Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đặc biệt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đặc biệt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

Trung Quốc yêu cầu Nga “chia tay” với Việt Nam

15/12/2012- Theo tài liệu mà Viện “Jamestown Foundation” (Mỹ) vừa công bố, Mỹ hay Ấn Độ không phải là những quốc gia duy nhất bị Trung Quốc lên tiếng “cảnh báo” nên rời khỏi khu vực Đông Nam Á và không được can thiệp vào “các lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc mà cả Nga cũng từng bị “đề nghị” như vậy.

Theo Viện “Jamestown Foundation”, đầu tháng 4/2012, Trung Quốc chính thức đề nghị Nga từ bỏ mối quan hệ năng lượng cũng như các mối quan hệ khác với Việt Nam. Trước yêu cầu đó, Mátxcơva đã chọn giải pháp im lặng và vẫn tiếp tục các công việc của mình.

Hơn thế nữa, kể từ mùa hè năm 2012, Chính phủ Nga tăng gấp đôi sự ủng hộ đối với Việt Nam trong lĩnh vực thăm dò và khai thác năng lượng ở Biển Đông cũng như trong việc bán các loại vũ khí và hợp tác quốc phòng.


Nga sẽ không cho phép Trung Quốc thống trị châu Á lấy đi cơ hội “trị giá nhiều tỷ USD” từ các dự án hợp tác khai thác năng lượng, hoặc ngăn chặn Nga tìm kiếm ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á (Ảnh minh họa).

Trong hàng loạt chuyến thăm cấp cao của các Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng và các sĩ quan cao cấp, hai bên tái khẳng định mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước trong đó đẩy mạnh mối sự hợp tác thương mại và khai thác năng lượng ở Biển Đông cũng như năng lượng nguyên tử, đặc biệt là Nga đang xây dựng lò phản ứng hạt nhân đầu tiên trong tổng số 8 lò phản ứng hạt nhân của Việt Nam.

Cả Việt Nam và Nga đều nhất trí rằng vấn đề tranh chấp lãnh thổ cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình chứ không phải bằng vũ lực, tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương liên hợp quốc và Công ước của liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Nga trở thành quốc gia thứ hai ký quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam vào tháng 3/2011.

Mặc dù không tuyên bố ầm ĩ, nhưng mối quan hệ hợp tác song phương Nga – Việt chính là lời “chối từ dứt khoát” và mạnh mẽ nhất của Mátxcơva trước yêu cầu của Bắc Kinh và một lần nữa tái khẳng định quan điểm của Mátxcơva rằng Nga sẽ không cho phép Trung Quốc thống trị châu Á lấy đi cơ hội “trị giá nhiều tỷ USD” từ các dự án hợp tác khai thác năng lượng, hoặc ngăn chặn Nga tìm kiếm ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á cũng như Đông Bắc Á.

Một dấu hiệu nữa cho thấy mối quan hệ thân thiện Nga – Việt ngày càng tăng khi mứi đây chính phủ Nga cử Thủ tướng Dmitry Medvedev dẫn đầu một phái đoàn cao cấp đến thăm chính thức Việt Nam ngày 7/11. Không có gì ngạc nhiên khi Thủ tướng Medvedev tận dụng cơ hội này để một lần nữa đề cập đến mối quan hệ hợp tác kinh tế, năng lượng và quốc phòng ngày càng tăng giữa hai nước.Ông Medvedev thông báo Nga và Việt Nam sẽ tiếp tục đàm phán về việc Nga sử dụng vịnh Cam Ranh làm cơ sở hải quân ở nước ngoài.

Ngoài ra, Nga sẽ đầu tư 10 tỷ USD trong dự án trong dự án điện hạt nhân của Việt Nam, ngược lại Việt Nam sẽ tham gia các dự án dầu khí ở khu tự trị Yamal – Nemets nhiều dầu khí của Nga. Các thỏa thuận khác giữa hai nước gồm một thỏa thuận liên chính phủ về hợp tác nghiên cứu và sử dụng vũ trụ hòa bình; một tuyên bố chung thành lập lực lượng đặc nhiệm cấp cao để thúc đẩy các dự án ưu tiên của Việt Nam – Nga; một bản ghi nhớ về hợp tác năng lượng tái tạo; trao đổi các công hàm ngoại giao về hợp tác lao động có thời hạn và mở cơ quan đại diện thương mại của Nga tại TP. Hồ Chí Minh. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết chính phủ hai nước quyết định nâng các mối quan hệ song phương về kinh tế, thương mại, đầu tư và nhất trí bắt đầu các cuộc đàm phán về việc ký kết hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và liên minh Hải quan Nga – Kazakhstan – Belarus.

Tháng 7/2012, hải quân Nga thông báo đang tìm kiếm các cơ sở bảo dưỡng và cung cấp hậu cần tại Vịnh Cam Ranh, quần đảo Seychelles và Cuba. Kể từ đó, Tổng thống Putin công khai tuyến bố Mátxcơva có ý định mở rộng hợp tác thương mại vũ khí với các nước thành viên BRICS cũng như với Việt Nam.


Hải quân Nga đang rất cần mở rộng sự hiện diện trên thế giới và cảng Cam Ranh của Việt Nam là một trong những vị trí chiến lược mà họ mong muốn được tiếp cận.

Trong các cuộc gặp tiếp theo giữa các thành viên cao cấp của Bộ Tổng tham mưu Nga và Bộ Quốc phòng Việt Nam, rõ ràng hợp tác quốc phòng sẽ phát triển mạnh. Và thực tế các loại vũ khí mà Nga bán cho Việt Nam, chẳng hạn các tàu ngầm lớp Kilo, sẽ là thách thức lớn cho hải quân Trung Quốc. Việc bán các loại vũ khí cũng cho thấy Nga đang quyết tâm ngăn chặn Trung Quốc thống trị Biển Đông cũng như Đông Nam Á.

Những hành động trên của Mátxcơva thể hiện một số điểm quan trọng như sau:

Thứ nhất, Nga ngày càng quyết tâm đóng vai trò độc lập và quan trọng ở Châu Á, không những ở Đông Bắc Á mà cả Đông Nam Á.

Thứ hai, rõ ràng Nga cam kết theo đuổi một chính sách độc lập mà Mátxcơva hiểu rằng chính sách đó sẽ đẩy nước này vào cuộc xung đột khi Bắc Kinh đã và đang nỗ lực áp đặt sự thống trị khắp khu vực Đông Bắc và Đông Nam Á.

Thứ ba, hoạt động của Mátxcơva ở châu Á xoay quanh vấn đề cung cấp năng lượng, bán các loại vũ khí và kiên quyết chống lại bất cứ nỗ lực nào ngăn chặn hiện diện của Nga trong các khu vực này.

Thứ tư, bất chấp các tuyên bố Nga có cùng quan điểm với Trung Quốc, nhưng hai nước vẫn tồn tại nhiều khác biệt liên quan đến các vấn đề an ninh khu vực ở Đông Á. Những khác biệt đó đã mở ra cánh của để Mỹ không những tăng cường quan hệ với Nga ở Châu Á, mà còn ủng hộ quan điểm của Nga trong việc giải quyết các vấn đề một cách hòa bình, như tranh chấp lãnh thổ Biển Đông, trên cơ sở các quyết định pháp lý và ngoại giao truyền thống.

Thứ năm, những hành động của Việt Nam cho thấy khi mối quan hệ của Việt Nam với Nga hoặc Ấn Độ ngày càng phát triển, khả năng chống lại mối đe dọa Trung Quốc của Việt Nam càng tăng nhờ sự ủng hộ của các nước đối tác. Từ ưu thế này, Trung Quốc khó có thể thực hiện ý đồ độc chiếm toàn bộ Biển Đông bằng các tuyên bố và hành động quyết đoán mà trái lại còn tạo nên một liên minh chống Trung Quốc, trong đó có Nga. Rõ ràng, các mối quan hệ của Nga với Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Á nói chung cần được xem xét và đánh giá thận trọng trong tương lai gần.

Lam Giang (Infonet)
4

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Không quân Việt Nam hạ máy bay địch ngoạn mục

10/12/2012- (VTC News) - Không quân ta đã trở thành tiếng gọi tin tưởng, thân yêu của nhân dân trong cuộc chiến đấu bảo vệ bầu trời. Cùng nhìn lại chặng đường chiến đấu và trưởng thành của bộ đội Không quân Việt Nam.

0

Thứ Hai, 3 tháng 12, 2012

Từng bước “đồng bộ” con người với khí tài hiện đại

03/12/2012- QĐND Online - Kỹ thuật hàng không luôn là ngành mũi nhọn, góp phần quyết định khả năng hoàn thành nhiệm vụ của Bộ đội Không quân. Xác định được tầm quan trọng đó nên ngay từ khi tiếp nhận và đưa vào khai thác sử dụng khí tài mới, hiện đại, Trung đoàn 923 (Sư đoàn 371) luôn coi trọng nhiệm vụ huấn luyện kỹ thuật hàng không. Mục tiêu xuyên suốt mà ngành kỹ thuật hàng không ở đây đặt ra là phải đồng bộ hóa giữa khí tài hiện đại với con người.

Đồng bộ hóa là tất yếu

Được trang bị máy bay, vũ khí, khí tài mới, hiện đại, đồng bộ là vinh dự lớn đối với Trung đoàn 923, đặc biệt là ngành kỹ thuật hàng không. Song vinh dự này cũng đặt lên vai họ những trọng trách lớn đòi hỏi phải có sự nỗ lực, cố gắng cao độ.

Nói về vấn đề này, Đại tá Phạm Như Xuân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 923 cho biết: “Đa phần các thành phần của trung đoàn đã được chuyển loại máy bay, vũ khí, khí tài mới trước, trong, và sau khi tiếp nhận nên không còn bỡ ngỡ. Tuy nhiên, để khai thác có hiệu quả cao nhất các trang thiết bị hiện đại đó, nhân tố con người được đặt lên hàng đầu, với những yêu cầu cao hơn, đặc biệt là huấn luyện kỹ thuật hàng không cho các thành phần”.


Tìm hiểu tại đây chúng tôi được biết, thời gian qua, Trung đoàn 923 đã thường xuyên cử cán bộ, nhân viên kỹ thuật hàng không đi chuyển loại tại đơn vị bạn; đồng thời mở các lớp huấn luyện chuyên môn kỹ thuật tại chỗ cho cán bộ, nhân viên kỹ thuật về cả lý thuyết và thực hành trên máy bay Su-30 MK2, đi kèm với vũ khí, trang thiết bị hiện đại.

Trung tá Nguyễn Thanh Tùng, Chủ nhiệm Kỹ thuật hàng không Trung đoàn 923 cho biết: “Ngay từ khi tiếp nhận và đưa vào sử dụng khí tài hiện đại, ngành kỹ thuật hàng không đã liên tục tổ chức huấn luyện chuyên sâu cho các đối tượng đã được chuyển loại và huấn luyện chuyển loại tại đơn vị cho cán bộ, nhân viên kỹ thuật chưa được tham gia chuyển loại trên máy bay Su-30MK2. Đến nay, đa phần các thành phần đã đủ điều kiện độc lập công tác theo cương vị, chức trách được giao. Tuy nhiên, để khai thác tối đa các trang thiết bị được giao, cần phải có sự đồng bộ hóa giữa con người và khí tài. Đây là nhiệm vụ quan trọng phải hoàn thành dẫu còn nhiều khó khăn, thách thức”.

Được biết, quá trình đồng bộ hóa con người với khí tài hiện đại được Đảng ủy, chỉ huy trung đoàn thống nhất tiến hành toàn diện và lấy ngành kỹ thuật hàng không làm tâm điểm. Trong đó, bên cạnh sự đồng bộ khả năng, trình độ thích ứng của con người với vũ khí, khí tài hiện đại, Trung đoàn cũng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng tác phong, nền nếp công tác hiện đại của mỗi cán bộ, nhân viên, mà trước tiên là những đối tượng trực tiếp công tác trong ngành kỹ thuật hàng không.

Hiệu quả

Có mặt trong buổi chuẩn bị bay ở Trung đoàn 923, chúng tôi cảm nhận được tác phong công nghiệp của các thành phần.

Trong bộ quần áo công tác mới được Quân chủng đưa vào mặc thử nghiệm, Thượng úy Trần Huy Bình, Trung đội trưởng máy bay động cơ, Đại đội 1, Tiểu đoàn bảo đảm Kỹ thuật hàng không cho biết: “Làm việc trên máy bay cùng các trang thiết bị hiện đại nên cùng với khai thác, sử dụng thành thạo các trang bị được giao, các thành phần còn phải rèn luyện cho mình tác phong công tác khoa học, hiện đại”.

Sau khi trao đổi với các nhân viên kỹ thuật hàng không về một số chỉ số kỹ thuật, anh NiKoLay, chuyên gia vô tuyến điện tử của Nga cho chúng tôi biết rằng, anh rất khâm phục trình độ chuyên môn, khả năng tiếp nhận khí tài mới và đặc biệt tinh thần ham học hỏi của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 923 nói chung và các thành phần kỹ thuật hàng không nói riêng.


Trung tá Cù Đức Tư, Chủ nhiệm Vô tuyến điện tử Trung đoàn 923 trăn trở: “Hiện nay cơ bản các thành phần đã độc lập khai thác kỹ thuật hàng không theo từng chuyên ngành, nhưng chúng tôi vẫn luôn xác định phải tận dụng tối đa thời gian có thể để học hỏi các chuyên gia nước bạn nhằm nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, tay nghề thực tế để có thể chủ động xử lý tốt những tình huống phát sinh trong quá trình khai thác sử dụng”.

Trong thời gian qua, toàn Trung đoàn 923 tập trung cao độ cho nhiệm vụ huấn luyện tổng hợp. Thiếu tá Nguyễn Huy Tuấn, Chính ủy Trung đoàn 923 cho hay: “Xác định đây là thời điểm quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của trung đoàn nên bên cạnh việc thường xuyên động viên, làm công tác tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, cán bộ chủ trì các cấp còn tích cực nêu gương, tạo “hiệu ứng đồng cảm” cao nhất để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ được giao”.

Theo QĐND
1

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

'Chiến lược mau lẹ' của Hoa Kỳ trong kỷ nguyên mới

08:04 |01/12/2012

Theo chiến lược này, quân đội Hoa Kỳ sẽ có thể dùng khả năng tiếp cận toàn cầu của mình để điều động quân đội đến nơi nào và vào lúc lực lượng đó hoạt động hiệu quả nhất, sau đó sẽ quay trở về Mỹ, chuẩn bị cho lần điều động tiếp theo.

Một ủy ban gồm các chuyên gia của Hoa Kỳ đã công bố một bản nghiên cứu về chiến lược quốc phòng mới của Hoa Kỳ, trong đó đề xuất các nguyên tắc thúc đẩy hoạt động quốc phòng trong thời kỳ ngân sách bị cắt giảm mạnh. 

Mới đây, một ủy ban gồm 15 cựu quan chức quân đội, các chiến lược gia quốc phòng và các chuyên gia về quan hệ quốc tế của Hoa Kỳ đã công bố một bản nghiên cứu có tựa đề: Chiến lược quốc phòng mới của Hoa Kỳ trong kỷ nguyên mới. Bản báo cáo này đề xuất các nguyên tắc để hoạt động quốc phòng đạt được hiệu quả ngay trong thời kỳ ngân sách bị cắt giảm mạnh.

Bối cảnh quốc tế và tình hình nội bộ Hoa Kỳ

Các binh sĩ Mỹ trong một cuộc thi bắn súng.

Xét về bối cảnh quốc tế, những mối đe dọa đối với lợi ích của nước Mỹ đang thay đổi nhanh chóng. Nước Nga không còn, hoặc có thể không còn, là mối đe dọa với nước Mỹ như trước đây. Còn Trung Quốc, mặc dù đang lớn mạnh về kinh tế và quân sự, lai có một mối quan hệ phức tạp với Hoa Kỳ, đem đến cả hi vọng và mối lo ngại cho nước Mỹ.

Hoa Kỳ cũng đang dần chấm dứt kỉ nguyên Trung Đông và Nam Á với các cuộc chiến tranh tốn hàng nghìn tỉ USD và hơn 7.000 sinh mạng Mỹ. Trong khi đó, các cuộc nội chiến và tình hình bất ổn chính trị vẫn tiếp diễn ở Trung Đông, châu Phi và Nam Á. Các cuộc tấn công khủng bố cũng tiếp tục khiến các khu vực này bất ổn. Tuy vậy, những bất ổn nói trên là có thể giải quyết được mà không cần phải sử dụng đến các giải pháp quân sự.

Về tình hình nội bộ quân đội Mỹ, kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, những lần tham chiến của Mỹ đã giúp dư luận nhận ra điểm mạnh và điểm yếu về quân sự của Hoa Kỳ. Về độ linh hoạt và tốc độ tiếp cận trên qui mô thế giới thì Hoa Kỳ vẫn không có đối thủ. Các vũ khí, thiết bị tình báo và trinh sát cũng như các lực lượng không quân, hải quân và bộ binh có thế tiếp cận bất kỳ nơi nào trên thế giới với tốc độ và sức mạnh không quân đội nào sánh bằng.

Nhưng xét về năng lực chiến đấu tại các cuộc chiến ngoại lệ diễn ra trên mặt đất, năng lực chống lại lực lượng phiến quân, năng lực bình ổn chính quyền và đảm bảo an ninh cho các quốc gia ở những vùng xa xôi thì quân đội Mỹ còn nhiều hạn chế. Vấn đề này không bắt nguồn từ sự thiếu thốn hay sai sót gì của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Đơn giản là nhiệm vụ thiết lập trật tự, xây dựng chính quyền tốt và tạo dựng các giá trị dân chủ ở những quốc gia kém phát triển luôn có xung đột nội bộ là nhiệm vụ quá khó và bản thân các lực lượng vũ trang không thể nào phù hợp cho nhiệm vụ đó.

Về vấn đề ngân sách, hiện nước Mỹ đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài khóa không có tiền lệ khiến chính phủ phải cắt giảm chi tiêu trong đó có chi tiêu quốc phòng. Sức ép này có thể thấy rõ nhất theo Đạo luật về kiểm soát ngân sách, theo đó nếu đạo luật này có hiệu lực vào đầu năm 2013 thì ngân sách quốc phòng sẽ bị cắt giảm đi 10%. Đây sẽ là một trong những mức cắt giảm mạnh nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

Trong bối cảnh môi trường an ninh toàn cầu đang thay đổi rất nhanh chóng và mối đe dọa từ nợ công và thâm hụt ngân sách của nước Mỹ ngày càng nghiêm trọng thì Ủy ban cố vấn Quốc phòng đã dành cả 1 năm để nghiên cứu và thảo luận về chiến lược quốc phòng cho Hoa Kỳ. Kết quả của cuộc nghiên cứu này là một chiến lược an ninh quốc gia mới có tên gọi “Chiến lược mau lẹ”, một chiến lược đề ra nhằm củng cố vị thế hàng đầu về quân sự của Mỹ đồng thời vẫn đảm bảo một mức chi tiêu khả thi.

Báo cáo của Ủy ban cố vấn Quốc phòng đề cập đến 10 nguyên tắc nhấn mạnh vào chiến lược dựa vào cac đơn vị quân đội có qui mô nhỏ hơn có thể đóng quân tại Mỹ và nhanh chóng dịch chuyển đến các căn cứ thiếu thốn vật chất hơn ở khắp nơi trên toàn thế giới; tái cân bằng các lực lượng Mỹ để tập trung vào châu Á nhiều hơn vào châu Âu đồng thời nâng cấp các trang thiết bị công nghệ và khoa học nhằm đảm bảo rằng Hoa Kỳ luôn đi trước tất cả các quốc gia khác.

Dưới đây là 10 nguyên tắc mà Ủy ban cố vấn Quốc phòng đề xuất cho “Chiến lược mau lẹ”.

10 nguyên tắc của “Chiến lược mau lẹ”

Một là, nước Mỹ mang nợ lớn đối với tất cả những ai đã từng phục vụ cho các cuộc chiến tranh của quốc gia và đặc biệt là những người cả nam và nữ đã phục vụ cho cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan. Vì thế quốc gia phải đảm bảo rằng những người đó được nhận những phúc lợi y tế tốt nhất cũng như các hỗ trợ cần thiết về giáo dục và việc làm để họ có thể tái hòa nhập vào cuộc sống bình thường. Thực hiện những nghĩa vụ này phải là ưu tiên hàng đầu trong chi tiêu quốc phòng của nước Mỹ.

Hai là, Hoa Kỳ nên coi trọng hàng đầu các đề xuất giúp sử dụng nguồn quân lực hiệu quả hơn, cải cách các hệ thống đền bù cho quân nhân, thúc đẩy hoạt động tiếp nhận thiết bị, hàng hóa và các dịch vụ. Mặc dù khó khăn về ngân sách có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện một chiến lược an ninh quốc gia đầy tham vọng nhưng nó đem lại đòn bẩy về cả khía cạnh bị buộc phải thực hiễn lẫn khía cạnh nâng cao ý thức chính trị để hoạt động hiệu quả hơn.

Thứ ba là Hoa Kỳ nên duy trì vị thế về vũ trụ, không quân, và hải quân luôn cao hơn bất kỳ đối thủ tiềm năng nào. Những yếu tố trên là thế mạnh của Hoa Kỳ trong tương quan với các quân đội khác và để chiến lược quốc phòng mới trở nên hiệu quả, các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ phải duy trì khả năng tiếp cận bất kỳ khu vực nào của thế giới, xâm nhập hệ thống quốc phòng của kẻ thù và thực thi đủ mọi loại hình chiến đấu. Các quốc gia khác đang theo đuổi các phương tiện nhằm ngăn chặn năng lực xâm nhập của Mỹ vào lãnh thổ của họ và Hoa Kỳ cần đặt mục tiêu luôn đi trước các quốc gia trong cuộc cạnh tranh này.

Tàu sân bay USS Ronald Reagan cùng các tàu khác trong cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương năm 2010.

Thứ tư, Hoa Kỳ nên duy trì các lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ được trang bị công nghệ tiên tiến để chống lại lực lượng khủng bố và các tổ chức tội phạm, bảo vệ các công dân Hoa Kỳ ở nước ngoài và thực hiện các nhiệm vụ khẩn cấp khác. Đặc biệt là Hoa Kỳ nên dựa chủ yếu vào các năng lực tình báo, giám sát và do thám công nghệ cao và các lực lượng đặc nhiệm để tiến hành chống lại các tổ chức khủng bố. Lực lượng này phải luôn sẵn sàng cho 2 tình huống, hoặc là hợp tác với các chính phủ nước ngoài để chống lại các tổ chức khủng bố hoạt động trên lãnh thổ nước đó hoặc đơn phương hành động nếu các tổ chức này trở thành mối đe dọa rõ ràng và hiện hữu đối với nước Mỹ và công dân Mỹ. Các lực lượng đặc nhiệm có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ các kho vũ khí hủy diệt hàng loạt tại các quốc gia có chính quyền sụp đổ hoặc trong các cuộc nội chiến liên quan đến các tổ chức thù địch với nước Mỹ.

Thứ năm, về mặt ngân sách dành cho nghiên cứu và phát triển, cần phải ưu tiên cho nghiên cứu cơ bản và theo đuổi các năng lực quân sự tiên tiến. Ngoài việc dịch chuyển ngân sách từ các chương trình phát triển tiên tiến sang nghiên cứu cơ bản trong nội bộ vấn đề quốc phòng thì cũng cần có sự phối hợp về nghiên cứu khoa học và công nghệ cơ bản thông qua các chương trình dân sự.  Đặc biệt là cần phải tập trung vào chiến tranh mạng. Cần phải huy động sự giúp đỡ của quân đội nhằm bảo vệ các mạng lưới dân sự then chốt mà không làm tổn hại đến quyền lợi về sự riêng tư cá nhân. Ngoài ra, hệ thống quốc phòng ngăn ngừa các vũ khí sinh học cũng là một vấn đề cần phải được ưu tiên.

Thứ sáu, Hoa Kỳ nên tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo an ninh toàn cầu bằng cách hợp tác với các đồng minh và bè bạn để đảm bảo an ninh cho họ nhưng các quốc gia phải đóng góp một phần cho các chi phí quân sự. Nguy cơ một đồng minh của Mỹ có thể bị đe dọa và dẫn đến một cuộc chiến tranh trên bộ không thể bị loại trừ mặc dù tình huống đó có thể sẽ chỉ xảy ra trong khoảng 20 năm nữa. Xét tới tình huống đó, Hoa Kỳ nên chủ động hợp tác với các đồng minh để xác định lợi ích chung, để đề ra kế hoạch chung nhằm ngăn chặn hoặc nếu cần thiết phải đánh bại kẻ thù tiềm tàng và xác định cụ thể mỗi bên cần đóng góp những gì. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nên làm rõ với các đồng minh rằng họ cần phải góp phần cho chính nền quốc phòng của họ thay vì dựa hoàn toàn vào các năng lực quân sự của Mỹ.

Hoa Kỳ cũng nên cùng lập kế hoạch, huấn luyện và vũ trang cho các đồng minh trong những tình huống khẩn cấp và cung cấp cho họ những năng lực quân sự tối tân như năng lực hạt nhân phòng ngừa, hệ thống tình báo giám sát và do thám (ISR), hỗ trợ về không quân, hải quân và vận tải ngay từ lúc cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra.

Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng nên chuẩn bị sẵn sàng để nếu cần thiết sẽ can thiệp trên bộ nhằm bảo vệ các đồng minh bị đe dọa.

 

Thứ bảy là, Hoa Kỳ nên dần dần thay đổi tư duy điều động “tĩnh” quân đội ra nước ngoài mà thay vào đó nên điều động luân chuyển các lực lượng Mỹ đóng quân tại Mỹ đến các nước khác để tập trận chung với các đồng minh, giúp các quân nhân làm quen với các địa điểm có nguy cơ trở thành bãi chiến trường và để phô trương quyết tâm cũng như năng lực của quân đội Mỹ.

Các binh sĩ Mỹ và binh sĩ Philippines trong một cuộc tập trận chung.

Thứ tám là, Hoa Kỳ nên tránh bị lôi kéo vào các cuộc chiến tranh trên bộ kéo dài. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nên cân nhắc thật kỹ trước khi đưa quân đội tham gia vào một cuộc chiến kép dài và qui mô lớn, đặc biệt là để phục vụ mục tiêu bình ổn chính quyền các nước hay lật đổ các nhà lãnh đạo độc tài.

Chín là, Hoa Kỳ nên giảm bớt kho vũ khí hạt  nhân càng sớm càng tốt, tốt nhất là qua con đường kí hiệp ước với Nga và cắt giảm tương ứng các chương trình hiện đại hóa hạt nhân. Hoa Kỳ phát triển năng lực vũ khí hạt nhân là nhằm đối phó với nguy cơ tấn công hạt nhân từ Nga, quốc gia mà trừ Hoa Kỳ ra không nước nào có thể “so sánh” được. Hoa Kỳ có thể cân nhắc đến trường hợp đơn phương cắt giảm và tạm hoãn các chương trình hiện đại hóa vũ khí hạt nhân tốn kém để phục vụ mục tiêu cắt giảm chi tiêu.

Cuối cùng là, Hoa Kỳ nên tạm hoãn lại kế hoạch điều động thêm hệ thống tên lửa Lục địa Hoa Kỳ (CONUS) cho tới khi các công nghệ liên quan phải thực sự chín muồi và có hiệu quả cao. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn nên tiếp tục phát triển các hệ thống tên lửa đánh chặn hợp tác với các đối tác bị các quốc gia thù địch đe dọa. Hiện tại một hệ thống tên lửa hợp nhất đang hoạt động ở khu vực Đông Á nhằm bảo vệ các lực lượng Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc trước những mối đe dọa từ Triều Tiên. Ngoài ra, Hoa Kỳ và các thành viên Hội đồng hợp tác vùng Vịnh cũng đang lên kế hoạch thiết lập một hệ thống tên lửa đánh chặn để đối phó với mối đe dọa tên lửa từ Iran.

Theo Ủy ban cố vấn Quốc phòng, 10 nguyên tắc trên đây giúp hình thành chiến lược quốc phòng mới. Tuân theo chiến lược này, quân đội Hoa Kỳ sẽ có thể dùng khả năng tiếp cận toàn cầu của mình để điều động quân đội đến nơi nào và vào lúc lực lượng đó hoạt động hiệu quả nhất và sau đó sẽ quay trở về Mỹ, chuẩn bị cho lần điều động tiếp theo.

LÊ DUNG (INFONET)

0

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

Nếu khai chiến trên biển Đông, Hoa lục có thể sẽ thua Việt Nam

Một số tờ báo của Hồng Công gần đây như "Đại công báo", “Văn Hối”, “Đông phương” và nguyệt san “Phòng vệ Hán Hoà” dẫn lời các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh cho rằng tuy từ đầu năm 2009 đến nay, các bước chuẩn bị đấu tranh quân sự của Hoa Lục trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển Đông (Hoa Lục gọi là biển Hoa Nam) vô cùng rầm rộ.

Thế nhưng trong bối cảnh hiện nay, còn rất nhiều rào cản khiến Hoa Lục chưa thể áp dụng hành động quân sự thực tế trong tranh chấp chủ quyền biển Đông. Các chuyên gia quân sự Hoa Lục cũng cảnh báo nếu Bắc Kinh áp dụng hành động quân sự, cái giá phải trả sẽ rất đắt, thậm chí ảnh hưởng quốc tế tiêu cực của hành động này đối với Hoa Lục còn lớn hơn cả phát động một cuộc chiến tranh tại Eo biển Đài Loan. Dưới đây là tổng hợp nội dung cơ bản của các bài viết này.


1- Rào cản chính trị: Tại khu vực Biển Đông, hiện nay có ba nước tồn tại bất đồng lớn nhất với Hoa Lục về lãnh hải và hải đảo là Việt Nam, Philippin và Malaixia, trong đó Việt Nam là hàng đầu. Vì thế, khả năng bùng nổ xung đột quân sự tại khu vực biển Đông chỉ có thể là Hoa Lục tấn công quân sự chiếm các đảo, bãi mà Việt Nam đang kiểm soát tại quần đảo Trường Sa (Hoa Lục gọi là Nam Sa). Còn khả năng Hoa Lục và Malaixia nổ ra xung đột quân sự do tranh chấp đảo Layan Layan (đá Hoa Lau) trong tương lai gần, cơ bản bằng không. Thế nhưng, vấn đề quan trọng là Hoa Lục áp dụng hành động quân sự quy mô lớn với Việt Nam, thế tất sẽ thiêu huỷ hoàn toàn hình tượng quốc tế “hoà bình phát triển” mà Hoa Lục tạo dựng trong gần 20 năm qua.

Hệ quả là sự cảnh giác của Ôxtrâylia, Mỹ, Nhật Bản và cả Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) đối với Hoa Lục sẽ tăng cao. - Gần đây, hợp tác và trao đổi quân sự giữa Mỹ với ASEAN và Việt Nam đã có những bước tiến lớn, một khi Hoa Lục áp dụng hành động quân sự, dư luận và báo chí chính thức của Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác sẽ đứng về phía Việt Nam. Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản thậm chí còn cung cấp cho Việt Nam chi viện về tình báo và hậu cần quân sự cho Việt Nam .

Bên cạnh đó, “Học thuyết quân sự mới” của Ôxtrâylia cho rằng biển Đông chính là “biên cương lợi ích” của Ôxtrâylia sẽ có cớ phát triển. - Một khi chiến tranh bùng nổ, sẽ thúc đẩy nhanh hơn sự thành lập chính thức của tập đoàn “NATO biển Đông”, bước đi Nam tiến của Lực lượng Tự vệ trên biển của Nhật Bản cũng sẽ trở thành hiện thực và tạo ra căn cứ hợp pháp để Mỹ can thiệp quân sự trực tiếp.

Hơn thế, tại khu vực này, tồn tại “Hiệp ước đồng minh Mỹ - Xinhgapo - Ôxtrâylia” và từ sau năm 1995, Mỹ cùng với 6 nước ASEAN là Philippin, Thái Lan, Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia và Bruney tổ chức cuộc diễn tập quân sự hàng năm mang tên “Karat”, được mệnh danh là “Tập đoàn Karat” và trên thực tế đã trở thành quan hệ “chuẩn đồng minh”. - Quần đảo Trường Sa hiện nay, có một số đảo nằm sát bờ biển Malaixia, có một số đảo gần đường trung tuyến Việt Nam - Malaixia, cách Hoa Lục xa như vậy, nói là của Hoa Lục thật khó có sức thuyết phục.

Do vậy, khi Hoa Lục áp dụng hành động quân sự, hình tượng quốc tế của các nước hữu quan, nhất là Việt Nam sẽ tốt hơn nhiều so với Hoa Lục, theo đó các nước lớn châu Âu, thậm chí cả Mỹ và Ấn Độ sẽ cùng đưa ra đề nghị cung cấp vũ khí cho Việt Nam, khiến cho nhân tố thiên thời và nhân hòa là bất lợi đối với Hoa Lục.

2- Rào cản về quân sự: Các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh nêu rõ nhìn bề ngoài, so sánh sức mạnh quân sự giữa Hoa Lục với Việt Nam, phía Hoa Lục có vũ khí hiện đại mang tính áp đảo, nhất là ưu thế về số lượng và chất lượng tàu mặt nước, tàu ngầm cỡ lớn. Thế nhưng, phân tích sâu về học thuyết địa - quân sự, thực sự bùng nổ chiến tranh trên không và trên biển với Việt Nam, ưu thế sức mạnh quân sự không hẳn nghiêng về Hoa Lục. Bởi vì đặc điểm mới của chiến tranh kỹ thuật công nghệ cao với vũ khí tên lửa là không có khái niệm so sánh sức mạnh của nước mạnh, nước yếu. Theo đó, nước yếu có một số ít tên lửa hiện đại, trong chiến tranh trên biển và trên không, vẫn có thể dựa vào ưu thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa v.v.

So sánh cụ thể hơn, về hải quân và không quân của Hoa Lục tham gia cuộc chiến tranh này thành phần chính sẽ là Hạm đội Nam Hải (Bộ Tư lệnh đặt tại Trạm Giang, Quảng Châu).

Còn Việt Nam lực lượng không quân được trang bị máy bay chiến đấu “Su-30MKV” và “Su-27SK/UBK”. Hải quân Việt Nam được trang bị phi đạn tốc độ cao “Molniya-12418” và tới đây có cả tàu ngầm “KILO-636”. Như vậy, xu thế so sánh sức mạnh tại biển Đông đang phát triển theo hướng bất lợi cho Hoa Lục.

Trong tương lai gần, khi Hải quân Việt Nam đưa tàu ngầm “KILO- 636” vào sử dụng, quyền kiểm soát cục bộ dưới nước có thể sẽ nghiêng về phía Hải quân Việt Nam. Ngoài ra, Hoa Lục phải tính đến nhân tố máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của không quân Việt Nam có thể sẽ được trang bị hoả tiễn siêu âm không đối hạm “BRAHMOS” (của Ấn Độ) và “YAKHONT” (của Nga) với tầm bắn đạt 300km.

Về năng lực phòng không, Hoa Lục và Việt Nam đều được trang bị tên hỏa tiễn đối không “S-300PMU1”. Lực lượng phòng không của Việt Nam có 2 tiểu đoàn, còn con số này của Hoa Lục là 20. Thế nhưng, lực lượng này (của Hoa Lục) có căn cứ trên đất liền, do vậy vai trò có thể phát huy trong chiến tranh trên biển và không phận trên biển khá hạn chế.

3- Rào cản về địa lý: Toàn bộ 29 đảo, bãi mà Việt Nam kiểm soát hiện nay tại Trường Sa, cách đất liền từ 400 - 600 km. Tại khu vực này, Việt Nam có các căn cứ không quân tại vịnh Cam Ranh (Nha Trang), Đà Lạt (Lâm Đồng) và ở Thành phố Hồ Chí Minh, đa số không phận tại khu vực tranh chấp này đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay tấn công “Su-22” của không quân Việt Nam, chưa kể đến máy bay chiến đấu “Su-30MKV” và “Su-27SK” với bán kính tác chiến lên đến 1.500 km.

Từ đó cho thấy cả Hoa Lục và Việt Nam đều có đủ năng lực tấn công tầm xa đối với các căn cứ hải quân trung tâm của đối phương. Việt Nam đã xây dựng sân bay tại đảo Trường Sa. Nếu so sánh, không quân Hoa Lục kể cả cất cánh từ sân bay tại đảo Hải Nam, khoảng cách đường thẳng đối với 29 đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát đã lên đến từ 1.200 - 1.300 km, còn cất cánh từ khu vực quần đảo Hoàng Sa, khoảng cách đến Trường Sa cũng lên đến từ 900 - 1.000 km… Điều này buộc máy bay chiến đấu “J-10” và “J-8D” và cả “Su-30MKK” và “Su-27SK” của Không quân Hoa Lục đều cần được tiếp dầu trên không mới có thể tham chiến. Tuy vậy, thời gian tác chiến trên vùng trời biển Đông so với máy bay chiến đấu cùng loại của không quân Việt Nam cũng ngắn hơn khoảng 50%.

Khi chiến tranh bùng nổ, sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Hoàng Sa) và thậm chí cả sân bay trên đảo Hải Nam của không quân Hoa Lục nhiều khả năng trước tiên sẽ bị máy bay chiến đấu “Su-22” của không quân Việt Nam thực hiện tấn công phủ đầu. Căn cứ Toại Khê, Căn cứ Quế Lâm (Quảng Tây) của Sư đoàn không quân số 2 cũng nằm trong phạm vi bán kính tác chiến tấn công của máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của Không quân Việt Nam. Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác là xung đột không chỉ hạn chế ở khu vực biển Đông, toàn bộ các mục tiêu chiến lược tại đảo Hải Nam, Hồng Kông, Côn Minh (Vân Nam) và Nam Ninh (Quảng Tây) đều nằm trong phạm vi bán kính tác chiến của máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của Không quân Việt Nam.

Địa hình lãnh thổ của Việt Nam dài hẹp, máy bay “Su-27SK” và “J-10A” của Hoa Lục, sau khi tham chiến, trên đường bay trở về căn cứ tại đảo Hải Nam hay căn cứ Toại Khê, Quế Lâm (Quảng Tây), đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay chiến đấu “MiG-21Bis” của Không quân Việt Nam cất cánh từ các căn cứ không quân miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Do vậy, MiG-21Bis của Việt Nam có thể cất cánh đánh chặn máy bay chiến đấu của Hoa Lục đã hết vũ khí và thiếu nhiên liệu vào bất cứ lúc nào.

4- Rào cản về chiến thuật: Máy bay chiến đấu “Su-22” của không quân Việt Nam có thể sẽ áp dụng chiến thuật không kích siêu thấp và có được sự yểm hộ hoả lực trong tấn công đảo, bãi. Vì thế, ngay cả khi Hoa Lục chiếm lĩnh được các đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát hiện nay, bảo vệ lâu dài là vấn đề cực kỳ khó khăn.

Ngoài ra, Không quân Việt Nam áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp, sẽ tránh được sự theo dõi của các loại radar trên tàu mặt nước của Hoa Lục và trực tiếp tấn công các tàu mặt nước cỡ lớn của hải quân Hoa Lục.

Hải quân Việt Nam không có tàu mặt nước cỡ lớn, cho nên không ngại Hoa Lục áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp. Hơn thế, như vậy còn khiến cho tàu ngầm hiện đại của Hoa Lục không thể phát huy sức mạnh, chỉ có thể tấn công tàu vận tải của hải quân Việt Nam. Nhưng phán đoán từ loại tàu đổ bộ từ đất liền tiến ra đảo, bãi quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện nay, đa số là tàu vận tải cỡ nhỏ lớp từ 300 - 500 tấn trở xuống, hơn thế phần nhiều là được đóng bằng gỗ, cho nên điều động tàu ngầm hiện đại để tiêu diệt là không cần thiết.

1

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

Tương lai vị thế lãnh đạo toàn cầu của Mỹ

26/11/2012- Thách thức của Obama là một thách thức mà những người kế nhiệm ông cũng có thể phải đối đầu: làm thế nào để thúc đẩy những lợi ích của Mỹ trong một thế giới mà thường không tự động đáp ứng sự lãnh đạo của Mỹ cho dù Mỹ vẫn là nước hùng mạnh và có nhiều ảnh hưởng nhất duy nhất.


Thập kỷ kể từ sự kiện 11/9 đã chứng kiến hai tầm nhìn chính sách đối ngoại cạnh tranh nhau của Mỹ. Phản ứng của George W.Bush trước cuộc tấn công này là tuyên bố một cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố. Bị thuyết phục rằng Mỹ đã phải đối mặt với một mối đe dọa hiện hữu được các nhà nước khác kích động và lạc quan về khả năng sức mạnh Mỹ định hình lại thế giới, Mỹ đã bắt đầu tấn công. Ở Ápganixtan, nước này đã chiến đấu để tiêu diệt hay bắt giữ các phần tử Al-Qaeda và những người ủng hộ họ. Ở Irắc, nước này đã chiến đấu để phá vỡ mối quan hệ của những kẻ khủng bố, những kẻ chuyên quyền với những công nghệ hủy diệt hàng loạt. Nhưng cuộc chiến tranh Irắc đã tạo ra thứ gì đó mà Bush không thể dự tính được – một cuộc chiếm đóng kéo dài và đẫm máu chứng tỏ những hạn chế của sức mạnh Mỹ. Sự chỉ trích chính sách đối ngoại của Mỹ đã tăng vọt, cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài.

Barack Obama đã đánh trúng vào tâm trạng vỡ mộng của công chúng Mỹ về Irắc và chính sách đối ngoại của Mỹ nói chung hơn bằng việc bác bỏ những nguyên tắc cốt lõi trong thế giới quan của Bush. Trong phân tích của mình, Bush đã không thể nhận ra sự toàn cầu hóa đã tái tạo hoạt động chính trị thế giới như thế nào. Nó đã phân tán sức mạnh trên khắp toàn cầu và tạo ra một loạt các vấn đề mới, trong đó khủng bố chỉ là một vấn đề, vượt quá phạm vi các đường biên giới. Sức mạnh quân sự to lớn chỉ giúp ích có giới hạn trong một môi trường như vậy, và Mỹ không thể thực hiện việc đó một mình.

Nước này cần các đối tác để đạt được những mục tiêu của mình và bảo vệ những lợi ích của mình. Và chỉ có thể lôi kéo được những đối tác đó thông qua sự can dự về mặt ngoại giao chứ không phải bằng sự hăm dọa. Tuy nhiên, mặc dù những sự khác biệt giữa Bush và Obama, cả hai có chung một đặc điểm: sự tin chắc rằng những nước khác đều muốn và cần sự lãnh đạo của Mỹ. Niềm tin này đã phản ánh hơn nửa thế kỷ thành công của Mỹ với tư cách là một siêu cường toàn cầu. Sự lãnh đạo của Mỹ là cần thiết đối với mọi việc từ tạo ra Liên Hợp Quốc đến lãnh đạo thế giới trong công cuộc giải phóng Côoét. Sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ không phải là một lời nói khoác mà là một thực tế.

Tuy nhiên, ngay cả khi Obama hứa hẹn bắt đầu “phục hồi sự lãnh đạo của Mỹ”, chính xu hướng mà ông đã trích dẫn để chỉ trích chính sách đối ngoại của Bush – sự toàn cầu hóa – ít nhất là đang làm phức tạp những nỗ lực của ông và tồi tệ nhất là phá hỏng chúng. Như Obama đã nhận ra trong hai năm đầu cầm quyền rằng những lời nói tử tế, một bàn tay rộng mở và sự sẵn lòng lắng nghe không đảm bảo có được sự hợp tác, chứ chưa nói đến thành công trong chính sách đối ngoại. Những đối tác mong đợi của ông thường bất đồng về bản chất của vấn đề, cái gì tạo nên một giải pháp xác đáng và ai nên mang gánh nặng thực hiện nó. Họ có những lợi ích và ưu tiên của riêng mình, và thường thì họ không hướng đến Oasinhtơn để tìm kiếm sự chỉ dẫn. Làm thế nào để thành công ở một thế giới mà trong đó các nước khác đang ngày càng phớt lờ hay tranh giành quyền lãnh đạo của Mỹ thay vì đón nhận nó là một thách thức quan trọng hơn cả mà Mỹ phải đối mặt trong những năm tới. Như Obama lưu ý một cách đúng đắn, phần lớn những gì ông hay bất cứ vị tổng thống nào của Mỹ muốn đạt được ở nước ngoài đòi hỏi phải có sự hợp tác của những nước khác. Nhưng làm thế nào có thể có được sự hợp tác đó một cách tốt nhất? Sự cám dỗ là trung thành với những cách làm việc trong quá khứ. Việc thay đổi các chiến lược, sửa lại những ưu tiên, và đổi mới những nhiệm vụ là đau đớn về mặt chính trị và nguy hiểm tiềm tàng. Nhưng một chính sách đối ngoại phớt lờ việc môi trường toàn cầu đã thay đổi nhiều như thế nào sẽ dẫn đến thất bại hơn là thành công.

Cuộc chiến chống khủng bố

George W.Bush không có ý định hoạch định lại chính sách đối ngoại. Khi ông tuyên bố tranh cử tổng thống vào năm 1999, các vấn đề trong nước nằm ở hàng đầu chương trình nghị sự chính trị, chính sách đối ngoại là một suy nghĩ đến sau đối với hầu hết người Mỹ. Bush đương nhiên có vẻ hướng nội hơn là hướng ngoại trong chiến dịch tranh cử năm 2000 và 8 tháng đầu ông cầm quyền. Đặc biệt là cả Al-Qadea lẫn khủng bố đều không được cho là vấn đề nổi bật khi ông chuyển hướng sang chính sách đối ngoại. Sự kiện 11/9 đã thay đổi tính toán đó và cùng với nó là định hướng của chính sách đối ngoại Mỹ. Chiến đấu chống khủng bố đã trở thành không phải là một sự ưu tiên nào đó, mà là một sự ưu tiên xác định. Bush đã xem sự kiện 11/9 không chỉ là một hành động khủng khiếp mà còn là một mối đe dọa hiện hữu xếp ngang hàng với những mối đe dọa từ Đức Quốc Xã và Liên Xô. Đây không phải là một xung đột địa chính trị bình thường, mà là một cuộc xung đột giữa thiện và ác đã tác động đến tất cả các nước trên thế giới. Ông đã nói với những người khóc than tại buổi cầu nguyện 3 ngày sau các cuộc tấn công ngày 11/9: “Trách nhiệm của chúng ta đối với lịch sử là rõ ràng: trả đũa những cuộc tấn công này và giải thoát thế giới khỏi cái ác”.

Sự miêu tả của Bush về mối đe dọa này đã tất yếu dẫn đến một phương thuốc chính sách: một “cuộc chiến chống khủng bố”. Cả hai danh từ trong cụm từ đó đều có ý nghĩa to lớn. Mỹ sẽ không phản ứng mang tính phòng thủ bằng việc dựa vào việc thực thi pháp luật và các biện pháp bị động như có thêm bảo vệ, súng ống và cánh cửa để tự bảo vệ mình; thay vào đó, nước này sẽ bắt đầu ở vào thế tấn công. Như ông đã nói với các cố vấn của mình: “Chúng ta cần phải chiến đấu ở bên ngoài bằng việc đưa cuộc chiến tranh này đến với những kẻ xấu”. Mục tiêu này vượt ra ngoài Al-Qaeda, để bao gồm tất cả những kẻ khủng bố toàn cầu và các nhà nước ủng hộ chúng. Theo lời lẽ của thứ được biết đến như học thuyết Bush thì “Chúng ta sẽ không phân biệt giữa những kẻ khủng bố dính líu vào những hành động này và những người dung túng cho chúng”. Cuộc chiến chống khủng bố của Bush dựa trên 5 giả định.

Thứ nhất, ưu thế toàn cầu của Mỹ, và đặc biệt là ưu thế về quân sự của nước này, đã mang lại cho Mỹ khả năng chưa từng có thực hiện cuộc chiến tranh ở nước ngoài. Thứ hai, việc Oasinhtơn miễn cưỡng đáp trả về mặt quân sự các đòn tấn công khủng bố trong hai thập kỷ trước đã khuyến khích Al-Qaeda và đồng bọn của tổ chức này. Phó Tống thống Dick Cheney đã lập luận về điểm này một cách thường xuyên và mạnh mẽ: “Sự yếu kém, dao động và việc Mỹ không sẵn lòng sát cánh với những người bạn của chúng ta – điều đó là mang tính khiêu khích. Nó khuyến khích những kẻ như Osama bin Laden... tiến hành những đòn tấn công nhiều lần nhằm vào Mỹ, vào người dân của chúng ta ở nước ngoài và trong nước ở đây, với quan điểm rằng kẻ đó trên thực tế có thể làm như vậy mà không bị trừng phạt”. Thứ ba, các học thuyết răn đe và ngăn chặn trong Chiến tranh Lạnh sẽ không có tác dụng với những kẻ khủng bố. Những lời đe dọa trả đũa không có ý nghĩa gì với các nhóm không có lãnh thổ phải bảo vệ. Kết luận đó là đáng ngại, do nỗi lo sợ rằng cuộc tấn công khủng bố tiếp theo có thể làm cho vụ khủng bố 11/9 dường như có vẻ nhỏ bé. Những cuộc tấn công bằng vi khuẩn bệnh than vào mùa Thu năm 2001 đã dựng lên bóng ma khủng bố sinh học quy mô lớn. Những báo cáo tình báo cho rằng Al-Qaeda có thể có khả năng chế tạo những quả bom phóng xạ (“bom bẩn”), nếu không có được vũ khí hạt nhân. Nước này phải sẵn sàng hành động trước. Thứ tư, những kẻ khủng bố không thể hoạt động mà không có sự hỗ trợ của nhà nước. Bush đã chỉ rõ điều này trong Thông điệp Liên bang năm 2002 của mình: Iran , Irắc, Bắc Triều Tiên và “những đồng minh khủng bố của họ tạo thành trục ma quỷ”.

Các nhà nước thù địch với Mỹ có thể trang bị cho những kẻ khủng bố vũ khí hủy diệt hàng loạt. Điều đó đã khiến cho cuộc chiến chống khủng bố không thể phân biệt được với nỗ lực ngăn chặn các chế độ không lương thiện. Quả thật, trong một vài đoạn văn ngắn xác định “trục ma quỷ”, Bush đã thề rằng: “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ không cho phép những chế độ nguy hiểm nhất thế giới đe dọa chúng ta bằng vũ khí mang tính hủy diệt nhất thế giới”. Thứ năm, các liên minh và các tổ chức đa phương đôi khi có thể giúp Mỹ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố, nhưng chúng không phải là thiết yếu. Mỹ có thể hoàn thành những gì nước này cần phải làm về mặt quân sự mà không cần có sự giúp đỡ của các liên minh, và nước này không nên để các nước khác ra lệnh cho những gì nước này có thể làm. Bush đã thừa nhận: “Ở một thời điểm nào đó chúng ta có thể là những người duy nhất còn lại. Điều đó vẫn ổn với tôi. Chúng ta là nước Mỹ”. Chủ nghĩa đơn phương của Bush đã có trước sự kiện 11/9, và nó đã làm căng thẳng nghiêm trọng các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Nhưng ông và các cố vấn của mình bị thuyết phục rằng xét cho cùng bởi vì họ đang đấu tranh cho những lợi ích của bạn bè mình (nếu không muốn nói là theo cách mà bạn bè ưa thích) và không tìm kiếm lợi thế cho mình, nên các đồng minh cuối cùng sẽ hợp lại bên họ.

Cuộc chiến chống khủng bố của Bush đã có một tác động đáng kể đối với chiến lược lớn của Mỹ: cuộc thảo luận về cuộc xung đột nước lớn đã nhạt dần. Trong chiến dịch tranh cử, Bush đã chế nhạo Chính quyền Clinton vì xoa dịu một Trung Quốc đang nổi lên và nuông chiều một nước Nga mục nát. Thời gian đầu trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông dường như hướng tới tới việc đối đầu với cả hai nước này. Tuy nhiên, khi Chiến lược an ninh quốc gia ra mắt vào tháng 9/2002, mọi việc có vẻ khác: “Ngày nay, cộng đồng quốc tế có cơ hội tốt nhất khi nhà nước-dân tộc này trỗi dậy vào thế kỷ 17 để xây dựng một thế giới mà các nước lớn cạnh tranh trong hòa bình thay vì liên tục chuẩn bị cho chiến tranh. Ngày nay, các nước lớn của thế giới nhận thấy họ đang ở cùng một phe – đoàn kết với nhau do những mối đe dọa chung từ bạo lực khủng bố và tình trạng hỗn loạn”. Đánh giá của Bush rằng những lợi ích nước lớn tương thích với nhau hơn là cạnh tranh nhau đã mang lại cho ông sự tự do đáng kể để thực hiện sức mạnh Mỹ.

Những hạn chế của một siêu cường

Học thuyết Bush được áp dụng trước hết ở Ápganixtan. Vào ngày 12/9/2001, Liên Hợp Quốc đã cho phép thực hiện “tất cả những bước cần thiết” để trả đũa những cuộc tấn công vào ngày hôm trước. Cùng ngày, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, NATO đã viện dẫn mục 5, buộc tổ chức này phải bảo vệ thành viên của mình. Chưa đầy 1 tuần sau, Quốc hội Mỹ gần như nhất trí ủy quyền cho Bush “sử dụng tất cả sức mạnh cần thiết và thích hợp để chống lại những nước, tổ chức, hay cá nhân mà ông cho là đặt kế hoạch, cho phép, dính líu, hay giúp đỡ các cuộc tấn công khủng bố đã diễn ra vào ngày 11/9/2001, hay dung túng những tổ chức hay những kẻ như vậy”. Những nhà nghiên cứu về lịch sử phản thực tế sẽ suy xét trong một thời gian dài việc chính sách đối ngoại của Bush đáng nhẽ có thể phát triển ra sao nếu nhà lãnh đạo Mullah Omar của Ápganixtan trao Osama bin Laden theo yêu cầu của Mỹ. Tuy nhiên, ông đã không làm như vậy và Mỹ cùng với các lực lượng gồm gần 20 nước tham gia, đã tấn công Ápganixtan vào tháng 10. Bất chấp sự khởi đầu chậm chạp, các lực lượng do Mỹ dẫn đầu đã đánh tan Taliban tương đối nhanh gọn. Vào đầu tháng 12, chính quyền Taliban đã sụp đổ.

Hầu hết các đồng minh của Mỹ cho là Bush theo đuổi chính sách chỉ có Ápganixtan. Trên thực tế, ông theo đuổi chiến lược trước hết là Ápganixtan. Với việc Taliban sụp đổ, trọng tâm của ông chuyển hướng sang Irắc. Các cố vấn của ông đã tranh luận về việc có nên hay không xâm lược Irắc ngay sau sự kiện 11/9. Bush đã quyết định phản đối điều này như một bước đầu tiên, nhưng Saddam Husein là hiện thân cho sự hội tụ 3 nỗi lo sợ của Bush – khủng bố, những kẻ tàn bạo, các công nghệ hủy diệt hàng loạt. Mặc dù các cơ quan tình báo Mỹ đã không tìm ra bất cứ bằng chứng nào về mối liên hệ giữa Saddam Husein và Al-Qaeda, nhưng Bush tin rằng ông ta “không muốn gì hơn là sử dụng một mạng lưới khủng bố để tấn công và giết chóc và không để lại dấu vết nào”. Như Condeleezza nói, do những lợi ích, Mỹ không thể chờ đợi “vì bằng chứng sẽ là một đám mây hình nấm”.

Kể từ đó quyết định của Bush không phải là có tiến hành chiến tranh ở Irắc hay không mà là làm thế nào để thực hiện điều đó. Các quan chức chính phủ đã có rất nhiều bài diễn văn và phỏng vấn trong nỗ lực thuyết phục người dân Mỹ rằng các vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) của Irắc tạo ra một mối đe dọa không thể chấp nhận được. Nỗ lực này đã thành công. Vào tháng 10/2002, Quốc hội Mỹ đã cho phép tiến hành cuộc chiến tranh chống Irắc. Bush đã tìm kiếm một phiếu ủng hộ tương tự từ Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ông đã làm thế vì nhiều lý do – một sự cho phép của Liên Hợp Quốc sẽ củng cố sự ủng hộ chính trị trong nước và tạo thêm nhiều áp lực lên Bátđa. Tuy nhiên, ông không tin rằng ông cần sự ban phước của Liên Hợp Quốc để tiến hành chiến tranh. Khi không có sự ban phước đó, Mỹ, cùng với sự ủng hộ của “một liên minh tự nguyện” mà nếu xét về những sự đóng góp quân đội thì bao gồm trước hết là Anh và ở mức độ nhỏ hơn là Ôxtrâylia và Ba Lan, đã xâm lược Irắc vào tháng 3/2003 – trước những sự phản đối kịch liệt của hầu hết phần còn lại của thế giới.

Bátđa đã sụp đổ thậm chí còn nhanh hơn Cabun, chỉ trong chưa đầy 4 tuần. Nhưng những buổi ăn mừng “nhiệm vụ được hoàn thành” tỏ ra là hấp tấp. Vào mùa Hè năm 2003, một cuộc nổi dậy đã thu hút sự chú ý của phần lớn Irắc. Bush đã quy vấn đề này cho thất bại trong việc dự tính “những hậu quả của sự thành công mang tính thảm họa”. Việc lên kế hoạch cho sự chiếm đóng sau chiến tranh đã cho thấy rằng các lực lượng Mỹ sẽ chuyển giao quyền lực cho người Irắc sau một vài tháng. Điều này đã phản ánh sự chán ghét mang tính tư tưởng việc xây dựng quốc gia của Bush, có từ thời chiến dịch tranh cử. Khi cuộc nổi dậy có được sức mạnh, Tổ chức nghiên cứu Irắc (ISG) đã cố gắng tìm kiếm WMD của Irắc. Bất chấp việc huy động 1.400 người và đầu tư hơn 1 tỷ USD, vẫn không phát hiện ra được bất cứ vũ khí hạt nhân, hóa học hay sinh học nào. Người đứng đầu ISG đã nói trước Thượng viện Mỹ rằng về chương trình WMD của Irắc “chúng ta gần như hoàn toàn sai”. Lý do căn bản đầu tiên của cuộc chiến tranh này đã bị lầm lẫn.

Không tìm thấy bất cứ WMD nào, Bush ngày càng điều chỉnh cuộc chiến tranh này theo hướng thúc đẩy dân chủ ở Irắc và cuối cùng là phần còn lại của thế giới Arập. Quyền tự do đã là chủ đề trong những phát biểu trước công chúng của Bush có từ bài diễn văn đầu tiên trong chiến dịch tranh cử của ông. Tuy nhiên, trước đây nó không phải là một sự ưu tiên. Nhưng nó đã trở thành một công cụ bằng lời lẽ hiệu quả để mài mòn những chỉ trích trong nước. Nó chuyển hướng sự chú ý từ vấn đề WMD và các yếu tố vũ lực sang hoặc tán thành với ông hoặc giải thích tại sao họ phản đối chế độ dân chủ đang lan rộng.

Trong bài diễn văn nhậm chức thứ hai của mình, Bush đã chuyển hướng khỏi Học thuyết Bush ban đầu và xác định thúc đẩy chế độ dân chủ là mục tiêu hàng đầu của chính sách đối ngoại Mỹ, tuyên bố rằng: “Chính sách của Mỹ chính là tìm kiếm và ủng hộ sự phát triển của các thể chế dân chủ ở mọi quốc gia và nền văn hóa, với mục tiêu cuối cùng là chấm dứt chế độ chuyên chế trong thế giới của chúng ta”. Chỉ vài tuần sau bài diễn văn này, Ngoại trưởng Rice đã hủy bỏ chuyến công du đến Ai Cập để phản đối việc bắt giữ một nhà hoạt động dân chủ người Ai Cập. Khi Rice cuối cùng đã đến Cairô vào cuối năm đó, bà đã công khai nói trước một buổi nhóm họp các nhà cải cách Ai Cập: “Tất cả các dân tộc tự do sẽ sát cánh với bạn khi bạn giữ vững những lời cầu nguyện cho sự tự do của chính mình”.

Tuy nhiên, “chương trình nghị sự tự do” của Bush đã sớm vấp phải nhiều vấn đề. Một là chính quyền không có một chiến lược nào để hoàn thành mục tiêu cao cả của mình. Chỉ vài tuần sau khi đọc bài diễn văn nhậm chức thứ hai, Bush đã đệ trình một yêu cầu ngân sách mà thực tế cắt giảm các quỹ chi cho những nỗ lực thúc đẩy chế độ dân chủ của chính phủ. Một vấn đề thứ hai là sự thúc đẩy chế độ dân chủ thường xung đột với các mục tiêu chính sách đối ngoại quan trọng khác của Mỹ, nổi bật nhất là việc chống khủng bố. Nhiều đồng minh trong cuộc chiến chống khủng bố là các chế độ chuyên quyền. Việc yêu cầu họ đón nhận cuộc cải cách dân chủ có nguy cơ đánh mất sự hợp tác của họ trong vấn đề khủng bố. Vấn đề thứ ba là chế độ dân chủ có thể tạo ra các chính quyền thù địch với những lợi ích của Mỹ. Điều đó đã đột ngột xảy ra vào đầu năm 2006 khi người Palextin bầu Hamas lên nắm quyền, một kết quả mà Chính quyền Bush đã nghĩ là không thể có. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các chính quyền Arập chuyên quyền đột ngột có sức lôi cuốn mới. Trong chuyến công du của mình đến Ai Cập vào tháng 1/2007, bà Rice đã hủy toàn bộ cuộc nói chuyện trước công chúng về chế độ dân chủ và thay vào đó nhấn mạnh rằng “mối quan hệ của Mỹ với Ai Cập là mối quan hệ chiến lược quan trọng mà chúng tôi hết sức coi trọng”.

Vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của Bush, những hạn chế đối với sức mạnh Mỹ đã tỏ rõ. Mỹ có thể lật đổ các chế độ với tốc độ nhanh lạ thường. Tuy nhiên, nước này không thể dễ dàng dẹp tan các cuộc nổi dậy hay xây dựng lại các chính quyền đã tan vỡ. Bất chấp việc tiêu tốn hơn 500 tỷ USD, quân đội Mỹ vẫn đang chiến đấu ở Irắc – vào năm 2007 Bush đã cử đi thêm 20.000 binh lính Mỹ nhằm nỗ lực giảm bớt hành vi bạo lực ở đó. Trong khi đó, ở Ápganixtan, Taliban đã giành lại được thế chủ động, tạo áp lực lên Chính quyền Hamid Karzai và kích động tình trạng bạo lực qua đường biên giới ở Pakixtan.

Việc phô trương sức mạnh của Mỹ ở Irắc và Ápganixtan cũng đã không tạo ra được những lợi ích phụ mà Bush đã dự tính. Thay vì sợ hãi trước những lời đe dọa của Bush, Iran và Bắc Triều Tiên tiếp tục các chương trình vũ khí hạt nhân của họ - quả thực, vào năm 2006 Bình Nhưỡng đã thử quả bom nguyên tử đầu tiên của mình. Các nhà lãnh đạo đồng minh không tập trung quanh sự lãnh đạo của Bush mà tự tách mình khỏi nó, chủ yếu bởi vì người dân của họ phản đối các chính sách của Mỹ. Ở trong nước, sự thâm hụt của Chính phủ Mỹ đã lên đến đỉnh điểm là 500 tỷ USD, và đa số người Mỹ muốn rút khỏi Irắc. Đây không phải là những gì Bush đã hình dung khi ông tuyên bố cuộc chiến chống khủng bố.

Lời hứa hẹn về sự chuyển biến

Barack Obama theo cách nhất định đã có thành công về mặt chính trị là nhờ George W. Bush. Obama là một nhà làm luật ít người biết đến của bang Illinois khi ông sử dụng một cuộc míttinh chống chiến tranh ở Chicago vào tháng 10/2002 để lên án cuộc hành quân của Bush tiến đến một “cuộc chiến tranh ngu xuẩn”. Bài diễn văn đã trở nên có tính bước ngoặt trong chiến dịch giành đề cử vào chức tổng thống của đảng Dân chủ năm 2008.

Hillary Clinton và các ứng cử viên tổng thống hàng đầu khác của đảng Dân chủ đã bỏ phiếu tán thành cuộc chiến tranh này; Obama đã lập luận một cách thông minh rằng ông phản đối nó ngay từ đầu, do đó nổi bật so với các ứng cử viên khác. Mặc dù thành tích về chính sách đối ngoại chính thức của ông còn nghèo nàn, ông đã lập luận một cách thành công rằng sự phán đoán tốt hơn của mình đã chiến thắng kinh nghiệm dày dạn hơn của đối thủ. Lập luận này có ý nghĩa to lớn bởi vì, không như 8 năm trước đây, chính sách đối ngoại đã nổi bật trong chiến dịch tranh cử năm 2008, đặc biệt là trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ. Irắc là một vấn đề quan trọng nhất.

Vào mùa Xuân năm 2008, cứ ba người Mỹ thì có hơn một người coi đó là vấn đề quan trọng nhất mà nước này phải đối mặt. Obama đã lập luận rằng “bằng việc từ chối kết thúc chiến tranh ở Irắc, Tổng thống Bush đang đem lại cho những kẻ khủng bố những gì chúng thực sự muốn ... một sự chiếm đóng chưa xác định của Mỹ, với chi phí chưa xác định, với những hậu quả chưa xác định”. Phương thức chính sách của Obama là dễ hiểu: ông sẽ rút toàn bộ quân đội Mỹ trong vòng 16 tháng khi được bầu lên. Nhưng để thực hiện tuyên bố của mình vào năm 2002 rằng ông không phản đối tất cả các cuộc chiến tranh, chỉ phản đối những cuộc chiến tranh ngu xuẩn, ông hứa hẹn sẽ cử thêm nhiều quân Mỹ đến Ápganixtan, mà ông tin rằng Chính quyền Bush đã phớt lờ một cách vô lý”.

Những chỉ trích của Obama về chính sách đối ngoại của Bush không chuyển sang sự hoài nghi về những mục tiêu hay tính đúng đắn của một chính sách đối ngoại hoạt động tích cực. Lời hứa của Obama “bảo vệ người dân Mỹ và mở rộng cơ hội cho thế hệ tiếp theo” có thể được rút ra từ bài diễn văn của bất cứ vị tổng thống Mỹ nào trong suốt cuộc đời mình. Và giống như Bush, Obama là một người theo chủ nghĩa quốc tế ủng hộ vai trò mạnh mẽ của Mỹ ở nước ngoài. Ông không phải là một người theo trường phái không can thiệp kêu gọi một sự rút lui về Pháo đài Mỹ.

Thay vào đó, những sự chỉ trích của Obama bắt nguồn từ sự phản đối quan điểm của Bush về thế giới vận hành như thế nào. Ở nơi Bush hoàn toàn phủ nhận tuyên bố rằng sự toàn cầu hóa đang tái tạo hoạt động chính trị thế giới, Obama chấp nhận nó như một điều đã định sẵn. Một thế giới được toàn cầu hóa đã tạo ra vô số mối đe dọa vượt ra ngoài các đường biên giới quốc gia. Khủng bố chỉ là thứ dễ thấy nhất trong một danh sách bao gồm phổ biến hạt nhân và biến đổi khí hậu. Sức mạnh Mỹ, cho dù to lớn, vẫn là không đủ để đương đầu với những thách thức này. Theo lời của Obama, “Mỹ không thể một mình đương đầu với những mối đe dọa của thế kỷ này”.

Obama đã lập luận rằng Mỹ có thể bảo vệ những đối tác mà nước này cần chỉ với điều kiện là các nước khác tán thành việc nước này đi về đâu và đi như thế nào. Mỹ không còn có thể đáp ứng được thói quen của Bush là “bắt nạt các nước khác để thông qua những sự thay đổi mà chúng ta ấp ủ trong sự cô lập”. Obama cam kết sẽ tôn trọng các quy tắc quốc tế về những vấn đề như sự thẩm tra cưỡng bức và đưa ngoại giao quay trở lại vị trí hàng đầu trong chính sách của Mỹ. Ông sẽ giải quyết các vấn đề như sự biến đổi khí hậu và khôi phục tiến trình hòa bình Ixraen-Palextin. Sự thúc đẩy ngoại giao của ông thậm chí mở rộng sang cả các kẻ thù của Mỹ. Trước sự sửng sốt của những người chỉ trích ông, và ngay cả một số người ủng hộ ông, khi được hỏi trong suốt chiến dịch tranh cử rằng liệu ông “có sẽ sẵn sàng gặp riêng mà không có điều kiện tiên quyết… các nhà lãnh đạo của Iran, Xyri, Vênêxuêla, Cuba và Bắc Triều Tiên, để lấp đầy khoảng cách đang chia rẽ những đất nước của chúng ta hay không”, ông đã trả lời là “có”.

Mặc dù Obama đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cộng tác với bạn bè cũng như kẻ thù, ông khẳng định rằng ông sẽ hành động về mặt quân sự ở nơi nó có ý nghĩa. Bên cạnh việc hứa hẹn sẽ cử thêm nhiều quân đến Ápganixtan, ông đã khẳng định ông sẽ sử dụng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và các chiến dịch của Lực lượng Đặc biệt để tấn công vào bên trong Pakixtan. Vào năm 2007, ông đã nói: “Nếu chúng ta có thông tin tình báo có cơ sở về các mục tiêu khủng bố đáng giá và Tổng thống Musharraf không hành động, thì chúng ta sẽ hành động”. Cả các đảng viên đảng Dân chủ lẫn các đảng viên đảng Cộng hòa đã lên án tuyên bố này, với một số người lập luận rằng ông đã “gợi ý xâm lược Pakixtan”.

Tuy nhiên, sự hăng hái đối với hành động quân sự của Obama đã chấm dứt tình trạng thiếu sự can thiệp nhân đạo. Ông đã ủng hộ việc rút quân đội Mỹ khỏi Irắc cho dù nạn diệt chủng đang diễn ra. Ông đã nói tại một điểm dừng trong chiến dịch tranh cử: “Tốt thôi, hãy xem nếu đó là tiêu chuẩn mà theo đó chúng ta ra các quyết định về việc triển khai các lực lượng của Mỹ, thì bằng lập luận đó, bạn sẽ có 300.000 quân ở Cônggô ngay bây giờ, nơi hàng triệu người bị tàn sát do hậu quả của cuộc xung đột sắc tộc, điều mà chúng ta chưa làm”. Ông nói thêm rằng: “Chúng ta sẽ đơn phương triển khai và chiếm đóng Xuđăng, việc mà chúng ta vẫn chưa làm”.

Tương tự, Obama đã lảng tránh việc đón nhận “chương trình nghị sự tự do” của George W.Bush. Một phần, việc này đã phản ánh một tính toán chính trị không khoan nhượng; Irắc đã làm cho sự thúc đẩy chế độ dân chủ trở nên độc hại đối với nhiều người Mỹ. Nhưng nó cũng đã phản ánh đánh giá của ông rằng sự thúc đẩy chế độ dân chủ đã đề cao các cuộc bầu cử mà ông xem là những viên gạch xây dựng nên chế độ dân chủ - an ninh và cơ hội kinh tế. Ông đã lưu ý rằng bài diễn văn “4 quyền tự do” nổi tiếng của Tổng thống Franklin Roosevelt (FDR) đã hoàn toàn không đề cập đến các cuộc bầu cử. Lưu tâm đến mối quan ngại của FDR về tình trạng không bị thiếu thốn và lo sợ, Obama đã đề xuất tăng gấp đôi ngân sách viện trợ nước ngoài của Mỹ.

Việc Obama miễn cưỡng đón nhận can thiệp nhân đạo và sự lạnh nhạt của ông đối với thúc đẩy chế độ dân chủ đã gây ra tranh luận rằng ông là một loài chim hiếm – một người theo chủ nghĩa thực tế về chính sách đối ngoại của đảng Dân chủ. Những bình luận của chính Obama đã kích động cuộc tranh luận này. Ông đã nói với các cử tri thuộc bang Pennsylvania : “Sự thật là chính sách đối ngoại của tôi thực sự là một sự trở lại chính sách thực tế lưỡng đảng truyền thống của Bush cha, của John F.Kennedy, theo cách nào đó, của Ronald Reagan”.

Nhưng một sự miêu tả chính xác hơn về việc Obama đã nhìn nhận như thế nào chính sách đối ngoại là chủ nghĩa thực dụng thay vì chủ nghĩa thực tế. Ông muốn có “một chiến lược không còn được định hướng bởi hệ tư tưởng và hoạt động chính trị mà bằng thứ gì đó dựa trên một đánh giá thực tế về những sự kiện nghiêm trọng trên thực địa và những lợi ích của chúng ta trong khu vực”. Ông hứa hẹn sẽ đánh giá từng vấn đề theo đúng giá trị của nó, và rồi cố gắng nghĩ ra một giải pháp.

Tầm nhìn trong chiến dịch tranh cử của Obama về chính sách đối ngoại của Mỹ đã kích động người dân cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài. Kiệt sức sau 8 năm cầm quyền của George W. Bush, họ đã hy vọng rằng vị thượng nghị sĩ 1 nhiệm kỳ này sẽ, mượn một động từ nổi tiếng là biến đổi hoàn toàn chính sách đối ngoại của Mỹ. Bản thân ứng cử viên này đôi khi thấy lạc quan về những gì mình làm: “Cái ngày tôi được bầu làm tổng thống, đất nước này thấy mình khác biệt. Và đừng đánh giá thấp sức mạnh đó. Đừng đánh giá thấp sự biến đổi đó”.

Những sự mong đợi đáp ứng được thực tế

Obama đã bắt đầu nhiệm kỳ tổng thốngcủa mình bằng việc hiện thực hóa một cách có thứ tự những lời hứa hẹn của ông trong chiến dịch tranh cử. Vào ngày thứ 3 cầm quyền, ông đã ra lệnh đóng cửa nhà tù của Mỹ tại Vịnh Guantanamo, Cuba, trong vòng 1 năm và chấm dứt các cuộc thẩm tra cưỡng bức. Vào giữa tháng 2, ông đã ra lệnh cử 17.000 binh lính Mỹ đến Ápganixtan, tăng gần 50% so với 36.000 binh lính Mỹ đã ở đó. Vào cuối tháng 2, ông đã ra lệnh rút tất cả các quân đội tham chiến khỏi Irắc vào tháng 8/2010 và tất cả quân đội Mỹ còn lại vào tháng 12/2011. Vào tháng 3, ông đã gửi một đoạn băng chúc mừng Iran nhân dịp năm mới của Iran , nói rằng “chính quyền của tôi hiện nay cam kết với biện pháp ngoại giao giải quyết một loạt đầy đủ các vấn đề trước mắt chúng ta”.

Vào tháng 5, ông đã nói với Thủ tướng Ixraen Benjamin Netanyahu rằng Ixraen phải ngừng tất cả các công trình xây dựng khu định cư. Vào tháng 6, Hạ viện Mỹ đã thông qua dự luật cap-and-trade (giới hạn mức trần và mua bán chỉ tiêu khí thải) mà Obama đã ủng hộ nhằm giảm khí thải hiệu ứng nhà kính. Obama đã khởi động nhiều sáng kiến ngoại giao, nổi bật nhất là việc lật ngược chính sách của Bush trong việc cử các quan chức Mỹ tham gia các cuộc đàm phán quốc tế với Iran về chương trình hạt nhân của nước này.

Ông đã công du khắp nơi để nói chuyện với các thính giả nước ngoài, chỉ riêng năm 2009 ông đã đến thăm 21 quốc gia – một kế hoạch công du tham vọng nhất của bất cứ một vị tổng thống nào vào năm đầu cầm quyền. Vào tháng 4, ông đã hứa cổ vũ những đám đông ở Praha “tìm kiếm hòa bình và an ninh từ một thế giới không có vũ khí hạt nhân”. Vào tháng 6, ở Cairô, ông đã nói về khát vọng của ông “tìm kiếm một sự khởi đầu mới giữa Mỹ và những người Hồi giáo trên khắp thế giới”. Vào tháng 9, ông đã nói với Đại hội đồng LHQ rằng ông đang tìm kiếm “bằng lời nói và hành động, một thời đại mới của sự can dự với thế giới”.

Việc đi theo hoạt động ngoại giao của Obama đã khiến ông được yêu mến ở nước ngoài và khôi phục hình ảnh của Mỹ trên toàn cầu. Những mong đợi về điều ông sẽ hoàn thành đang tăng vọt. Ông đã đoạt giải Nobel hòa bình năm 2009. Hội đồng giải thưởng này đã không đề cập đến một thành tựu nào trong lời biểu dương giải thưởng của mình; thay vào đó họ chúc mừng ông vì mang lại cho người dân trên thế giới “niềm hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn” với “hoạt động ngoại giao của ông... được tìm thấy trong khái niệm rằng những người sẽ lãnh đạo thế giới phải tiếp tục làm như vậy trên cơ sở các giá trị và thái độ được đa số người dân trên thế giới chia sẻ”. 28 tháng cầm quyền đầu tiên của Obama đã tạo ra một số thành tựu nổi bật. Vào tháng 6/2010, Hội đồng bảo an LHQ đã áp đặt những biện pháp trừng phạt mới đối với Iran trong một nỗ lực loại bỏ chương trình hạt nhân bắt đầu phát triển của nước này. Động thái này mang ý nghĩa to lớn không chỉ bởi vì nó gia tăng áp lực lên Têhêran mà bởi vì nó giành được sự ủng hộ của hai thành viên có quyền phủ quyết trong Hội đồng bảo an mà trước đây đã phản đối những biện pháp trừng phạt là Trung Quốc và Nga.

Sự ủng hộ của Nga phản ánh sự thành công trong nỗ lực của Obama nhằm “khởi động lại” mối quan hệ với Mátxcơva. Vào tháng 9/2009, ông đã điều chỉnh lại chính sách phòng thủ tên lửa của Mỹ, loại bỏ hệ thống phòng thủ tên lửa tầm xa mà Bush đã bắt đầu và người Nga phản đối để ủng hộ một hệ thống dựa trên những máy bay đánh chặn tầm ngắn hơn khiến Mátxcơva ít lo ngại hơn. Sự thay đổi chính sách đó đã tạo điều kiện cho việc ký kết và cuối cùng là thông qua hiệp ước “START Mới” cũng như tạo thuận lợi cho sự hợp tác của Mátxcơva trong việc vận chuyển nguyên liệu qua Trung Á đến Ápganixtan. Vào tháng 3/2001, Obama đã một lần nữa làm việc với Anh và Pháp để đảm bảo sự hợp tác của Trung Quốc và Nga tại Hội đồng bảo an, lần này là nhằm thông qua một giải pháp cho phép hành động để bảo vệ dân thường Libi khỏi những cuộc tấn công của các lực lượng của Muammar Gaddafi.

Obama cũng thành công trong một vài mục tiêu an ninh then chốt. Quân chiến đấu của Mỹ đã rời khỏi Irắc vào tháng 8/2010 như đã hứa, và việc rút 50.000 quân không chiến đấu còn lại theo kế hoạch được hoàn thành vào hạn chót là tháng 12/2011. Ông đã tăng số các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái có vũ trang lên gấp 5 lần nhằm vào những nơi ẩn náu khả nghi của các phần tử khủng bố ở Pakixtan và những nơi khác. Và đáng chú ý nhất là vào tháng 5/2011, Biệt đội Hải quân SEALS của Mỹ đã tiêu diệt Osama bin Laden trong một cuộc đột kích đầy rủi ro vào Abbottabad ở Pakixtan, được tiến hành mà Chính phủ Pakixtan không hề hay biết.

Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Obama thiếu tính chuyển biến về phương diện khiến chính sách đối ngoại của Mỹ thành công hơn. Phần lớn những sáng kiến mang dấu ấn của ông hoặc đều bị ngừng lại hoặc thất bại. Sự phản đối trong nước cuối cùng đã buộc ông phải thay đổi hoàn toàn quyết định của mình đóng cửa nhà tù tại Guantanamo .

Ixraen từ chối ngừng xây dựng khu định cư, và vào cuối năm 2010, Obama đã từ bỏ yêu cầu của mình. Tương tự, ông đã từ bỏ những nỗ lực của mình nhằm thiết lập một hệ thống giới hạn mức trần và mua bán chỉ tiêu khí thải cho khí thải do hiệu ứng nhà kính. “Các nhà lãnh đạo Iran đã dứt khoát từ chối những lời đề nghị ngoại giao của ông”. Chưa đầy 2 tháng sau bài diễn văn của Obama ở Praha, Bắc Triều Tiên đã thực hiện vụ thử hạt nhân thứ hai. Bắc Kinh đã không đáp lại những động thái hòa giải của ông, và vào cuối năm 2010, ông đã áp dụng một thái độ quyết đoán hơn đối với Trung Quốc.

Những nỗ lực của Obama nhằm bình ổn Ápganixtan đã kéo Mỹ vào một sự ràng buộc sâu sắc hơn so với ông dự tính. Việc tăng quân của ông vào tháng 2/2009 đã không thể biến thành cơn thủy triều nhấn chìm Taliban như ông đã hy vọng. Bất chấp sự chỉ đạo rõ ràng của chính quyền đối với các quan chức quân đội cấp cao rằng ông không muốn nghe thấy những yêu cầu tiếp thêm nhiều quân hơn trong ít nhất là 1 năm, vị tướng chủ huy của Mỹ vào tháng 8/2009 đã cảnh báo với tư cách cá nhân về “nhiệm vụ thất bại” nếu không cử thêm đáng kể quân và chiến lược đã thay đổi. Báo cáo này đã nhanh chóng bị rò rỉ, gây ra tình trạng náo động. Obama đã khởi xướng một sự xem xét mới mẻ về chính sách Ápganixtan mà đã lên đến đỉnh điểm trong quyết định phái thêm 30.000 quân, với mục đích bắt đầu rút quân vào tháng 7/2011. Khi hạn chót đó tới gần, các điều kiện quân sự đã cải thiện nhưng tình hình chính trị ở Ápganixtan vẫn đầy nguy hiểm.

Những hạn chế đối vơi sự thay đổi

Sự thất bại của Obama trong việc thay đổi chính sách đối ngoại của Mỹ có một vài căn nguyên. Một là số lượng rất lớn và tính phức tạp của các vấn đề mà ông kế thừa. Đứng đầu danh sách này là cuộc khủng hoảng tài chính. Obama đã dành phần lớn 6 tháng đầu nhiệm kỳ của mình làm việc để ngăn chặn sự sụp đổ của nền kinh tế Mỹ và cùng với nó là hệ thống tài chính quốc tế. Những thách thức chính sách đối ngoại thuần túy mà ông phải đối mặt – có thể kể đến một số là tiến trình hóa bình Trung Đông, biến đổi khí hậu và phổ biến vũ khí hạt nhân – là các vấn đề lộn xộn, có lẽ là nan giải, không thể sửa đổi theo các giải pháp đơn phương của Mỹ hoặc ngay cả các giải pháp đa phương. Và những sự kiện đó không dễ chịu chút nào đối với Obama. Cho dù đó là “Phong trào Xanh” ở Irắc hay Mùa Xuân Arập, những thách thức chính sách đối ngoại của ông đã tăng lên thay vì thu hẹp lại. Và trong khi các cuộc khủng hoảng này có thể đã mang lại cho Obama những cơ hội, thì những sự can dự tốn kém của Mỹ ở Irắc và Ápganixtan và tình trạng tài chính ảm đạm của Chính phủ Mỹ đã hạn chế những phản ứng có thể có của ông.


Hoạt động chính trị nội bộ cũng không ủng hộ Obama. Mặc dù các đảng viên đảng Dân chủ ban đầu kiểm soát cả Hạ viện lẫn Thượng viện, nhưng những quy tắc đặc biệt trong Thượng viện đã cho phép thiểu số phe đảng Cộng hòa trì hoãn nếu không muốn nói là ngăn chặn toàn bộ các sáng kiến chính sách đối ngoại như quy chế giới hạn mức trần và mua bán chỉ tiêu khí thải đòi hỏi phải có sự đồng thuận của Quốc hội. Obama đã giành được sự tán thành của Thượng viện đối với Hiệp ước START Mới, nhưng chỉ sau một cuộc chiến chính trị gây đau đớn đã tiêu phí sự chú ý của Nhà Trắng trong một vài tháng. Bài học là rõ ràng: việc thông qua quy chế chính sách đối ngoại sẽ đòi hỏi phải có những cam kết mạnh mẽ về thời gian và năng lượng vốn khan hiếm. Những sai lầm của chính Obama đã cản trở sự nghiệp của ông. Nhiều đặc phái viên ông bổ nhiệm đã tạo ra sự nhầm lẫn về ai là người chịu trách nhiệm về chính sách nào, và cố vấn an ninh quốc gia đầu tiên của ông, Tướng James Jones, đã vật lộn ở vị trí của mình.

Obama đã không thể dự tính rằng yêu cầu của ông đòi ngừng hoạt động định cư của Ixraen sẽ củng cố thêm địa vị của Thủ tướng Benjamin Netanyahu ở trong nước. Sự phản ứng chậm chạp của Obama trước phong trào phản kháng vào ngày 12/6 ở Iran đã tiếp thêm sinh lực cho những người chỉ trích ông và đã làm những người ủng hộ ông mất tinh thần. Những cử chỉ hòa giải của ông đối với Trung Quốc đã khuyến khích thay vì khuất phục Bắc Kinh. Ông đã phớt lờ các mối quan hệ với các cường quốc dân chủ đang nổi lên như Braxin, Ấn Độ và Inđônêxia trong năm đầu cầm quyền của mình, và cách xử lý thường là vụng về của ông về các mối quan hệ cá nhân với các nhà lãnh đạo nước ngoài lần lượt gây khó chịu và lo ngại đối với ngay cả các đồng minh thân cận nhất.

Nhưng chiến lược chính sách đối ngoại của Obama đã phải gánh chịu một vấn đề cơ bản hơn: nó dựa trên một tiền đề quá lạc quan. Ông đã cho rằng nếu Mỹ dịu giọng điệu của mình, chìa tay với các thủ đô nước ngoài, nhấn mạnh các lợi ích chung và rồi quyết định lãnh đạo, thì các nước khác sẽ đi theo. Theo đánh giá này thì Bush đã thất bại không hẳn bởi vì các vấn đề là phức tạp, hay các nước bất đồng về việc phải làm gì và làm như thế nào, hay bởi vì các thủ đô nước ngoài có những ưu tiên các nhau, mà bởi vì ông đã lãnh đạo một cách tồi tệ.

Obama thay vào đó sẽ phục hồi trọng trách ngoại giao của Franklin Roosevelt, Harry Truman và John Kennedy. Tuy nhiên, Obama đã trở thành tổng thống trong bối cảnh địa chính trị hoàn toàn khác so với bất cứ vị tổng thống tiền nhiệm nào. Không một nước nào đóng vai trò của Liên Xô, thúc đẩy các nước gạt những sự bất đồng sang một bên để tập trung xung quanh Mỹ. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở các thị trường mới nổi đã thay đổi cán cân sức mạnh kinh tế toàn cầu và tạo ra những mạng lưới xuyên quốc gia mới cả bên trong lẫn giữa các khu vực bỏ qua Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 đã làm suy yếu hơn nữa khả năng lãnh đạo của Mỹ, những tai họa kinh tế của nước này được mọi người trong và ngoài nước xem là bằng chứng cho thấy sự suy thoái của Mỹ.

Không một điều nào trong số đó làm Obama ngạc nhiên. Ông đã thường nói trong chiến dịch vận động tranh cử về sự toàn cầu hóa đang tái tạo thế giới như thế nào. Nhưng ông đã không theo đuổi phân tích của ông về những xu thế toàn cầu để đưa ra kết luận lôgích. Một thế giới trong đó sức mạnh phân tán nhiều hơn và các mạng lưới xuyên quốc gia mới đã phát triển là một thế giới ngày càng khó lãnh đạo. Thay vì khát khao có được sự lãnh đạo của Mỹ, nhiều nước thờ ơ với nó. Họ không nhìn nhận Oasinhtơn đang đưa ra những giải pháp giải quyết được những mối quan ngại hàng đầu của họ. Chính vì vậy họ theo đuổi những lợi ích của mình ở nơi khác. Đôi khi ngay cả những bạn bè và đồng minh truyền thống cũng như các cường quốc mới nổi cũng tranh giành quyền lãnh đạo của Mỹ. Trung Quốc đã tìm cách sắp xếp lại cán cân quyền lực ở châu Á và tái tạo cấu trúc tài chính toàn cầu trên một mô hình theo ý muốn của nước này hơn. Braxin và Thổ Nhĩ Kỳ đã cố gắng làm trung gian một thỏa thuận với Iran về chương trình vũ khí hạt nhân của nước này.

Ấn Độ đã tự coi mình là một cường quốc chi phối từ Ađen đến Eo biển Malắcca, chứ không phải là một đối tác non nớt đối với Oasinhtơn. Việc điều hòa những tham vọng, những lợi ích và những sự ưu tiên cạnh tranh nhau là một nhiệm vụ làm nản chí, có lẽ là một nhiệm vụ nặng nhọc và không bao giờ kết thúc. Obama đã sớm nhận ra vấn đề này trong nhiệm kỳ tổng thống của mình. Ông đã lưu ý rằng: “Nếu chỉ có Roosevelt và Churchill ngồi trong một căn phòng với một chai rượu brandy thì đó là một cuộc đàm phán dễ dàng. Nhưng đó không phải là thế giới chúng ta đang sống”.

Ông đã tính toán rằng nếu Mỹ chịu lắng nghe hơn và nhấn mạnh những lợi ích chung thì “ở bên lề, họ (những nước khác) có khả năng muốn hợp tác hơn là không hợp tác”. Đây là những gì một cố vấn không có khả năng phân tích chính xác về chính trị của Obama đã gọi là “lãnh đạo sau hậu trường”. Nhưng vấn đề then chốt vẫn còn không được hỏi đến và không được trả lời là liệu hợp tác “nhiều hơn” có được hiểu là hợp tác “đủ” hay không. Kết quả là, Obama đã từ chối điều chỉnh những mục tiêu chính sách đối ngoại của mình, và đấu tranh để đề ra một chiến lược thúc đẩy những lợi ích của Mỹ trong một thế giới nơi những cường quốc khác, cả lớn lẫn nhỏ, đều bận bảo vệ chính họ. Ông đã giữ nguyên tiến trình, đánh dấu và vẽ lên những đường nét, chỉ để chứng kiến việc nhiều người trong số họ phớt lờ.

Thành công trong một thế giới toàn cầu hóa

Sự kiện 11/9 đã xác định lại chính sách đối ngoại của Mỹ. George W. Bush tin rằng các cuộc tấn công ngày hôm đó đã mang lại một nguyên tắc định hướng mới cho chính sách đối ngoại của Mỹ và cho phép một sự phản ứng hung hăng của Mỹ. Trong khi tiến hành cuộc chiến chống khủng bố, ông đã tìm cách tái tạo khung cảnh toàn cầu theo hình thức có lợi hơn cho an ninh Mỹ. Nhưng chống khủng bố đã tỏ ra là một trọng tâm quá hẹp đối với chính sách của Mỹ. Mỹ đơn giản là đã có quá nhiều lợi ích khác vượt ra ngoài đường biên giới của mình. Cuộc chiến chống khủng bố của Bush cuối cùng đã cho thấy những hạn chế của sức mạnh Mỹ và đã dồn gánh nặng cho người kế nhiệm ông với hàng đống vấn đề chính sách đối ngoại lộn xộn. Obama hiểu rằng sự toàn cầu hóa đã tái tạo địa hình địa chính trị.

Sức mạnh được phân tán không chỉ khắp một loạt rộng lớn hơn các nước mà còn sang các nhân tố phi nhà nước. Những ngày khi Mỹ có thể áp đặt các giải pháp, nếu chúng từng tồn tại, không còn có thể như vậy nữa. Việc định hướng thế giới phức tạp hơn này đòi hỏi phải có sự lắng nghe các nước khác và cho “họ lợi ích trong việc gìn giữ trật tự quốc tế”. Những gì Obama vấp phải không phải là sự chẩn đoán mà là một đơn thuốc: cho dù Oasinhtơn lãnh đạo một cách khôn ngoan và đồng cảm thì những nước khác cũng có thể không theo. Các cuộc tham khảo ý kiến có thể không đảm bảo có được sự đồng thuận. Các chính phủ có thể và đã bất đồng về những vấn đề nào tạo ra mối đe dọa và những cơ hội, họ cần có sự ưu tiên nào, và chúng cần phải được giải quyết ra sao và ai là người gánh trách nhiệm giải quyết chúng. Một kết quả quá thường xuyên là sự thiếu hoạt động hoặc sự trì trệ.

Thách thức của Obama là một thách thức mà những người kế nhiệm ông cũng có thể phải đối đầu: làm thế nào để thúc đẩy những lợi ích của Mỹ trong một thế giới mà thường không tự động đáp ứng sự lãnh đạo của Mỹ cho dù Mỹ vẫn là nước hùng mạnh và có nhiều ảnh hưởng nhất duy nhất. Điều đó có thể đòi hỏi những chiến lược mới – hay, như có thể, một định nghĩa hẹp hơn về những mục tiêu của Mỹ ở nước ngoài và những sự lựa chọn khó khăn giữa những sự ưu tiên. Sự tìm kiếm đó sẽ đầy đau đớn. Phần lớn thế giới trông chờ vào sự lãnh đạo của Mỹ ngay cả khi nước này nổi giận trước điều đó. Nỗ lực của Obama nhằm chuyển gánh nặng chiến đấu ở Libi sang các nước khác thuộc NATO đã thất bại bởi vì họ vừa không quen với việc đó vừa không nhất thiết phải chịu trách nhiệm về nó. Nhiệm vụ của Obama thậm chí có thể sẽ còn làm nản chí hơn ở trong nước. Các nước, cũng như con người, sống trong quá khứ, hoan nghênh những chiến thắng cũ và phớt lờ sự tiến triển của sự việc.

Các tổ chức trong nước sẽ chống lại sự thay đổi ngay cả khi những tai họa tài chính của Chính phủ Mỹ tạo ra những áp lực chính trị căng thẳng buộc phải giảm bớt những cam kết chính trị của mình ở nước ngoài. Những đề xuất suy nghĩ lại các chính sách cũ sẽ gặp phải những tuyên bố được làm mới lại rằng Obama không tin vào chủ nghĩa ngoại lệ Mỹ. Nhưng trừ khi Obama tìm ra một cách thức để liên kết những đơn thuốc chính sách đối ngoại của ông với những xu hướng toàn cầu đang phát triển, khoảng cách giữa những tham vọng và những thành quả của Mỹ sẽ tăng lên, và những triển vọng lãnh đạo toàn cầu thành công của Mỹ sẽ còn mờ mịt hơn./.

Theo Chathamhouse

Mỹ Anh/ Nghiên Cứu Biển Đông (gt)
0

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012

Trung Quốc và Nhật Bản có thể đẩy nhanh đến Ngày Tận thế

28/11/2012- Trong tầng lớp thượng lưu chính trị của Nhật Bản và Trung Quốc có những người hiểu được nguy cơ tiếp diễn sút giảm tồi tệ hơn nữa trong quan hệ song phương của hai nước vì cuộc tranh chấp xung quanh quần đảo Senkaku-Điếu Ngư. Nhưng cả Tokyo và Bắc Kinh đều chịu áp lực nặng nề từ dư luận, nếu không phải là chủ nghĩa dân tộc thì cũng có xu hướng cực đoan. Người Nhật và người Trung Quốc đều chờ đợi sự nhượng bộ của nhau trong cuộc tranh chấp lãnh thổ, tuy nhiên chẳng bên nào sẵn sàng chịu nhường bước, - chuyên viên Andrey Ivanov từ Viện Nghiên cứu Quốc tế của MGIMO nhận xét.


Bắc Kinh versus Tokyo

Trung Quốc - Nhật Bản đun sôi nước biển Đông Á

“Trong cuộc trò chuyện tin cậy, các chuyên viên Trung Quốc ngỏ ý rằng dành cho việc nối lại đối thoại bình thường, thì điều cần thiết là phía Nhật Bản phải đi tới một nhượng bộ nhỏ: cần công nhận có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc về quần đảo Điếu Ngư. Người Trung Quốc tin chắc là làm như vậy chẳng có gì phức tạp, bởi Tokyo dường như đã công nhận hiện hữu tranh chấp ngay từ năm 1970, trong cuộc hội đàm với các ông Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Cả hai vị lãnh đạo này đã đồng ý một cách khôn ngoan rằng nên chuyển việc tranh chấp này cho các thế hệ tương lai giải quyết. Và bây giờ, theo các chuyên viên Trung Quốc nói, hẳn cũng có thể làm như vậy được. Vướng mắc là ở chỗ các chuyên viên và giới ngoại giao Nhật Bản luôn phủ nhận rằng thời nào đó Tokyo từng công nhận sự tồn tại của cuộc tranh chấp lãnh thổ, và khẳng định là bây giờ Nhật Bản không thể làm điều đó”.

Từ chối thừa nhận hiện có cuộc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, phía Nhật Bản vin vào ý kiến công luận trong nước, sẽ bất bình nếu có nhượng bộ như vậy và sẽ đòi bãi nhiệm nội các.Ngoài ra, người Nhật e rằng ngỏ lời xác nhận có tranh chấp với Trung Quốc tức là sẽ tạo cớ để Trung Quốc nêu sách cứng rắn hơn đòi trả lại các hòn đảo. Trên thực tế nỗi e ngại này không phải là thiếu căn cứ, như thí dụ cho thấy chính từ nước Nhật, qua cuộc tranh cãi vì quần đảo Nam Kuril. Chỉ cần một lần hồi cuối những năm 1980, ông Gorbachev thừa nhận có vấn đề, là người Nhật lập tức xiết chặt lập trường cứng rắn hơn. Rồi tiếp đến một lần vào đầu năm 2000, Tổng thống Putin thừa nhận sự hiện hữu Tuyên bố chung Xô-Nhật năm 1956 và khả năng lý thuyết trao cho Nhật Bản 2 trong số 4 hòn đảo sau khi ký kết Hiệp ước hòa bình như là cử chỉ thiện chí, thế là Tokyo khăng khăng nhất loạt đòi trả lại toàn bộ 4 hòn đảo”.

Như đang thấy, dường như theo phương pháp “suy bụng ta ra bụng người”, hiện giờ người Nhật hiểu rằng người Trung Quốc cũng có thể làm như vậy, và sau khi Tokyo công nhận có tranh chấp, Bắc Kinh sẽ bắt đầu mở rộng tăng cường áp lực để đòi trả lại đảo Điếu Ngư. Lo ngại viễn cảnh đó, chính quyền Nhật Bản bác bỏ khả năng thừa nhận đang tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Càng ngày quan hệ Nhật Bản-Trung Quốc càng tiếp tục xấu đi.

Ở Tokyo, người ta nhìn thấy giải pháp cho vấn đề không phải là ở bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh bằng con đường thỏa hiệp và nhân nhượng, mà trong hướng phát triển hợp tác quân sự với Hoa Kỳ và củng cố tiềm năng quốc phòng. Tuy nhiên, đây là con đường đầy rẫy nguy hiểm cho Nhật Bản, cũng như đem lại cho thế giới những hậu quả rắc rối bất ổn nghiêm trọng, - chuyên viên Nga Andrei Ivanov đánh giá.

“Ở Nhật Bản đã bắt đầu các cuộc thảo luận về việc củng cố Hải quân, đối trọng với sự tăng cường nhanh chóng của hải quân Trung Quốc. Người ta đã bắt đầu nói cả về khả năng xem lại hàng loạt điều khoản trong Hiến pháp Nhật Bản, để dành tự do cho quân đội Nhật Bản trong hiệp lực quốc phòng tập thể cùng với Hoa Kỳ đối phó với Trung Quốc. Sự củng cố liên minh quân sự Nhật-Mỹ sẽ trở thành "món quà" khó chịu đối với Trung Quốc. Nhưng cả với chính Nhật Bản cũng không tránh khỏi đối mặt với nhiều vấn đề hơn”.

Hiện trạng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương củng cố khối chống Trung Quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu sẽ kích động Bắc Kinh tiếp tục tăng cường lực lượng vũ trang của mình, - chuyên viên Ivanov phân tích. Mức tăng chi phí cho nhu cầu quân sự có thể gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế Trung Quốc. Dễ đoán rằng Chính phủ Trung Quốc sẽ đổ hết tội lỗi cho chính sách thù địch của Hoa Kỳ và Nhật Bản, và điều đó kéo theo đợt bùng phát mới của tinh thần chống Nhật và chống Mỹ trong xã hội Trung Quốc. Tiếp theo hiển nhiên sẽ không tránh khỏi tăng cường vị thế của phái dân tộc và giới quân sự ở nước này, thiên về hô hào giải quyết vấn đề bằng sức mạnh. Quá trình tương tự cũng sẽ diễn ra tại Nhật Bản. Bởi viễn cảnh cắt đứt tất yếu quan hệ hợp tác thương mại với Trung Quốc sẽ giáng đòn đau vào nền kinh tế Nhật Bản. Kết quả là, không thể loại trừ khả năng quyền hành thuộc về phái dân tộc ở Nhật Bản và thậm chí Tokyo sẽ từ bỏ qui chế phi hạt nhân đã tự nguyện nhận lấy trước đây. Tất cả những điều đó có thể xảy ra khá nhanh. Và giả sử quan hệ Nhật-Trung chuyển sang giai đoạn đối đầu quân sự, thì như vậy cũng đồng nghĩa với "ngày tận thế”. Ít nhất, sẽ cáo chung mô hình quan hệ liên quốc gia, mà ngày nay đang được xem là cơ sở của trật tự thế giới, - chuyên viên Nga dự báo.

Theo Tiếng nói nước Nga
0

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Có phe nhóm hay không trong Quốc hội?

26/11/2012- Cựu Đại biểu Quốc hội Việt Nam nói với BBC ông tin rằng trong Quốc hội và Ban Chấp hành Trung ương Đảng hiện nay có tồn tại các nhóm lợi ích, hay các trung tâm quyền lực, và ông cảnh báo "một bộ phận không nhỏ" đảng viên thoái hóa biến chất có thể "thắng" nếu không bị loại trừ.


Server: kiwi6.com - Yêu cầu vượt tường lửa hoặc Tải xuống


Trong cuộc trao đổi tuần này với BBC, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội nói về đề tài thực chất là các "phe nhóm nội bộ" này:

"Ở nước nào cũng thế thôi. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Khi bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh đạo thì thế nào cũng có sự tác động của khá nhiều yếu tố và không loại trừ các yếu tố gắn với các nhóm lợi ích."

"Theo Nghị quyết trung ương 4 của Đảng Cộng sản thì một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên hư hỏng, thoái hóa, biến chất. Nếu đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm mà không cải thiện thì bỏ phận không nhỏ đã thắng."

Mở đầu cuộc trao đổi, Giáo sư Thuyết cho biết đánh giá của ông về tính khả thi hay không của việc lấy phiếu tín nhiệm và ông cũng cho biết đánh giá riêng của mình về toàn bộ phiên họp mới nhất của Quốc hội lần này.

"Kỳ họp thứ 4 này tôi thấy là không khí sinh hoạt dân chủ ở Quốc hội cũng được phát huy. Nhiều đại biểu đã có những ý kiến phân tích vấn đề khá sắc sảo. Cũng có những đại biểu có ý kiến rất thẳng thắn," ông nói.
0

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

Lãnh đạo mới Trung Quốc ảnh hưởng thế nào đến Việt Nam?

17/11/2012- (RFA) Bài phỏng vấn thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh từ năm 1974 đến năm 1987 và ông Dương Danh Dy, nguyên tổng lãnh sự của Việt Nam tại Quảng Châu.

Tài liệu tham khảo. Vui lòng cân nhắc khi xem !

Gia Minh, biên tập viên RFA
2012-11-17

Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 kết thúc hồi trung tuần tháng 11 vừa qua. Một thế hệ lãnh đạo mới được đưa lên. Giới lãnh đạo mới này của Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng thế nào đến Việt Nam?


Ông Tập Cận Bình, người vừa lên nắm chức Tổng Bí thư của Đảng Cộng Sản Trung Quốc thay cho ông Hồ Cẩm Đào, tại Bắc Kinh - Trung Quốc hôm 15-11-2012..

Nghe:

Lãnh đạo mới

Một điểm mới của phía đảng cộng sản Trung Quốc được thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh từ năm 1974 đến năm 1987, nhận định như sau:

“Tôi thấy cái mới của Trung Quốc là bây giờ họ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê Nin đi rồi, tư tưởng Mao Trạch Đông cũng bị bỏ đi rồi. Nhưng ông tổng bí thư của chúng tôi vẫn nói đến điều đó thì không biết ông này sẽ có suy nghĩ như thế nào. Tôi chưa biết.

Trung Quốc thì bỏ câu đó rồi mà đáng lẽ phải bỏ từ lâu. Nghĩa là từ khi Đặng Tiểu Bình nói là ‘mèo trắng, hay mèo đen miễn là bắt được chuột là mèo tốt’; tức Đặng Tiểu Bình đã đi con đường tư bản chủ nghĩa rồi. Thực tế xã hội Trung Quốc là tư bản chủ nghĩa rồi, còn nói xã hội chủ nghĩa chỉ là nói thế thôi.”


Một quan chức khác của Việt Nam từng làm tổng lãnh sự của Việt Nam tại Quảng Châu, ông Dương Danh Dy, cũng đưa ra một số đánh giá về thân thế vị tân chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thuộc một trong những nhân vật của thế hệ lãnh đạo mới ở Trung Quốc:

“Tôi có thể kết luận đó là những tầng lớp tinh anh của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông Tập Cận Bình khá người bình thường vì ông được trải nghiệm qua gian khổ vì từ năm 64 (nếu tôi nhớ không nhầm), mới 12 tuổi, gia đình ông đã chịu ách tai nạn cho ông bố vì Mao Trạch Đông trù úm. Sau đó suốt 10 năm cách mạng văn hóa, ông ta phải xuống nông thôn đi lao động và làm mọi thứ.

Đây là trường hợp mà tôi cho là hiếm vì là người trưởng thành từ cơ sở trở lên, chứ không đi tắt và vừa có kiến thức về khoa học tự nhiên từ Đại học Thanh Hoa, vừa có kiến thức về xã hội.”


Chủ trương cũ


Tổng bí thư Tập Cận Bình (trái) và Bộ Chính trị Đảng CS Trung Quốc trong một buổi họp mặt với báo chí hôm 15/11/2012 tại Bắc Kinh. Photo courtesy of EyePress News.

Ngay sau khi thành phần lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc ra mắt, truyền thông trên thế giới đều có nhận định thành phần bảo thủ vẫn chiếm đa số.

Mạng VnExpress của Việt Nam cũng trích dẫn nhận định của giới quan sát cho rằng ‘thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc có khả năng ủng hộ các biện pháp cải tổ kinh tế thận trọng và khó thực thi những thay đổi có tính chất cơ bản’.

Đối với nội tình Hoa Lục, các nhà lãnh đạo mới cũng có những cam kết sẽ tiến hành thay đổi.

Tuy nhiên theo nhận định của thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thì chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ không có gì khác trước và thái độ của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Việt nam cũng như bao lâu nay:

“Tôi nói rồi bất kỳ người nào lên lãnh đạo Trung Quốc họ cũng đều lấn át chúng tôi cả. Họ đều thực hành chủ nghĩa bành trướng, bá quyền đối với chúng tôi thôi. Còn phía lãnh đạo của chúng tôi, tôi còn theo dõi, thế mà từ trước đến nay họ không hề cãi gì với Trung Quốc cả.”

Ông Dương Danh Dy cũng có chung nhận định như điều ông Nguyễn Trọng Vĩnh nêu ra:

“Trong quan hệ thì Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, Ban lãnh đạo Việt Nam cũng muốn làm bạn với ban lãnh đạo mới của Trung Quốc; nhưng nói thẳng ra Trung Quốc họ có để cho mình yên đâu; nhất là vấn đề Biển Đông, trong chuyện phát triển lực lượng hùng mạnh.

Tôi muốn nhấn mạnh một điểm là trong Báo cáo chính trị của họ có nói sẵn sàng đánh thắng các cuộc chiến tranh cục bộ. Vậy chiến tranh cục bộ với ai? Với các nước láng giềng thôi, chứ chả nhẽ sang đánh ở Châu Phi,Trung Đông, với Nga, với Ấn Độ. Theo tôi chỉ có những nước ở biển Hoa Đông, Biển Đông: Nhật Bản, Philippines, Việt Nam có tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc.”


Chọn lựa cho Việt Nam?

Việt Nam hiện cũng đang do Đảng cộng sản lãnh đạo. Sau hội nghị trung ương sáu với nhiều đồn đoán về một số thay đổi cơ bản trong nhân sự; nhưng đến nay thì tất cả dường như vẫn không có gì khác trước. Nhân vật trong bộ chính trị không được nêu danh là đồng chí X vẫn không phải chịu trách nhiệm gì đối với mọi sai phạm về điều hành kinh tế đất nước. Việt Nam vẫn kiên định với chủ nghĩa xã hội.

Trước một thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc nhưng với hành xử cũ như bấy lâu nay, hai ông Nguyễn Trọng Vĩnh và Dương Danh Dy đều chỉ ra một con đường duy nhất cho Việt Nam hiện nay là kiên quyết không để bị lệ thuộc.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh ngắn gọn nói:

“Theo tôi thứ nhất phải phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường; thứ hai là thực hiện dân chủ; thứ ba là phải gắn bó với dân. Thế thôi.”

Ông Dương Danh Dy cũng nhận định:

“Tất nhiên phải xây dựng, phát triển lực lượng kinh tế, toàn dân đoàn kết một lòng. Điều này Trần Hưng Đạo nói rồi. Theo tôi thì Ban lãnh đạo Việt Nam cứ theo điều đó, nới sức dân, trên dưới một lòng, anh em đoàn kết.

Nay không giống năm 79. Nay Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới; Trung Quốc không thể làm gì bất thường vì sợ sự trừng phạt của dư luận, của công luận thế giới và sự chống lại của nhân dân Việt Nam. Người Việt Nam có thể có những bất đồng này khác với nhà cầm quyền nhưng khi có ngoại xâm khiêu chiến thì bao giờ dân Việt Nam cũng nhất trí, đồng lòng chống ngoại xâm.

Việt Nam đã có những chuẩn bị cần thiết: đã có tên lửa, tàu ngầm, máy bay, lực lượng quân sự. Việt Nam vừa đóng tàu tuần tra trên biển 2000 tấn. Dù không nhiều bằng Trung Quốc nhưng cũng đủ để bảo vệ vùng chủ quyền trên biển của mình.”


Trong quan hệ với Việt Nam ở thế kỷ 21 này, lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc đưa ra phương châm 16 chữ vàng, và tinh thần 4 tốt. Tuy nhiên trong thực tế giới quan sát cho rằng phía Việt Nam thực thi đầy đủ; trong khi đó phía Trung Quốc hiện đang làm ngược lại những phương châm và tinh thần đó, cụ thể qua những hành động họ tiến hành tại khu vực Biển Đông.

Nguồn: RFA

Trung Quốc từ bỏ Chủ nghĩa Mác - Lê Nin?

Ông Dương Danh Duy trả lời phỏng vấn BBC nói đã đọc báo cáo chính trị bằng tiếng Tàu trên mạng chính thức của TQ, cho biết:

”Đối với chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông: Khi tổng kết công tác 5 năm và 10 năm qua báo cáo chính trị đã viết: “… tổng kết quá trình 10 năm phấn đấu, thấy điều quan trọng nhất là chúng ta đã kiên trì lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưỏng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện” làm chỉ đạo…”

Thế nhưng khi nói về nhiệm vụ “đi con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” báo cáo này viết: “Hệ thống lý luận xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc bao gồm hệ thống lý luận khoa học là lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”, quan niệm phát triển khoa học.”

Có nghĩa là ở đây đã không hề nhắc tới chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông.”


Xem thêm: Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Nên thành lập “Hội nghiên cứu, tuyên truyền Biển Đông” (Infonet)
3