Nhà báo Phương Loan: Sau những căng thẳng ở bãi cạn Scarborough, các nhà bình luận ở Philippines đã buộc tội Trung Quốc sử dụng lợi thế nước lớn của mình để bắt nạt láng giềng. Theo ông, liệu sự hiện diện của Mỹ có là cần thiết để cần bằng quyền lực ở khu vực? Hiệp định phòng thủ chung Mỹ - Philippines sẽ quy định sự tham gia của Mỹ như thế nào đối với tranh chấp Biển Đông?
GS Carl Thayer: Chiêu thức bắt nạt của Trung Quốc là sử dụng các tàu dân sự trực thuộc cơ quan thực thi luật thủy sản và giám sát hàng hải Trung Quốc. Cách thức đáp trả thích hợp là sử dụng cảnh sát bờ biển của Philippines.
Mỹ là một cường quốc hàng hải, và lợi ích của Mỹ gắn với việc không quốc gia nào, kể cả Trung Quốc, chi phối các tuyến đường biển ở Biển Đông. Rõ ràng là hải quân Mỹ sẽ tăng cường sự hiện diện của mình và ngăn chặn Trung Quốc.
Như là một kết quả của các hành động của Trung Quốc, Hiệp định Phòng chủ chung Mỹ - Philippines đang được xem xét lại theo đề xuất của Tổng thống Aquino. Sự ủng hộ của Mỹ là cần thiết để Philippines xây dựng năng lực cho hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và quyền tài phán ở vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Hiệp định này cũng đóng vai trò như là một sự ngăn chặn việc Trung Quốc sử dụng quân sự.
Ý chí chính trị
Nhà báo Phương Loan: Sau sự cố Phnompenh vừa qua, người ta thấy một ASEAN đang bị chia rẽ. Vậy ASEAN sẽ có ý nghĩa và vai trò gì đối với các nước như Việt Nam và Philipine trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông?
GS Carl Thayer: Có ba diễn tiến riêng rẽ tại hội nghị ASEAN tháng 7 này. Hai diễn tiến tích cực đã bị phủ bong bởi thất bại của các ngoại trưởng ASEAN trong việc đạt được một thỏa thuận về ngôn từ của thông cáo chung. Đó có thể là một cuộc tranh luận nóng giữa các ngoại trưởng nhưng không phải là cuộc tranh cãi kéo dài.
Hai diễn tiến khác là: trước thời điểm sự cố về thông cáo chung, các ngoại trưởng ASEAN đã nhất trí thông qua các nhân tố cơ bản của COC và ngoại trưởng ASEAN đã thắng lợi trong việc đưa tất cả các ngoại trưởng ASEAN đạt thỏa thuận về 6 nguyên tắc của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Đối thoại với Trung Quốc có thể bắt đầu vào tháng 9 với mục tiêu thông qua COC vào tháng 11.
Nhà báo Phương Loan: Cuối cùng, ASEAN cũng đã đưa ra được các thành tố cơ bản của COC. Đáng tiếc thay, không có điểm nào về tính ràng buộc pháp lý của COC như trông đợi trước đó. Trong điều kiện đó, COC giúp gì trong việc giảm căng thẳng? và trong giải quyết xung đột?
GS Carl Thayer: Bản dự thảo COC vẫn chưa được Trung Quốc đồng ý. Nhưng bản dự thảo đòi hỏi các bên kí kết tìm kiếm giải pháp cho xung đột trên cơ sở các nguyên tắc của Hiệp định Thân thiện và Hợp tác ASEAN (TAC) một khi hai bên sẵn sàng chấp nhận. Nếu không, các bên trong tranh chấp có thể giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế, bao gồm UNCLOS.
Trung Quốc luôn từ chối cả hai lựa chọn này: TAC và luật quốc tế. Nhưng một khi COC được thống nhất, nó sẽ giúp ngăn Trung Quốc nếu nước này sẵn lòng tuân thủ các nguyên tắc. Một khi Trung Quốc phá vỡ, giai đoạn ngoại giao sẽ chuyển sang chính sách thực dụng. Vấn đề là làm sao đạt được một thỏa thuận về cách hành xử của các bên cho tới khi tranh chấp chủ quyền được giải quyết.
Nhà báo Phương Loan: Còn nhớ tháng 7 năm 2011, Trung Quốc và ASEAN đạt được thỏa thuận về các hướng dẫn thực hiện DOC. Bản hướng dẫn này nhằm giảm căng thẳng và ngăn chặn việc leo thang tiếp theo ở khu vực. Tình hình trên Biển Đông hiện nay cho thấy văn bản này chẳng có mấy hiệu quả. Với bản dự thảo COC sắp tới, theo ông, có thể giúp đảm bảo nguyên trạng trên Biển Đông?
GS Carl Thayer: Trung Quốc và ASEAN đã thành lập nhóm làm việc để đề xuất các dự án trong các lĩnh vực hợp tác đã được nêu trong DOC. Trung Quốc hào phóng đề xuất bảo trợ cho các hoạt động hợp tác. Tuy nhiên đến nay chưa có hành động nào được thể hiện. Một khi việc hợp tác chung bắt đầu, chúng ta có thể hi vọng rằng sẽ đóng góp vào xây dựng lòng tin lẫn nhau. Vẫn còn quá sớm để đưa ra nhận xét.
ASEAN đã đưa ra tuyên bố về các nhân tố cơ bản của COC. Hiện nay các thành viên ASEAN và Trung Quốc phải đạt được thỏa thuận về văn bản cuối cùng. COC chỉ đi vào thực tế một khi các nước liên quan có đủ ý chí chính trị. Yếu tố quan trọng của COC là buộc các quốc gia không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Nhưng bản dự thảo COC thực sự không đưa ra bất kì công cụ nào kiểm tra việc một quốc gia có sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực hay không.
Tăng năng lực tự vệ
Nhà báo Phương Loan: Trước tình hình và những bước leo thang quả quyết như vậy của Trung Quốc, cũng như sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN, Việt Nam còn những lựa chọn giải pháp nào và Việt Nam cần phải làm gì?
GS Carl Thayer: Trước hết, Việt Nam nên tiếp tục tăng cường khả năng tự vệ để bảo vệ chủ quyền quốc gia và duy trì sự thống nhất trong nước. Việt Nam nên tiếp tục can dự với Trung Quốc - đấu tranh và hợp tác - nhằm đảm bảo rằng không bên nào sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ song phương.
ASEAN cần tiếp tục vận động các nước thành viên nhằm đạt được một chỗ đứng thống nhất của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Việt Nam cũng nên sử dụng các mối quan hệ đối ngoại đa dạng của mình để xây dựng một liên minh những người ủng hộ mình trong nhóm các cường quốc. Chính sách ngoại giao của Việt Nam phải luôn nhằm mục tiêu thuyết phục Trung Quốc rằng hợp tác sẽ mang lại kết quả tốt đẹp hơn là đối đầu.
Bạn Trịnh Minh Châu, cựu sinh viên ĐH New South Wales, Úc: Tuy không nghiên cứu về lĩnh vực quốc phòng và chính trị nhưng từ hơn chục năm nay khi còn học tại Úc cũng như khi trở lại Việt Nam, tôi đọc nhiều và rất quan tâm các bài viết của GS về vấn đề chính trị khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, tôi cho rằng GS có cái nhìn, đánh giá rất khách quan song cũng rất sâu sắc, cụ thể. Việt Nam với lịch sử hàng ngàn năm trong quá khứ đã có thể tồn tại bên cạnh một Trung Quốc khổng lồ, nhưng với những gì đang diễn ra tại Biển Đông quả lại là một bài toán gai góc.
Nhân dân Việt Nam, quân đội và hải quân nên làm gì để bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình trong khi vẫn phải phát triển được quan hệ tốt với cả Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga?
GS Carl Thayer: Việt Nam nên trước tiên dựa vào các cơ quan dân sự để bảo vệ chủ quyền của mình. Điều này đồng nghĩa với việc phát triển lực lượng cảnh sát biển, tăng cường năng lực cho họ.
Việc sử dụng các tàu quân sự, như đã thấy trong trường hợp Philippines ở bãi cạn Scarborough có thể phản tác dụng. Việt nam cần xây dựng khả năng tự vệ bằng cách hiện đại hóa hải quân và không quân, để các lực lượng này có thể phối hợp hoạt động.
Việt Nam nên phát triển chiến lược chống tiếp cận như Trung Quốc đã triển khai với Mỹ.
Việt Nam nên sử dụng mạng lưới quan hệ dày đặc giữa hai đảng, hai chính phủ và hai quân đội với Trung Quốc khoanh vùng tranh chấp Biển Đông khỏi quan hệ kinh tế rộng lớn hơn.
Việt Nam đang nâng quan hệ với Nga lên mức quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam nên tiếp tục nhập khẩu công nghệ quân sự của Nga và thông thạo hệ thống vũ khí của nước này. Và Việt Nam cũng nên khuyến khích Nga đầu tư nhiều hơn vào khai thác đầu, khí và ngành hạt nhân.
Vấn đề nhân quyền ngăn quan hệ Việt - Mỹ đạt được mức đối tác chiến lược. Nhưng cả hai bbên chia sẻ một tầm nhìn chiến lược và việc duy trì một mối quan hệ tốt không phải là điều khó khăn.
Bạn đọc Long Lê: Theo cá nhân tôi, Trung Quốc ngày một quyết đoán hơn trong việc xử lý tranh chấp với các nước láng giềng ở Biển Đông và sẽ không sẵn sàng tuyên bố lại về yêu sách chủ quyền của họ đối với hầu hết Biển Đông. Cũng rất rõ ràng là Việt Nam đã nhiều lần tuyên bố quan điểm chính thức là không liên minh với bất kì nước nào chống lại nước thứ ba. Tuy nhiên, Việt Nam là nước nhỏ, và trong so sánh về quân sự với Trung Quốc, là nước yếu. Quan điểm của ông với tình thế này của Việt Nam như thế nào?
GS Carl Thayer: Việt Nam cần phát triển quan hệ song phương tốt đẹp với riêng rẽ từng nước Trung Quốc và Mỹ tập trung vào những lĩnh vực mà lợi ích của hai bên chồng lấn. Việt Nam cần duy trì sự thống nhất bên trong và phát triển năng lực tự vệ. Đồng thời, Việt Nam cần khuyến khích sự thống nhất và tính cố kết trong ASEAN. Cuối cùng, Việt Nam cần phát triển quan hệ với tất cả các cường quốc. Nói cách khác, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ, đấu tranh và hợp tác trên bình diện song phương.
Tăng hợp tác nhưng không liên minh với Mỹ
Nhà báo Phương Loan: Liên quan đến vai trò của Mỹ ở Biển Đông, một số nhà phân tích cho rằng Mỹ đang ở tình trạng tiến thoái lưỡng nan. GS nghĩ thế nào về nhận định này và khả năng hành động cũng như giới hạn của Mỹ là gì?
GS Carl Thayer: Tình thế lưỡng nan của Mỹ là để quyết định họ sẽ hỗ trợ Philippines tăng cường năng lực đến mức nào để không bị kẹt trong những hành động thiếu thận trọng của Philippines. Một tranh chấp về chủ quyền - rằng ai sở hữu các đảo, đá - chỉ có thể giải quyết bởi những bên trực tiếp liên quan đến tranh chấp. Mỹ không đứng về bên nào trong vấn đề chủ quyền. Nhưng chính sách của Mỹ là ngăn bất kì nước nào sử dụng quân sự hoặc đe dọa sử dụng quân sự nhằm giải quyết tranh chấp chủ quyền. Mỹ cũng có lợi ích quốc gia trong việc đảm bảo tự do hàng hải và hàng không đối với các tàu quân sự và thương mại của họ.
Nhà báo Phương Loan: Ý nghĩa của tranh chấp Biển Đông trong chính sách của Mỹ và lợi ích của ước này ở khu vực?
GS Carl Thayer: Mỹ là một quốc gia biển và có nhu cầu qua lại trên Biển Đông đối với các tàu thuyền quân sự khi di chuyển từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Trung Quốc đang thách thức sự thống lĩnh trên biển của Mỹ và muốn điều khiển vị trí ấy từ cái gọi là chuỗi đảo đầu tiên ngoài bờ biển Trung Quốc. Mỹ muốn ngăn Trung Quốc thách thức sự hiện diện cả nước này. Tranh chấp Biển Đông đe dọa sự ổn định của các tuyến đường biển khi nó thu hút cả Trung Quốc và Mỹ. Trung Quốc đã xây dựng căn cứ hải quân lớn ở đảo Hải Nam và chiến lược tái cân bằng của Mỹ được thiết kế nhằm đảm bảo sự qua lại quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á nhằm sử dụng sức mạnh hải quân đối chọi với Trung Quốc.
Nhà báo Phương Loan: Ông nghĩ sự gia tăng hiện diện của Mỹ tại Biển Đông sẽ giúp duy trì sự ổn định hay sẽ làm phá vỡ sự ổn định của các mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực?
GS Carl Thayer: Bất chấp tất cả những bài phát biểu về tái cân bằng, không có gì để cho thấy một sự gia tăng đáng kể sự hiện diện của hải quân Mỹ. Nhưng bản chất và vị trí hiện diện của hải quân Mỹ sẽ thay đổi. Yếu tố gây bất ổn lâu dài ở Biển Đông là việc quân đội Trung Quốc thách thức vị trí siêu cường hải quân của Mỹ và phản ứng của Mỹ nhằm đảm bảo duy trì vị thế thống lĩnh của nước này. Điều này diễn ra trong bối cảnh sự trỗi dậy của Trung Quốc đồng nghĩa với suy yếu tương đối của sức mạnh Mỹ. Một số quốc gia trong khu vực lo ngại về nguồn lực của Mỹ để duy trì vị thế vượt trội của họ. Mỹ đang cố chứng tỏ rằng nước này sẽ duy trì lợi ích ở khu vực.
Bạn đọc Long Lê: Trong điều kiện Trung Quốc hành xử ngày càng gây hấn và trong tương quan sức mạnh bất đối xứng giữa Việt Nam và Trung Quốc, theo GS, liệu Việt Nam có nên tiến thêm một bước bằng cách liên minh với Mỹ để có sự hỗ trợ từ bên ngoài trong việc đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông?
GS Carl Thayer: Việt Nam không nên liên minh với Mỹ. Việt Nam nên phát triển quan hệ với Mỹ vì lợi ích quốc gia của Việt Nam. Mỹ cũng có lợi ích quốc gia của riêng họ trong việc duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông. Việt Nam có thể tính đến Mỹ trong hành xử vì lợi ích của chính họ.
Nhà báo Phương Loan: Vai trò của các cường quốc khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia trong tranh chấp Biển Đông?
GS Carl Thayer: Cả ba nước này có một chính sách giống như chính sách của Mĩ. Không nước nào đứng về bên nào trong các yêu sách chủ quyền. Cả ba đều là các quốc gia biển, hai trong số đó là đồng minh của Mỹ. Cả ba đều chia sẻ lợi ích trong việc ngăn Trung Quốc thống trị Biển Đông cũng như việc Trung Quốc gây cản trở cho các hoạt động của tàu quân sự và dân sự của họ theo các quy định của luật quốc tế, bao gồm Công ước của Liên hợp quốc tế Luật biển UNCLOS.
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/83833/de-trung-quoc-het--bat-nat-lang-gieng-.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét