Sau việc Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng đề nghị kỷ luật ông Chu Hảo, Nguyên Ngọc viết “… tôi quyết định ra tuyên bố này, chính thức từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ hôm nay…” để tỏ rõ thái độ đối với thông báo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
PGS.TS. Chu Hảo là một trí thức lớn, có công lớn với đất nước và dân tộc, đặc biệt trong công cuộc khai hóa bằng Tủ sách Tinh Hoa của Nhà xuất bản Tri Thức mà ông là Giám đốc, Tổng biên tập, đưa đến cho người đọc những tri thức căn bản nhất của nhân loại mà chúng ta nhất thiết phải biết, hiểu, nếu muốn thật sự xây dựng một quốc gia văn minh, tiến bộ, cùng thiên hạ năm châu. Tôi vinh dự và tự hào là bạn thân của ông, đã cùng ông làm việc và tham gia các hoạt động xã hội trong nhiều năm nay.
Kỷ luật ông Chu Hảo thực chất là một hành động thực hiện chính sách ngu dân, kìm hãm nhân dân trong vòng tăm tối, để dễ lừa dối và đàn áp, vì quyền lợi ích kỷ của một đảng độc tài đang cướp quyền sống và phát triển của dân tộc. Kỷ luật ông Chu Hảo với những lý do đầy tính chất vu khống còn là hành vi có chủ tâm đánh vào những người trí thức yêu nước, có tài và có tâm, luôn hành động và phát ngôn theo lương tâm của mình. Việc làm thất nhân tâm này tất sẽ dẫn đến tình trạng “sĩ phu ngoảnh mặt”, hết sức nguy hiểm cho vận mệnh dân tộc.
Tôi vào Đảng Lao Động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) từ năm 1956, đến nay đã 62 năm…
Từ nhiều năm qua, tôi nhận thấy Đảng ngày càng xa rời lý tưởng ban đầu của mình, “tự diễn biến” thành một tổ chức chuyên quyền, phản dân hại nước. Tôi không thể còn đứng trong một tổ chức như vậy”.
Vậy Nguyên Ngọc là ai? Tôi đã viết rất nhiều về Nguyên Ngọc, nay nhân chuyện Nguyên Ngọc cho “Chu Hảo có công lớn với đất nước và dân tộc, đặc biệt trong công cuộc khai hóa bằng Tủ sách Tinh Hoa”, nên tôi xin nhắc lại một ít về Nguyên Ngọc về những chuyện y như Chu Hảo, Nguyên Ngọc cũng đã có nhiều tư tưởng “khai hoá” lộn ngược!
Nguyên Ngọc từng giữ cương vị Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà Văn VN, với bản “Đề dẫn” cũng đã biết dẻo mồm hứa hẹn:
“Hôm nay, trong hội nghị này, chúng ta… với tư cách là những người cầm bút của Đảng, tức là những người vừa là những người chiến sĩ của Đảng trên mặt trận văn học, vừa là bộ phận tham mưu của Đảng trên mặt trận này, chúng ta nhận rõ hơn trách nhiệm của mình, cố gắng cùng nhau khắc phục những thiếu sót đó, đưa văn học ta tiến lên ngày càng ngang tầm nhiệm vụ của nó”.
Nhưng khi triển khai vào thực tế, giữa lời nói và việc làm của Nguyên Ngọc lại ngược nhau. Vì vậy Nguyên Ngọc đã bị “sa thải” rồi trở thành người bên lề. Nhưng vì xã hội Việt Nam trên con đường đổi mới, phát triển không tránh khỏi sự phân hóa về mọi mặt, kể cả sự phân hóa về chính trị, tư tưởng. Chính vậy Nguyên Ngọc vẫn có “đất dụng võ”, và với bọn hãnh tiến, cơ hội, đón gió, trở cờ, phản bội, những ý kiến, quan điểm chống phá của Nguyên Ngọc vẫn luôn được tung hô.
***
Khởi thủy là việc Nguyên Ngọc cho đăng những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp miêu tả Vua Quang Trung như tay du côn và cho “Nguyễn Ánh mới là nòi vương giả”. Tiếp theo cả nước mừng vui trong ngày toàn thắng thì ông lại ca ngợi cuốn sách cho đó là “nỗi buồn”. Với cuốn “Bên thắng cuộc” của Huy Đức, nhân chứng sống của cả hai phía “bên thắng” và “bên thua” đều phản ứng chuyện Huy Đức xuyên tạc sự thật thì Nguyên Ngọc lại cho là: “rất trung thực”. Gần đây nhất, trên VietNam.net, trong bài Vì sao Phạm Xuân Ẩn không bị lộ? Nguyên Ngọc lại cho chúng ta trong chiến tranh đã nhìn sai về sự xâm lược, cho sự căm thù giặc là “không bình thường”; rồi cho dạy lịch sử không nên “bồi đắp chủ nghĩa yêu nước” nữa vì bị chính trị hóa và cũng không nên ca ngợi các Bà mẹ VN Anh hùng quá vì sẽ làm đau lòng các bà mẹ lính VNCH. Tôi đã viết, chỉ có một kẻ phản bội mới viết như Nguyên Ngọc mà thôi.
Trước tình trạng học sinh thi môn sử điểm kém, trên VietNam.net, Nguyên Ngọc viết:
“trong các môn học ở trường hiện nay, bị học sinh sinh viên chán nhất, ghét nhất… là môn sử và môn văn … Vì sao? … Thôi thì cho tôi nói thật vậy: vì đó là những môn bị chính trị hóa nhiều nhất, nặng nề nhất! …”
Ở đây Nguyên Ngọc thứ nhất đã hiểu sai về thực trạng ngành giáo dục, thứ hai Nguyên Ngọc cũng rất sai trái khi muốn “phi chính trị hóa” môn văn, môn sử thành trung tính, tức không còn thiện, ác, chính nghĩa, phi nghĩa nữa.
Thực chất việc học sinh chán học văn, sử, kể cả các môn xã hội khác đơn giản là vì học những môn đó ra trường khó kiếm việc làm, có kiếm được thì thu nhập cũng thấp. Vì vậy gần như hầu hết những học sinh khá, giỏi thường chú tâm học các môn tự nhiên để thi vào các trường khoa học kỹ thuật để lo cho tương lai. Không biết có phải vì vậy mà nhà văn, nhà báo bây giờ có nhiều người dốt quá không?
Như vậy Nguyên Ngọc cho học sinh chán học văn, sử do “bị chính trị hóa” là sai, là chính ông ta đã vu cáo chính trị!
***
Nếu không có tư tưởng thì việc học hỏi tư tưởng bên ngoài để truyền bá cũng là việc đáng quý. Phạm Xuân Nguyên viết về điều này của Nguyên Ngọc:
“Ông đã từ văn hóa nghệ thuật đến văn hóa tư tưởng… khi đất nước mở cửa hội nhập đòi hỏi phải có những trang bị hiểu biết về nhân loại, của nhân loại… Ông có một cơ bản tiếng Pháp vững, và trên hết là một lòng say mê đọc và truyền bá tri thức nhân loại cho đồng bào mình”.
ới khoa học công nghệ việc học hỏi tri thức nhân loại là tất yếu và bắt buộc, đơn giản là vì nếu không vậy thì nước ta có gì? Nhưng về khoa học xã hội và văn học nghệ thuật thì lại không như thế. Thế giới còn lâu mới là bình đẳng, vẫn còn ở đâu đó chân lý thuộc về kẻ mạnh. Các nước lớn vẫn muốn áp đặt khuôn mẫu của mình cho các nước nhỏ, vẫn muốn các nước nhỏ làm phên giậu cho mình. Với văn hóa nghệ thuật, quan niệm về cái hay, cái đẹp, cái tốt có những cái giống nhưng cũng có cái khác do thuần phong mỹ tục, môi trường sống và lịch sử mỗi nước mỗi khác nhau. Vì vậy người ta thường nói phải gạn đục khơi trong, chọn lựa những gì phù hợp, chọn những tinh hoa của thế giới là vì thế. Từ đó, cái quan trọng nhất là phải truyền đạt cho đúng. Mà cái công cụ chủ yếu là khả năng dịch thuật. Nhưng trước những vấn đề học thuật thì biết ngoại ngữ là chưa đủ; người ta còn cần một thứ quan trọng hơn, đó là nền tảng tri thức để hiểu, để dịch cho đúng.
Khi dịch cuốn Le Degré zéro de l’écriture suivi de Nouveaux essais critiques của Barthes là Độ không của lối viết, Nguyên Ngọc đã dịch sai l’écriture thành lối viết, trong khi Barthes quan niệm l’écriture chính là chiều cao sâu của tác phẩm, thể hiện sự dấn thân của nhà văn. Vì thế nên dịch l’écriture là “chữ nghĩa” bởi bản thân l’écriture cũng có nghĩa là “chữ viết”, còn thêm chữ “nghĩa” là “nghĩa lý” vào thành “nghĩa lý của câu chữ”, sẽ nói lên được sự dấn thân của nhà văn, đúng như sự định nghĩa l’écriture của Barthes.
Nhà văn cần phải dấn thân thì đúng rồi, nhưng dấn thân theo hướng nào mới là quan trọng; Nguyên Ngọc dấn thân vào cái ác, vào cái băng hoại, phản đạo lý, phản lịch sử v.v… thì dấn thân làm gỉ?
Nguyên Ngọc cũng dốt khi dịch câu của Kundera la sagesse de l’ambigui là sự hiền minh của tính nước đôi. Sagesse nghĩa Việt là trí tuệ, Nguyên Ngọc dịch là “sự hiền minh” thì không hợp, có vẻ “làm văn” quá. Sự hiền minh nói về khả năng nhận thức của các nhà hiền triết, đó là sự thấu suốt mang tính đạo lý, thiện đức vì trong cuộc sống có những sự thông thái mang tính ác. L’ambigui theo từ điển là sự mơ hồ. Mà sự mơ hồ thì hoàn toàn không phải là nước đôi. Sự mơ hồ chỉ cái chưa rõ ràng, còn nước đôi chỉ sự lưỡng lự giữa hai cái. Trong vật lý lượng tử, bản chất nhị nguyên sóng hạt của các hạt lượng tử cũng có thể gọi là tính nước đôi. Câu trên Kundera muốn nói về phẩm chất quan trọng nhất của tiểu thuyết, nhà văn phải thấy được cái mà người thường không thấy, tức những gì còn mơ hồ. Vì vậy la sagesse de l’ambigui nên dịch là sự hiểu biết về những điều mơ hồ thì đúng hơn.
Nhan đề cuốn L’Insoutenable légèreté de l’être cũng của Kundera, Nguyên Ngọc đã dịch là Nhẹ bồng cái kiếp nhân sinh.
L’Insoutenable légèreté dịch đúng là “sự nhẹ không thể chịu nổi”, ý này thể hiện sự e ngại của Kundera về sự biến mất cái tôi trong thế giới hiện đại mà con người ngày một sống chen chúc hơn. Nên Nguyên Ngọc dịch là Nhẹ bồng (bồng trong phiêu bồng) cũng sai, bởi nó chỉ sự phiêu du nhẹ nhàng, ngược với cái sự nhẹ không chịu nổi nói trên. Theo tôi để dịch thoát ý và Việt hóa nên dịch là Nhẹ bẫng phận người. Bởi nó chỉ số phận con người bị coi nhẹ như không có, rất sát với ý tứ của Kundera.
***
Kundera rất “mê” Hiện tượng học, Nguyên Ngọc lại rất mê (mụ) Kundera. Hiện tượng học không chỉ là “mốt” của nhóm “văn sĩ chuộng lạ” ở nước ta, mà ngay cả Kundera cũng từng lấy nó làm cơ sở triết lý cho văn chương của mình. Nếu Descartes cho sự tồn tại của con người là sự suy tư “Cogito, ergo sum” thì Hiện tượng học của Husserl còn đi xa hơn: “Cogito, ergo cogito cogitatum”. Nghĩa là suy tư về cái tôi khi nó suy tư về sự suy tư. Hiện tượng học có thể có ý nghĩa khi ta khuôn nó trong một phạm vi nghiên cứu riêng về phân tích tâm lý: trước cùng một sự vật hoặc sự việc, tùy theo từng người, sẽ “tự sinh” các cảm nhận khác nhau. Nó có thể rất có ích cho các nhà văn xây dựng chiều sâu tâm trạng, thế giới tinh thần phong phú của nhân vật. Nhưng coi nó là triết học cao hơn cả duy tâm, duy vật, coi ý thức của cái tôi là nguyên lý cao nhất của nhận thức thì không phải. Chủ nghĩa Hiện sinh ra đời sau Hiện tượng học đã chịu ảnh hưởng nhiều từ nó. Đó là một chủ nghĩa đề cao cái tôi, cái hiện sống, cho con người không phải chịu ràng buộc bởi tự nhiên cũng như xã hội. Khi cực đoan, một số người đã đua nhau sống theo bản năng, tự nhiên chủ nghĩa, có thời thanh niên ở một số nước phương Tây đã đua nhau để nguyên râu tóc, lũ lượt kéo nhau lên rừng sống bằng rau trái, tự nhiên khỏa thân, tự do chung chạ v.v… Sau nữa, Chủ nghĩa Thực dụng ra đời cũng dựa trên cái Tôi “Không có cái gì gọi là chân lý khách quan mà chỉ có chân lý của cái tôi. Chỉ có cái gì có lợi cho tôi sẽ là chân lý”!
Trong lĩnh vực tri thức cao sâu, người ta cũng ham của lạ, cũng chạy theo những khái niệm lấp lánh, kêu beng beng của nước ngoài, nhưng thực chất chẳng hiểu gì về chúng. Nguyên Ngọc chính là người trong số đó.
Vì mê mụ vọng ngoại như thể, Nguyên Ngọc luôn ủng hộ, ca ngợi những tác giả, tác phẩm đề cao cái tôi chủ quan, dù là cực đoan, lập dị, lộn ngược, thậm chí phản động. Trong một bài trả lời phỏng vấn trên VietnamNet, Nguyên Ngọc viết:
“…Dân chủ không phải là cái đem cho, dân chủ đem cho thì không phải là dân chủ, dân chủ là giúp cho người ta vùng lên tự giải phóng. Hơn ở đâu hết, trong Giáo Dục điều ấy càng rõ và thiết yếu”.
Một người luôn phản bác sự “chính trị hóa” vậy mà ở đây khi bàn về giáo dục Nguyên Ngọc cũng lại tranh thủ tuyên truyền chính trị cho con đường “đấu tranh” của mình, với những ý khiên cưỡng có tính kích động. Bản thân ông thời gian gần đây luôn ủng hộ những hành động viết bậy, nói bậy, quấy rối làm càn và cho đó là dân chủ thì với những ý trên, chẳng khác gì ông ta đã đi gieo mầm phản loạn độc hại, nguy hiểm trong tâm trí trong sáng của các em học sinh. Thực tế ông đã bênh Nhã Thuyên, một giáo viên ở Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội nhưng lại làm luận văn thạc sĩ ca ngợi thơ của nhóm Mở miệng, một thứ “thơ mất dậy”! Ông cũng có tên trong danh sách 144 vị trí thức mà tôi gọi là “trí thức bầy đàn” đã ký tên ủng hộ cô sinh viên Phương Uyên cùng Nguyên Kha rải truyền đơn chống phá Nhà nước và cờ VNCH; chế tạo chất nổ dự định sẽ cho nổ tượng đài Hồ Chí Minh ở Cần Thơ!
Một người như Nguyên Ngọc lại làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị một trường đại học (Phan Châu Trinh, Quảng Nam) thì sợ thật!
Cái danh “nhà tư tưởng” của Nguyên Ngọc thực chất là tư tưởng chống đối, quấy rối, bôi đen, lộn ngược; nói gọn như ngày xưa là “tư tưởng phản động”!
Đông La
Nguồn: Quochoi.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét