Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mỹ-Trung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mỹ-Trung. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2011

Trung Quốc sẽ đánh bại Mỹ như thế nào ?

(Vibay-22/11/11) Yan Xuetong, tác giả của "Tư tưởng Trung Hoa cổ đại, sức mạnh Trung Quốc hiện đại" là một giáo sư khoa học chính trị và là chủ nhiệm khoa Quan hệ quốc tế hiện đại tại Đại học Thanh Hoa. Bài viết này của Ông đã được dịch sang tiếng Anh bởi Zhaowen Wu và David Liu từ Trung Quốc.


Vũ khí tấn công toàn cầu của Mỹ Advanced Hypersonic Weapon (AHW) đánh trúng bất kỳ mục tiêu nào trên trái đất chỉ trong một giờ trở lại. Ảnh: NYCaviation.com

Với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu, và tăng khả năng của mình cho các dự án phát triển sức mạnh quân sự, cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là không thể tránh khỏi. Lãnh đạo hai nước khẳng định lạc quan rằng sự cạnh tranh có thể được quản lý mà không có xung đột, đe dọa trật tự thế giới.

Hầu hết các nhà phân tích không quá lạc quan. Nhưng lịch sử đã chỉ ra rằng, sự trỗi dậy của Trung Quốc không thực sự đặt ra một thách thức đối với Mỹ. Gia tăng quyền hạn để đạt được lợi ích trong hệ thống toàn cầu, và quyền hạn hiếm khi suy giảm mà không cần chiến đấu. Và sự khác biệt giữa hệ thống chính trị Trung Quốc và Mỹ, người bi quan có thể tin rằng có một khả năng còn cao hơn cả chiến tranh.

Tôi là một hiện thực chính trị. Các nhà phân tích phương Tây đã dán nhãn quan điểm chính trị của tôi là "hiếu chiến", và sự thật là tôi chưa bao giờ định giá quá cao tầm quan trọng của đạo đức trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực không có nghĩa là các chính trị gia cần được quan tâm chỉ với sức mạnh quân sự và kinh tế. Trong thực tế, đạo đức có thể đóng một vai trò quan trọng trong hình thành cạnh tranh quốc tế giữa các quyền lực chính trị và tách những người chiến thắng ra từ những người thất bại.

Tôi đi đến kết luận này từ việc nghiên cứu các nhà lý thuyết chính trị Trung Quốc cổ đại như Guanzi, Khổng Tử, Xunzi và Mạnh Tử. Họ viết trong thời gian trước Tần, trước khi Trung Quốc thống nhất như một đế chế hơn 2.000 năm trước - một thế giới trong đó các nước nhỏ cạnh tranh tàn nhẫn lợi dụng lãnh thổ.

Có lẽ nó là khoảng thời gian lớn nhất cho các tư tưởng Trung Quốc, và một số cạnh tranh cho uy quyền tối cao về tư tưởng và ảnh hưởng chính trị. Họ hội tụ trên một cái nhìn sâu sắc rất quan trọng: Chìa khóa để ảnh hưởng quốc tế là quyền lực chính trị, và các thuộc tính trung tâm của quyền lực chính trị đã được thông báo về mặt đạo đức lãnh đạo. Những người cai trị đã hành động phù hợp với quy tắc đạo đức bất cứ khi nào có thể có xu hướng để giành chiến thắng trong cuộc chạy đua cho lãnh đạo trong dài hạn.

Trung Quốc đã được thống nhất bởi các vị vua tàn nhẫn của nước Tần năm 221 trước Công nguyên, nhưng quy tắc ngắn ngủi của ông đã gần như không thành công như của Hán Vũ Đế, người đã tạo ra hỗn hợp của chủ nghĩa hiện thực mang tính pháp lý và "quyền lực mềm" Nho giáo để cai trị đất nước hơn 50 năm, từ năm 140 cho đến 86 trước Công Nguyên

Theo triết học Trung Quốc cổ đại, có ba loại lãnh đạo: nhân đạo, bá quyền và chuyên chế. Nhân đạo đã giành được trái tim và tâm trí của người dân trong và ngoài nước. Chế độ độc tài dựa trên lực lượng quân sự - chắc chắn tạo ra kẻ thù. Quyền hạn bá quyền nằm ở chổ họ không lừa mọi người ở trong nước hoặc gian lận đồng minh nước ngoài. Nhưng họ thường không quan tâm đến sự lo ngại về đạo đức và bạo lực thường sử dụng để chống lại những người không phải đồng minh. Các nhà triết học nói chung đồng ý rằng nhân đạo sẽ giành chiến thắng trong bất kỳ cạnh tranh với quyền bá chủ hay chuyên chế.

Lý thuyết này có vẻ xa với thời đại chúng ta, nhưng có những tương đồng nổi bật. Thật vậy, Henry Kissinger đã có lần nói với tôi rằng ông tin là tư tưởng Trung Quốc cổ đại có nhiều khả năng hơn bất kỳ hệ tư tưởng nước ngoài nào để trở thành lực lượng chiếm ưu thế trí tuệ đằng sau chính sách đối ngoại của Trung Quốc.

Phân chia lãnh thổ của thời kỳ tiền Tần, tương tự như các đơn vị toàn cầu của thời đại chúng ta, và các quy định được cung cấp bởi các nhà lý luận chính trị từ thời kỳ đó là liên quan trực tiếp ngày hôm nay - mà cụ thể là các quốc gia dựa vào sức mạnh quân sự hay kinh tế mà không quan tâm lãnh đạo thông báo về mặt đạo đức có bị ràng buộc không.

Chính phủ Trung Quốc tuyên bố rằng các lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản là cơ sở cho phép lạ kinh tế Trung Quốc, nhưng nó thường hành động như thể cạnh tranh với Hoa Kỳ sẽ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế.

Cả hai chính phủ phải hiểu rằng lãnh đạo chính trị, thay vì ném tiền vào những vấn đề, sẽ xác định ai thắng cuộc đua cho uy quyền tối cao toàn cầu.

Nhiều người sai lầm tin rằng Trung Quốc có thể cải thiện quan hệ nước ngoài của nó chỉ bằng cách gia tăng đáng kể viện trợ kinh tế. Nhưng thật khó để mua tình cảm, chẳng hạn "tình bạn" không đứng vững trước những thử thách trong thời điểm khó khăn.

Làm thế nào, sau đó, Trung Quốc có thể giành chiến thắng trong trái tim của người dân trên toàn thế giới? Theo triết học cổ đại Trung Quốc, nó phải bắt đầu ở trong nước. Tinh thần nhân đạo bắt đầu bằng cách tạo ra một mô hình mong muốn ở trong nước truyền cảm hứng cho người nước ngoài.

Điều này có nghĩa là Trung Quốc phải thay đổi các ưu tiên của nó đi từ phát triển kinh tế để thiết lập một xã hội hài hòa của những khoảng trống lớn giữa người giàu và người nghèo. Nó cần phải thay thế chủ nghĩa tôn thờ tiền bạc với đạo đức truyền thống và loại bỏ tham nhũng chính trị ủng hộ công lý và công bằng xã hội.

Ở các nước khác, Trung Quốc phải xây dựng các cơ quan nhân đạo để cạnh tranh với Hoa Kỳ, vẫn còn sức mạnh của một bá chủ thế giới. Sức mạnh bá chủ quân sự củng cố và giúp giải thích lý do tại sao Hoa Kỳ có rất nhiều đồng minh. Tổng thống Obama đã có những sai lầm chiến lược ở Afghanistan, Iraq, Libya, nhưng hành động của mình cũng chứng minh rằng Washington có khả năng tiến hành đồng thời ba cuộc chiến tranh ở nước ngoài. Ngược lại, Quân đội Trung Quốc đã không được tham gia vào bất kỳ cuộc chiến tranh kể từ năm 1984, với Việt Nam, và rất ít cán bộ cao cấp, chứ chưa nói đến binh sĩ, có kinh nghiệm chiến trường.

Mỹ rất thích các mối quan hệ tốt hơn với phần còn lại của thế giới so với Trung Quốc về cả số lượng và chất lượng. Mỹ đã có hơn 50 đồng minh quân sự chính thức, trong khi Trung Quốc không có. Bắc Triều Tiên và Việt Nam gần như là đồng minh của Trung Quốc. Cựu thành viên một liên minh chính thức với Trung Quốc vào năm 1961, nhưng đã không có diễn tập quân sự chung và không có bán vũ khí trong nhiều thập kỷ. Trung Quốc và Pakistan đã hợp tác quân sự đáng kể, nhưng họ không có một hiệp ước ràng buộc liên minh quân sự chính thức.

Để hình thành một môi trường quốc tế thân thiện cho sự gia tăng của mình, Bắc Kinh cần phải phát triển hơn nữa mối quan hệ ngoại giao và quân sự chất lượng cao hơn so với Washington. Sẽ Không có quyền lực hàng đầu nếu không có quan hệ thân thiện với tất cả các nước trên thế giới, do đó cốt lõi của sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ là xem ai có bạn bè chất lượng cao. Và để đạt được mục tiêu đó, Trung Quốc đã cung cấp các lãnh đạo đạo đức chất lượng cao hơn Hoa Kỳ.

Trung Quốc cũng phải thừa nhận rằng nó là một cường quốc đang lên và đảm nhận trách nhiệm đi kèm với tình trạng đó. Ví dụ, khi nói đến cung cấp bảo vệ cho quyền hạn yếu hơn, như Hoa Kỳ đã thực hiện ở châu Âu và vùng Vịnh Ba Tư, Trung Quốc cần để tạo ra thêm các thỏa thuận an ninh với các nước xung quanh khu vực theo mô hình của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải - một diễn đàn khu vực bao gồm Trung Quốc, Nga và một số quốc gia Trung Á.

Và chính trị, Trung Quốc theo truyền thống của meritocracy (Chính quyền do những người thực sự có tài năng nắm giữ; chế độ nhân tài). Quan chức chính phủ hàng đầu được lựa chọn theo đức hạnh và trí tuệ của họ, và không chỉ đơn giản là kỹ thuật và khả năng hành chính. Trung Quốc cũng nên mở ra và lựa chọn các quan chức từ khắp nơi trên thế giới để tìm những người đáp ứng tiêu chuẩn của nó, để cải thiện quản trị của quốc gia.

Nhà Đường kéo dài từ thế kỷ thứ 7 đến thứ 10 và có lẽ là thời gian vinh quang nhất của Trung Quốc - sử dụng một số lượng lớn người nước ngoài là quan chức cấp cao. Trung Quốc nên làm như vậy ngày hôm nay và cạnh tranh với Mỹ để thu hút người nhập cư tài năng.

VỀ thập kỷ tới, các nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc sẽ được chọn ra từ một thế hệ đã trải qua những khó khăn của cuộc Cách mạng Văn hóa. Họ kiên quyết các nguyên tắc giá trị chính trị nhiều hơn lợi ích vật chất. Những nhà lãnh đạo phải đóng một vai trò lớn hơn trên sân khấu thế giới và cung cấp bảo vệ an ninh và hỗ trợ kinh tế các quốc gia yếu kém.

Điều này có nghĩa là cạnh tranh với Hoa Kỳ về chính trị, kinh tế và công nghệ. Sự cạnh tranh có thể gây ra căng thẳng ngoại giao, nhưng có rất ít nguy cơ xung đột quân sự.

Đó là bởi vì trong tương lai cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ khác với giữa Hoa Kỳ và Liên Xô thời chiến tranh lạnh. Cả Trung Quốc cũng như Mỹ cần cuộc chiến ủy nhiệm để bảo vệ lợi ích chiến lược của nó hoặc để đạt được quyền truy cập vào tài nguyên thiên nhiên và công nghệ.

Nhiệm vụ của Trung Quốc để tăng cường lãnh đạo thế giới và nỗ lực của Mỹ để duy trì vị trí hiện tại của nó là một trò chơi có tổng bằng không. Đây là cuộc chiến giành trái tim và khối óc của người dân sẽ xác định người cuối cùng chiếm ưu thế. Và, như triết gia cổ đại của Trung Quốc dự đoán, các quốc gia nhân đạo hơn sẽ giành chiến thắng.

LTS: Thú thật, tôi cũng không hiểu một số chi tiết trong bài này. (Vibay Admin)

Nguồn: The New York Times.
http://www.nytimes.com/2011/11/21/opinion/how-china-can-defeat-america.html?pagewanted=1&tntemail0=y&_r=2&emc=tnt
0

Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2011

chiến lược mới của Hoa kỳ...Tiếp cận TQ: Obama đi trên con đường mới

(Vibay-20/11/11)Mấu chốt hướng châu Á của Tổng thống Obama là thay đổi cách tiếp cận
của Mỹ với Trung Quốc bằng cách hợp thức với các nước láng giềng để tăng sức ép
với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, khiến họ "chơi đúng luật".


Khởi điểm chuyến công du 9 ngày bắt
đầu từ khi tới Hawaii ngày 11/11 và kết thúc tại Bali, ông Obama đã tuyên bố
những bước đi để mở rộng thương mại, hợp tác quân sự và thúc đẩy ngoại giao với
các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương nhằm cùng chia sẻ những quan tâm từ
Washington về chính sách tiền tệ, sở hữu trí tuệ và tuyên bố chủ quyền lãnh thổ
của Trung Quốc.


“Áp lực của Mỹ với Trung Quốc rất
mạnh mẽ"
, Tim Condon, nhà
nghiên cứu châu Á tại ING Groep NV (INGA) có trụ sở ở Singapore nói. Sự thay
đổi ấy đã khiến người Trung Quốc "giật mình". "Trung Quốc
không thể phớt lờ lập trường của Mỹ. Câu hỏi duy nhất là họ thể hiện thế
nào".





Ảnh: Telegraph
Chiến lược chính sách đối ngoại của
Mỹ đang hướng tâm điểm trở lại châu Á khi cuộc chiến Afghanistan và Iraq sắp
tới hồi kết thúc, và khi sau hơn hai năm rưỡi ông Obama tuyên bố nỗ lực xích
lại gần thế giới Hồi giáo cũng như các cuộc hòa đàm Trung Đông phần lớn thất
bại.


Trong suốt chuyến đi, ông Obama đã
nhiều lần nhắc lại rằng, ông không theo đuổi một chiến lược ngăn chặn chống lại
Trung Quốc và điều ông tập trung là tạo công ăn việc làm cho người Mỹ. Ngay cả
khi có những dấu hiệu cho thấy sự phục hồi của Mỹ khá lạc quan - chỉ số
Standard & Poor’s 500 tăng 11% kể từ đầu tháng 10 - thì tỉ lệ thất nhgiệp
của Mỹ vẫn ở mức bằng hoặc trên 9% trong hơn hai năm.


Obama đã đặt mục tiêu tăng gấp đôi
xuất khẩu Mỹ lên 3,14 nghìn tỉ USD/năm vào cuối 2014. Ông tuyên bố, châu Á là
"chìa khóa" để đạt được mục tiêu ấy. Năm nay, Mỹ xuất khẩu sang Vành
đai Thái Bình Dương nhiều hơn châu Âu (theo con số của Bộ Thương mại Mỹ).


Khi ở hòn đảo Bali của Indonesia, ông
Obama đã tham gia sự kiện đáng nhớ với đơn hàng trị giá 21,7 tỉ USD cho Boeing
từ hãng hàng không Lion Air (Indonesia) - một hợp đồng kỷ lục với nhà sản xuất
máy bay tại Chicago.


Trong một cuộc họp báo tại Canberra,
Australia vào 16/11, ông Obama khẳng định, "là sai lầm" khi nói rằng
Mỹ sợ Trung Quốc hay tìm cách cô lập quốc gia đông dân nhất thế giới này. “Thông
điệp chính tôi nói là sự gia tăng của họ sẽ đi cùng với trách nhiệm gia tăng.
Nó rất quan trọng để Trung Quốc chơi đúng luật".


Những thỏa thuận mới

Tại hội nghị thượng đỉnh Hợp tác châu
Á - Thái Bình Dương ở Honolulu ngày 12/11, ông Obama đã tuyên bố Mỹ và 8 nước
khác - không bao gồm Trung Quốc - nhất trí hoàn thành một hiệp định thương mại
có tên Đối tác Xuyên Thái Bình Dương trong vòng một năm. Thương mại hai chiều
giữa Mỹ và các quốc gia này đạt 171 tỉ USD năm ngoái, so với 457 tỉ USD với
Trung Quốc và 181 tỉ USD với Nhật Bản.


Tổng thống Obama khẳng định, Mỹ hoan
nghênh thêm các nước khác tham gia miễn là họ cam kết tuân thủ các điều kiện về
tiền tệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ, thuế quan và tiếp cận thị trường - những điểm
gây tranh cãi giữa Mỹ và Trung Quốc.


Mỹ cũng gia tăng dấu ấn quân sự trong
khu vực với tuyên bố triển khai 2.500 lính thuỷ đánh bộ ở phía bắc Australia và
cam kết sẽ tăng cường giúp Philippines phòng thủ hải quân. Gia tăng sự hiện
diện của Mỹ có thể được xem là động thái "đối trọng" với Trung Quốc
khi nước này quả quyết hơn trong tuyên bố chủ quyền với Biển Đông - vùng biểu
giàu tài nguyên dầu khí - là nơi diễn ra tuyên bố chủ quyền chồng lấn giữa Bắc
Kinh và bốn nước Đông Nam Á.


Ricky Carandang, người phát ngôn của
Tổng thống Philippines Benigno Aquino nói với báo chí ở Bali rằng, sự hiện diện
của Mỹ “hỗ trợ khả năng của chúng tôi để khẳng định chủ quyền với các khu vực
nhất định" và sẽ được coi như là một "lực lượng đảm bảo ổn
định".


Trong khi ở Bali với tư cách là tổng
thống Mỹ đầu tiên tham dự hội nghị thượng đỉnh Đông Á, ông Obama đã đưa ra
tuyên bố ngoài kế hoạch rằng, ông sẽ cử Ngoại trưởng Hillary Clinton tới
Myanmar vào tháng trước - chuyến công du đầu tiên của bộ trưởng ngoại giao Mỹ
đến một đất nước sau hơn nửa thế kỷ.


Áp lực

Điều này đã tạo áp lực với Trung
Quốc, Willy Lam, trợ lý giáo sư về lịch sử tại Đại học Trung Quốc ở Hong Kong
cho biết. Theo Lam, Myanmar đang "đặt cược rủi ro" bằng cách tìm kiếm
sự mở rộng vượt ra ngoài vòng bảo trợ của Trung Quốc. Myanmar là cửa ngõ quan
trọng để Trung Quốc tiến ra Ấn Độ Dương.


Theo ông Lam, giờ đây, Trung Quốc "rất
lo lắng về việc Washington có thể muốn 'trộm" các khách hàng của
mình".


Phản ứng của lãnh đạo Trung Quốc với
chuyến công du châu Á - Thái Bình Dương là khá kín tiếng. Chủ tịch Trung Quốc
Hồ Cẩm Đào tại APEC nói, khu vực nên là nơi có hoạt động hợp tác tích cực giữa
hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Khi thoả thuận quốc phòng Mỹ - Australia
công bố, bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết, cần phải nghiên cứu để đánh giá lợi
ích của nó với khu vực.


Theo quan chức chính quyền Obama tại
Bali thì, chính phủ Trung Quốc về tổng thể là ủng hộ vì họ muốn ổn định về biên
giới và tương tác lớn hơn với cộng đồng quốc tế. Doug Paal, phó chủ tịch nghiên
cứu tại Carnegie Endowment for International Peace, một trung tâm nghiên cứu
chính sách tại Washington, nói rằng "sẽ là phù hợp với các lợi ích của
Trung Quốc để thể hiện phản ứng điềm tĩnh"
với những bước đi của
Obama.


Paal, người từng là giám đốc khu vực
châu Á cho Hội đồng An ninh quốc gia Nhà Trắng thời George H.W. Bush, khẳng
định, chính phủ Trung Quốc không muốn thừa nhận nội bộ hay công khai rằng "họ
đang đối mặt với một nguy cơ lớn hơn"
sự đáp trả từ Mỹ và các nước
khác.


Thái An (theo
Bloomberg)






Tổng
thống Barack Obama khẳng định rằng Hoa Kỳ không sợ Trung Quốc

Tác giả: Ben Feller

CANBERRA, Úc (AP) – Tổng thống Barack
Obama quả quyết rằng Hoa Kỳ không sợ Trung Quốc, ngay cả khi ông công bố một
thỏa thuận an ninh mới với Úc châu, được xem như là một phản ứng nhằm đối trọng
với thái độ gây hấn ngày càng gia tăng của Bắc Kinh.






Tổng thống Obama và Thủ tướng Úc, Julia Gillard
Trung Quốc phản ứng nhanh chóng, cảnh
báo rằng những dấu chân quân sự của Hoa Kỳ tại Úc có thể không thích hợp và cần
được giám sát kỹ hơn.


Hiệp ước, được công bố trong một cuộc
họp báo chung với Thủ tướng Úc Julia Gillard, sẽ mở rộng hợp tác quân sự của Mỹ
tại Úc, củng cố nhiều nhân sự và thiết bị ở đó, và tăng cường sự tiếp cận của
Mỹ với các căn cứ quân sự. Khoảng 250 lính Thủy quân lục chiến Mỹ sẽ bắt đầu
thuyên chuyển đến miền bắc Australia, bắt đầu vào năm tới, với một lực lượng
trọn gói là 2.500 cán bộ nhân viên quân sự trong vài năm tới.


Tổng thống Obama xem đây là một cuộc
đóng quân “đáng kể”, và cho biết sẽ xây dựng năng lực và hợp tác giữa Mỹ và Úc.
Các quan chức Mỹ đã thận trọng nhấn mạnh rằng hiệp ước này không phải là sự một
lăm le dựng lên sự hiện diện thường trực của quân đội Mỹ tại Úc.


“Giao ước này cũng cho phép chúng tôi
đáp ứng nhu cầu của rất nhiều đối tác trong vùng, những yếu nhân cảm thấy rằng
họ đang muốn được huấn luyện, họ đang nhận được thao dợt quân sự, và sự hiện
diện cần thiết của chúng tôi nhằm duy trì cơ cấu an ninh trong khu vực, ” ông
Obama nói.


Cuộc họp báo ở thủ đô Úc là trạm dừng
chân thứ hai của ông Obama, trong chuyến công du chín ngày ở khu vực châu
Á-Thái Bình Dương. Sau một chuyến bay 10 giờ từ Honolulu, nơi ông chủ trì cuộc
hội nghị thượng đỉnh kinh tế, Obama đi thẳng vào các cuộc họp với thủ tướng
Gillard.


Thứ Năm này, ông Obama sẽ phát biểu
trước Quốc hội Úc, sau đó bay tới thành phố Darwin ở phía Bắc, nơi mà một số
lính Thủy quân lục chiến Mỹ đến Úc vào năm tới sẽ đóng căn cứ.


Trong cuộc họp báo với thủ tướng
Gillard, tổng thống Obama tránh trả lời trực tiếp những câu hỏi liệu các giao
ước về an ninh có nhằm mục đích be bờ Trung Quốc không. Tuy nhiên, ông cho biết
Hoa Kỳ sẽ tiếp tục gửi một thông điệp rõ ràng rằng nếu Trung Quốc muốn giữ địa
vị cường quốc thế giới thì họ cần phải chấp nhận trách nhiệm đi đôi với vai trò
này.


“Điều quan trọng là họ phải tôn trọng
quy tắc của luật lệ đi đường”, ông nói.


Và ông khẳng định rằng Hoa Kỳ không
sợ sự trỗi dậy của Trung Quốc.


“Tôi nghĩ rằng quan điểm cho rằng
chúng ta sợ Trung Quốc là một điều nhầm lẫn. Quan niệm cho rrằng Hoa kỳ đang
tìm cách loại trừ Trung Quốc là sai lầm,” ông nói.


Trung Quốc ngay lập tức ngán ngẫm khả
năng bành trướng của quân đội Mỹ tại Úc. Hôm thứ Tư, phát ngôn viên Bộ Ngoại
giao Liu Weimin cho biết  rằng kế hoạch này cần được thảo luận xem nó có
phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế không.


Phụ tá an ninh quốc gia Ben Rhodes
của tổng thống Obama cho biết thỏa thuận này không những phù hợp, nhưng cũng là
một đáp ứng với yêu cầu của các quốc gia trong vùng đã tỏ tý muốn có sự hiện
diện của Mỹ.


Hoa Kỳ và các quốc gia nhỏ ở châu Á
ngày càng lo ngại về việc Trung Quốc giành quyền thống trị một khu vực rộng lớn
trên Thái Bình Dương, nơi mà Hoa Kỳ coi như là vùng biển quốc tế, và nhen lại
ngọn lửa tranh chấp lãnh hải, kể cả các cuộc đối đầu trên Biển Nam Hải (Biển
Đông). Kinh phí quốc phòng của Trung Quốc đã tăng gấp ba lần kể từ năm 1990,
đến khoảng $160 tỷ năm ngoái, và quân lực Trung quốc gần đây đã thử nghiệm một
phản lực cơ chiến đấu tàng hình mới và phóng thủy một hàng không mẫu hạm đầu
tiên của mình.


Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã
nói rằng mục tiêu của hiệp ước an ninh mới là dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ và Úc
châu sẽ sát cánh với nhau để đối đầu bất kỳ mối đe dọa nào.


Ngoài ra với sự tăng cường của Thủy
quân lục chiến tại Úc, nhiều phản lực cơ Mỹ sẽ luân phiên qua Úc theo như thỏa
hiệp giữa các lực lượng không quân của hai quốc gia. Ông Obama và bà Gillard
cho biết sự hiện diện tăng trưởng của không quân sẽ cho phép Mỹ và Úc ứng phó
hiệu quả hơn trong việc đối phó với thiên tai và khủng hoảng nhân đạo trong khu
vực.


Ông Rhodes cho biết tăng cường quân
sự của Mỹ sẽ tiến đến một “sự hiện diện lâu dài của Hoa kỳ”. Ông phân biệt sự
hiện diện này với một sự hiện diện thường trực trong ý đồ  các lực lượng
Mỹ sẽ sử dụng các phương tiện của Úc, thay vì vậy, Hoa Kỳ sẽ xây dựng cơ sở
riêng của mình, như là họ đã thực hiện ở những nơi như Hàn Quốc. Mỹ đã không
cho thấy bất kỳ một xu hướng nào như thế tại Úc.


Căn cứ duy nhất của Mỹ hiện nay ở Úc
là trung tâm tình báo và thông tin mật Úc-Mỹ tại Pine Gap, Úc châu. Tuy nhiên,
có hàng trăm nhân viên Mỹ phục vụ tại Úc trong chương trình trao đổi quân sự.


Những đơn vị không chiến cũng sử dụng
các vụ đánh bom sống ở những vùng đất rộng, dân cư thưa thớt ở phía bắc của
Australia trong các vụ huấn luyện luân phiên trong vài tháng và đôi khi các các
đơn vị hải quân thao dợt ngoài khơi. Nhưng hiếm có các vụ thao tác bằng lực
lượng bộ binh.


Trong cuộc họp báo ngắn hôm thứ Tư,
ông Obama và bà Gillard cũng trả lời các câu hỏi liên quan đến một loạt các vấn
đề khác, từ nỗ lực của Mỹ để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu cho đến các món
nợ khủng hoảng ở châu Âu.


Ông Obama đã nhắc đến lời kêu gọi ứng
xử khẩn cấp của các nhà lãnh đạo châu Âu để hỗ trợ đồng euro và phát triển một
tường lửa tài chính nhằm giữ cho các mối đe dọa của các vụ vỡ nợ mà Hy Lạp và Ý
đang đối đầu không lan rộng khắp Liên hiệp.


“Vấn đề bây giờ thuộc về phạm vi
chính trị, nó không phải là một vấn đề kỹ thuật”, Obama nói. Tại thời điểm này,
toàn thể cộng đồng châu Âu đã đứng đằng sau dự án châu Âu. ”


Khi được hỏi liệu Hoa Kỳ sẽ có thể
giảm lượng khí thải carbon thông qua một hệ thống hạn chế và trao đổi tín chỉ
của mình như Úc đang tiến hành, Obama thừa nhận Mỹ đã không thể vượt qua một kế
hoạch thông qua Quốc hội, nhưng ghi nhận nỗ lực của Mỹ để tăng hiệu quả nhiên
liệu xăng xe và đang nghiên cứu rõ ràng các tùy chọn năng lượng. Ông cho biết
các nền kinh tế đang lên như Ấn Độ và Trung Quốc cũng phải chịu trách nhiệm để
giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.


Đối với Obama và Australia, lần thứ
ba là một cơ hội có duyên. Ông hủy bỏ hai chuyến công du Úc trước đó, một 
lần ở lại Washington để vận động thông qua dự luật chăm sóc sức khỏe của ông,
và một lần nữa trong vụ trỗi dậy của vụ tràn dầu ở Vịnh Mexico.


“Tôi đã quyết tâm đến Úc vì một lý do
đơn giản: Hoa Kỳ không có một đồng minh nào mạnh mẽ hơn so với Úc,” ông nói.


___

nhà văn Erica Werner và Rod McGuirk’s
Associated Press ở Canberra đóng góp cho báo cáo này.


© Nguyễn Khoa Thái Anh (Bản tiếng
Việt)


Nguồn:
http://news.yahoo.com/obama-insists-us-does-not-fear-china-






Mỹ
dựa vào Úc để tăng cường sự hiện diện tại châu Á-Thái Bình Dương





Tổng thống Mỹ B.
Obama và thủ tướng Úc Julia Gillard (Reuters)



Minh
Anh

Nhiều
ngày nay, việc tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố sẽ mở một căn cứ quân sự tại
Darwin (Úc) gây nhiều chú ý cho giới quan sát. Sự kiện này khiến cho Trung
Quốc, đối tác thương mại hàng đầu, không cảm thấy hài lòng. Báo Le Monde hôm
nay nhận định : « Mỹ dựa vào Úc để tăng cường sự hiện diện của mình tại khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương ».


Trong hai ngày viếng thăm nước Úc,
tổng thống Mỹ Barack Obama đã có một loạt cử chỉ mang tính biểu tượng, trong đó
có chuyến đi thăm Darwin. Chính tại đây, những người lính Mỹ đã ngã xuống dưới
làn bom của quân đội Nhật vào năm 1942. Thế nhưng, chuyến đi lần này còn mang
đậm dấu ấn qua tăng cường hợp tác quân sự Mỹ - Úc được công bố vào hôm thứ tư
vừa qua. 


Từ đây đến năm 2012, Mỹ sẽ cho triển
khai 250 lính thủy quân lục chiến tại căn cứ quân sự tại vùng lãnh thổ phía
Bắc. Quân số sẽ được tăng lên là 2500 lính vào năm 2016. Ngoài ra, Washington
và Canberra sẽ thường xuyên tổ chức các đợt tập trận chung trên lãnh thổ
Úc. 


Nhiều chuyên gia nhận định, với thỏa
thuận này, hợp tác của hai nước mang tầm quan trọng lớn. James Curran, chuyên
gia lịch sử về quan hệ Mỹ-Úc tại đại học Sydney nhắc lại rằng « Đây là lần đầu
tiên Hoa Kỳ sẽ hiện diện thường trực tại Úc. Việc này sẽ nối kết Úc với Mỹ, một
sự kiện trước giờ chưa từng xảy ra». 


Tổng thống Mỹ tỏ rõ cho thấy ý định
xem khu vực châu Á – Thái Bình Dương là một trọng tâm địa-chính trị. Ông Barack
Obama cam kết rằng « Việc cắt giảm ngân sách cho quân đội sẽ không để cho châu
Á-Thái Bình Dương thiệt hại […]. Hoa Kỳ là sức mạnh của Thái Bình Dương, và
chúng tôi sẽ có mặt ở đấy để duy trì sức mạnh này ».


Nhận định về tuyên bố của Obama trước
Nghị viện Úc hôm thứ năm 17/11 vừa qua, Geoffrey Garrett, giám đốc Trung tâm
nghiên cứu về Hoa Kỳ cho biết « Đây là lần đầu tiên Obama nói rõ ra một cách
cứng rắn như vậy về học thuyết của mình. Ông ấy muốn nối kết quyền lợi và các
giá trị Mỹ tại châu Á-Thái Bình Dương ». Điều này được khẳng định rõ qua việc
Mỹ ủng hộ dự án Đối tác xuyên Thái Bình Dương, thị trường tự do mậu dịch quy tụ
gồm 10 nước, trong đó có Mỹ, Úc và Nhật Bản, nhưng không có Trung Quốc, tại Hội
nghị Thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, diễn ra tại
Hawai ngày 13/11 vừa qua. 


Le Monde cho biết, hiện tại quân đội
Mỹ đã hiện diện tại các nước Nhật Bản (đảo Guam), Philippines và Hàn Quốc. Như
vậy, việc Mỹ-Úc đạt một thỏa thuận hợp tác quân sự sẽ khiến cho Bắc Kinh không
mấy hài lòng. Một nhà ngoại giao Trung Quốc đã phản ứng gay gắt, cho rằng « Có
lẽ đây không phải là lúc tăng cường và mở rộng các liên minh quân sự ». Trung
Quốc cho rằng đây là một « chiến lược bao vây », theo như lời nhận định của một
chuyên gia. 


Nhưng Le Monde cho rằng vị trí của
Canberra có thể sẽ dẫn đến sự đối đầu về kinh tế, trong trường hợp khủng hoảng
giữa Bắc Kinh và Washington thật sự mở ra. Bởi lẽ, Trung Quốc là đối tác thương
mại hàng đầu của Úc. Le Monde tự hỏi « Liệu Canberra có nên làm dịu lại các mối
quan hệ này hay không ? » Trong khi đó, báo chí Úc bắt đầu bày tỏ mối lo ngại.
Tuy nhiên, theo đánh giá của ông John Lee, giáo sư tại Trung tâm nghiên cứu
Quốc tế Sydney, thì « Trung Quốc khó có thể làm gì được mà không có quặng sắt
của Úc. Không một quốc gia nào khác có thể cung cấp đầy đủ cho họ ». 


Cuối cùng Le Monde cho biết, theo kết
quả thăm dò của viện Lowy, 55% số người Úc được hỏi ủng hộ sự hiện diện của lực
lượng quân đội Mỹ trên lãnh thổ của mình. 




Trung
Quốc khó chịu vì Hoa Kỳ gia tăng ảnh hưởng tại châu Á





Thủ tướng TQ Ôn Gia
Bảo và tổng thống Mỹ Obama tại Bali (Reuters)




Anh

Tại hội
nghị thượng đỉnh Đông Á đang diễn ra tại Bali, Hoa Kỳ khẳng định ảnh hưởng đang
lên trong khu vực. Bất chấp những cảnh báo của Bắc Kinh, Tổng thống Mỹ can
thiệp vào mọi vấn đề bị Trung Quốc xem là thuộc chủ quyền của mình từ hối đoái
đồng nhân dân tệ cho đến tranh chấp lãnh hải tại Biển Đông.


Bên lề hội nghị thượng đỉnh Đông Á ,
Tổng thống Mỹ Barack Obama và thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bão đã có một cuộc
gặp riêng hơn một tiếng đồng hồ dài hơn dự kiến. Tổng thống Mỹ đã nêu lên các
vấn đề xung khắc trong thương mại và hồ sơ biển Đông.


Ngay sau đó, trợ lý ngoại trưởng
Trung Quốc Lưu Chấn Dân tuyên bố « Bắc Kinh muốn nhanh chóng hợp tác với
Washington ». Theo đặc phái viên RFI, Vincent Souriau, trong những ngày qua,
Trung Quốc đã cảm thấy lo ngại vì chiến dịch phản công ngoại giao của Hoa Kỳ
tại Châu Á Thái Bình Dương.


Các viên chức Mỹ nói đến « giai đoạn
mới » trong chính sách đối với Trung Quốc. Hành động cụ thể và biểu tượng là bố
trí Thủy Quân Lục Chiến tại Úc , thường xuyên gởi tàu chiến lui tới trong khu
vực nhìn về Biển Đông trong khuôn khổ hợp tác quốc phòng Mỹ-Úc nâng cấp.


Hồ sơ thứ hai làm Bắc Kinh khó chịu
là biến chuyển tình hình tại Miến Điện. Tại Bali, các thông tin từ phía phái
đoàn Hoa Kỳ cho biết là ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton sẽ thăm quốc gia Đông
Nam Á này để « trắc nghiệm » thiện chí cải cách dân chủ của chính quyền mới.
Đây là một đòn tấn công thăm dò nhắm vào « sân sau » của Trung Quốc. Đồng minh
truyền thống của Bắc Kinh đang hướng về Tây phương với hy vọng được tái hội
nhập vào cộng đồng thế giới.


Trong lãnh vực thương mại , Hoa Kỳ
còn tung ra dự án TPP, vùng mậu dịch tự do xuyên Thái Bình Dương để lấn át thị
phần của Trung Quốc.


Về hồ sơ biển Đông, mạch sống của ngư
dân Việt Nam, nguồn tài nguyên của nhiều quốc gia Đông Nam Á, con đường giao
thông chiến lược quốc tế, đang bị Trung Quốc đe dọa bằng đường lưỡi bò, Tổng
thống Obama đã khẳng định lập trường của Mỹ bất chấp phản đối của ông Ôn Gia
Bão không cho « thế lực bên ngoài can thiệp vào các vụ tranh chấp trong khu vực
».


Theo tuyên bố của Cố vấn anh ninh Tom
Donilon thì phía Trung Quốc phải hiểu rằng « Hoa Kỳ là cường quốc Thái Bình
Dương , là cường quốc thương mại, là cường quốc hàng hải ». Lập trường của Mỹ
là bảo vệ tự do giao thông, tự do giao thương và giải quyết tranh chấp bằng
biện pháp ôn hòa.


Tổng thống Mỹ đã tuyên bố với các
lãnh đạo Á châu là Hoa Kỳ muốn diễn đàn Đông Á nơi đặc biệt để các thành viên
cùng nhau xem xét mọi hồ sơ quan trọng từ tự do giao thông cho đến cấm phổ biến
vũ khí hạt nhân. Tất cả các sự kiện trên biểu lộ uy thế của Mỹ mỗi ngày mỗi gia
tăng trong khu vực chỉ làm Trung Quốc thêm lo ngại.


Thủ tướng Trung Quốc dứt khoát từ
chối đường hướng thảo luận đa phương và để cho các cơ quan tuyên truyền của
đảng Cộng sản hù dọa các nước láng giềng. Hôm qua 18/11/2011, Hoàn Cầu Thời Báo
cảnh cáo các quốc gia Asean coi chừng bị Trung Quốc trừng phạt kinh tế « nếu
làm con tốt trên bàn cờ » của Mỹ.


Sáng nay 19/11/2011, đến lượt Nhân
Dân Nhật Báo cáo buộc Washington có ý đồ « tái lập chiến tranh lạnh » nhưng dự
báo là Mỹ « sẽ bị nhân dân các nước châu Á sẽ tẩy chay ». Tờ báo đảng kết luận
là « giấc mơ một châu Á ổn định và phú cường sẽ không bao giờ là hiện thực »
chỉ vì « sự can thiệp của Mỹ vào quyền lợi của người khác ».




Phân biệt nam nữ ngày càng lan rộng tại Israel

Về đề tài xã hội, Liberation quan tâm
đến sự phân biệt nam nữ ngày càng lan rộng tại Israel. Theo công bố của tổ chức
Global Gender Gap Index, đánh giá về nạn phân biệt nam-nữ, giữa năm 2007 và
2011, quốc gia Do Thái này đã chuyển từ thứ hạng 36 xuống vị trí thứ 55 trên
tổng số 135 nước. 


Libération cho biết dưới áp lực của
những người Do Thái bảo thủ theo Chính thống giáo, ngay tại khu Thánh địa, các
hình ảnh quảng cáo siêu người mẫu Sandy Bar đều phải dỡ bỏ. Thậm chí một tổ
chức về hiến tặng nội tạng còn đề nghị nên cho biến mất tất cả những tấm ảnh
ghép mang khuôn mặt phụ nữ trên các trang quảng cáo của mình.


Những năm gần nay, phụ nữ ngày càng
bị gạt ra bên lề ngay trong lòng cộng đồng Do Thái bảo thủ theo Chính thống
giáo, vốn chỉ chiếm có 10% dân số cả nước.


Libération thuật lại vào tháng mười
vừa qua, trong những kỳ lễ hội Do Thái, lần đầu tiên, tại một khu phố tôn giáo
tại Jerusalem, một con đường được phân chia ra làm hai ; một bên lề đường giành
cho nam giới, và bên kia là cho nữ giới. Ngay lập tức, Tòa án Tối cao buộc phải
can thiệp hòng chấm dứt sự phân biệt này.


Không những thế, tách biệt nam nữ còn
thể hiện rõ nét ngay trong lòng quân đội Israel. Theo luật định, phụ nữ nước
này phải thực thi hai năm nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Tuy nhiên, do số sĩ quan
theo Chính thống giáo ngày càng tăng trong quân đội, tệ nạn tách biệt nam nữ
cũng bắt đầu gia tăng. Dưới con mắt của nhiều giáo phái bảo thủ, số lính nữ
thường bị xem là không thuần khiết.


Vì vậy, họ thường bị gạt ra ngoài
nhiều lễ hội của quân đội. Thậm chí, một số sĩ quan bảo thủ theo Chính thống
giáo còn đề nghị là không nên để phụ nữ tham gia vào các đơn vị chiến đấu hỗn
hợp. Theo Libération, sự phân biệt nam nữ đã khiến cho nhiều tướng lĩnh về hưu
không khỏi lo ngại. Những người này cho rằng sự phân biệt giới tính đi ngược
lại những giá trị nền tảng của xã hội Israel. 


Tunisia : phe cựu tổng thống Ben Ali phung phí tài sản quốc gia

Liên quan đến vụ xử các thành viên
gia đình cựu Tổng thống Tunisia bị lật đổ, trên trang quốc tế báo Le Monde có
bài viết đề tựa « Một báo cáo tiết lộ cho biết mức độ lãng phí tài sản quốc gia
của gia đình Ben Ali ». Theo bài viết, gia đình cựu Tổng thống bị lật đổ tham
nhũng trên toàn bộ lãnh vực kinh tế. 


Theo báo cáo của Ủy ban quốc gia về
tham nhũng và lạm dụng công quỹ (CNICM) được công bố ngày thứ sáu 11/11 vừa
qua, cho biết gia đình cựu tổng thống Tunisia bị lật đổ đã tham ô tài sản đất
nước cho lợi ích của gia đình mình.


Le Monde viết rằng phần đông các phi
vụ đều được biết đến, nhưng nếu đi vào chi tiết thì ngoài sức tưởng tượng của
người dân. Mọi lãnh vực đều được liệt kê ra hết : từ bất động sản, đất nông
nghiệp, ngân hàng, viễn thông, nghe nhìn, các hoạt động chuyển nhượng, thị
trường công… Thậm chí đến những phi vụ kỳ quặc như các nhà điều tra tìm thấy
một trao đổi thư điện tử giữa con rể của Ben Ali với đại sứ Tunisia tại
Indonesia về việc sở hữu một cặp đười ươi, hay như giấy chứng nhận quyền sở hữu
một ngôi sao mua từ một tổ chức Nga.


Đặc biệt, lãnh vực bất động sản là
nơi diễn ra các hoạt động tham ô chính. Bài báo liệt kê một loạt các hợp đồng
mua đất với giá rẻ như bèo và được bán lại với giá cao. Điển hình là « cung
điện » của bà tổng thống phu nhân Leila Trabelsi. Khoảng đất rộng 3500m² bên bờ
hồ nhân tạo được mua với giá 100 dinar (tương đương với 500 euro) vào năm 2007.
Hay vụ bà này mua lại một mảnh đất 20 ngàn m² nhằm mở trường quốc tế của bà với
một cái giá rất tượng trưng là 1 dinar.


Theo Le Monde, tham ô của gia đình
cựu tổng thống còn vươn ra ngoài lãnh thổ. Bản báo cáo còn nêu ra một số tập
đoàn và cựu quan chức Pháp cũng dính líu đến nạn tham nhũng, chủ yếu thông qua
các dự án gọi thầu cho thị trường công. 


Pháp điều tra về việc sử dụng hoá chất để tiệt trùng bình sữa  

Về lãnh vực y tế, báo Le Monde cho
biết Bộ Y tế Pháp sẽ mở một điều tra về việc sử dụng chất Ethylene oxide để
tiệt trùng bình sữa. Bài báo trích dẫn một bài phóng sự điều tra đăng trên tuần
san Le Nouvel Observateur số ra ngày 17/11 vừa qua, cho rằng các bệnh viện tại
Pháp vẫn sử dụng rộng rãi chất này để tiệt trùng các bình sữa tại khoa sản bất
chấp lệnh cấm ban hành từ những năm 1990. 


Ngay sau khi Le Nouvel Observateur
cho đăng bài phóng sự, Bộ trưởng Y tế Pháp Xavier Bertrand ngay lập tức cho mở
một điều tra, nhằm « tìm hiểu làm thế nào một sự rối loạn chức năng như thế lại
có thể diễn ra giữa một bên là các doanh nghiệp chuyên cung cấp sản phẩm có
tiếp xúc trực tiếp đến thực phẩm lại được tiệt trùng bằng chất ethylene oxyde »
và « một bên là bệnh viện, người mua các sản phẩm này ».


Le Nouvel Observateur cho biết nhiều
doanh nghiệp đã lập luận rằng họ dựa vào một thông tư bộ trưởng ký ngày
7/12/1979 chỉ cho phép sử dụng loại chất này trong trường hợp không có một giải
pháp nào khác để tiệt trùng bình sữa. Mặt khác, vào năm 1994, Trung tâm nghiên
cứu bệnh Ung bướu Quốc tế (CIRC) đã liệt loại hóa chất này vào danh sách chất
gây bệnh ung thư.


Tuy nhiên, điều đáng chú ý là các
bệnh viện công tại Pháp vẫn đồng ý để cho tập đoàn Cair sử dụng hóa chất
ethylene oxyde để tiệt trùng các bình sữa.


Theo CIRC, loại hóa chất này có thể
gây ra các triệu chứng loạn nhiễm sắc thể trong trường hợp sử dụng thường xuyên
hơn là liều lượng dùng. Hóa chất này có liên quan đến bệnh ung thư máu và các
bệnh liên quan đến các tế bào máu. Một điều chắc chắn là, những trẻ sơ sinh nào
phải ở lại trong bệnh viện trung bình từ 4 đến 6 ngày sau khi chào đời, thì ít
nhiều cũng bị phơi nhiễm.


Le Monde cũng khẳng định rõ là việc
sử dụng loại hóa chất này cho mục đích diệt khuẩn những đồ dùng nào có tiếp xúc
với thực phẩm là không được cho phép. Ngược lại, loại hóa chất này được quyền
sử dụng để khử khuẩn các dụng cụ y tế như dao mổ, gạc… 


Hoa Kỳ cấm lưu hành một loại thuốc dùng để điều trị ung thư 

Hôm qua, thứ sáu, Cơ quan quản lý
thuốc men Mỹ (FDA) công bố không cho phép sử dụng thuốc Avastin (do hãng dược
Roche Thụy Sĩ sản xuất) trong điều trị các loại bệnh ung thư vú giai đoạn cuối.


Libération cho biết loại thuốc này
được tung ra thị trường cách đây 10 năm và mang lại nhiều hy vọng cho nhiều
bệnh nhân. Đặc tính của thuôc này là nhằm ngăn chặn sự tăng trưởng các mạch máu
nuôi dưỡng khối u cho đến khi nào khối u trở nên vô hiệu hóa.


Theo giải thích của FDA, thì việc sử
dụng thuốc Avastin gây ra nhiều tác dụng phụ như cao huyết áp nặng, chảy máu
cam và xuất huyết, loét dạ dày và đường ruột. Vì vậy, Cơ quan quản lý thuốc Hoa
Kỳ cho rằng « không có bằng chứng nào cho thấy tính hiệu quả của thuốc điều trị
ung thư này để làm chậm lại sự phát triển khối u của bện nhân hay để kéo dài sự
sống của họ».







Mỹ tiếp tục ở châu Á dù ai đó
muốn
hay không

Tác giả: Đình Ngân theo Nytimes
Bài đã được xuất bản.: 18/11/2011 05:00
GMT+7
Trong chuyến công du châu Á gần đây, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon E.
Panetta đã cam kết không rút lui khỏi khu vực. Ông nói: "Dù thế nào, chúng
tôi cũng củng cố sự hiện diện của mình ở châu Á". Tuần này, ông Obama có
thể sẽ tuyên bố một thỏa thuận với Australia về việc cho phép quân đội Mỹ hiện
diện thường trực ở đây.


Nghe có vẻ lạ trong kỷ nguyên chiến
tranh số và tấn công bằng máy bay không người lái, nhưng thực tế mặt trận mới
nhất trong cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc lại đang diễn ra trên một vùng
biển nhiệt đới, nơi tham vọng khai thác các trữ lượng tài nguyên dầu khí phong
phú ở ngoài khơi đang làm bùng phát một cuộc xung đột giống như thời kỳ ngoại
giao pháo hạm thế kỷ 19.


Chính quyền Obama "bước chân
xuống" các vùng nước đầy nguy hiểm trên Biển Đông hồi năm ngoái khi Bộ
trưởng Ngoại giao Hillary Rodham Clinton tuyên bố tại cuộc họp căng thẳng giữa
các quốc gia châu Á ở Hà Nội, Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam, Philippine và các nước
khác chống lại tham vọng thôn tính Biển Đông của Bắc Kinh. Khỏi phải nói, Trung
Quốc lập tức tỏ ra giận dữ với cái mà nước này gọi là sự can thiệp của Mỹ.


Nhìn lại lịch sử từ những năm 1800,
chưa kể chiến tranh lạnh, cuộc đối đầu ở Biển Đông dự báo một dạng xung đột mới
trên biển, sẽ xảy ra trên khắp các vùng biển, từ Biển Địa Trung Hải tới Bắc
Băng Dương, nơi các cường quốc kinh tế khát nhiên liệu, được tiếp sức bởi các
công nghệ cho phép tiếp cận các khu vực giàu năng lượng nằm sâu dưới mặt nước
biển và thậm chí bởi cả sự thay đổi khí hậu trên trái đất, đang lao vào cuộc
tranh đấu thế kỷ để giành lấy các vùng biển này.


Trung Quốc không phải là quốc gia duy
nhất có tham vọng biển. Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang đụng độ với Síp, căng thẳng với Hy
Lạp và Israel xung quanh các mỏ khí tự nhiên ở khu vực phía đông Địa Trung Hải.
Một số cường quốc khác, trong đó có Nga, Canada, và Mỹ thì đang tích cực thăm
dò Bắc Cực, nơi các khối băng đang tan nhanh, mở ra những tuyến đường vận
chuyển mới và khả năng khai thác các trữ lượng dầu và khí khổng lồ ở dưới sâu.


Bà Clinton nói trong cuộc phỏng vấn
mới đây, miêu tả cuộc cạnh tranh của thế giới giống như một Cuộc chơi lớn trên
biển: "Cuộc tìm kiếm tài nguyên sẽ lôi kéo rất nhiều các quốc gia có biển
trên khắp thế giới trong ít nhất một vài thập niên tới".


Những căng thẳng đó chắc chắn sẽ
chiếm nhiều sự quan tâm nhà lãnh đạo Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia châu Á khác
tại Honolulu, Mỹ và tại hòn đảo Bali của Indonesia.


Daniel Yergin, một chuyên gia năng
lượng và tác giả cuốn sách nổi tiếng "Dầu mỏ: Tiền bạc và quyền
lực"
, phân tích: "Nguyên nhân cơ bản đằng sau đó là việc người ta
nhận ra rằng tài nguyên dầu mỏ có rất nhiều ở ngoài khơi. Khi bạn có tài nguyên
trên đất liền, bạn biết mọi thứ đang đứng ở đâu. Nhưng khi bạn ở ngoài khơi,
tất cả trở nên mờ mịt hơn".


Hơn 29 triệu thùng dầu mỗi ngày, tức
1/3 sản lượng toàn cầu, giờ đây được khai thác từ các mỏ ngoài khơi, và tỷ lệ
này vẫn sẽ tăng đều đặn, Yergin nói. Riêng Biển Đông ước tính sẽ có khoảng 61
tỷ thùng- dầu và khí - cộng với 54 tỷ thùng chưa được phát hiện, trong khi Bắc
Cực được dự đoán có 238 tỷ thùng, và khoảng gấp đôi con số đó nữa vẫn chưa được
phát hiện.





Khi các nước đua nhau dựng lên các
giàn khoan và cử các tàu thăm dò dầu tới sục sạo khắp đáy biển, những tuyên bố
chủ quyền biển xung đột nhau sẽ góp phần hâm nóng cuộc chạy đua vũ trang hải
quân. Không phải ngẫu nhiên mà các quốc gia với lực lượng hải quân phát triển
nhanh nhất lại là những nước có phần ít nhiều trong các khu vực năng lượng này.


Theo Viện Nghiên cứu chiến lược quốc
tế tại Luân Đôn, Trung Quốc, năm 1990 chỉ có 2 tàu khu trục từ thời Liên Xô,
 đã tăng cường lên 13 tàu khu trục hiện đại vào năm 2010. Với tham vọng
xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh, có khả năng tác chiến tại các vùng
nước sâu ở ngoài khơi, nước này còn đang xây dựng một tàu sân bay. Malaysia và
Việt Nam đang gia cố sức mạnh hải quân bằng các tàu khu trục và tàu ngầm. Ấn
Độ, nước đang muốn bảo đảm một khả năng tiếp cận Viễn Đông, cũng đang ra sức
trang bị khí tài. Còn hải quân Israel thì đang đẩy nhanh việc mua sắm thêm tàu
thuyền để chống lại các tàu chiến Thổ Nhĩ Kỳ tuần tiễu quanh các giàn khoan của
Israel.


David L. Goldwyn, nguyên đặc phái
viên phụ trách các vấn đề năng lượng quốc tế thuộc Bộ ngoại giao Mỹ, nói:
"Các nước muốn chắc chắn rằng họ có khả năng phát triển các nguồn tài
nguyên và đảm bảo các tuyến đường thông thương của mình được bảo vệ".


Cuộc cạnh tranh này cũng là nguyên
nhân đằng sau những lời kêu gọi Mỹ củng cố sức mạnh hải quân của mình, ngay cả
trong thời điểm ngân sách bị cắt giảm. Mitt Romney, người được cho là một trong
những ứng cử viên Cộng Hòa trong cuộc tranh cử tổng thống sắp tới, mới đây đã
tuyên bố, ông sẽ "đảo ngược tình trạng giậm chân tại chỗ của Hải quân
chúng ta và tuyên bố một sáng kiến tăng cường tốc độ xây dựng tàu từ 9 chiếc
lên 15 chiếc mỗi năm". Với tốc độ xây dựng thiếu quyết liệt và ngân sách
bảo dưỡng eo hẹp, các nhà phân tích cho rằng, Hải quân Mỹ đã và đang phải đối
phó với một lực lượng tàu chiến xuống cấp đến mức mà theo một số người, còn
không thể xử lý được các thách thức của chính mình.


Mỹ đã sử dụng chính sách ngoại giao
pháo hạm ở châu Á từ ít nhất năm 1953, khi Đại tá Matthew C. Perry chỉ huy hạm
đội của mình tiến thẳng vào Vịnh Tokyo, đe dọa Nhật Bản phải mở cửa cho thương
mại bên ngoài. Hiện nay, Trung Quốc đang áp dụng một phiên bản châu Á của Học
thuyết Monroe để áp đặt tham vọng của mình.


Với ông Obama, với cái "gốc
gác" ở cả Hawaii và Indonesia đã giúp ông thấm nhuần một thế giới quan
Thái Bình Dương, thì sự rút quân khỏi Iraq và Afghanistan cho ông một cái cớ
thật tốt để hướng về phía đông. Mỹ đã nỗ lực củng cố quan hệ với các đồng minh
cũ ở châu Á, như Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như với những người khổng lồ mới
nổi như Ấn Độ. Mục tiêu, dù các quan chức chính phủ Mỹ bất đắc dĩ phải nói công
khai, là tập hợp một liên minh làm đối trọng với sức mạnh đang gia tăng của
Trung Quốc.


Trong chuyến công du châu Á gần đây,
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon E. Panetta đã cam kết không rút lui khỏi khu vực.
Ông nói: "Dù thế nào, chúng tôi cũng củng cố sự hiện diện của mình ở châu
Á". Tuần này, ông Obama có thể sẽ tuyên bố một thỏa thuận với Australia về
việc cho phép quân đội Mỹ hiện diện thường trực ở đây.


Trên đất liền, cuộc đua giành các
nguồn cung cấp năng lượng dĩ nhiên cũng không phải chuyện mới. Từ những năm
1950-1970, Mỹ đã dùng đủ các chiêu để cách ly Nga khỏi đất nước Iran giàu dầu
mỏ. Ngày nay, Trung Quốc đang tấp tới đặt bút ký vào các thỏa thuận với khu vực
châu Phi phong phú năng lượng. Nhưng công nghệ đã làm thay đổi mối quan hệ này,
đưa các mỏ dầu và khí ở dưới biển sâu vào vị trí quan trọng hơn bao giờ hết.


James B. Steinberg, nguyên Thứ trưởng
Bộ Ngoại Mỹ với nhiều năm làm việc ở cả ba khu vực, nói: "Xét về sâu xa,
câu hỏi đặt ra là các cuộc xung đột này sẽ xảy đến với bạn khi nào và như thế
nào. Liệu các nước có nhận thấy ở đây những cơ hội đôi bên cùng có lợi, hay họ
sẽ coi đó là một cuộc ganh đua một mất một còn?"


Với Trung Quốc, Biển Đông từ lâu đã
đóng vai trò quan trọng như một nguồn cung cấp dầu mỏ và các nguyên liệu thô
khác để nuôi sống nền kinh tế. Các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc lấy cơ sở
lịch sử từ những năm 1940, khi Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch vẽ ra đường
đứt đoạn hình lưỡi bò kéo dào xuống phía nam Trung Quốc, ôm gần như trọn Biển
Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Tranh chấp xung quanh những đảo núi
lửa lớn này sẽ chẳng to chuyện, nếu như Trung Quốc, Việt Nam, và Philippine
đụng chạm nhau trong cuộc cạnh tranh giành dầu lửa. Mùa xuân năm nay, đã xảy ra
hai vụ  tàu Trung Quốc bị cho là cố tính cắt cáp thăm dò địa chất của tàu
thăm dò dầu khí Việt Nam. Một cựu quan chức Mỹ nói kịch bản tồi tệ nhất có thể
là tàu chiến của Trung Quốc bắn thẳng vào tàu khoan dầu của Exxon.


Nếu Biển Đông đang âm ỉ thì tây Địa
Trung Hải lại đang sôi sục. Ở đây, các tuyên bố chủ quyền đối với các trữ lượng
khí tự nhiên khổng lồ ngoài khơi của Síp và Lebanon đã gây căng thẳng với Thổ
Nhĩ Kỳ, nước chiếm một nửa Síp, cũng như với Israel. Síp và Israel đang khoan
tìm khí, khiến Thổ Nhĩ Kỳ phẫn nộ. Lực lượng phiến quân Hồi giáo  Hezbollah,
ở Lebanon, thì đe dọa tấn công vào các giàn khoan khí của Israel.


Tình hình càng căng thẳng thêm khi
quan hệ giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Israel rạn nứt sau vụ biệt kích chết người của
Israel vào một đội tàu của Thổ Nhĩ Kỳ đang trên đường vận chuyển viện trợ cho
người dân Palestine ở Gaza hồi năm ngoái.


Charles K. Ebinger, nhà nghiên cứu
của Viện Brookings, cho biết: "Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng 'Israel đang sỉ nhục
chúng tôi; vậy chúng tôi có thể làm gì để đáp lại đây?' Một phần trong câu trả
lời ấy là sự quyết liệt hơn trong chính sách đối ngoại của Thổ Nhĩ Kỳ ở mọi
nơi".


Có lẽ, "đấu trường" cạnh
tranh ít nguy hiểm nhất nằm ở phương bắc lạnh lẽo, mà theo các chuyên gia, một
phần vì rất nhiều các trữ lượng khoáng sản ở Bắc Cực chủ yếu nằm trong vòng đặc
quyền kinh tế 200 dặm của các quốc gia giáp với Bắc Băng Dương. Nhưng ngay cả
các quốc gia không có đường bờ biển ở Bắc Băng Dương như Trung Quốc và Hàn
Quốc, cũng đang cử những đội tàu phá băng đến đó để thăm dò thời tiết và hướng
di cư của cá.


Trớ trêu thay, tranh cãi lớn nhất ở
đây lại xuất phát từ hai đồng minh thân cậy, Mỹ và Canada. Băng tan đã mở ra
Tuyến đường Tây Bắc huyền thoại, chạy qua  một quần đảo ở phía bắc Canada.
Mỹ coi hải lộ này là một tuyến đường biển quốc tế, nên tàu thuyền Mỹ được phép
qua lại không hạn chế. Chính phủ Canada nhấn mạnh đây là vùng nội thủy của nước
này, nghĩa là tàu nước ngoài chỉ được phép sử dụng khi có sự chấp thuận của
Ottowa.


Dĩ nhiên rất ít có khả năng xảy ra
chiến tranh giữa Canada và Mỹ, nhưng tranh cãi này có thể sẽ khiến các luật sư
hàng hải phải bận bịu trong nhiều năm tới. Khi nhiệt độ tăng lên, các quan chức
cảnh báo, cái đầu của người ta cũng nóng hơn. Steinberg phân tích: "Đây là
vụ tranh chấp pháp lý nghiêm trọng. Khi băng tan sẽ để lộ ra một số vấn đề thực
sự".




Mỹ sẽ “hướng Nam” chứ không
“hướng Đông”

Tác giả: Châu Giang dịch theo FP
Chính quyền của Tổng thống Barack Obama đã trở lại châu Á cho cuộc
cạnh tranh của thế kỷ mới. Nhưng, nếu Mỹ thực sự muốn chiến thắng, họ sẽ cần Mỹ
Latinh.


Dù chính quyền Mỹ đang tập trung vào
châu Á và Tổng thống Barack Obama đang công du Australia và Indonesia sau hội
nghị APEC ở Hawaii, nhưng hãy nhớ rằng chuyến công du quan trọng nhất trong
nhiệm kỳ của ông không phải ở phía Đông mà về phía Nam.


Hồi tháng Ba vừa qua, giữa lúc Nhật
Bản phải hứng chịu động đất, sóng thần và khủng hoảng hạt nhân, còn Libya chứng
kiến bạo lực leo thang, ông Obama đã tiến hành một chuyến công du quốc tế mà
truyền thông phương Tây hầu như đã bỏ qua. Điểm đến của chuyến đi là Brazil,
Chile và El Salvador. Chuyến đi này đã từng bị kêu gọi hoãn lại, nhưng các hình
ảnh và bài báo đã cho thấy ông Obama vẫn "Nam tiến" cùng các cố vấn
quân sự của mình trong khi cập nhật thông tin về cả hai cuộc khủng hoảng ở
phương Đông.


Tất nhiên, không thể thay đổi thời
gian đã định cho hành trình này, nhất là khi nó rơi đúng vào dịp kỷ niệm 50 năm
ngày Tổng thống John F. Kennedy tuyên bố "Liên minh vì sự tiến bộ",
từng mang lại sự tăng trưởng công nghiệp cho cả khu vực kéo dài từ Mexico tới
Argentina. Vì vậy, hành trình của ông Obama có một mục đích chiến lược lớn mà
các lãnh đạo ở Washington bị ám ảnh bởi Trung Đông và Trung Quốc đã không nghĩ
tới. Bằng việc "lập các đồng minh mới xuyên châu Mỹ", ông Obama đã
ngầm thừa nhận thực tế địa chính trị mới, theo đó Mỹ Latinh chính là trụ cột
thứ ba của phương Tây, bên cạnh châu Âu và Bắc Mỹ.


Mỹ chắc chắn không thể coi sự trung
thành của Mỹ Latinh là điều hiển nhiên. Bây giờ là thời kỳ của đa liên kết, với
việc các cường quốc có mặt ở mọi nơi. Nam Mỹ đã trải thảm đỏ cho cường quốc
châu Á mới khi Brasilia và Bắc Kinh tuyên bố quan hệ đối tác nhiều năm trước,
và nhiều công ty xuất khẩu của Nam Mỹ, như từ Chile và Argentina, phát triển
được là nhờ thói "háu" nguyên liệu đầu vào của Trung Quốc.


Thực vậy, mục
đích đầu tiên của địa chính trị là tiếp cận với nguồn tài nguyên, trong khi Nam
Mỹ có một nguồn cung dồi dào. Khoảng 30% tiềm năng sinh thái của thế giới nằm ở
Nam Mỹ. Nghe có vẻ sáo rỗng khi nói rằng rừng nhiệt đới Amazone là lá phổi của
thế giới, nhưng đó là sự thật. Lục địa này cũng là bữa sáng của thế giới. Hầu
hết nguồn cung toàn cầu về chuối, đường, cam, cà phê, đậu nành và cá hồi, cũng
như một phần lớn thịt bò và thịt lợn, đều đến từ Nam Mỹ. Khu vực này cũng có
nhiều khoáng sản như đồng, bạc, chì, thiếc, kẽm, sắt và lithium.


Hơn cả, Mỹ
Latinh đặc biệt quan trọng đối với mọi chiến lược tự cung tự cấp năng lượng của
châu Mỹ. Tương lai năng lượng của Bắc Mỹ đã rất tươi sáng với trữ lượng dầu và
khí đốt dưới đáy biển ở Bắc Cực, lượng dầu cát khổng lồ ở Canada, các giếng dầu
ở Vịnh Mexico, và các mỏ khí đốt mới phát hiện ở Mỹ. Thêm vào đó các phát hiện
lớn về dầu mỏ ở ngoài khơi bờ biển Brazil, cộng với trữ lượng dồi dào của
Venezuela, bạn đã có một giải pháp toàn diện để độc lập hoàn toàn về năng
lượng, tránh bị ảnh hưởng của những rối loạn ở Á - Âu và châu Phi. Cũng có một
yếu tố bền vững ở đây. Ethanol từ cây mía của Brazil hiệu quả gấp bốn lần sản
xuất ethanol từ ngũ cốc ở Bắc Mỹ.





Theo chuyên gia năng lượng Daniel
Yergin, trục năng lượng mới của Tây Bán Cầu chạy từ Alberta, Canada - nơi cung
cấp 1% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Mỹ mỗi năm - qua Texas và Vịnh Mexico xuống
Venezuela, Guiana (Pháp) và Brazil. Chính sách năng
lượng của Mỹ sẽ ngày càng mang tính Tây Bán Cầu - giống như chính sách năng
lượng của Trung Quốc ngày càng mang tính Trung Đông.
Trong bối cảnh này,
đường ống dẫn dầu Keystone XL từ Alberta đến Texas có thể bị trì hoãn (như vừa
qua) nhưng vẫn là không thể thiếu.


Xây dựng một nền kinh tế bán cầu mới
rất quan trọng để có được không chỉ sự độc lập về năng lượng mà cả tính cạnh
tranh về công nghiệp. 900 triệu dân của Mỹ Latinh (chiếm khoảng 12% dân số thế giới)
tạo ra một nền kinh tế 6.000 tỷ USD - tương đương với quy mô nền kinh tế Trung
Quốc. Hơn nữa, Mỹ Latinh trẻ hơn và đô thị hóa cao hơn châu Á, biến đây thành
một đối tác rất hữu ích của Mỹ. Bên cạnh đó, cũng như
Mỹ, các nền kinh tế Mỹ Latinh hiện đang cảm thấy mối đe dọa kinh tế của Trung
Quốc. Trung Quốc đã bán với giá thấp mọi thứ, từ quần áo đến điện thoại, vào
khu vực này, đe dọa 90% hàng hóa xuất khẩu của các nước Mỹ Latinh (chiếm 40%
tổng hàng xuất khẩu của khu vực) và phá hoại hoạt động thương mại. Gần một nửa
hàng xuất khẩu của Brazil được đưa vào các thị trường ở các nước Mỹ Latinh
khác, và 2/3 thị trường này (trong
mọi loại hàng
hóa từ giày dép đến xe hơi) đang gặp nguy cơ từ cuộc cạnh tranh của Trung Quốc.


Thay vì sử dụng linh kiện, phụ tùng sản
xuất từ châu Á và thúc đẩy sự nổi lên của các đối thủ cạnh tranh kinh tế, các
công ty Mỹ sẽ nhìn về gần nhà mình hơn, thành lập các công ty liên doanh trong
lĩnh vực năng lượng và sản xuất trong khu vực. Trong chừng mực nào đó, điều này
đã xảy ra nhưng các cơ hội đã không được nắm bắt. Khi lương công nhân ở Trung
Quốc tăng lên, nhiều công ty Mỹ đã phải chuyển sang Mexico, nơi gần về địa lý
và có tỷ giá hối đoái mềm dẻo hơn, và một quan hệ chính trị gần gũi hơn. Tất cả
điều này có nghĩa là giảm nguy cơ, từ đó gia tăng lợi nhuận. Thậm chí ngành
công nghiệp IT 100 tỷ USD cũng có thể chuyển từ Ấn Độ về khu vực có cùng múi
giờ với Mỹ. Về lâu dài, một chính sách công nghiệp Tây Bán Cầu như vậy là cách
duy nhất để châu Mỹ giữ được thế cạnh tranh với một châu Á đã đuổi kịp về cơ
bắp và sắp bắt kịp về trí não.


Trước những lo ngại sức cạnh tranh
lớn dần của Trung Quốc và khả năng các công ty đa quốc gia tỏ ra thực dụng hơn
trong nhu cầu đầu tư và công nghệ nước ngoài, giờ là lúc để thúc đẩy mục tiêu
về một thỏa thuận bán cầu. Hiện nay, các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) của
Mỹ với Colombia và Panama đang được cân nhắc, nhưng thêm nhiều FTA trong khu
vực này có thể đồng nghĩa với việc xuất khẩu nhiều hơn và tạo nhiều việc làm
hơn cho nền kinh tế đang chật vật của Mỹ. Nhưng đây là lý do tại sao chưa thắt
chặt quan hệ này: thuế thép ở Brazil và sự bấp bênh trong FTA với Colombia. Gia
tăng việc làm và tăng trưởng kinh tế ở các "nước cộng hòa chuối" xưa
kia ở Trung Mỹ sẽ có lợi cho Mỹ không chỉ thông qua việc giảm người nhập cư
trái phép mà còn mang lại lợi nhuận bằng đôla thực: hầu hết các nước này xuất
khẩu hàng hóa qua bang Florida, sử dụng các cảng biển và đường hàng không của
Mỹ.


Xem Mỹ Latinh
như một đòn bẩy chiến lược lớn, chứ không chỉ là mục tiêu vận động chính trị
tại quốc hội, chính là thách thức cơ bản của Tổng thống Obama
. Ông có
thể liên kết với Ngoại trưởng Brazil Celso Amorim, người vừa tuyên bố "Hội
nhập là một việc cần làm ngay vì trong một thế giới của nhiều khối lớn, chúng
ta sẽ mạnh hơn nếu liên kết lại với nhau".


Các chuyên gia phân tích gần đây đua
nhau tuyên bố trọng tâm của thế giới đang chuyển về phía Đông. Nhưng không hẳn
thế. Đưa Nam Mỹ trở lại đúng vị trí của nó - trụ cột thứ ba của phương Tây bên
cạnh châu Âu và Bắc Mỹ - có thể là ý định địa chiến lược mang tính quyết định
nhất hiện nay. Trong các thập kỷ tới, Mỹ có thể cần trực tiếp thể hiện sức mạnh
ở phía Đông, nhưng nguồn của sức mạnh đó sẽ ngày càng ở phía Nam. Một số người
cho rằng tương lai cuộc cạnh tranh sẽ đến từ bên kia bờ Thái Bình Dương - họ có
thể đúng - nhưng nếu Mỹ có thể tạo ra được một nền kinh tế bán cầu mới với Mỹ
Latinh, thì phương Đông sẽ còn dài mới đuổi kịp phương Tây./.


  • Tác giả: Parag Khanna là một nhà nghiên cứu cao cấp tại Quỹ
    châu Mỹ Mới.
  •  



Obama gia tăng ảnh hưởng mới ở 



Thái Bình Dương

Tác giả: Nguyễn Huy (dịch từ wsj)
Bài đã được xuất
bản.: 17/11/2011 05:00 GMT+7
Tổng thống Mỹ nói "Chúng tôi tới đây để ở lại" khi bắt đầu
chuyến công du Đông Á, nhưng Trung Quốc đang đặt ra những thách thức với vai
trò của Mỹ ở vị trí siêu cường.


Ông chủ Nhà Trắng Barack Obama đang
mang trên mình sứ mệnh quan trọng, được trông ngóng bấy lâu nay là tái thiết
lập vị thế lãnh đạo của Mỹ ở Thái Bình Dương nhưng nhiệm vụ ấy đang gặp
"hòn đá tảng" là việc mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ở mọi nơi mọi
lúc.


Ông Obama đã chủ trì diễn đàn có sự
tham gia của lãnh đạo 21 quốc gia châu Á - Thái Bình Dương ở Hawaii hồi cuối
tuần. Nhưng một trong số các quốc gia ấy, Trung Quốc, đã chiếm giữ "thị
phần" quá lớn trong sự chú ý của Tổng thống Mỹ cũng như đội ngũ trợ lý.
Điều đó nhấn mạnh các thách thức Mỹ phải đối mặt ở Thái Bình Dương.


Một trong những mục tiêu cốt lõi của
ông Obama là đưa ra lời tuyên bố rằng, Mỹ sẽ đóng vai đối trọng với ảnh hưởng
quân sự, ngoại giao và kinh tế đang trỗi dậy của Trung Quốc. "Chuyến đi
này nói rất nhiều về một tín hiệu rõ ràng rằng, Mỹ sẽ hiện diện một cách đầy đủ
trong tương lai kinh tế, an ninh và chính trị của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, và nó diễn ra trong bối cảnh của một Trung Quốc đang lên", Ben Rhodes,
phó cố vấn an ninh quốc gia Nhà Trắng nói trong một cuộc phỏng vấn.


Theo giới phân tích, Tổng thống Mỹ đã
đưa ra thông điệp trung tâm vào hôm thứ Bảy: "Mỹ là một cường quốc Thái
Bình Dương và chúng tôi tới đây để ở lại". Trong cuộc họp báo tối Chủ
nhật, ông Obama nói: "Chúng tôi hoan nghênh sự gia tăng hoà bình của Trung
Quốc. Vai trò của họ giờ đây khác biệt so với 20 hoặc 30 năm trước, và nếu họ
phá luật, đó không phải là vấn đề. Gìơ đây, họ đã lớn mạnh".


Nhưng Trung Quốc đã chứng tỏ là một
trở ngại liên tiếp. Về thương mại, ông Obama đã liên tục gây áp lực để Trung
Quốc nhất trí nâng giá đồng bản tệ, nhưng cũng chỉ đủ để Bắc Kinh tuyên bố đang
thực hiện. Về an ninh quốc gia, Trung Quốc đang không ngừng mở rộng tuyên bố
chủ quyền của mình trong khu vực, khiến các đối tác và đồng minh của Mỹ lo ngại
cho dù phụ thuộc vào thương mại với Trung Quốc nhưng lại lo lắng về chuyện nước
này có thể mở rộng ảnh hưởng bằng các cách mạnh mẽ hơn.


Kết quả là, các nước láng giềng Trung
Quốc đã rất mong muốn Mỹ can dự sâu hơn vào khu vực. "Các quốc gia trong
khu vực rất muốn chúng tôi ở lại đây", ông Rhodes nói.


Những căng thẳng đã được hiển thị rõ
trong tuần này, khi Tổng thống Mỹ Obama công du Australia và tiếp theo là
Indonesia.





Ảnh minh họa: AP
Trên mặt trận kinh tế, ông Obama đã
tuyên bố các tiến triển đạt được hồi cuối tuần về thoả thuận tự do thương mại
khu vực, gọi là Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, nhưng không có Bắc Kinh
ít nhất trong tương lai gần. Hôm Chủ nhật, ông Obama đã hoan nghênh các tin tức
rằng, Canada và Mexico có kế hoạch hướng tới gia nhập các cuộc đàm phán, khiến
Mỹ có thêm động lực dẫn dắt các cuộc hội đàm thương mại.


Trung Quốc sẽ buộc phải nâng cao sức
cạnh tranh giữa các công ty tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ... vốn là những điều kiện khá khó khăn với nước này. Sự mở
rộng thương mại có thể khích lệ Trung Quốc hướng tới các thị trường cởi mở hơn
và cuối cùng gia nhập hiệp định, nhưng rõ ràng là, Mỹ và nhiều láng giềng của
Trung Quốc sẽ tiến về phía trước mà không có Bắc Kinh.


Trong khi đó, Trung Quốc đã đã giảm
thực thi dù chỉ là những nỗ lực khiêm tốn nhất, ví dụ như một động thái tại
diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương như áp thuế với hàng hoá và
dịch vụ môi trường. Mỹ hy vọng đặt ra mục tiêu giới hạn thuế 5% vào năm tới cho
những "hàng hoá xanh" kiểu như tuabin gió hay tấm pin mặt trời. Nhưng
Trung Quốc và các nước đang phát triển khác thì lưỡng lự, và ngày có hiệu lực
lùi lại tới 2015.


Cuối tuần này, tại Australia, ông
Obama sẽ tuyên bố một sự mở rộng sức mạnh quân sự của Mỹ trong khu vực. Theo
đó, Mỹ sẽ thiết lập hiện diện quân sự thường trực để trấn an Australia và các
đồng minh khu vực khác khi họ đang quan ngại về Trung Quốc. Mỹ muốn khẳng định
rằng, ảnh hưởng quân sự của họ vẫn gia tăng không hề sụt giảm dù phải đối mặt
với áp lực ngân sách trong nước. Và ngày cuối tuần tại Indonesia, ông Obama sẽ
phản ứng với tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông, điều mà Mỹ
và các đồng minh trong khu vực coi là mối đe doạ về phương diện kinh tế và quân
sự.


Tổng thống Mỹ sẽ tham dự Hội nghị
thượng đỉnh Đông Á, nơi vấn đề an ninh hàng hải trở thành tâm điểm. Sự tụ họp
của các nước trong khu vực ban đầu không có Mỹ và ông Obama là Tổng thống Mỹ
đầu tiên sẽ tham dự hội nghị này. Đây là dấu hiệu khác cho thấy các nỗ lực của
Washington để gia tăng sự can dự của Mỹ.


Các quan chức Mỹ đã dành nhiều tuần
chuẩn bị cho chuyến công du của tổng thống và cho sự "tái định hướng"
của Washington với châu Á sau một thập niên sao lãng bởi tập trung vào Iraq và
Afghanistan. Cả Ngoại trưởng Hillary Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Leon
Panetta đều đã công du tới khu vực này trong nỗ lực khẳng định sự hiện diện
ngày càng gia tăng của Mỹ.


Trong các bình luận công khai tại
Hawaii, ông Obama nói, có thể là "cuộc cạnh tranh thân thiện và xây
dựng" giữa hai cường quốc, bên cạnh hàng loạt lĩnh vực mà "chúng ta
có thể hợp tác". Ông co biết, Mỹ nên "củng cố cho sự phát triển của
Trung Quốc" vì sự lớn mạnh của một tầng lớp trung lưu người Trung Quốc sẽ
khiến hàng triệu người thoát nghèo, đồng thời tạo ra "một thị trường khổng
lồ cho các doanh nghiệp và hàng hoá xuất khẩu Mỹ".


Cùng lúc đó, ông thẳng thừng cảnh báo
rằng, Trung Quốc "cần chơi đúng luật". Trong cả cuộc họp công khai
hay riêng tư, ông đều phàn nàn về vấn đề tiền tệ Trung Quốc, khiến cho hàng hoá
Mỹ trở nên đắt đỏ hơn ở Trung Quốc còn hàng hoá Trung Quốc lại rẻ hơn trên thị
trường Mỹ.


Theo một quan chức cấp cao Washington,
trong cuộc gặp riêng với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, ông Obama đề cập
"khá trực tiếp" các lo lắng của Mỹ về nhiều vấn đề như tiền tệ, yêu
cầu thúc đẩy nhu cầu nội địa Trung Quốc và các quyền sở hữu trí tuệ. Ông Hồ Cẩm
Đào và đội ngũ của mình không trực tiếp trả lời, nhưng đội ngũ của ông Obama
thì nói rằng, rõ ràng là "họ đã lắng nghe".


Ông Obama lập luận với ông Hồ Cẩm Đào
rằng, doanh nghiệp Mỹ ngày càng trở nên "thiếu kiên nhẫn và thất vọng với
tình hình thay đổi chính sách kinh tế của Trung Quốc", Michael Froman, phó
cố vấn an ninh quốc gia phụ trách kinh tế quốc tế của Mỹ nói. Ông cho rằng, Chủ
tịch Trung Quốc "đã nghe thông điệp và hiểu được mối liên quan của
nó", có nghĩa là doanh nghiệp Mỹ có thể rút khỏi hoặc giảm bớt sự đầu tư
tại Trung Quốc.


Nói chung, quan chức Nhà Trắng tin
rằng, họ đang thắng trong ván cờ chiến lược lớn hơn với Trung Quốc. Có một chú
ý là, hướng tới cuộc họp G20 tại Pháp trong tháng này, nhiều người hướng về
Trung Quốc trong vai trò giải cứu châu Âu. Nhưng cuối cùng, Trung Quốc đã đóng
vai trò nhỏ, và Mỹ là trung tâm trong việc tìm kiếm một giải pháp.


Patrick Cronin, giám đốc cao cấp của
chương trình châu Á Thái Bình Dương tại Trung tâm New American Security cho
rằng, thành công của Mỹ trong việc đối trọng với Trung Quốc sẽ phụ thuộc một
phần vào phản ứng của Bắc Kinh. Nếu Trung Quốc "chơi" một cách điềm
tĩnh và được xem là lực lượng tích cực trong khu vực, thì ảnh hưởng của họ sẽ
phát triển. Nhưng nếu Bắc Kinh cảm thấy bị đe doạ và phản ứng mạnh mẽ thì các
nước khác có thể bị "hút" về phía Mỹ.






MỸ CHUYỂN TRỌNG TÂM CHIẾN LƯỢC SANG CHÂU Á VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI PHÓ CỦA
TRUNG QUỐC

TTXVN (Bắc Kinh 11/11)

Ngày 4/11, trang “China.com” đăng
bài viết “Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á và chính sách đối phó của
Trung Quốc” của tác giả Trương Tử Đồng, nội dung như sau:


Từ mùa Hè
năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ H. Clinton đã công khai tuyên bố Mỹ sẽ quay trở lại
châu Á nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia của mình tại khu vực này. Về chiến lược
quân sự, Mỹ bắt đầu chuyển dịch từng bước 2/3 binh lực và trang bị vũ khí đến
các khu vực yếu điểm địa chiến lược tại châu Á, trong đó lấy Haoai và đảo Guam
làm trung tâm. Về chính trị, ngoại giao, kinh tế và thương mại, Mỹ cũng phối
hợp toàn diện, chặt chẽ các lĩnh vực này nhằm thực hiện kế hoạch chiến lược
toàn cầu mới của mình.


Mục tiêu
duy nhất khiến Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu sang châu Á là muốn bao
vây, kiềm chế, thậm chí làm Trung Quốc sụp đổ. Hơn một năm trở lại đây, toàn
thế giới đều rõ, Mỹ hầu như liên tục tìm kiếm liên minh quân sự tại châu Á,
trước cửa ngõ duyên hải phía Đông Nam của Trung Quốc, Mỹ nhiều lần tổ chức diễn
tập quân sự trên biển, bất chấp những hiệp định, thông cáo đã đạt được giữa
lãnh đạo cấp cao hai nước trên vấn đề biển, Mỹ không chỉ tiếp tục bán vũ khí tiên
tiến cho hòn đảo này, mà còn ngày càng táo tợn hơn, bán vũ khí mang tính tấn
công huỷ diệt cho hòn đảo này, nhiều lần thêu dệt và thổi phồng thuyết về mối
đe doạ từ Trung Quốc.


Về chính
trị ngoại giao, Mỹ âm thầm ủng hộ Việt Nam, Philippin, Malaixia, Brunây chiếm
đoạt lãnh thổ Nam Hải (Biển Đông) của Trung Quốc; ủng hộ Nhật Bản cưỡng chiếm
quần đảo Điều Ngư vốn thuộc Trung Quốc; khuyến khích Hàn Quốc tiếp tục chiếm
đóng các đảo của Trung Quốc; ra sức ủng hộ lập trường của Ấn Độ trương cuộc
tranh chấp biên giới Trung-Ấn; âm thầm kích động thế lực Đài Loan, Tân Cương,
Tây Tạng tiến tới độc lập. Về kinh tế, không ngừng gây sức ép đòi tăng giá đồng
NDT.


Theo tình
hình quốc tế hiện nay, Trung Quốc là quốc gia duy nhất có đủ tiềm lực thách
thức địa vị bá quyền của Mỹ, Trung Quốc đang trỗi dậy, trong con mắt của Mỹ,
cho dù là phương thức trỗi dậy hoà bình, đồng thời bảo đảm không đe doạ địa vị
bá quyền của Mỹ, song Mỹ vẫn không từ bảo chính sách bao vây, kiềm chế Trung
Quốc.


Chiến
lược toàn cầu mới của Mỹ đã làm dấy lên các cuộc tranh luận quyết liệt trong
nội bộ lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. Phái cấp tiến chủ trương áp dụng các
biện pháp cứng rắn đối đầu với Mỹ và đồng minh của Mỹ, như cắt giảm, ngừng hoặc
bán tháo trái phiếu Chính phủ Mỹ; Mỹ tiếp tục bán vũ khí tiên tiến cho Đài
Loan, tại sao Trung Quốc không trả đũa như bán vũ khí tiên tiến cho Bắc Triều
Tiên, Iran, Mianma, thậm chí cả các nước Trung Đông nhằm chống lại Ixraen, đồng
minh thân cận của Mỹ; cắt đứt giao lưu quân sự Trung Quốc-Mỹ; dùng vũ lực giải
quyết tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc-Việt Nam, Trung Quốc-Philippin, Trung
Quốc-Nhật Bản, Trung Quốc-Ấn Độ. Trong khi đó, phải ôn hoà lại chủ trương kiên
trì tiếp tục đối thoại với Mỹ, chờ đợi tình thế có lợi mới hành động, tuyệt đối
không nói đến chiến tranh. Cho đến hiện nay, Trung Quốc vẫn tiếp tục mua trái
phiếu Chính phủ Mỹ, đồng NDT vẫn tăng giá chậm, giao lưu quân sự Trung-Mỹ vẫn
được tiến hành đúng hạn, tranh chấp Trung Quốc-Việt Nam, Trung Quốc-Philippin
vẫn chỉ là đàm phán trên bàn giấy, khẩu chiến là chính. Phái ôn hoà hiện nay
đang chiếm thế thượng phong ở Trung Quốc, nhưng khả năng phái này duy trì trong
bao lâu, khó có thể dự đoán. Nhân dân Trung Quốc, nhất là cư dân mạng thời gian
gần đây có tinh thần yêu nước lên cao, lòng đầy căm phẫn. Ý kiến ủng hộ chủ
trương dùng vũ lực trừng phạt Việt Nam, Philippin ngày càng nhiều. Lòng kiên
nhẫn là có hạn, hy vọng các nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc chú ý đến tâm
nguyện của dân chúng.


Đi sâu
quan sát, không khó phát hiện ra rằng ngoài việc tăng thêm binh lực và thiết bị
vũ khí tại châu Á, chiến lược toàn cầu mới của Mỹ vẫn chỉ là “bình mới rượu cũ”
mà thôi. Mỹ tự cho rằng sau khi từng bước kết thúc chiến tranh tại Irắc và
Ápganixtan, sẽ có thể rảnh tay dốc toàn lực đối phó với Trung Quốc. Tuy nhiên,
Mỹ không thể rút ra khỏi Trung Đông vì khu vực này từ xưa đến nay là vùng đất
tranh chấp của các cường quốc muốn xưng bá trên thế giới. Cựu Ngoại trưởng Mỹ
Kissinger từng nói, ai khống chế được Trung Đông, khống chế được dầu mỏ thế
giới sẽ có quyền khống chế thế giới. Hiện nay, Mỹ vẫn là một siêu cường duy
nhất trên thế giới, Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh tại Irắc và Ápganixtan trong
hơn 10 năm qua, tiêu hao hàng nghìn tỉ USD, binh sĩ thương vong lên đến hơn
50.000 người, làm sao Mỹ có thể cam tâm nhường lợi ích cho người khác. Người Mỹ
càng không muốn thấy một đồng mình Ixraen bị cô lập và bao vây tại Trung Đông,
cũng không muốn thấy một Trung Quốc tung hoành làm ăn trên đất châu Phi và thế
lực Trung Quốc vươn tới khu vực sân sau của Mỹ. Theo tác giả, Mỹ không thể dịch
chuyển 2/3 binh lực và vũ khí đến khu vực châu Á. Đây rất có thể chỉ là đòn tâm
lý chiến của Mỹ, là nước cờ hư hư thực thực của Mỹ mà thôi. Phân tích từ một
góc độ khác, cho dù có chuyển 2/3 binh lực và vũ khí đến châu Á, liệu Mỹ có thể
thật sự uy hiếp Trung Quốc? Lính lục quân đang tại ngũ của Mỹ thiếu rất nhiều,
không thể trực tiếp điều ra chiến trường, vì vậy chỉ có thể tăng cường điều
động tàu sân bay và tàu ngầm hạt nhân, đồn trú lâu dài tại các căn cứ quân sự
bên ngoài của Mỹ ở châu Á. Trung Quốc đã sớm quen với việc Mỹ sử dụng tàu sân
bay và tàu ngầm hạt nhân để diễu võ giương oai trước mặt Trung Quốc. Tuy thế,
trong thời gian trước mắt cũng khiến Trung Quốc không dám sử dụng vũ lực trừng
phạt Việt Nam và Philippin, hoặc phát động chiến tranh Trung-Nhật. Nhưng về lâu
dài, hiệu ứng uy hiếp của Mỹ sẽ bị Trung Quốc hoá giải. Trong vòng 10 năm tới,
máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 J-20, tên lửa Đông Phong 21-D chuyên
tấn công tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân “096” của Trung Quốc có thể được biên
chế vào quân đội, như vậy có đủ khả năng để đối kháng với quân đội Mỹ đồn trú
tại châu Á.


Bên cạnh
chiến lược toàn cầu mới, Mỹ còn thực hiện các chính sách khác nhằm vào Trung
Quốc, như kích động thế lực Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương độc lập, tiếp tục bán
vũ khí tiên tiến cho Đài Loan, thổi phồng thuyết về mối đe doạ từ Trung Quốc,
gây sức ép tăng giá đồng NDT, liên kết với Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia
và một số quốc gia Đông Nam Á, bao vây toàn diện Trung Quốc. Trong tranh chấp
lãnh thổ Trung-Ấn, Trung-Nhật, Mỹ ra sức ủng hộ Ấn Độ và Nhật Bản trên mọi
phương diện. Mỹ cũng đứng sau hậu trường, giật dây Việt Nam và Philippin tiến
ra tuyến đầu, giành giật lãnh thổ Nam Hải cùng Trung Quốc, khiến Trung Quốc gặp
khó khăn trong đối phó, thậm chí cảm thấy mệt mỏi. Trước sự quan tâm cao độ của
cộng đồng quốc tế, Trung Quốc đã thể hiện thành ý hoà bình, kiên trì tổ chức
nhiều cuộc đàm phán ngoại giao với Việt Nam và Philippin, mời nguyên thủ hai
nước đến Bắc Kinh và cùng ký các hiệp định liên quan. Nhưng ngay sau đó, hai
nước này lại lần lượt ký với Nhật Bản, Ấn Độ hiệp định hợp tác cùng khai thác
tài nguyên tại Nam Hải, làm Trung Quốc mất thể diện, Thậm chí Philippin còn
trắng trợn vô cớ bắt giữ tàu thuyền Trung Quốc, động thái này rõ ràng được Mỹ đứng
đằng sau bảo lãnh. Một loạt hành động qua mặt này, khiến cho phái cứng rắn tại
Trung Quốc (chủ yếu là giới quân đội) có căn cứ để dùng vũ lực giải quyết tranh
chấp lãnh thổ tại Nam Hải.


Để đối
phó với tình hình trên, Chính phủ Trung Quốc cũng đã dùng tâm lý chiến, tạo ra
các tình hình chuẩn bị chiến tranh, lần lượt tập kết các lực lượng quan trọng
tại biên giới Trung-Việt, tăng chi viện máy bay chiến đấu xuống phía Nam, nâng
cao thực lực cho Hạm đội Nam Hải, đồng thời thường xuyên tổ chức các loại hình
diễn tập quân sự. Tuy nhiên, các biện pháp này cũng không có mấy hiệu quả răn
đe. Dễ dàng nhận thấy, Việt Nam và Philippin đã được bên thứ ba là Mỹ ủng hộ.
Họ cũng biết rõ rằng điều kiện để giành thắng lợi trong chiến tranh với Trung
Quốc tại Nam Hải vẫn chưa vững chắc. Hiện nay, Trung Quốc chưa giành được quyền
khống chế Nam Hải, máy bay chiến đấu tiên tiến nhất của Trung Quốc vẫn chưa thể
dễ dàng tác chiến đường dài tại Nam Hải. Một khi Trung Quốc có tổ hợp tàu sân
bay, tình hình sẽ lập tức thay đổi, phần lợi thế sẽ nghiêng về Trung Quốc. Đến
khi đó Mỹ cũng không dám liều lĩnh can dự. Nhưng tổ hợp tàu sân bay của Trung
Quốc cũng cần ít nhất từ 5-7 năm nữa mói có thể đưa vào sử dụng. Dưới sự bảo hộ
của Mỹ, các nước nhỏ trong khu vực như Việt Nam, Philippin cố gắng nhanh chóng
khai thác tài nguyên dầu mỏ tại các vùng biển chiếm đóng ở Nam Hải, tạo sự thật
quốc tế nhằm lôi kéo thêm các nước khác duy trì sự ủng hộ lâu dìa đối với chủ
quyền của họ tại đây. Các nước nhỏ như Việt Nam và Philippin biết rằng Trung Quốc
không dám tuỳ tiện phát động chiến tranh tại Nam Hải, lo ngại sẽ làm cản trở
tiến trình phát triển bền vững của khu vực mậu dịch Trung Quốc-ASEAN. Đây cũng
là khu vực mà Trung Quốc hy vọng sẽ giúp mình giảm thiểu sự phụ thuộc xuất khẩu
vào thị trường Mỹ, và đẩy nhanh tốc độ quốc tế hoá của đồng NDT.


Theo đánh
giá ở trên, đối mặt với một Việt Nam và Philippin hung hăng, ngoài giải quyết
bằng biện pháp vũ lực, Trung Quốc dường như không còn con đường nào khác. Có lẽ
Trung Quốc đang tìm mọi cách thông qua các kênh đào khác nhau để thăm dò thái
độ của Mỹ. Hiện tại, vấn đề Nam Hải chỉ có hai nước Trung Quốc và Mỹ mới có thể
giải quyết. Nếu Mỹ can dự vào chiến tranh Nam Hải, Mỹ sẽ giành ưu thế trước
Trung Quốc. Tuy nhiên, tính toán của Mỹ không phải là thắng hay thua, mà là sau
khi Mỹ giành chiến thắng, châu Á sẽ xuất hiện một cục diện hoàn toàn mới, Mỹ có
thể kiểm soát tuyệt đối cục diện này hay không? Lợi ích thu được là bao nhiêu?
Nếu Trung Quốc thất bại trong cuộc chiến tại Nam Hải, có thể sẽ gây nên tình trạng
chính quyền bất ổn, xã hội biến động bất an; đồng thời có thể hình thành một
quốc gia có tinh thần dân tộc lên cao kiên quyết chống lại Mỹ. Trong khi đó,
hiện nay Mỹ cũng đang muốn một Trung Quốc ổn định, có thể nhập khẩu lâu dài
hàng hoá của Mỹ, giúp Mỹ nhanh chóng phục hồi kinh tế.


Hiện tại,
hầu như các vấn đề hóc búa của Trung Quốc đề có bàn tay của Mỹ trực tiếp hoặc
gián tiếp, gây ra. Đối thủ giải quyết vấn đề thu hồi Đài Loan không phải là Mã
Anh Cửu, mà là Mỹ. Giải quyết tranh chấp lãnh thổ Trung-Nhật, Trung-Ấn,
Trung-Hàn và vấn đề Nam Hải cũng là Mỹ. Giải quyết vấn đề Tây Tạng, Tân Cương
cũng dính dáng đến Mỹ. Thời đỉnh cao sức mạnh của Mỹ, cơ hội đối thoại ngang
hàng của Trung Quốc với Mỹ rất là khó khăn. Hiện nay, tài chính Mỹ kiệt quệ,
thế lực bá quyền không còn, Mỹ như mãnh hổ mất vuốt, tinh lực suy giảm, chính
là thời điểm tốt nhất để Trung Quốc đàm phán trao đổi với Mỹ, hai nước không
nhất thiết phải chĩa súng vào nhau, một mất một còn. Nhân dân Mỹ chán ghét
chiến tranh, hà cớ gì Mỹ không thuận theo dân tình, thực hiện trao đổi cùng có
lợi với Trung Quốc. Trung Quốc có nguồn dự trữ ngoại tệ hơn 3.000 tỷ USD, một
thị trường trong nước to lớn và nguồn nhân công giá rẻ, đây là một nguồn lợi to
lớn mà Mỹ có thể thấy. Vấn đề là Trung Quốc làm thế nào có thể khiến Mỹ không
thể cự tuyệt quan điểm trao đổi với Trung Quốc.


Thực sự,
Trung Quốc có thể đạp tan chiến lược toàn cầu mới của Mỹ trên nhiều phương
diện. Tác giả cho rằng, chiến lược phản kích của Trung Quốc có thể phân thành
ngắn hạn và dài hạn, đồng thời cùng tiến hành song song. Chiến lược phản kích
dài hạn gồm: (1) Về vũ khí hạt nhân, Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu nâng cấp và
triển khai các loại tên lửa xuyên lục địa DF 31-A. Về số lượng cần đạt tới con
số hàng trăm đầu đạn tên lửa hạt nhân, với hành trình có thể bắn tới bất cứ mục
tiêu nào trên toàn cầu. Tiếp tục chế tạo tàu ngầm hạt nhân “mẫu 096” với số
lượng trên 10 chiếc, trong đó trang bị tên lửa Cự Lang-2 hoặc các loại tên lửa
xuyên lục địa tiên tiến; (2) Đẩy nhanh việc phát triển các loại vũ khí không
gian, tương lai của thế giới là vũ trụ. Mặc dù, Trung Quốc có xuất phát điểm
thấp và muộn, nhưng không chỉ có thể đuổi kịp Mỹ và còn có thể vượt Mỹ trong
thời gian tới. Trung Quốc có nguồn tài lực và nhân tài khoa học kỹ thuật dồi
dào, nên sẽ chiếm ưu thế lâu dai về lĩnh vực này.


Chiến
lược phản kích ngắn hạn của Trung Quốc, bao gồm: (1) Nhanh chóng biên chế máy
bay chiến đấu J-20, tên lửa đạn đạo chống hạm DF 21-D và từ 2-3 nhóm tác chiến
tàu sân bay vào lực lượng quân đội. Nhiệm vụ trước mắt là tránh xảy ra chiến
tranh với Mỹ tại Nam Hải; (2) Đẩy nhanh quốc tế hoá đồng NDT. Theo kế hoạch đề
ra của Trung Quốc, điều chỉnh giá trị đồng NDT. Sử dụng hiệu quả nguồn dự trữ
ngoại tệ làm vũ khí phản kích chiến lược; (3) Bắt tay với Iran, Nga, bổ sung
những điểm yếu chiến lược của Mỹ, khiến Mỹ ăn ngủ không yên. Tiếp tục xâm nhập
sâu vào thị trường châu Phi, đồng thời tiến quân vào khu vực Bắc, Trung và Nam
Mỹ, lấy tăng cường quan hệ kinh tế đặc biệt với Braxin, Áchentina, Pêru, Cuba,
Vênêxuêla và Chilê để thúc đẩy hơn nữa việc xây dựng quan hệ quân sự với các
nước này. Ly gián quan hệ Mỹ-Canada, Mỹ-Mêhicô, khiến Mỹ luôn cảm thấy có mối
đe doạ tại các khu vực sân sau của mình. Lấy kinh tế làm mồi nhử, ly gián quan
hệ Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn, Mỹ-Ôxtrâylia, Mỹ-EU. Đồng tiền là vạn năng, đối với cá nhân
hay quốc gia, đều có hiệu năng như nhau. Với chính sách ngắn và dài hạn như
vậy, chiến lược toàn cầu mới của Mỹ mà mục tiêu chủ yếu là nhằm bao vây, kiềm
chế Trung Quốc sẽ bị phá vỡ, đẩy Mỹ vào tình thế ngày càng suy yếu và bất
lợi.
/.






[Tl St]
0