà nước và cả hệ thống chính trị, mục tiêu của Đảng Cộng sản và sức mạnh của dân khi bước vào một năm mới đầy thách thức.

Nghe:


Ông cho biết những việc cần làm ngay cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2012 là phải tái cơ cấu nền kinh tế, bao gồm là tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc thị trường tài chính, ngân hàng và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, trong đó trọng tâm là tái cấu trúc các tập đoàn kinh tế nhà nước và các công ty nhà nước.

Nhưng để làm những việc trên, việc đầu tiên mấu chốt cần phải làm ngay, theo Tiến sỹ Lê Đăng Doanh là: "tái cấu trúc bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị".

Từ Hà Nội, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh giải thích thêm: "Nếu muốn tái cấu trúc ba lĩnh vực trên mà không tái cấu trúc lại bộ máy nhà nước, cứ để bộ máy nhà nước như hiện nay làm đủ mọi thứ việc thì theo tôi có một sự nhầm lẫn rất lớn."

Liên hệ với vụ tranh chấp đất đai Bấm Tiên Lãng, TS Lê Đăng Doanh cho rằng nếu không có những cải cách rất mạnh bạo đối với vấn đề đất đai, không có sự công khai minh bạch, và không có sự mở rộng dân chủ để người dân nói lên tiếng nói thì các sự việc như vụ Tiên Lãng, như các vụ việc khác, sẽ rất khó tránh khỏi.

Theo ông, bộ máy nhà nước cần tập trung vào y tế, giáo dục, kết cấu hạ tầng, và chăm lo đời sống của người dân, phải đảm bảo cho tòa án xử luật pháp được nghiêm minh, phải bảo đảm việc điều tra được công khai minh bạch và công lý phải được bảo vệ.

Ngoài ra, ông nói, "những quyền lợi và quyền dân chủ, tự do của người dân phải được bảo đảm".

Năm 2012 khác hẳn 1986

TS Lê Đăng Doanh trích lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi ông tuyên bố rằng Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải vượt qua tư duy nhiệm kỳ, và lợi ích nhóm. Tuy nhiên, ông Doanh nói ông Trọng "chưa xác định rõ những nội hàm của khái niệm 'tư duy nhiệm kỳ' bao gồm những gì, và 'lợi ích nhóm' là lợi ích của những nhóm nào, ở đâu, đến cấp nào."

Thế nên, để vượt qua được những rào cản trên, ông Doanh nói cần phải xác định rất rõ 'tư duy nhiệm kỳ' bao gồm những biểu hiện như thế nào, bản chất của nó là như thế nào và cách khắc phục được như thế nào. Còn 'lợi ích nhóm' thì lợi ích nhóm bắt đầu ở những đâu, đến cấp nào, và biểu hiện ra làm sao, và có những phương pháp gì để khắc phục được cái lợi ích nhóm đó.

Để làm được như vậy, theo lý giải của TS Doanh, thì phải phát huy sức mạnh của người dân, phải phát huy quyền tự do dân chủ của người dân, phát huy vai trò có trách nhiệm và xây dựng của hệ thống báo chí Việt Nam.

Theo ông, "đó là những điều rất quan trọng, và để làm được việc ấy, thì tôi nghĩ phải bắt đầu bằng đổi mới tư duy."


TS Lê Đăng Doanh tình hình nay khác hẳn giai đoạn Đổi Mới 1

Khác với đợt đổi mới tư duy năm 1986, lần này, 'đổi mới tư duy' sẽ đụng chạm tới một bộ phận đáng kể những người đang cầm quyền thuộc các nhóm lợi ích và đang có 'tư duy nhiệm kỳ'.
Cải cách, theo nhận định của TS Doanh, là nhằm bảo vệ và thực thi quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam một cách chân chính.

Trích lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về việc không khắc phục được những sự suy thoái ở trong Đảng và sự đe dọa đến sự tồn vong của chế độ, TS Doanh nói đó là nhận định hết sức cầu thị và thẳng thắn.

Theo ông, chính cải cách như vậy là bảo vệ lợi ích của dân tộc, bảo vệ lợi ích của đất nước, phát huy các động lực chân chính của nền dân chủ, phát huy sức mạnh, sự năng động, sáng tạo của người dân và bảo vệ được công lý, bảo vệ được pháp luật, tránh được, khắc phục được, ngăn chặn được các hành vi lạm dụng quyền lực, là lợi ích nhóm, là tư duy nhiệm kỳ.
TS Doanh liên hệ với việc dựa vào dân để phát huy dân chủ "như Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đây đã làm năm 1946".

Sửa đổi Hiến pháp

Khi được hỏi về dự án sửa đổi Hiến pháp, TS Doanh nói, theo quy định muốn sửa đổi hiến pháp phải đưa ra trưng cầu dân ý. Bởi vì hiến pháp phải được toàn dân biểu quyết thì mới có hiệu lực.
Ông nhắc lại thời điểm đưa ra hiến pháp năm 1946:

"Lúc đó vì hoàn cảnh Việt Nam đang bị quân đội Pháp lăm le xâm chiếm, nên chưa thể thực hiện trưng cầu dân ý. Nhưng bây giờ thì tình hình đã khác."

Theo ông, điều rất quan trọng là phải đưa toàn bộ dự thảo hiến pháp ra để công khai và trưng cầu ý kiến của người dân. Nếu không trưng cầu được từng điểm thì cũng trưng cầu ý kiến, những nội dung cơ bản quan trọng nhất và cần phải công khai minh bạch quá trình chuẩn bị và đưa ra sửa đổi hiến pháp. Chỉ bằng cách đó thì mới phát huy được sức mạnh của người dân.

BBC sẽ tiếp tục đăng tải các bài viết, phỏng vấn liên quan đến giới Trí thức và quan hệ của họ với Đảng Cộng sản Việt Nam. Mời quý vị theo dõi.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/01/120131_vn_party_people_priority.shtml
0