Vibay

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012

Những thách thức của TQ trong năm 2012

10/2/12- Trung Quốc vừa bước vào năm Rồng 2012, song như nhà báo Sébastien Le Belzic nhận xét trên tạp chí “Statafrik”, những người mang tin dữ đến đã thấy đó là biểu tượng của khủng hoảng và cũng là dấu hiệu rõ nét về sự phát triển một nước Trung Quốc hiếu chiến.

Chỉ cần lang thang trong các con ngõ nhỏ chạy dọc theo các ngôi chùa ở Bắc Kinh cũng đủ để thấy tử vi quan trọng như thế nào trong cuộc sống đời thường của người dân Trung Quốc. Ở nước này, không phải Đảng Cộng sản quyết định được tất cả, cũng phải tính tới phong thủy, con số, chiêm tinh, điềm tốt điềm gở nữa… Trong khi đó, Trung Quốc bước vào năm Rồng, vốn là một biểu tượng mạnh mẽ trong huyền thoại Trung Hoa từ ngày 23/1.

Tử vi Trung Hoa được chia thành 12 con giáp, trong đó rồng từ lâu là con vật được biết đến nhiều nhất. Trong khi Trung Quốc chuyển từ năm con Thỏ sang năm con Rồng, người dân Bắc Kinh rủ nhau đi xem bói thẻ hay bói số. Sau khi nhẩm tính một cách khéo léo ngày và giờ sinh cũng như một vài con số được giữ bí mật, thầy số sẽ nói về tương lai của bạn…

Có nên đùa với những lời tiên toán không?


Lời tiên đoán có thể khiến phần lớn người dân phương Tây cười bao nhiêu thì ở Trung Quốc lại được coi là cực kỳ quan trọng bấy nhiêu. Một phụ nữ có tuổi giải thích: “Tôi muốn biết năm nay có phải là năm tốt cho gia đình không. Con gái tôi sẽ lập gia đình trong năm nay và chúng tôi phải chọn ngày nào sẽ mang lại hạnh phúc cho con gái tôi.” Năm Rồng cũng sẽ là năm bùng nổ sinh nở. Thậm chí phần lớn người Trung Quốc có thể chấp nhận đẻ mổ chỉ vì muốn có một tiểu rồng trong nhà. Như vậy, họ phải tính để làm sao con họ phải ra đời trong khoảng thời gian từ ngày 23/1/2012 đến ngày 10/2/2013.

Người Trung Quốc đều bị mê hoặc bởi những bí hiểm của thuyết siêu hình, Một số mạng Internet còn cung cấp cả dịch vụ này cho người sử dụng smartphone.

Những theo thuyết này, năm nay cũng không có gì tôt đẹp lắm. Theo một nhà chiêm tinh học, năm 2012 là năm Rồng nước. Thủy và Rồng, đều là “dương” mệnh, tương sinh khi rồng gặp nước và nước gặp rồng. Đó là dấu hiệu cho thấy sẽ có những chuyển động mạnh và dữ dội, thậm chí như kiểu sóng thần, đối với Trung Quốc. Theo nhà chiêm tinh học này, điều đó có nghĩa là các “cuộc biểu tình sẽ tiếp tục nổ ra” ở nước này và tình hình “vẫn sẽ không có gì là chắc chắn cả”. Thậm chí, “biểu tình sẽ lan rộng và với quy mô và mức độ nghiêm trọng hơn”. Thủy triệt Kim và đối với nền kinh tế thế giới, đó cũng là tin không tốt lành.

Kết quả là làm chính trị trong năm Rồng sẽ rất khó khăn. Hơn nữa vì đó là năm chuyển giao chính trị ở Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo sẽ chuyển giao quyền lực cho những người kế nhiệm mình. Nhưng chuyển cho ai đây? Cho đến nay, đó vẫn là điều huyền bí. Trong năm Rồng này, “Chín vị Hoàng đế”, như người ta vẫn thường gọi các ủy viên thường vụ Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, sẽ được chỉ định trước khi một trọng số 9 người sẽ được lựa chọn.

Kinh nghiệm cho thấy Tập Cận Bình sẽ trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc và là Chủ tịch tương lai của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Còn Lý Khắc Cường sẽ ngồi vào ghế Thủ tướng. Nhưng lúc này vẫn chưa có gì là chắc chắn, trong khi mọi đường đi của con Rồng đều không thể đoán trước được.

Để trừ tà cho năm xem ra có vẻ khó khăn này, nghệ sĩ Chen Shaohua đã vẽ một con Rồng tuyệt đẹp để trang trí một loạt con tem đặc biệt được tất cả các nhà sưu tầm ưa thích. Hàng chục nghìn người Trung Quốc đã xếp hàng tại tất cả các bưu điện ở nước này để có được mẩu giấy thần nhỏ và kình vuông đó, khi con tem này được phát hành vào đầu tháng Giêng vừa qua. Một con Rồng mà ông Chen Shaohua cho là vừa “rắn” vừa “mạnh mẽ”, được lấy cảm hứng từ trang phục của các vị Hoàng đế triều Thanh.

Con rồng Trung Quốc liệu có hung hãn không?

Nhiều tờ báo quả thực đã đặt câu hỏi này sau khi bà Zhang Yihe tung ý kiến phê phán lên blog của mình. Nữ nhà văn nổi tiếng này tức tối trước những đường nét “gây kinh hoàng” và “dữ tợn” của con Rồng này. Đến mức trên một số diễn đàn Internet, một số người không muốn có con rồng huyền thoại này, vốn là biểu tượng của nước Trung Quốc nữa.

Nhưng nghệ sĩ Chen Shaohua vẫn bảo lưu ý kiến của mình và khẳng định chỉ có con rồng mới có khả năng chống lại các thế lực ma quỷ sẽ chi phối năm 2012. Giải thích trên tờ “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng của Hồng Công”, ông nói con Rồng là một sản vật huyền thoại của Thượng đế và là một biểu tượng của huyền thoại Trung Hoa. Đó cũng là hình ảnh vừa gây ấn tượng vừa đáng trọng, một biểu tượng sẽ bảo vệ nền kinh tế Trung Quốc trước cuộc khủng hoảng trong thời không có gì là chắc chắn này.

Biểu tượng Rồng vẫn luôn là nguồn gốc dẫn đến việc Trung Quốc và phương Tây không hiểu nhau. Các vị Hoàng đế Trung Hoa trước đây đã biến con rồng thành biểu tượng sức mạnh của mình trong hàng nghìn năm và người Trung Quốc luôn thấy ở con rồng một dấu hiệu về sức mạnh và điềm tốt. Trái lại, ở phương Tây, con rồng chứa đựng tất cả những yếu tố của một con quái vật hung hãn.

Dầu sao, để mọi người có thể chấp nhận những lời tiên đoán gở của ông về năm Rồng nước này, nhân vật bậc thầy về phong thủy nói trên nhắc lại rằng tử vi Trung Hoa vận hành theo các chu kỳ 60 năm. Và năm Rồng nước gần đây nhất là năm 1952, năm thành lập Liên minh châu Âu. Đối với nhà tiên tri này, đỏ là dấu hiệu cho thấy châu Âu cũng sẽ phải gánh chịu một cuộc khủng hoảng trầm trọng trong năm 2012 này.

Người Trung Quốc sợ ngày 21/12/2012

Năm Rồng khiến số đông người Trung Quốc muốn sinh con trong năm nay, nhưng một số khác lại không muốn. Giải thích trên tạp chí “Thế- giới ngày nay”, nhà phân tích Zhu Li cho rằng họ muốn sinh con không phải để có một đứa con thần đồng, mà chỉ đơn giản vì họ cho rằng đó là cơ hội cuối cùng của mình.

Một bộ phận dân chúng trên thế giới đặt câu hỏi: “Nếu ngày tận số của thế giới rơi vào năm 2012 thì sao?” Còn Trung Quốc cũng không nằm ngoài quy luật này. Quả thực là một bộ phận dân chúng ở Trung Quốc cũng như ở các nước khác, tin rằng ngày tận số của thế giới là năm 2012. Tại sao lại muốn tạo ra cuộc sống khi cái chết đang đến gần? Theo nhà phân tích Zhu Liu, đôi khi tìm cách để hiểu lôgích Trung Hoa không phải là vô ích.

Nỗi sợ của số đông

Trên thế giới có nhiều người tỏ ra lo ngại với năm con Rồng. Đế chế Trung Hoa cũng không thoát khỏi quy luật này và đặc biệt là nỗi sợ trước ngày 21 tháng 12. Ở Trung Quốc, nhiều người lo sợ đến mức giãi bày tâm sự trên mạng, như Weibo (mạng của Trung Quốc giống như Twitter), và người ta thấy xuất hiện rất nhiều thông điệp nói đến ngày tận số của nhân loại.

Một cư dân mạng bày tỏ ý nguyện cuối cùng của mình với người bạn đời khi viết: “Anh yêu, ngày tận số của thế giới đang đến gần. Tại sao mình không sinh con nhỉ? Chúng mình chỉ còn 10 tháng nữa thôi.”

Lỗi tại điện ảnh

Nếu một số người Trung Quốc tin rằng thời gian đếm ngược đã bắt đầu thì không phải do lỗi của Nostradamus (hay còn gọi là Michel de Notre Dame, nhà thiên văn học và thầy thuốc người Pháp, nổi tiếng với những công trình nghiên cứu thiên văn, và những lời tiên đoán của ông trong cuốn “Lịch sử thiên văn học qua các thế kỷ” xuất bản năm 1955 được sử dụng rất nhiều trên thế giới-TTXVN) mà là do Hollywood. Trong bộ phim “Năm 2012″ đạo diễn người Đức Roland Emmerich quả thực đã sử dụng những lời tiên đoán của tộc người Maya theo đó ngày tận số của thế giới sẽ là ngày 21 tháng 12.

Lụt lội, sóng thần, lở đất, núi lửa phun trào…, tất cả các kịch bản tồi tệ nhất có thể xảy ra đều được nói đến. Thêm vào đó là hiệu ứng đặc biệt rất thực được sử dụng trong phim và sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy nỗi lo sợ xâm chiếm tâm hồn một bộ phận dân chúng.

Tuy không thành công lắm ở Mỹ, song siêu phẩm điện ảnh này của Mỹ lại là bộ phim thu được nhiều tiền nhất ở Trung Quốc. Với số tiền thu được lên tới hơn 55 triệu euro, “Năm 2012″ đã đánh bại mọi bộ phim cạnh tranh khác. Bộ phim này thành công được là nhờ dựa trên một kịch bản nói về ngày tận thế và sử dụng hiệu ứng đặc biệt chất lượng cao, song một yếu tố hoàn toàn khác cũng dẫn đến thành công của bộ phim này ở Trung Quốc. Đó là một chiến công chưa từng thấy ở Hollywood: truyền tải một hình ảnh tích cực về Đế chế Trung Hoa.

Đúng là người Trung Quốc thường được nói đến trên màn ảnh ở Mỹ dưới góc độ không hay. Với những cảnh biếm họa trên truyền hình hay trong phim hoạt hình, bị mua chuộc trong phim nhựa…, những người bạn châu Á của phương Tây vẫn là mục tiêu ưa thích nhất của các tác giả và đạo diễn.

Thế nhưng trong bộ phim “Năm 2012″, tinh thần nhân đạo được đưa nổi bật nhờ có người Trung Quốc. Các con tàu không gian khổng lồ do họ chế tạo ở vùng núi Tây Tạng giúp các nhân vật trong phim thoát khỏi lưỡi hái của thần chết. It nhất cũng có một lần Mỹ không phải là người cứu vớt thế giới.

Phản ứng gây ngạc nhiên

Một số người Trung Quốc không ngần ngại sử dụng nỗi sợ về ngày 21 tháng 12 vào mục đích thương mại. Một số thẻ lên tàu để lên chiếc bè Gu Ming Zhou được rao bán trên Taobao.com, website lớn nhất chuyên bán hàng qua mạng của Trung Quốc. Chỉ với 0,6 euro, vé hạng sang bán chạy như tôm tươi. Một số khác thậm chí gây ra tranh cãi khi cho rằng cái chết của các nhà lãnh đạo lớn trên thế giới như Kim Châng In hay Gaddafi đáng lẽ phải được báo trước để họ có thể lên được con bè tránh ngày tận số.

Lời tiên tri cho năm 2012 cũng gây ra một số phản ứng khác ở mức độ khác. Một người dân ở tỉnh Hà Nam định đóng cho mình một chiếc bè bằng can đựng dầu ăn mà ông cho là không thấm nước. Tác phẩm của ông được xem là có thể cứu sống 20 mạng người. Một người khác thậm chí còn đi xa hơn khi dọa sẽ cho nổ tung tháp Kim Mậu, một trong những biểu tượng lớn nhất của Thượng Hải. Người thanh niên 23 tuổi này chỉ vì muốn thu hút sự chú ý của đồng bào mình và chính quyền về ngày tận số của thế giới đang đến gần, mà sau đó bị kết án 2 năm tù giam.

Nếu như ngày tận thế rơi vào năm 2016 thì sao?

Nếu nhân loại sống sót sau năm 2012 thì có nguy cơ đạo diễn Roland Emmerich sẽ lại khuấy động sự tĩnh tâm của người dân Trung Quốc. Bởi lẽ ông cũng sản xuất bộ phim của đạo diễn Tim Fehlbaum có tựa đề “Năm 2016: Đêm tàn. Lướt qua kịch bản bộ phim này sẽ thấy tình hình còn đáng lo ngại hơn cả tên phim. Một vùng đất bị tàn phá bởi bão tố hay khô cằn đến nỗi không thể sống được ở đó… Khi người ta thấy vấn đề hạn hán và sa mạc hóa ngày càng trầm trọng đang diễn ra ở Trung Quốc, chắc chắn bộ phim mới này sẽ làm cho người Trung Quôc thấy sợ.

Chiếm lĩnh không gian biển

Theo đánh giá của ông Hugues Tertrais, giáo sư trường Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, dồng thời là Giám đốc Trung tâm lịch sử châu Á đương đại (CHAC), trong một thời gian dài, Trung Quốc không hề quan tâm đến biển và các vấn đề liên quan đến biển. Nhưng từ sau thời kỳ Mao Trạch Đông và Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc lại tìm thấy sức mạnh kinh tế thông qua biển và bằng tài nguyên biển. Từ thương mại đến quân sự, cái được mất của sự phát triển đó liên quan đến mọi lĩnh vực và các cuộc tranh cãi trước đây với các nước láng giềng nay lại được nuôi dưỡng bằng những tính toán mang tính toàn cầu của Bắc Kinh. Dưới đây là phân tích của ông Hugues Tertrais, trên tạp chí “Đại Tây Dương”.

“Khi Trung Quốc thức tỉnh, cả thế giới sẽ rung chuyển”. Lời tiên tri được cho là của Napoléon đó được nói đến rất nhiều ở Trung Quốc trong năm 1973. Trong sự thức tỉnh của Trung Quốc, người ta gắn mục tiêu độc lập với cuộc chạy đua tìm kiếm sự thịnh vượng và đi đến kết luận rằng Trung Quốc muốn được như một con sói, vốn làm chủ được mọi hành động của mình, chứ không như một con chó trông nhà béo tốt nhưng chỉ để làm cảnh. Niềm tự hào đó có thể thấy được một cách tượng trưng trong việc Trung Quốc không chấp nhận ý tưởng về nguồn gốc duy nhất của loài người, được cho là ở châu Phi, mà tin vào sự tồn tại của “người châu Á” xuất thân từ Trung Quốc, Nhưng niềm tự hào đó thế hiện nhiều hơn trong sự gắn bó của người Trung Quốc với “Đế chế Trung Hoa” sinh ra ở hai bên bờ con sông Hoàng Hà, chạy dài tới tận Đài Loan và Tây Tạng, với chữ viết Trung Quốc là bất khả xâm phạm và thiêng liêng.

Sự yếu thế của Trung Quốc từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thể kỷ 20 – được đánh dấu bằng cuộc xâm nhập của phương Tây, sự tủi nhục trước chính sách pháo hạm và cuộc xung đột với Nhật Bản – là yếu tố giải thích việc nước này quyết tâm tìm lại niềm tự hào dân tộc từ năm 1949 mà không đánh mất bản sắc của chính mình.

Chiến lược của Trung Quốc được thực hiện trong một thời gian dài, dựa trên tính kiên nhẫn, đôi khi cả sự uy hiếp, nhưng không dựa trên đối đầu trực tiếp. Chủ tịch Đặng Tiểu Bình từng tuyên bố: “Trung Quốc ngày nay là một cường quốc lớn đang trên đường cải cách và mở cửa ra thế giới bên ngòai, đang trên đường phát triển hòa bình.”

Sự phát triền hòa bình đó, vốn phản ánh nền văn hóa Trung Hoa, thể hiện ở sự phô trương sức mạnh của một nước thuộc thế giới thứ ba và lợi ích được san sẻ giữa Trung Quốc và các nước đang phát triển; ở sự tôn trọng học thuyết chủ quyền Nhà nước và nguyên tắc không can thiệp; ở phát triển kinh tế tự do; ở phát triển chủ nghĩa đa nguyên để không rơi vào chủ nghĩa song cực với Mỹ và ngăn chặn chính sách đối ngoại của một nước Ấn Độ đa cực từ lâu.

Trung Quốc thận trọng tiến hành một chính sách khác tùy theo các vùng được xác định bằng khoảng cách địa lý gần gũi với Đế chế Trung Hoa. Trung Quốc tạo ra các mối quan hệ phụ thuộc trong vùng của mình, cụ thể là để bảo vệ lợi ích của mình. Các yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc đối với các nước láng giềng như Nga, Nhật Bản hay Ấn Độ giúp Bắc Kinh tăng cường cả tư tưởng dân tộc lẫn vị thế trong vùng của mình. Điều đó cũng thể hiện qua việc Trung Quốc can dự vào Diễn đàn ASEAN để có thể khăng định rõ ràng hơn yêu sách của mình ở Biển Đông.

Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ chính sách bá quyền nào của Mỹ và cũng bác bỏ sự vượt trội có thể có của phương Tây, đồng thời cho rằng trọng tâm đã chuyển dịch sang châu Á-Thái Bình Dương.

Mức độ an ninh nội địa, chủ quyền và tính thống nhất quốc gia của Trung Quốc được đặt cao hơn thiên hướng quốc tế của nước này. Sự phát triển các mối quan hệ song phương của Trung Quốc trước hết đáp ứng lợi ích kinh tế và chiến lược của nước này (nhu cầu năng lượng), đồng thời cũng tính tới những lời phê phán đối với chế độ hiện tại. Đó chính là “đồng thuận Bắc Kinh” ưu tiên giải quyết, với các nước đang phát triển, các vấn đề phát triển trước mọi vấn đề chính trị, đối lập với cách đi của Mỹ và ưu tiên vấn đề nhân quyền.

Trung Quốc áp dụng chính sách thực dụng trong việc thiết lập liên minh và đầu tư. Điều đó giải thích tại sao nước này thâm nhập Mỹ Latinh. Bắc Kinh muốn nhảy vào vựa lúa mì Nam Mỹ cũng như dầu mỏ ở Trung Mỹ hay tài nguyên rừng ở vùng Amazone. Nhưng đầu tư của Trung Quốc vào châu Mỹ cũng đáp ứng lôgích chính trị. Tự coi mình là giải pháp thay thế sự bảo hộ của Mỹ, Trung Quốc nhờ chính sách đó mà cô lập được Đài Loan, vùng lãnh thổ có tới gần 1/2 số nước ở Mỹ Latinh duy trì mối quan hệ ngoại giao với mình.

Trung Quốc cũng thực hiện chiến lược được gọi là “chuỗi ngọc trai” giúp bảo đảm an toàn các tuyến đường giao thương của mình và củng cố vị thế của mình trên con đường vận chuyển dầu mỏ từ vùng Vịnh về.

Chính sách đa phương của Trung Quốc cũng thể hiện ở việc nước này đầu tư ngày càng nhiều vào các thể chế quốc tế. Đó là cách tiếp cận thực dụng trong các cuộc khủng hoảng trên thế giới, với việc ít sử dụng quyền phủ quyết và đề xuất hợp tác song phương ưu đãi với các nước đang phát triển, cụ thể là ở châu Phi, một khi điều đó có lợi cho nền kinh tế Trung Quốc. Nước này cũng có thể có khả năng tác động, như trong cuộc khủng hoảng hạt nhân với Bắc Triều Tiên hay trong trường hợp Iran, Darfur (Xuđăng).

Trung Quốc hòa nhập vào chiến lược của phương Tây

Cũng như trong quan hệ thương mại, không nên quá ngây thơ cũng không nên quá ngờ nghệch đối với Trung Quốc, mà phải chơi theo kiểu hai bên cùng có lợi trong mối quan hệ giữa cường quốc với nhau. Nói đúng hơn, vấn đề là phải giữ vững tính tương hỗ, một khái niệm mà người Trung Quốc rất hiểu.

Trước hết, không nên đánh giá quá cao sức mạnh của Trung Quốc vì sức mạnh đó còn phải một thời gian dài nữa mới địch được sức mạnh của Mỹ. Nhưng Trung Quốc hiện là nước không thể bỏ qua vì vị thế của nước này về phương diện kinh tế, tài nguyên biển và tầm quan trọng của thái độ của nước này đối với việc bảo vệ môi trường. Cũng không nên có mặc cảm với Trung Quốc.

Trên biển, người ta không thể không biết đến cái được mất về an ninh biển ở vùng Viễn Đông, cụ thể là ở eo biến Malacca, và hệ quả của vấn đề đó đối với quá trình toàn cầu hóa. phương Tây có lợi ích được chia sẻ (cứ 7 tiếng lại có một chiếc tàu chở côngtenơ rời Trung Quốc) và hợp tác thực sự có thể bắt đầu. Tuy nhiên, sự hợp tác đó phải dựa trên một hình thức tương hỗ, nếu không sẽ không còn giá trị và sẽ bị người Trung Quốc coi như người thuộc thế giới khác.

Trong chiến lược đối với châu Phi, Trung Quốc trước hết quan tâm đến nguồn tài nguyên năng lượng. Các mối quan hệ của Trung Quốc trong thời gian ngắn có thể làm trầm trọng thêm tình trạng bất ổn định ở châu lục này và gây ra nguy cơ cho châu Âu.

Lợi ích của châu Âu là phải áp đặt quyết định của mình trong một số dự án do Trung Quốc thực hiện ở châu Phi để buộc nước này từ bỏ cách tiếp cận thấp hèn mà hướng tới hội nhập phát triển. Chẳng hạn an ninh biển, hỗ trợ châu Phi kiểm soát chủ quyền trên biển của các nước châu lục, bảo vệ tài nguyên biển của họ bằng cách khai thác có kiểm soát, là những biện pháp có thể tạo ra những trục hợp tác song phương.

Lập trường của châu Ầu về cấm vận đối với Trung Quốc, về cuộc chơi của Bắc Kinh, về cách tiếp cận đa cực của Bắc Kinh và tài nguyên văn hóa của Trung Quốc, giúp phương Tây có được vị thế thuận lợi trong mối quan hệ với Trung Quốc. Nước này, vốn là “đệ tử” của chính sách đa phương, luôn ưa thích một cuộc đối thoại tách châu Âu ra khỏi Mỹ. Do đó, quan hệ của châu Âu với đồng minh Mỹ phải được đánh giá dưới góc độ này.

Trung Quốc là một tác nhân chủ chốt của quá trình toàn cầu hóa. Chiến lược của châu Âu cần phải tính tới yếu tố quan trọng này. Đối với phương Tây, Trung Quốc là một cường quốc, song đối với người Trung Quốc, nước này trước hết là Trung Quốc, là “Đế chế Trung Hoa”. Trung Quốc là bậc thầy trong nghệ thuật âm dương, trong kiểm soát nguyên lý âm dương, còn phương Tây luôn gặp khó khăn trong việc hiểu được tâm lý của Trung Quốc.

Vào đầu thế kỷ 21 này, người ta có thể tự hỏi liệu mối quan hệ giữa Đông và Tây có bị đảo ngược không. Dầu sao, trên biển, sức mạnh biển và hải quân của Trung Quốc dường như trước hết là để phục vụ lợi ích quốc gia của chính Trung Quốc, cụ thể là sự thịnh vượng kinh tế, rồi mới tính đến cái được mất về phát triển bền vững của thế giới hay an ninh quốc tế. phương Tây không được ngây thơ mà phải tìm cách thuyết phục các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng họ cũng có lợi ích khi xác lập lại quy mô thế giới này.

Không thể độc chiếm Hoàng Hải

Những gì mà Trung Quốc đã thực hiện trong quá khứ cùng với Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên liên quan đến Hoàng Hải cho thấy nước này không phải không có tinh thần hợp tác một thời. Nhưng sự lớn mạnh về kinh tế và quân sự trong hơn hai thập kỷ qua khiến Bắc Kinh có ảo tưởng mình có khả năng và có quyền thay đổi sự cân bằng địa chính trị trong vùng.

Những sự kiện diễn ra trong thời gian qua ở biển Hoa Nam (biển Đông), biển Hoa Đông, rồi Hoàng Hải là bằng chứng cho thấy lập trường quyết đoán và thái độ bất cần của Bắc Kinh đối với các nước láng giềng trong các vấn đề liên quan đến không gian biển. Cũng trên tạp chí “Đại Tây Dương”, ông Hugues Tertrais có bài phân tích đưa ra những bằng chứng lịch sử về sự thay đổi lập trường của Bắc Kinh và qua đó cho rằng giải pháp tốt nhất là cùng hợp tác vì lợi ích kinh tế chung ở những vùng biển tranh phấp.

Điều đầu tiên đập vào mắt những người quan tâm hơn đến Hoàng Hải với tư cách là một không gian biển, là sự kín đáo tương đổi của vùng biển này. Các công trình nghiên cứu về Hoàng Hải đặc biệt hiếm thấy, ít hơn rất nhiều so với những công trình nghiên cứu về biển Hoa Nam và biển Hoa Đông. Hoàng Hải cũng chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong báo chí so với hai biển lân cận ở phía Nam.

Tuy nhiên, ở Hoàng Hải cũng như các biển Hoa Đông và Hoa Nam, đường biên giới trên biển vẫn chưa được hoạch định. Quả thực là người ta không thấy ở không gian biển này những tranh chấp về đảo giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, cụ thể là hai miền Triều Tiên, và cũng không có một hành lang biển quốc tế lớn nào chạy qua đây. Tuy vậy, các vấn đề dầu mỏ và đánh cá có khả năng gây ra căng thẳng ở đây và tác động trực tiếp đến các tiến trình hoạch định biên giới. Cũng như vậy, sự chia cắt bán đảo Triều Tiên thực tế đã có những tác động lớn ở Hoàng Hải và biến vùng biển này thành một không gian chiến lược hàng đầu. Toàn bộ Hoàng Hải được xem như một không gian phức tạp mà muốn hiểu hết nó phải đặt mình ngoài các mối quan hệ song phương giữa Trung Quốc và hai miền Triều Tiên để từ đó mới có thể tính tới quy mô của vấn đề liên Triều.

Cái được mất địa chiến lược ở Hoàng Hải hiện nay là như thế nào? Những yếu tố nào sẽ tác động đến tiến trình hoạch định biên giới? Các yếu tố đó có thực là những nguyên nhân gây căng thẳng hay hợp tác, không?

Câu chuyện về hoạch định biên giới giữa Trung Quốc và hai miền Triều Tiên

Cuộc tranh cãi xung quanh việc hoạch định biên giới ở Hoàng Hải giữa Trung Quốc và Hàn Quốc nổ ra vào đầu những năm 1970. Hàn Quốc ủng hộ phương án khoảng cách bằng nhau và lập trường của Xơun là tương đối rõ ràng, trong khi đó Trung Quốc và Bắc Triều Tiên có lập trường ít rõ ràng hơn. Trung Quốc luôn muốn bảo vệ nguyên tắc công bằng trong hoạch định biên giới, nhưng luôn phản đối đường phân chia khoảng cách đều nhau mà muốn thay vào đó là khái niệm thềm lục địa, dựa trên các tiêu chí về địa lý và địa tầng, và như vậy có lợi rất nhiều cho họ. Không ai hiểu lập trường của Bắc Triều Tiên là như thế nào, cho dù một số ấn phẩm gần đây dường như cho thấy Bình Nhưỡng thuận theo phương án đường chia đôi.

Năm 1950, Trung Quốc xác định một vùng bảo tồn ngư nghiệp., chạy song song với bờ biển của họ ở Hoàng Hải và biển Hoa Nam, rộng 80 hải lý, và cấm tàu thuyền nước ngoài đánh cá trong các vùng đó.

Năm 1952, Hàn Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các không gian biển, bao gồm cả tài nguyên biển và dưới lòng biển, cận kề với bán đảo. Chính phủ Hàn Quốc tìm cách loại trừ mọi tàu của nước ngoài trong vùng này, đôi chỗ vượt quá giới hạn 200 hải lý và đường chia đôi giả tưởng.

Năm 1955, Trung Quốc thiết lập vùng an ninh ở vịnh Bột Hải, nhưng lại ký một thỏa thuận đánh cá không chính thức với Nhật Bản quy định việc Nhật Bản đánh cá ở biển Hoa Nam và ở vùng nước thuộc Trung Quốc trong Hoàng Hải.

Năm 1958, Trung Quốc tuyên bố vùng lãnh hải rộng 12 hải lý và biển Bột Hải như biển nội địa của mình. Việc này hoàn toàn mâu thuẫn với luật biển do Liên hợp quốc soạn thảo, nhưng không có sự tham gia của Trung Quốc.

Năm 1965, Hàn Quốc thiết lập một vùng đánh cá đặc quyền rộng 12 hải lý tính từ bờ biển của nước này. Những năm 1970 được đánh dấu bằng sự xuất hiện các vấn đề dầu mỏ và những cuộc tranh cãi đầu tiên.

Từ những năm 1969 và 1970, Hàn Quốc hoạch định thềm lục địa ở Hoàng Hải thành 6 khu, trong đó 4. khu nằm hoàn toàn hay một phần ở Hoàng Hải. Hàn Quốc đồng thời ký hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí ngoài biển với một số công ty dầu mỏ lớn của phương Tây. Đường bên ngoài của các khu này dẫu sao cũng cho thấy Chính phủ Hàn Quốc chấp nhận nguyên tắc phân chia đồng đều khoảng cách như đã được xác định trong Công ước Giơnevơ về thềm lục địa năm 1958.

Cuối cùng, trong nửa sau những năm 1970, Bắc Triều Tiên đưa ra yêu sách về biển và năm 1977 hoạch định một khu quân sự rộng 50 hải lý để bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và an ninh của mình.

Bắt đầu từ cuối những năm 1970, luật biển tiến triển dần có lợi cho các nước đang phát triển cho đến khi vào năm 1982, Hội nghị Montego Bay soạn thảo một văn bản mới chính thức ban bố vùng lãnh hải rộng 12 hải lý và Vùng kinh tế đặc quyền (EEZ) rộng 200 hải lý. Cả Trung Quốc lẫn Hàn Quốc đều phê chuẩn công ước này vào năm 1996 và qua đó xác định các điểm đường cơ sở của hai nước này. cần nhắc lại rằng các điểm đó sau này cho phép hoạch định luật pháp về biển khác nhau. Thế nhưng việc xác định các điểm đường cơ sở này đã dẫn đến sự ra đời của một số khu chồng lấn giữa hai đường ranh giới giả tưởng của các khu đặc quyền

kinh tế của Trung Quốc và Hàn Quốc ở Hoàng Hải. Từ đó trở đi, hai nước này phải tìm giải pháp để hoạch định đường biên giới trên biển của mình và dường như điều đó phụ thuộc vào các vấn đề đánh cá ngoài khơi và dầu mỏ.

Không có đảo, nhưng có cá và dầu mỏ

Cho dù đôi khi căng thẳng và phức tạp, song các nước không sẵn sàng thống nhất với nhau để tìm cách giải quyết các vấn đề đánh cá ngoài khơi. Chẳng hạn Trung Quốc và Nhật Bản từ những năm 1950 đã ký một hiệp định đánh cá, tức hai thập kỷ trước khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Nhưng thời gian gần đây, sự xuất hiện của luật biển mới và hợp tác kinh tế lại rất thuận lợi thậm chí đã tạo điều kiện tốt cho kiểu thỏa thuận này. Xung quanh Hoàng Hải, sự trỗi dậy của Hàn Quốc và Trung Quốc cũng như quyết tâm của hai nước mở rộng mối quan hệ kinh tế đã dẫn đến việc ký một số hiệp định đánh cá. Hai năm sau khi phê chuẩn luật biển, hai nước này đã ký thỏa thuận đầu tiên rồi được gia hạn vào năm 2000, xác định hạn ngạch khác nhau cho ngư dân Trung Quốc và Hàn Quốc tùy theo loài cá và không gian biển được xác định rõ ràng, đồng thời đóng vai trò thay thế khi chưa hoạch định được biên giới biển một cách chính thức.

Mối quan tâm đối với dầu mỏ ở Hoàng Hải, như ta đã thấy ở trên, không phải là mới và xuất hiện trong những năm 1970 theo sáng kiến của Hàn Quốc. Mục tiêu của nước này lúc đó là có phương tiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và, bằng khả năng của mình, tìm cách hạn chế sự lệ thuộc vào nhập khẩu. Năm giếng thăm dò đã được khoan ở lòng chảo Kunsan thuộc vùng phía Nam của Hoàng Hải. Nhưng cơ cấu địa chất của vùng biển này lại vượt quá đường phân đôi giả tưởng với Trung Quốc và chưa bao giờ được khai thác triệt để.

về phần mình, vào đầu những năm 1980, Bắc Triều Tiên tiến hành thăm dò ở vịnh Tây Triều Tiên, thuộc vịnh Triều Tiên, ở ngoài khơi thành phố Anju. Để làm việc này, Bắc Triều Tiên hợp tác với Liên Xô, Tiệp Khắc và Na Uy, rồi sau đó có thêm Ôxtrâylia (vào năm 1987) và Thụy Điện (1993). Trữ lượng ở đây được đánh giá là tương đương với 12 tỷ thùng, công tác thăm dò thực hiện trên một vùng rộng khoảng 18.600 km2 được phân tích trong một thời gian dài vì thiếu tiền đầu tư và do tình hình căng thẳng địa chính trị nảy sinh do vấn đề hạt nhân. Tầm quan trọng cao của dầu mỏ đối với Bắc Triều Tiên, nước đang tìm kiếm hơi thở kinh tế thứ hai, khiến các mỏ ngoài khơi này được quan tâm đặc biệt và Chính phủ Bắc Triều Tiên có ý định mở rộng hợp tác và cho phép nước ngoài đầu tư.

Cuối cùng, các cuộc thăm dò của Trung Quốc được tiến hành từ thập kỷ 1970, nhưng còn hạn chế. Trung Quốc thực tế tập trung vào khai thác và thăm dò dầu mỏ ở vịnh Bột Hải, nơi chứa nguồn tài nguyên dầu ngoài biển chính của nước này.

Như Vậy, Trung Quốc, Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên dường như có thái độ thận trọng hơn liên quan đến nguồn tài nguyên dầu mỏ ở Hoàng Hải. Việc không hoạch định đường biên giới trên biển cản trở mọi ý định thăm dò nghiêm túc và không cho phép đánh giá rõ ràng trữ lượng được khẳng định hay tiềm tàng. Những dự báo lạc quan nhất cho đến nay có thể chỉ liên quan đến vịnh Kunsan ở phía Nam Hoàng Hải và vùng lòng chảo trong vịnh Tây Triều Tiên ở ngoài khơi Bắc Triều Tiên. Tháng 2/2007, một số chuyên gia Trung Quốc đưa ra con số từ 2 đến 2,8 tỷ tấn dầu mỏ và khí đốt tự nhiên ở Hoàng Hải.

Trong bối cảnh nguồn tài nguyền đang cạn dần và ai cũng biết dầu mỏ là tối quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của ba nước ven bờ, dầu mỏ ở ngoài khơi Hoàng Hải như vậy rất có thể sẽ gây ra căng thẳng trên một số vùng biển. Trái lại, có thể có một yếu tố hợp tác, hơn nữa vì các sáng kiến gần đây được đưa ra theo hướng này và một số khác có thể đang trong quá trình thai nghén. Cuộc thương lượng giữa hai miền Triều Tiên nhằm chuẩn bị cho hội nghị cấp cao liên Triều vào tháng 6/2000 chẳng hạn đã nói đến khả năng hợp tác liên Triều trong lĩnh vực dầu khí. Cũng như vậy, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên cam kết tiến hành khai thác chung một phần dầu mỏ ở ngoài khơi Hoàng Hải. Cuối cùng, giả thiết về việc thiết lập khu phát triển chung đặt dưới sự chỉ đạo của một Ủy ban thềm lục địa bao gồm các thành viên của cả ba nước nói trên được nêu ra.

Tình hình trên cho thấy hợp tác là giải pháp không thể bỏ qua được. Rõ ràng là việc hoạch định biên giới trên biển sẽ không được thương lượng chừng nào các nước còn chưa có ý tưởng rõ ràng về tiềm năng của các vùng có dầu và đồng thời, không xác định được không gian biển sẽ khiến mọi cuộc thăm dò gần như không thể thực hiện được. Sự thống nhất giữa ba nước liệu có cho phép thoát khỏi ngõ cụt này không? Cùng với đầu tư nước ngoài, sự thống nhất đó cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết các vấn đề kỹ thuật và tài chính có thể được đặt ra trong việc thăm dò và khai thác các mỏ này. Chính sách đánh cá được thông qua, cho dù đôi khi vẫn xảy ra một số tranh cãi giữa ngư dân Trung Quốc và Hàn Quốc do bên này hay bên kia không tôn trọng quy định đã được cả hai nước quyết định, liệu có thể trở thành hình mẫu không? trừ khi cả ba nước, với viễn cảnh hậu dầu mỏ hay vì lý do làm ăn có lãi, cuối cùng quyết định vĩnh viễn từ bỏ các vùng này, Cũng phải nói rằng làm như vậy không phải là không hay và có thể cho phép giải quyết vấn đề hoạch định biên giới ở Hoàng Hải, nhưng với điều kiện phải duy trì các hiệp định hợp pháp.

(còn tiếp).!.

http://anhbasam.wordpress.com/2012/02/10/706-nhung-thach-thuc-cua-trung-quoc-trong-nam-2012/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét