"Ở bức tranh lớn hơn, tôi tin tưởng rằng, quan hệ đối tác Việt - Mỹ sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào các nỗ lực chung để thúc đẩy hoà bình, ổn định và phát triển khu vực cũng như trên thế giới. Hai nước chúng ta có những cơ hội lớn để thúc đẩy hơn nữa hợp tác song phương và đa phương"- Bộ trưởng Phạm Bình Minh.
Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu nội dung cuộc nói chuyện của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh tại Hội đồng Đối ngoại Mỹ (CFR), một think-tank hàng đầu về chính sách đối ngoại của Mỹ ngày 27/9.
BOB WOODRUFF: Xin chào tất cả mọi người. Tôi là Bob Woodruff.
Như mọi người đã biết, người sẽ nói chuyện hôm nay là Phạm Bình Minh, Bộ trưởng Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và ông sẽ có cơ hội đưa ra bài phát biểu tại đây, có lẽ khoảng 10 phút hoặc lâu hơn, sau đó mọi người sẽ đưa ra câu hỏi.
Tôi chỉ có chút lưu ý trước khi chúng ta bắt đầu, các bạn có thể tắt điện thoại, dĩ nhiên nếu cần có thể sử dụng chế độ rung và hãy nhớ, tất cả được lưu lại. Bạn có thể thấy các máy quay ở đây, nên hãy thận trọng những gì bạn nói.
Và tôi xin giới thiệu Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Tiến sĩ Richard Haass, các quý ông, quý bà, tôi xin cám ơn Hội đồng Đối ngoại vì đã mời tôi trong buổi thảo luận này. Và cám ơn tất cả các bạn đã tham dự.
Chúng tôi xem Hội đồng Đối ngoại là một đối tác quan trọng và đánh giá cao sự quan tâm của các bạn trong sự phát triển quan hệ Việt - Mỹ. Chúng tôi nhớ lại chuyến thăm của hội đồng năm 1993 khi hai nước chúng ta vẫn chuẩn bị cho việc bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Chúng ta bình thường hoá năm 1995.
Và năm ngoái, chúng tôi vui mừng tiếp đón Tiến sĩ Richard Haass và đoàn đại biểu hội đồng thăm Việt Nam. Tôi tin rằng, chuyến thăm này đã giúp các thành viên của hội đồng hiểu rõ hơn về đất nước và nhân dân chúng tôi trong các lĩnh vực cải cách.
Và hôm nay tôi rất vinh dự có cơ hội này để chia sẻ với các bạn những suy nghĩ của chúng tôi về chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chúng tôi đã theo đuổi một chính sách đối ngoại nhất quán của độc lập, tự chủ, hợp tác, phát triển, đa phương hoá và đa dạng hoá các mối quan hệ, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế. Và chúng tôi có một khẩu hiệu mà chúng tôi đã quyết tâm là đáng tin cậy, là người bạn, là đối tác đáng tin cậy và một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Định hướng tích cực và chủ động hội nhập quốc tế là yếu tố mới trong chính sách đối ngoại của chúng tôi được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ 11 đầu năm nay. Đây là bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của chúng tôi vì trước đây chúng tôi chủ yếu tập trung vào hội nhập kinh tế, nhưng giờ đây chúng tôi mong muốn hội nhập trong tất cả các lĩnh vực, không chỉ có kinh tế mà còn là trao đổi chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, văn hoá, xã hội.
Sự thành công của Việt Nam với tư cách thành viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an LHQ trong nhiệm kỳ 2008 và 2009, chủ tịch ASEAN năm 2010, hợp tác với các quốc gia và LHQ trong nhiều lĩnh vực như an ninh, an toàn hạt nhân; biến đổi khí hậu; thực hiện Các Mục tiêu Thiên niên kỷ... ; tích cực chuẩn bị tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình và tích cực tham gia các cuộc đàm phán Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương là một số ví dụ trong chính sách đối ngoại của chúng tôi.
Chúng tôi hướng tới mục tiêu thúc đẩy hơn nữa các quan hệ đối ngoại, nâng tầm quan hệ với các đối tác hàng đầu, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với những cường quốc lớn và các trung tâm kinh tế toàn cầu là những ưu tiên của chúng tôi. Chúng tôi đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh và Tây Ban Nha. Tôi hy vọng trong tương lai gần, Việt Nam sẽ có quan hệ đối tác chiến lược với những cường quốc khác, trong đó có Mỹ. Đồng thời, chúng tôi nỗ lực làm việc để tăng cường quan hệ của mình với những bạn bè và đối tác truyền thống cũng như tham gia các tổ chức quốc tế, đặc biệt là LHQ.
Về lĩnh vực kinh tế, hiện tại, chính phủ Việt Nam xác định, nhiệm vụ hàng đầu là ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện để nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh và bền vững. Cùng với nhiều nỗ lực toàn diện khác, nỗ lực giảm thiểu và hợp lý chi tiêu công đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết các thách thức do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế/tài chính toàn cầu và thiết lập nền tảng cần thiết để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của chúng tôi trong giai đoạn 2011-2020 - những gì chúng tôi gọi là chiến lược kinh tế xã hội với mục tiêu năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để đạt được mục tiêu trên, trong nhiệm kỳ này, chính phủ của chúng tôi đang tập trung vào ba nhiệm vụ chính: thứ nhất, đơn giản hoá các thể chế kinh tế thị trường nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng và cải cách hành chính; thứ hai, phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; thứ ba, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp. Cùng lúc đó, chúng tôi coi hợp tác kinh tế quốc tế là nhân tố quan trọng cho chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, và đây sẽ là ưu tiên cho quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới.
Chúng tôi đang làm việc với các nước ASEAN để bước vào kỷ nguyên hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN, phấn đấu để xây dựng một cộng đồng ASEAN vào năm 2015 trên cơ sở ba trụ cột chính - chính trị, an ninh, kinh tế và xã hội - và thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN trong một cấu trúc khu vực. Chúng tôi hy vọng thúc đẩy hơn nữa quan hệ đối tác giữa ASEAN và các cường quốc lớn thông qua tăng cường đối thoại, hợp tác, xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa với quan điểm phát triển một cơ chế và cơ cấu bền vững để đảm bảo hoà bình, ổn định và phát triển bền vững trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chúng tôi hoan nghênh chính sách tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực của tất cả quốc gia, bao gồm nước Mỹ.
Với hoà bình và an ninh, đây luôn luôn là ưu tiên hàng đầu của chúng tôi. Chúng tôi hướng tới LHQ để tiếp tục các nỗ lực phối hợp và chặt chẽ nhằm thúc đẩy giải pháp hoà bình cho các cuộc nội chiến và xung đột địa phương ở một số khu vực trên thế giới, đặc biệt tại Bắc Phi và Trung Đông, trong khi ngăn chặn các xung đột khác có thể bùng nổ.
Một điều cần thiết lâu dài là chúng ta cần gieo trồng văn hoá hoà bình, đối thoại và thúc đẩy giải pháp hoà bình cho tranh chấp. Việt Nam ủng hộ các nỗ lực nhằm chấm dứt bạo lực và tăng cường tái thiết, hoà giải quốc gia tại Afghanistan, tại Iraq.
Liên quan tới vấn đề nóng hiện nay tại Đại hội Đồng - đó là đơn xin trở thành thành viên đầy đủ của LHQ của Palestine - chúng tôi có thể nói rằng, chúng tôi công nhận nhà nước Palestine năm 1988 và đã luôn ủng hộ cuộc đấu tranh của người Palestine cho các quyền không thể xâm phạm của họ, bao gồm quyền thành lập một nhà nước độc lập và có chủ quyền, cùng tồn tại hoà bình với Israel, với các đường biên giới thiết lập trước tháng 6/1967. Đó là lý do tại sao, chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ ủng hộ hồ sơ của Palestine xin trở thành thành viên đầy đủ của LHQ, nhưng (dường như) hiện tại, cuộc thảo luận vẫn đang ở vòng Hội đồng bảo an mà chưa được đưa lên bàn của Đại hội Đồng.
Việt Nam nhất quán chính sách ủng hộ vã thúc đẩy giải trừ quân bị nói chung và toàn diện, với ưu tiên hàng đầu cho ba trụ cột của vấn đề hạt nhân - cụ thể là, giải trừ hạt nhân, không phổ biến hạt nhân và sử dụng hoà bình năng lượng cũng như công nghệ hạt nhân. Chúng tôi tham gia tất cả các văn kiện quốc tế lớn cho việc giải trừ vũ khí huỷ diệt hàng loạt, bao gồm CTBT, NPT, BWC và CWC. Chúng tôi cũng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo các cơ chế liên quan của LHQ đặc biệt là cơ chế do Hội đồng Bảo an LHQ thiết lập.
Chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ LHQ trong việc biến kết quả của Hội thảo đánh giá Hiệp ước Không phổ biến Hạt nhân 2010 và Hội nghị cấp cao về An ninh và An toàn hạt nhân trở thành các kết quả cụ thể, làm sống công tác của hội nghị giải trừ quân bị và xúc tiến tham gia các cuộc đàm phán giải trừ quân bị đa phương. Và trong khu vực của chúng tôi, trong Đông Nam Á của chúng tôi, chúng tôi cùng với các nước ASEAN đang làm việc để thúc đẩy hiệp ước về Đông Nam Á - khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân, và chúng tôi mong rằng, tất cả các nước, đặc biệt là các nước có vũ khí hạt nhân, sẽ ký kết và phê chuẩn nghị định thư kèm theo hiệp ước.
Trong khi thực hiện chính sách đối ngoại, chúng tôi coi Mỹ là một đối tác có ý nghĩa chiến lược hàng đầu. Khi Tổng thống Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt quyết định bình thường hoá quan hệ của chúng ta 16 năm trước, rất khó có thể hình dung được rằng sẽ có ngày chúng ta đạt được sự phát triển như thế này. Cơ chế đối thoại và tham vấn hiện nay đã tạo ra một khuôn khổ mạnh mẽ cho sự phát triển liên tục trong quan hệ song phương ở nhiều lĩnh vực khác nhau, từ quan hệ chính trị - ngoại giao tới kinh tế, thương mại, an ninh, quốc phòng, giáo dục, khoa học và công nghệ, hỗ trợ nhân đạo...
Hợp tác kinh tế hiện nay là điểm nhấn trong quan hệ song phương của chúng ta, với hơn 18 tỷ USD trong kim ngạch thương mại. Tôi nhớ rằng năm 1995, kim ngạch thương mại mới chỉ là vài trăm USD và giờ đây nó gấp 180 lần so với con số năm ấy. Ngày càng nhiều công ty Mỹ kể cả các tập đoàn ùang đầu, đang đầu tư và không ngừng mở rộng thị trường của họ ở Việt Nam. Tiềm năng to lớn cho hợp tác kinh tế của chúng ta tồn tại kể từ khi hai bên và các đối tác khác cùng thoả luận về Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương - met trong những thoả thuận thương mại lớn nhất và tự do nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Các lĩnh vực hợp tác khác cũng đạt được thành tựu rất ấn tượng, đặc biệt là trong trao đổi giữa nhân dân hai nước. Việc Mỹ gần đây trở thành điểm chọn lựa của hơn 13.000 sinh viên là lý do vì sao Việt Nam đang trở thành một trong những điểm chọn lựa của du khách Mỹ.
Hai bên cũng đã hợp tác tốt trong việc tìm kiếm người mát tích, trong các hoạt động nhân đạo như HIV/AIDS, rà phá bom mìn, giải quyết vấn đề chất độc da cam.
Ngoài ra, hợp tác an ninh quốc phòng đã có tiến triển tích cực. Tại cuộc đối thoại về chính sách quốc phòng lần thứ hai gần đây diễn ra ở Washington, D.C., hai bên lần đầu tiên đã ký kết các bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng, đây là ví dụ cho sự hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ.
Xây dựng động lực tích cực trong các quan hệ, Việt Nam và Mỹ đang tiến hành các cuộc thảo luận về việc nâng tầm quan hệ hướng tới quan hệ đối tác chiến lược. Tháng 7/2010, trong chuyến thăm Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 15 năm bình thường hoá quan hệ, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã chuyển tải thông điệp của Tổng thống Obama để nâng tầm mối quan hệ chúng ta lên một tầm cao hơn, hướng tới quan hệ đối tác chiến lược. Tôi tin rằng, đây là lúc hơn bao giờ hết để chúng ta đưa mối quan hệ hai nước sang một giai đoạn hợp tác tiếp theo.
Hôm qua tôi đã có cuộc họp rất hiệu quả với Ngoại trưởng Clinton về vấn đề này. Bà tin tưởng mạnh mẽ rằng, mối quan hệ của chúng ta được tăng cường hơn nữa sẽ giúp chúng ta thực hiện sự hợp tác tích cực, xây dựng và nhiều mặt - một mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi, vì hoà bình, ổn định và phát triển như trong tuyên bố chung của lãnh đạo hai nước. Chúng tôi cũng cho rằng, quan hệ đối tác Mỹ - Việt tốt hơn không chỉ có nghĩa chỉ thúc đẩy lợi ích chung mà còn có lợi cho lợi ích của mỗi bên trên tinh thân hiểu biết và tôn trọng độc lập và chủ quyền.
Ở bức tranh lớn hơn, tôi tin tưởng rằng, quan hệ đối tác Việt - Mỹ sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào các nỗ lực chung để thúc đẩy hoà bình, ổn định và phát triển khu vực cũng như trên thế giới. Hai nước chúng ta có những cơ hội lớn để thúc đẩy hơn nữa hợp tác song phương và đa phương. Tôi hy vọng rằng, Hội đồng Đối ngoại và các bên liên quan khác trong quan hệ Việt - Mỹ sẽ tích cực tham gia vào tiến trình này vì các lợi ích lâu dài của hai quốc gia và nhân dân hai nước. Tôi xin kết thúc phát biểu của mình tại đây và rất cám ơn sự chú ý của mọi người.
WOODRUFF: Rất cám ơn ông. Rất hay. Tôi biết rằng tôi sẽ chỉ đưa ra một số câu hỏi trong khoảng 15 phút sau đó là để ngỏ cho các câu hỏi khác dành cho ông. Mặc dù vậy, lần đầu tiên, tôi cũng muốn nói - với ý kiến cá nhân - tôi nghĩ tôi với ông cùng độ tuổi. Ông 52 tuổi còn tôi 50. Trong thời gian Chiến tranh Việt Nam, tôi và ông đều còn rất trẻ, dĩ nhiên, tôi ở Detroit, và ông ở Hà Nội.
Vậy, ông nhìn nhận thế nào và ông đã nghĩ gì về Mỹ hồi ấy? Chúng tôi biết rằng đã có thay đổi lớn từ đó tới nay. Nhưng tôi chỉ muốn hỏi, ông đã từng nhìn nhận thế nào và ông đã nghĩ gì?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Vâng, như ông từng đề cập, đó là thời gian xảy ra chiến tranh, và chúng ta còn rất trẻ. Tôi có thể nói tôi rất nhỏ khi ấy. Tôi nhớ khi Hà Nội bị đánh bom vì tôi tôi sống ở Hà Nội. Và lúc bị đánh bom, tôi đã phải sơ tán về vùng nông thôn. Và từ nông thôn, hàng đêm, tôi nhìn lên bầu trời, thấy như máy bay thả bom. Dĩ nhiên, đó là sự thù hận. Và sau đó, năm 1975, khi đủ tuổi, tôi vào trường ngoại giao. Và tôi đã học ngoại giao để trở thành một nhà ngoại giao, với ước mơ mà chúng ta có thể, các bạn biết đấy, là bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Nên trong lĩnh vực này, giờ đây, trong năm 1995 thì ước mơ đã thành hiện thực. Và các bạn biết đấy, những ngày nay, chúng ta đang nỗ lực nâng tầm quan hệ ấy.
WOODRUFF: Ông biết rằng, tôi biết ông đã có sự ủng hộ rất lớn để cố gắng làm gia tăng quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Có khi nào ông thậm chí hình dung ra rằng, ông sẽ ở đây, tại nước Mỹ thời gian trước không?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Thời điểm nào?
WOODRUFF: Vâng, trở lại những năm 1970?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Không (cười). Thời gian đó là không vì trước năm 1975 - không thể biết chiến tranh khi nào sẽ chấm dứt. Nên nó giải thích vì sao tôi không thể hình dung sẽ ở Mỹ.
WOODRUFF: Vậy lần đầu tiên, lần đầu tiên là khi nào ông nghĩ về điều này?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Đó là khi - vào những năm 1980, khi tôi làm việc tại bộ ngoại giao. Và thời điểm đó, tôi làm ở chúng tôi gọi là Vụ Tổ chức Quốc tế. Và công việc của tôi khi đó liên quan trực tiếp tới công việc của LHQ. Nên tôi đã tới New York tham dự các phiên họp của LHQ.
WOODRUFF: Tôi biết, một lần nữa với tư cách cá nhân, là những gì mà cha ông, ý tôi là, quan điểm của cha ông, suy nghĩ của ông ấy về loại hình công việc ông đã làm?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Vâng, ông biết rằng, chúng tôi có một chính sách khi chúng tôi bình thường hoá quan hệ với Mỹ, chúng tôi có khẩu hiệu rằng, khép lại quá khứ và hướng tới tương lai. Vì vậy, với mọi nỗ lực để bình thường hoá giữa hai nước, đó là hoàn hảo.
WOODRUFF: Và đó là lý do tại sao, cuối cùng, đó là câu hỏi cuối cùng của tôi về quá khứ. Hãy hướng tới - hiện tại và tương lai. Các bạn biết đấy, chắc chắn khi nhìn vào - sự thay đổi về kinh tế ở đất nước này là rất to lớn. Và trong tất cả các nước Đông Nam Á, tôi chưa từng tới Việt Nam. Đó là nước duy nhất tôi chưa từng đến.
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: (không nghe rõ)
WOODRUFF: Vì vậy đó là lý do chính vì sao tôi muốn gặp ông, để tối có thể đến thăm ông. Tôi đã sống ở Trung Quốc, tại Bắc Kinh năm 1988 và 1989. Sau đó, chúng tôi đã chứng kiến một đất nước mới bắt đầu có những đổi thay đáng kể. Nhưng nếu nhìn vào số người mới thoát nghèo, thoát nghèo ở Trung Quốc, tôi nghĩ có khoảng 300 triệu người thoát nghèo trong 30 năm qua. Tôi nghĩ, với nước ông, đã có khoảng 75% dân số được xem là trong mức nghèo, rồi hiện nay giảm xuống còn 14%, từ năm 1990 tới nay. Ông nhìn nhận nền kinh tế thế nào và lý do cho sự phục hồi theo thời gian?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Với Việt Nam trong 10 năm qua, chúng tôi duy trì tỉ lệ tăng trưởng kinh tế khoảng 7% - 7-8%, và điều đó đã góp phần giảm nghèo rất lớn, đồng thời chính phủ có một chính sách ưu tiên cho người nghèo. Đó là lý do vì sao, với Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, đây là một trong các mục tiêu chúng tôi đã hoàn thành trước - trước thời hạn - đặt ra cho năm 2015.
WOODRUFF: Và ông có con số tăng trưởng hàng năm trong nền kinh tế. Tôi nghĩ lạm phát bây giờ vào khoảng 18%?.
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: 18% lạm phát, vâng, trong năm nay. Và đó là một trong những thách thức lớn nhất với kinh tế Việt Nam.
WOODRUFF: Nên ông sẽ làm gì?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Chính phủ giờ đây có thông qua một số giải pháp. Một trong số đó là kiểm soát chi tiêu công, giảm các dự án. Việc đầu tư vào một số dự án không hiệu quả nên chúng tôi giảm các dự án đó. Đồng thời, giảm tỉ lệ lãi suất. Nhưng lạm phát vẫn cao. Trong tháng này, dường như đã tốt hơn một chút, nhưng vẫn ở mức rất cao.
WOODRUFF: Giờ chuyển sang căng thẳng khu vực, dĩ nhiên là, chắc chắn là với Trung Quốc, nước giờ đây mạnh nhất toàn châu Á. Ông có e ngại về điều này không? Ý tôi là trước khi Trung Quốc coi Biển Đông như một đường lưỡi bò lớn để họ có quyền với khu vực biên giới dọc theo biển của Việt Nam. Việc này tiếp tục thế nào mà không có xung đột, nếu không gọi là một cuộc chiến, ông nghĩ điều gì sẽ xảy ra khi nỗ lực kiểm soát những gì Trung Quốc đang cố gắng áp đặt lên các ông?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Ông biết rằng, với Trung Quốc ở thời điểm hiện tại, chúng tôi có - những gì chúng tôi mô tả về mối quan hệ là sự hợp tác toàn diện. Và Trung Quốc là một trong những đối tác chiến lược của chúng tôi. Trung Quốc nằm trong số bảy nước chúng tôi có quan hệ đối tác chiến lược. Và quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là tốt đẹp trong mọi lĩnh vực.
Về khía cạnh kinh tế. Chúng tôi có trao đổi thương mại, khoảng 20 tỉ USD. Về chính trị, chúng tôi đã trao đổi các chuyến thăm cấp cao. Văn hoá, giáo dục và các khía cạnh khác là tốt.
Chỉ có một vấn đề tồn tại. Những gì mà ông đề cập - đó là đường lưỡi bò. Đường lưỡi bò không có căn cứ pháp lý. Không hề có nền tảng pháp lý cho đường lưỡi bò. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên tham gia công ước LHQ về luật biển, năm 1982. Công ước này công nhận vùng đặc quyền kinh tế của một nước gắn với vùng biển. Và Việt Nam có vùng đặc quyền kinh tế trên biển trong 200 hải lý. Và đường lưỡi bò chạm tới thềm lục địa không chỉ của Việt Nam, mà còn của Philippines và những nước khác ở Đông Nam Á. Đó là lý do vì sao nó không phù hợp với Công ước LHQ về Luật biển - công ước mà Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên tham gia.
Còn tiếp...
Nguyễn Huy (dịch từ website của CFR)
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-10-06-luan-dam-voi-ngoai-truong-pham-binh-minh-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét