19/3/12-Tác giả Gerald W Fry: Một yếu tố góp phần cho sự thành công kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây là cam kết phát triển giáo dục và nguồn nhân lực. Việt Nam khác với các nước láng giềng ASEAN trong nhiều cách.
Trong thực tế, Việt Nam chịu những ảnh hưởng Nho giáo mạnh mẽ, đôi khi bị đặt trong nhóm văn hóa với các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Giống như Nhật Bản và Hàn Quốc phải chịu đựng sự tàn phá của chiến tranh.
Để hiểu rõ Việt Nam và sự năng động kinh tế hiện nay và hệ thống giáo dục liên quan, bắt buộc phải hiểu lịch sử phong phú của đất nước này.
Có bốn chủ đề chính của lịch sử Việt Nam. Đầu tiên, Việt Nam đã có hơn 1.000 năm dưới ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc. Thứ hai, Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với nhiều thảm họa tự nhiên như lũ lụt và bão lớn. Điều này buộc họ phải phát triển các sáng tạo như đê khổng lồ bảo vệ Hà Nội từ lũ lụt sông Hồng. Thứ ba, Việt Nam phải đối mặt với mối đe dọa nghiêm trọng từ xâm lược bên ngoài như Mông Cổ, Trung Quốc, Pháp, Mỹ. Để đánh bại những kẻ xâm lược, Việt Nam đã cho thấy sự khéo léo và thông minh. Thứ tư, trung tâm của văn hóa Việt Nam là những ngôi làng, nơi mà giáo dục và giảng dạy được đánh giá cao.
Ảnh hưởng từ bên ngoài cũng đã định hình giáo dục Việt Nam hôm nay. Hơn 1.000 năm dưới sự cai trị của Trung Quốc, Việt Nam bị ảnh hưởng sâu sắc với truyền thống Khổng giáo nhấn mạnh nhiều về giá trị của sự tôn kính, học tập cho giáo viên, động lực mạnh mẽ để tìm hiểu.
Là một thuộc địa của Pháp, VN đã chịu ảnh hưởng giáo dục rất lớn. Pháp thay thế hệ thống chữ viết Việt Nam với một hệ thống chữ viết Latin Việt, góp phần tăng đáng kể trong xóa mù chữ và sự phát triển của một ngành công nghiệp địa phương.
Sau đó, Bắc Việt Nam bị ảnh hưởng bởi giáo dục của Liên Xô. Điều này góp phần tích cực vào giáo dục Việt Nam, chủ yếu trong các lĩnh vực như khoa học, toán học, y học và phương pháp giảng dạy ngôn ngữ.
Sau đó là ảnh hưởng của Mỹ ở miền Nam góp phần, ví dụ, sự phát triển của các trường cao đẳng cộng đồng và thúc đẩy giáo dục và đào tạo.
Anh hùng dân tộc và lãnh đạo của Việt Nam, Hồ Chí Minh, cũng cam kết phát triển giáo dục sâu sắc. Trong bài phát biểu ngày 03 Tháng Chín 1945, tuyên bố độc lập của Việt Nam, ông nhấn mạnh rằng tương lai của Việt Nam phụ thuộc vào việc giáo dục trẻ em của họ.
Ông Hồ là một người chủ nghĩa quốc tế, người biết nhiều ngôn ngữ. Ông thậm chí đã dành thời gian ở Isaan, Siam (Thái Lan), ẩn mình trong lòng cảnh sát thuộc địa Pháp và học tập đáng kể tại Thái Lan. Có một ngôi làng ở Nakhon Phanom mang tên ông, Baan Hồ Chí Minh.
Đặc biệt trong giai đoạn kể từ khi đổi mới (đổi mới kinh tế) đã được công bố vào năm 1986, đã có một mở rộng đáng kể trong giáo dục Việt Nam về cơ bản như phổ cập tiểu học, tuyển sinh trung học, và nhanh chóng tuyển sinh ngày càng tăng trong giáo dục đại học. Đối với một quốc gia đang phát triển kinh tế và với một dân số trẻ, Việt Nam đã đạt được gần như phổ cập giáo dục cơ bản (tiểu học và trung học cơ sở) ngoại trừ các khu vực vùng sâu vùng xa với các nhóm dân tộc đa dạng.
Để đương đầu với vấn đề cung cấp giáo dục cho cộng đồng từ xa có hoàn cảnh khó khăn, Việt Nam trả tiền cho giáo viên nhiều hơn nếu họ sẵn sàng để phục vụ trong các khu vực này.
Giữa 1998 - 2008, 198 trường đại học/ cao đẳng mới và các trường cao đẳng cộng đồng đã được tạo ra với khu vực tư nhân được phép đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng này. Chỉ riêng tại Hà Nội, hiện nay có 62 trường đại học. Dân số biết chữ đạt 94% là khá ấn tượng.
Sinh viên Việt Nam đã thể hiện rất ấn tượng trong các cuộc thi khoa học quốc tế. Ví dụ, trong kỳ thi Olympic Toán học quốc tế năm 2009, một cô gái dân tộc Nùng từ miền Trung Việt Nam đã giành huy chương vàng.
Trong Olympic Toán quốc tế 2007, Việt Nam đứng thứ ba trong số 93 quốc gia, đưa Việt Nam trở thành một chính hiệu "outlier" (tách khỏi nhóm).
Với một lực lượng lao động ngày càng tốt hơn, Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể trong việc thu hút đầu tư quốc tế. Tôi có rất nhiều bạn bè doanh nhân ở các nước Đông Á như Nhật Bản và Hàn Quốc đã bày tỏ sự hài lòng đáng kể với người lao động Việt Nam. Tôi sẽ lập luận rằng Việt Nam có thể có chất lượng lao động tốt nhất (so về chi phí) trên thế giới.
Một lực lượng tích cực mạnh mẽ là việc quốc tế hóa giáo dục đại học Việt Nam, đặc biệt ở cấp đại học, và sự tăng trưởng về số lượng người Việt Nam có thể học tập ở nước ngoài trong nhiều nghành đa dạng.
Mặc dù có những thành công, Việt Nam có vấn đề nghiêm trọng giáo dục, các vấn đề cụ thể là chất lượng trên tất cả các cấp của hệ thống, một hệ thống quản lý không hiệu quả, không đầy đủ quyền tự chủ cho các trường đại học, và giáo viên các trường đại học cần phải được quan tâm bởi vì tiền lương thấp (ảnh hưởng xấu đến năng suất nghiên cứu của họ).
Mặc dù có những vấn đề nghiêm trọng, Việt Nam có một tương lai tươi sáng về kinh tế và giáo dục chủ yếu dựa trên truyền thống Khổng giáo mạnh mẽ phản ánh lý tưởng sau: "lòng tôn sùng ý tưởng rằng tự giáo hóa, trao dồi, tu dưỡng mình thông qua việc theo đuổi kiến thức xử lý kỷ luật là con đường để hoàn thiện con người", Theo Thomas Rohlen, Đại học Stanford.
Gerald W Fry
Giáo sư, Khoa lãnh đạo tổ chức, Chính sách và Phát triển
Đại học Minnesota
Email: qwf@umn.edu
Người ta đánh giá rất đúng. Chất lượng đào tạo giáo dục là vấn đề rất nghiêm trọng. Tệ nạn tham nhũng, cấp bằng giả, bằng dỏm là nguyên nhân chính. Việc này tạo nên những hệ lụy lâu dài cho thế hệ trẻ Việt nam và cho cả dân tộc. Hãy hình dung giáo sư thiếu trình độ kỹ năng. Những kẻ trong chức vụ lãnh đạo không có kiến thức thiếu hiểu biết, trở nên do dự và bất lực khi đối phó với các vấn đề hệ trọng của quốc gia hay trong thương nghiệp. Hay lãnh đạo tự mình quyết định sai lầm không cần tham khảo hay nghe những ý kiến phản đối thì trở nên những tên ngông cuồng.
Trả lờiXóaThật đáng buồn, xã hội ta đầy dẫy những người như vậy.