Thượng tá, Ths Doãn Giang Nam
Viện Chiến Lược Quốc Phòng/BQP
Viện Chiến Lược Quốc Phòng/BQP
Dự báo chiến lược nói chung và dự báo chiến lược trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự có vai trò ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt, dự báo đúng đối tượng tác chiến trong các loại hình tác chiến chiến lược (TCCL) trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc sẽ tạo được thế chủ động trong chuẩn bị lực lượng, trong huấn luyện chiến đấu và từ đó tạo thế chủ động, hạn chế bị động trong TCCL.
Phản công chiến lược (PCCL) là loại hình TCCL, được tiến hành trên một hoặc vài chiến trường ( hướng chiến lược, nhằm đánh bại lực lượng chiến lược của địch đang trong quá trình tiến công, giành thế chủ động chiến lược, tạo điều kiện để chuyển sang tiến công chiến lược. Phản công chiến lược có thể được tiến hành ngay tiếp sau phòng ngự chiến lược, rút lui chiến lược hoặc ngay trong thời kỳ đầu chiến tranh ( ví dụ như cuộc phản công chiến lược của quân và dân ta ở Việt Bắc Thu Đông năm 1947). Để bảo đảm thắng lợi cho PCCL phải dự báo, xác định đúng đối tượng tác chiến trên chiến trường.
Dựa vào học thuyết quân sự, điều lệnh tác chiến, thực tiễn một số cuộc chiến tranh trong thời gian gần đây và môi trường tác chiến chiến lược có liên quan, có thể dự báo, nếu có chiến tranh địch tấn công vào chiến trường miền Bắc với mục đích: làm tê liệt, hoặc tiêu diệt cơ quan đầu não, làm tan rã LLVT, phá hủy tiềm lực kinh tế, chính trị, xã hội, chiếm giữ địa bàn chiến lược quan trọng trên chiến trường miền Bắc, kết hợp với biện pháp phi vũ trang, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ XHCN…
Tùy theo bối cảnh quốc tế, khu vực, khả năng tập hợp lực lượng, tình hình, địa bàn trên chiến trường miền Bắc, địch sẽ lựa chọn thủ đoạn, biện pháp tiến công cụ thể. Chúng có thể tiến công vào một số quân khu với lực lượng quy mô khác nhau.
Nếu phát động tiến công quy mô lớn trên chiến trường miền Bắc, địch có thể huy động lực lượng hỗn hợp, quân số đông, vũ khí trang bị hiện đại gồm: các sư đoàn, lữ đoàn bộ binh, bộ binh cơ giới, đổ bộ đường không (ĐBĐK), hải quân đánh bộ; lực lượng xe tăng thiết giáp, máy bay tên lửa hành trình, các hạm đội, quân đồng minh, bọn phản động người Việt lưu vong. Nhìn chung lực lượng huy động tiến công có xu hướng tinh gọn, nhưng sức mạnh tăng lên do sử dụng rộng rãi vũ khí công nghệ cao(VKCNC) và vận dụng phương thức tác chiến mới.
Để phát động chiến tranh, địch sẽ sử dụng các thủ đoạn tạo cớ, đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao, gây sức ép, tập hợp lực lượng, bao vây, cấm vận, tuyên truyền chiến tranh tâm lý, mua chuộc, chia rẽ làm suy yếu ta. Sử dụng các đòn hỏa lực, tác chiến điện tử (TCĐT) cường độ cao, liên tục, tập trung tiêu diệt các cơ quan đầu não, đánh vào các trung tâm chính trị văn hóa, thành phố lớn, căn cứ hậu phương chiến dịch, chiến lược của các quân khu, hệ thống phòng không, vị trí bố trí các binh đoàn cơ động chiến lược, đầu mối giao thông, phá hủy tiềm lực chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự, buộc ta phải chấp nhận điều kiện do chúng áp đặt. Nếu không khuất phục được địch tiến hành tiến công trên bộ, kết hợp ĐBĐK chiến lược, đồng thời nếu có điều kiện sẽ tổ chức bạo loạn lật đổ (BLLĐ) cướp chính quyền trên các địa bàn trọng điểm.
Từ những phân tích trên có thể dự báo đối tượng tác chiến trong phản công chiến lược trên chiến trường miền Bắc trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra) bao gồm: lực lượng tiến công trên bộ, lực lượng ĐBĐK chiến lược và lực lượng phản động BLLĐ bên trong.
Lực lượng tiến công trên bộ trong phản công chiến lược trên chiến trường miền Bắc
Các lữ đoàn, sư đoàn bộ bnh cơ giới, lực lượng đặc biệt, BLLĐ có vũ trang, được sự chi viện của lực lượng không quân, pháo binh, tên lửa. Các lực lượng này đang tiến công hoặc có thể đã đánh chiếm được một số địa bàn trọng yếu, mục tiêu quan trọng trên các hướng của các quân khu trên chiến trường miền Bắc, có bộ phận có thể vào sâu trong nội địa, đã bị các lực lượng khu vực phòng thủ các quân khu ngăn chặn, sát thương tiêu hao, tiêu diệt, tốc độ tiến công bị suy giảm, có hướng tiến công trong đó hướng tiến công chủ yếu bị chặn lại, lực lượng suy yếu phải tạm dừng nhưng chưa chuyển vào phòng ngự.
Khi buộc phải dừng lại, đội hình tạm dừng trên cơ sở đội hình đang tiến công để sẵn sàng chuyển sang tiến công tiếp, đội hình có thể hình thành các cụm lực lượng, trong đó có cụm lực lượng dự bị chiến lược. Quy mô của cụm lực lượng rất cơ động, không cố định mà tổ chức theo tính chất, nhiệm vụ tiến công trên các hướng . Cụm tiến công trên hướng chủ yếu có thể sử dụng 2- 3 sư đoàn bộ binh và một số lữ đoàn bộ binh, bộ binh cơ giới, lực lượng ĐBĐK chiến dịch. Trên hướng thứ yếu có thể sử dụng từ 1 – 2 sư đoàn; hướng phối hợp có thể có khoảng cỡ sư đoàn hoặc một lữ đoàn. Các cụm lực lượng tiến công, tùy tình hình nhiệm vụ, địa bàn tác chiến, tình hình cụ thể có thể tổ chức thành các lực lượng tác chiến như: Lực lượng bảo vệ, lực lượng chính, lực lượng dự bị, lực lượng bảo đảm. Lực lượng bảo vệ có thể là các đơn vị đang làm nhiệm vụ tác chiến phía trước hoặc một bộ phận lực lượng bảo vệ hai bên sườn phía sau. Lực lượng chính là các đơn vị thực hiện các trận đánh quyết định trên các hướng, bao gồm phần lớn lực lượng tham gia tiến công, được tổ chức thành các đơn vị chiến đấu theo nhiệm vụ, ý định tác chiến. Cụm lực lượng dự bị chiến lược có thể là các sư đoàn, lữ đoàn bộ binh cơ giới, các đơn vị tác chiến đặc biệt, lực lượng đổ bộ hàng không , được tổ chức tùy theo điều kiện địa hình, thời tiết, hệ thống đường cơ động, khả năng đối phó của ta, nhiệm vụ của lực lượng dự bị để phát triển chiến đấu, đánh lại đối phương khi phản công, khôi phục sức đột kích có thể mở rộng hướng tiến công mới.
Quá trình tiến công, các cụm lực lượng địch tiến công phía trước bị các quân khu, khu vực phòng ngự của ta ngăn chặn sát thương, lực lượng bị thương vong tổn thất, tư tưởng hoang mang, khủng hoảng. Để đối phó với các hoạt động tác chiến của ta, địch nhanh chóng điều chỉnh lực lượng, thế trận tiếp tục tiến công. Khi tiến công, địch có thể sử dụng các biện pháp, thủ đoạn chiến đấu, đó là: Tổ chức chiến dịch tiến công hỏa lực trực tiếp với mật độ cao, chi viện cho các cụm lực lượng cơ động triển khai, điều chỉnh đội hình, tiếp tục tiến công trên các hướng. Thực hiện các thủ đoạn nghi binh, đánh lừa phân tán, hạn chế đối phó của ta, đưa các cụm lực lượng phía sau vào tiến công. Lực lượng này có thể đột phá trên hướng chính diện hoặc vu hồi, thọc sâu. Lực lượng đặc nhiệm, chiến lược đấy nhanh tốc độ tiến công.
Lực lượng địch đổ bộ đường không chiến lược trong phản công chiến lược trên chiến trường miền Bắc
Để tạo bất ngờ, thực hiện bao vây, chia cắt chiến lược, tiến hành đánh đòn tiến công sâu, hiểm vào bên sườn phía sau đối phương, địch rất coi trọng hoạt động ĐBĐK chiến lược để tiến công nhanh vào mục tiêu chủ yếu, cùng lực lượng BLLĐ nhanh chóng tiêu diệt cơ quan đầu não, đánh chiếm địa bàn chiến lược phía sau, phá vỡ thế trận của ta, phối hợp với các hướng tiến công khác, nhanh chóng đạt được mục đích. Qui mô lực lượng ĐBĐK chiến lược trên chiến trường miền Bắc có thể là một số lữ đoàn đến sư đoàn thuộc lực lượng ĐBĐK hoặc kỵ binh đường hàng không. Thời cơ đổ bộ có thể trước, cùng lúc hoặc trong quá trình tiến công trên bộ. Lực lượng ĐBĐK chiến lược được địch tập kết trên các hạm đội, các căn cứ thuộc các nước đồng minh, tập kết ở phía sau đội hình tiến công trên các hướng, nhất là hướng chủ yếu. Trước khi đổ bộ địch tập trung trinh sát, đổ bộ, theo dõi các hoạt động của ta nhất là của các binh đoàn cơ động, triển khai lực lượng bảo vệ, thực hành nghi binh, hỏa lực trực tiếp dọn bãi đổ bộ. ĐBĐK chiến lược thường phải lập cầu hàng không để vận chuyển vũ khí trang bị nặng. Hành động ĐBĐK thường bí mật, bất ngờ, sau khi đổ bộ nhanh chóng chuyển sang tiến công ngay, khi tiến công có sự chi viện của không quân, pháo binh, kết hợp với lực lượng BLLĐ bên trong và lực lượng tiến công đường bộ.
Lực lượng phản động bạo loạn lật đổ bên trong
Lực lượng phản động có thể gây ra các cuộc bạo loạn vũ trang qui mô lớn nhằm phối hợp với các hướng tiến công từ bên ngoài, nhanh chóng thực hiện mục đích cướp chính quyền, đánh chiếm một số mục tiêu quan trọng trong các địa bàn. Lực lượng bao gồm: bọn phản động trong nước, bọn phản động lưu vong xâm nhập từ bên ngoài vào, cùng với các phần tử bất mãn chống đối chế độ, có sự chỉ đạo chặt chẽ của các thế lực từ bên ngoài, phối hợp với bọn tình báo, được hỏa lực chi viện. Bạo loạn lật đổ trên phạm vi rộng hoặc trên một số tỉnh, thành phố tập trung ở những nơi kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp, cơ sở chính quyền địa phương yếu kém, dân tộc, tôn giáo không kiểm soát được. Thời cơ bạo loạn có thể diễn ra trước hoặc đồng thời với tiến công hỏa lực, trong quá trình tiến công trên bộ. Đây là đối tượng rất nguy hiểm nếu không ngăn chặn kịp thời có thể phát triển thành một hướng tiến công phối hợp ngay từ bên trong thế trận phản công chiến lược của ta.
Đối phó của địch khi ta phản công chiến lược
Quá trình tiến công phát hiện ta có khả năng phản công, địch sử dụng hỏa lực đánh phá vào sâu hậu phương chiến lược, tập trung vào những khu vực, địa bàn nghi ngờ các binh đoàn chủ lực của ta tập kết, căn cứ hỏa lực, căn cứ hậu cần kỹ thuật. Trên một số khu vực trọng điểm địch có thể nhanh chóng chuyển vào phòng ngự nhằm khống chế giao thông, bảo vệ bên sườn, thiết lập nhanh chóng một số hệ thống vật cản trên một số hướng trọng điểm. Dựa vào khả năng cơ động, sức đột kích của xe tăng, xe thiết giáp, hỏa lực pháo binh, không quân, ĐBĐK chiến dịch, bộ binh cơ giới, tiến hành tiến công vượt điểm đánh sâu vào hậu phương, mục tiêu đầu não của ta, thực hiện bao vây, chia cắt, ngăn chặn, làm suy yếu, đánh bại phản công của ta từ xa. Khi bị ta phản công, địch sử dụng sức mạnh hỏa lực pháo binh, không quân, tên lửa trực tiếp, sát thương, tiêu hao, ngăn chặn, đẩy lùi ta phản công. Sử dụng lực lượng dự bị chiến lược tiến hành vu hồi kết hợp ĐBKĐ vào bên sườn phía sau đội hình ta, thực hiện bao vây chia cắt chiến lược, kết hợp với tiến công chính diện, để giành quyền chủ động, làm thay đổi cục diện chiến trường. Khi sức tiến công bị suy giảm, để bảo toàn lực lượng, địch nhanh chóng chiếm địa hình có lợi tổ chức phòng ngự chiến thuật, chiến dịch để bảo toàn, củng cố lực lượng, chuyển hướng tiến công.
Từ vấn đề nêu trên có thể rút ra một số nhận xét về địch.
Mạnh: Địch ở thế tiến công luôn chủ động, sử dụng rộng rãi VKCNC, vận dụng hình thức tác chiến linh hoạt, chuyển hóa thế trận. Tiến công, phòng ngự và chuyển hướng tiến công nhanh, tiến công mãnh liệt, liên tục, có khả năng tạo ra đột biến lớn nhất là khả năng tác chiến trong chiều sâu. Tổ chức biên chế của địch gọn, trang bị vũ khí hiện đại, số lượng lớn, có thể độc lập tổ chức các chiến dịch, các hướng tiến công phối hợp nhanh chóng, kịp thời có hiệu quả. Có thể đã lập được căn cứ trên bộ từ những địa bàn đã chiếm được. Lực lượng tuy bị tổn thất nhưng có khả năng bổ sung kịp thời, nhanh chóng giành lại chính quyền chủ động tiếp tục tiến công, có kinh nghiệm tác chiến trên chiến trường qui mô lớn…
Hạn chế: Tiến công trong điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình phức tạp, đặc biệt là địa hình đặc thù của chiến trường miền Bắc ( rừng núi nhiều, cao, hiểm trở…), sẽ hạn chế sức mạnh hiệu quả vũ khí công nghệ cao. Hoạt động tác chiến qui mô lớn phụ thuộc điều kiện địa hình, giảm tính bất ngờ, dễ bị lộ, sơ hở. Công tác bảo đảm vật chất hậu cần, kỹ thuật lớn, phức tạp, chi phí cho chiến tranh tốn kém, hoạt động tác chiến xa hậu phương của địch. Khi ta ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt, lực lượng thương vong lớn, lực lượng bạo loạn bị dập tắt. tốc độ tiến công giảm, mất thế chủ động trên chiến trường sẽ lâm vào khủng hoảng, hoang mang. Hoạt động tác chiến trong thế chiến tranh nhân dân các khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố và phòng thủ quân khu tạo ra thế đánh rộng khắp bị bao vây, chia cắt, buộc phải phân tán để đối phó. Chi viện vật chất bảo đảm cho tác chiến khó khăn khi ta ngăn chặn, khi ta đánh phá vào lực lượng tiếp tế hậu cần. Tiến hành chiến tranh phi nghĩa gặp phải sự phản đối dư luận trong nước, quốc tế…
Nghiên cứu, dự báo và xác định đúng đối tượng tác chiến có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của tác chiến chiến lược nói chung và phản công chiến lược nói riêng. Đây là vấn đề mang tính chiến lược, thực tiễn và cấp thiết, cần được tiếp tục đầu tư, nghiên cứu trên mọi chiến trường, tạo cơ sở nắm chắc địch, đối tượng tác chiến từ trước khi chúng thực hành tiến công xâm lược nước ta, bảo đảm cho ta phản công thắng lợi ở cả cấp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Quân sự
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét