Bộ phim 'Khát vọng Thăng Long' ra mắt năm 2010 đã gây ra làn sóng chỉ trích phim này "quá giống Trung Quốc"
Việt Nam và sức mạnh mềm Trung Quốc (BBC-02/02/2012)
Lê Hồng Hiệp (Nghiên cứu sinh Tiến sỹ):
Việt Nam có thể coi là quốc gia bị Hán hóa mạnh nhất ở Đông Nam Á, nơi mà ảnh hưởng của Ấn Độ có phần nổi trội hơn. Đây là kết quả của một quá trình tương tác sâu sắc kéo dài hơn 2000 năm qua giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tuy nhiên sự hấp thụ văn hóa Trung Quốc của Việt Nam không phải là một quá trình giản đơn hay một hệ quả tất yếu bắt nguồn từ sự gần gũi về mặt địa lý. Trên thực tế quá trình này diễn ra phức tạp hơn nhiều.
Ảnh hưởng văn hóa từ Trung Quốc chỉ hình thành nên một lớp trong bản sắc văn hóa Việt Nam mà thôi. Nền tảng lớn và quan trọng nhất của bản sắc văn hóa Việt Nam vẫn gắn liền với các giá trị, truyền thống hay tập quán bản địa, trong khi những vay mượn văn hóa từ Đông Nam Á (bao gồm gián tiếp từ Ấn Độ) và phương Tây hình thành nên một lớp khác của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Quá trình hấp thụ các yếu tố văn hóa Trung Quốc của Việt Nam trong hơn 2000 năm qua có thể được khái quát trong hai đặc điểm chính.
Thứ nhất, Việt Nam chỉ sẵn lòng hấp thụ các yếu tố văn hóa Trung Quốc nếu như đó là một quá trình tự nguyện bên trong chứ không phải là một sự áp đặt mang tính cưỡng bức từ Trung Quốc.
Thứ hai, sự vay mượn văn hóa từ Trung Quốc là một quá trình mang tính lựa chọn – hầu hết các ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc đều được sàng lọc và điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu và nền tảng văn hóa bản địa. Vì vậy quá trình Hán hóa Việt Nam cũng có thể được hiểu như là quá trình “Việt hóa” các yếu tố văn hóa Trung Quốc.
Chiếm giữ nền tảng văn hóa Việt Nam vẫn là sự hiện diện áp đảo của các giá trị, truyền thống, tập quán văn hóa và xã hội bản địa, những yếu tố vốn định hình bản sắc quốc gia của Việt Nam cũng như góp phần định hướng nhận thức và quan hệ của Việt Nam đối với Trung Quốc.
Ảnh hưởng văn hóa
Một ví dụ liên quan đến hai đặc điểm này chính là sự du nhập của Khổng giáo vào Việt Nam.
Khổng giáo đã được đưa vào Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm. Tuy nhiên Khổng giáo đã không giành được chỗ đứng vững chắc và sâu rộng trong lòng xã hội Việt Nam cho tới khi Việt Nam giành được độc lập từ Trung Quốc và bắt đầu ứng xử với Khổng giáo như một công cụ kiến thiết quốc gia hơn là một di sản văn hóa áp đặt từ phương Bắc.
Chính vì vậy, nhà Lý đã cho xây dựng Văn Miếu vào năm 1070 để thờ Khổng Tử và các học trò của ông, cũng như cho xây dựng trường Quốc Tử Giám 6 năm sau đó để đào tạo tầng lớp quý tộc và quan lại Việt Nam theo tư tưởng Nho giáo.
Cho tới thời kỳ nhà Lê lên cầm quyền vào thế kỷ 15 thì Khổng giáo đã được tiếp nhận mạnh mẽ, trở thành nền tảng tư tưởng cho cả nhà nước và xã hội Việt Nam vận hành.
Người Việt Nam cũng đã cải biến một số tư tưởng của Khổng giáo để khiến nó phù hợp hơn với các giá trị bản địa và điều kiện kinh tế - xã hội – lịch sử của Việt Nam. Ví dụ như trái với truyền thống Nho giáo của Trung Quốc, xã hội Việt Nam nhìn chung thừa nhận quyền lợi của phụ nữ nhiều hơn, cũng như dành cho họ một địa vị xã hội cao hơn so với Trung Quốc.
Mặt khác, trong khi Khổng giáo Trung Quốc chỉ chủ yếu nhấn mạnh yếu tố “trung quân” thì Khổng giáo Việt Nam lại đề cao cả yếu tố “trung quân” lẫn “ái quốc.”
Ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc đối với Việt Nam bắt đầu phai tàn từ cuối thế kỉ 19 và quá trình Hán hóa Việt Nam có thể được coi là chấm dứt một cách biểu tượng vào năm 1918 khi mà nhà Nguyễn bãi bỏ hệ thống khoa cử dựa trên việc kiểm tra hiểu biết của sĩ tử về các tác phẩm Nho giáo kinh điển và kỹ năng soạn thơ phú bằng tiếng Hán và tiếng Nôm.
Tuy nhiên hơn 2000 năm giao lưu, tương tác với Trung Quốc đã để lại cho Việt Nam vô số những ảnh hưởng văn hóa vốn không thể bị phai nhạt trong một sớm một chiều.
Gần đây, với sự trỗi dậy của Trung Quốc với tư cách là một siêu cường toàn cầu, Việt Nam lại đứng trước một làn sóng tấn công văn hóa mạnh mẽ (mà học giả Joshua Kurlantzick gọi là “charm offensive”) khi mà Trung Quốc nỗ lực phổ biến sức mạnh mềm của mình ra toàn thế giới.
'Sức mạnh mềm'
Từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã ngập chìm trong một hiện tượng có thể được gọi là một cơn “sóng thần văn hóa” gây nên bởi sự thành công của các bộ phim truyền hình, âm nhạc, điện ảnh, hay tiểu thuyết kiếm hiệp có nguồn gốc văn hóa Trung Quốc.
Sự phổ biến của các tác phẩm văn hóa Trung Quốc này ở Việt Nam, một mặt có thể được giải thích bởi sự khan hiếm các sản phẩm văn hóa tương ứng của Việt Nam, thì một phần khác cũng bắt nguồn từ chất lượng hấp dẫn của các sản phẩm này, dẫn tới sự tiếp nhận tự nguyện và tích cực từ phía người dân Việt Nam.
Tuy nhiên những ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc quá tràn lan như vậy dường như đã khiến các quan chức chính phủ và những người làm công tác văn hóa - tư tưởng của Đảng phải lưu tâm.
Một số nhà chỉ trích đã than phiền rằng các bộ phim truyền hình lịch sử Trung Quốc đã khiến người Việt Nam còn thuộc sử Trung Quốc hơn quốc sử. Điều này đã gây nên một số phản ứng từ Chính phủ Việt Nam, trong đó có việc ban hành một nghị định vào tháng 5/2010 quy định phim truyện và phim truyền hình Việt Nam phải chiếm ít nhất 30-50% thời lượng giành cho phim giải trí trên bất kỳ kênh truyền hình nào của Việt Nam.
Mặt khác, bất chấp thành công rõ ràng của văn hóa đại chúng Trung Quốc đối với khán giả Việt Nam thì sự phản kháng của Việt Nam đối với các ảnh hưởng văn hóa không mong muốn đến từ phương Bắc dường như cũng trở nên mạnh mẽ hơn khi Trung Quốc theo đuổi những nỗ lực có tính toán nhằm truyền bá hay áp đặt các giá trị văn hóa của mình lên Việt Nam.
Ví dụ như sáng kiến Viện Khổng Tử, một thành tố quan trọng trong chiến lược khuếch trương sức mạnh mềm toàn cầu của Trung Quốc, đã đạt được rất ít tiến triển ở Việt Nam bất chấp những thành công trên phạm vi toàn cầu của nó.
Trong khi hiện đã có hơn 320 Viện Khổng Tử được thiết lập trên toàn cầu, thì việc ở nước láng giềng Việt Nam cho đến lúc này chưa có một Viện tương tự nào đi vào hoạt động là một điều đáng lưu ý.
Mặc dù vào năm 2009, Chính phủ Việt Nam đã cho phép “thí điểm” thành lập một Viện Khổng Tử, nhưng sau gần 3 năm nó vẫn chưa được ra đời. Trong khi đó những cơ quan truyền bá văn hóa tương tự của Pháp, Anh, Đức hay Nga… ở Việt Nam đã được cho phép hình thành từ lâu.
Khó có thể kiểm chứng được điều gì đứng đằng sau sự chậm trễ này, nhưng dường như sự quan ngại, nghi ngờ mang tính lịch sử của Việt Nam đối với các ý định nhằm gây ảnh hưởng văn hóa có tính toán đến từ Trung Quốc có thể là một nguyên nhân quan trọng đứng đằng sau tình trạng dậm chân tại chỗ của sáng kiến này ở Việt Nam.
--> Học viện Khổng Tử ở Việt Nam: những gì cần cân nhắc?
Tóm lại, sự khuếch trương sức mạnh mềm của Trung Quốc có thể tiếp tục được mở rộng và thành công trên toàn cầu, nhưng sẽ gặp phải những trở ngại đáng kể ở Việt Nam.
Trong khi sự vay mượn mang tính tự nguyện từ văn hóa Trung Quốc đã góp phần hình thành nên một lớp của bản sắc văn hóa Việt Nam thì Việt Nam cũng chính là quốc gia nơi mà những ký ức về hơn 1000 năm bị Trung Quốc đồng hóa văn hóa một cách cưỡng bức vẫn còn đang rất sống động.
Chính vì vậy một mặt những nỗ lực của Trung Quốc nhằm truyền bá sức mạnh mềm của mình vào Việt Nam có thể bị hạn chế bởi sự quen thuộc quá mức của Việt Nam đối với văn hóa Trung Hoa.
Mặt khác sự phản kháng mang tính truyền thống của Việt Nam đối với những ảnh hưởng văn hóa không mong muốn đến từ phương Bắc giờ đây cũng chính là một trở ngại rõ ràng khác mà Trung Quốc phải vượt qua nếu như họ muốn chiến dịch khuếch trương sức mạnh mềm của mình gặt hái được thành công ở quốc gia láng giềng phía Nam đặc biệt này.
(Hết trích dẫn)
Kinh tế
(Vibay) Kể từ khi Việt Nam tiếp tục thương mại với Trung Quốc vào cuối những năm 1980, sản xuất trong nước đã từ lâu bị đe dọa bởi hàng hóa Trung Quốc tràn ngập đất nước thông qua thương mại (buôn lậu) cả hai chính thức và không chính thức. Điều này không chỉ tạo nên một tác động tiêu cực đến sản xuất trong nước Việt Nam, nhưng cũng đặt người tiêu dùng Việt Nam có nguy cơ khi hàng nhập lậu là độc hại và có hại cho sức khỏe của người dân.
Dễ bị tổn thương khác là thâm hụt thương mại lâu năm của Việt Nam với Trung Quốc, lên tới 5,4 tỷ USD thâm hụt thương mại của đất nước và 7,5 tỷ USD trong nửa đầu năm 2011. Trung Quốc cũng đã nổi lên như là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm gần một phần tư kim ngạch nhập khẩu trong năm 2010. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc đối với nguyên liệu đầu vào cho một số ngành công nghiệp xuất khẩu chủ yếu của nó, trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ là một phần rất nhỏ của tổng nhập khẩu từ Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không tiếp tục thương mại với Việt Nam vì một lý do nào đó, thiệt hại cho nền kinh tế của Việt Nam sẽ là bao la.
Mối quan tâm khác là các công ty Trung Quốc đã giành chiến thắng lên đến 90% của EPC (kỹ thuật, mua sắm và xây dựng) hợp đồng cho các dự án công nghiệp lớn của Việt Nam, đặc biệt là các nhà máy điện đốt than. Nhà thầu Trung Quốc được ưa chuộng như họ cung cấp công nghệ giá rẻ và hứa sẽ giúp đỡ bố trí kinh phí tài chính từ ngân hàng Trung Quốc.
Tuy nhiên, mặc dù các dự án này xuất hiện với giá rẻ, trong thực tế VN trả giá đắt. Đầu tiên, công nghệ giá rẻ thường là gây ô nhiễm môi trường. Báo cáo cho thấy một số công nghệ được cung cấp bởi các công ty Trung Quốc đã ngưng hoặc cấm ở Trung Quốc kể từ năm 2005. Thứ hai, năng lực nhà thầu Trung Quốc kỹ thuật hạn chế, khiến dự án bị trì hoãn. Ngay cả khi dự án hoàn thành đúng thời hạn, kém chất lượng xây dựng thường để lại các chủ dự án với các hóa đơn bảo dưỡng đắt tiền. Thứ ba, là nhà thầu Trung Quốc từ chối sử dụng sản phẩm sẵn có ở địa phương, thay vì nhập khẩu mọi thứ từ Trung Quốc, thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng vọt. Nhà thầu Trung Quốc thậm chí bất hợp pháp đưa lao động Trung Quốc sang Việt Nam, kích động sự phẫn nộ của công chúng tại Việt Nam.
Một lỗ hổng kinh tế gần đây đã tiếp nhìn thấy với Việt Nam liên quan đến các thương gia Trung Quốc mua số lượng lớn các sản phẩm nông nghiệp Việt. Điều này làm cho giá lương thực tăng tại Việt Nam, và bất chấp những nỗ lực tuyệt vọng của chính phủ để kiềm chế lạm phát, tăng 20,8% trong tháng 6 năm 2011.
Biên giới, lãnh thổ, tài nguyên - môi trường,...
Việt Nam đã có những mất mát trong việc chia sẽ biên giới đất liền với Trung Quốc, trong đó đã dẫn đến nhiều thế kỷ xung đột vũ trang giữa hai nước, gần đây nhất trong năm 1979. Sau cuộc chiến, TQ vẽ lại bản đồ Việt - Trung. Căng thẳng Trung-Việt gần đây chủ yếu là vấn đề Biển Đông. Nơi đây, 3.500.000 km vuông, khoáng sản (dầu mỏ và khí đốt tự nhiên nằm dưới biển), và tuyến đường biển tranh chấp của các quốc gia duyên hải khác nhau. Việt Nam và Trung Quốc yêu cầu tất cả các hòn đảo nhỏ ở Biển Đông, trong khi Brunei, Malaysia, Philippines, và Đài Loan yêu cầu một số trong số đó. Trường Sa và Hoàng Sa là nổi bật nhất của các đảo, được bao quanh bởi dầu dưới đáy biển và khí đốt dự trữ.
Hải quân Việt đã có những trận chiến với người Trung Quốc trong những năm giữa thập niên 1970 và cuối những năm 1980 trên các quần đảo này. Trung Quốc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, khi Việt Nam đã chìm trong cuộc nội chiến, và từ đó thành lập đơn vị đồn trú quân sự tại đây. Chính quyền Trung Quốc cũng đã cấm người Việt Nam đánh bắt cá trong vùng biển Đông và bắt giữ tàu đánh cá ở đó, người và tàu thuyền của họ chỉ được trả lại sau khi họ trả tiền (Một kiểu hành xử của cướp biển). Họ cũng đã cảnh báo các công ty năng lượng phương Tây không được đàm phán hiệp định khoan dầu ngoài khơi với chính phủ Việt Nam.
Phần lớn trữ lượng dầu của Việt Nam nằm ngoài khơi miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã quan tâm đến việc theo đuổi các tuyên bố quần đảo Trường Sa - nơi có tiềm năng năng lượng phong phú bởi vì giảm sản lượng dầu trong nước và tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng có thể khiến Việt Nam trở thành nước nhập khẩu dầu. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng giao nhau đường thương mại hàng hải có nguồn gốc từ cảng Việt Nam và bao gồm các khu vực đánh cá Việt Nam mở rộng và nuôi trồng thủy sản. Lòng yêu nước của người Việt cũng đóng một vai trò. Các cuộc biểu tình nổ ra trên khắp Việt Nam khi Trung Quốc tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là một phần của khu đô thị của tỉnh Hải Nam trong năm 2008. Một nguồn tiềm năng của các cuộc xung đột với Trung Quốc là sông Cửu Long. Chỉ một phần nhỏ của nó chạy qua Việt Nam, nhưng nguồn nước tưới cho đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất một nửa số cây trồng lúa của Việt Nam, và làm cho Việt Nam thành quốc gia lớn thứ hai trên thới giới về xuất khẩu gạo. Đồng bằng sông Cửu Long đang bị đe dọa bởi mực nước biển dâng do thiếu nước vì việc xây đập ở khu vực thượng nguồn của Trung Quốc, điều này làm cho đồng bằng sông Cửu Long dễ bị tổn thương - tăng độ mặn đất và xói mòn đất.
Đồng bằng sông Cửu Long bị thiếu nước do các đập ở thượng nguồn TQ. Do thiếu nước ngọt, nước mặn sẽ ngày càng đi sâu vào đất liền.
Chính trị
Trích "Đừng tiếc nuối những gì mà loài người đã loại bỏ đi" của Hoàng Lại Giang:
Trung Quốc và Việt Nam. Về hình thức, đây là hai nước láng giềng có chung một thể chế chính trị là chủ nghĩa Mác – Lê – Mao. Nhưng tiềm ẩn bên trong mối quan hệ “16 chữ vàng” này là mâu thuẫn ngày càng gay gắt, không thể hóa giải ngay được. Càng có độ lùi thời gian, người dân Việt Nam càng thấy rõ âm mưu thâm hiểm của dân tộc đại Hán. Người dân bình thường cũng biết Trung Quốc đã từ bỏ chủ nghĩa Mác, nhưng vẫn giương ngọn cờ CNXH để bịp dân họ và bịp một số nhà lãnh đạo của Việt Nam hám quyền, hám chức, hám lợi.
Đi ngược dòng thời gian, từ năm 1945, lợi dụng thế “kẹt” của Việt Nam trước họa xâm lăng trở lại của Tàu Tưởng và thực dân Pháp, dưới danh nghĩa đồng minh, những nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc đã giúp Việt Nam hết lòng. Bởi vì, cùng với Bắc Triều Tiên ở Đông Bắc Á, Việt Nam là khu đệm của họ ở Đông Nam châu Á. Đây là thời kỳ, người Tàu nhận ra trước tiên “môi hở răng lạnh”. Nhưng đây cũng là thời kỳ họ lợi dụng lòng tin của ta nhiều hơn bất kỳ giai đoạn nào khác. Cùng với Stalin, Mao buộc chủ tịch Hồ Chí Minh phải làm cải cách ruộng đất theo mô hình Hoa Nam. Chu Ân Lai buộc Phạm Văn Đồng phải ký hiệp định Giơnevơ theo dự kiến ban đầu của Chu – có thể được Mao phê chuẩn. Năm 1956 họ chính thức ép ta nhượng Đông Hoàng Sa cho họ. Năm 1957 họ thuyết phục ta xây dựng ga Đồng Đăng cách Ải Nam Quan gần 500m. Lúc đầu họ nói hết đường ray. Sau họ nói để 500m từ ga Đồng Đăng đến Ải Nam Quan làm khu đệm, tập kết vũ khí từ Nga, Trung Quốc và các nước XHCN anh em để Việt Nam tiếp tục cuộc chiến đấu giành độc lập hoàn toàn. Nhưng cũng chính họ, năm 1956 khuyên ta không nên đánh lớn, đánh qui mô ở miền Nam, không nên mở rộng chiến tranh …. Năm 1958, nhân sự kiện chiến hạm Mỹ xuất hiện ở eo biển Đài Loan, họ thương lượng với ta công nhận “… hải phận 12 hải lý” của họ. Trên tinh thần đồng chí, anh em, ta giúp họ giảm bớt áp lực từ phía Mỹ với một bức thư của Phạm Văn Đồng gởi Chu Ân Lai (Tổng lý) ký ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đáng lẽ biết ơn ta thì hôm nay con cháu họ lại đem bức thư ấy ra làm cớ chiếm biển đảo của ta.
Năm 1958, họ chiếm Tây Hoàng Sa của ta, bị quân đội Việt Nam cộng hòa đánh và bắt giữ tàu ở Đà Nẵng.
Năm 1974, sau hiệp định Paris, Mỹ cam kết rút quân và không can thiệp vào Việt Nam, họ liền đánh chiếm Hoàng Sa của ta. Ta bại trận. Trên năm mươi chiến binh thuộc chính quyền Sài Gòn đã ngã xuống. Những người cách mạng im lặng! Đây là một thái độ phi văn hóa, phi truyền thống. Lịch sử không thể chấp nhận được! Những người Việt Nam đã ngã xuống vì tổ quốc Việt Nam, dù là người của bên nào cũng đáng được lịch sử vinh danh. Coi ý thức hệ cao hơn quyền lợi dân tộc là một sai lầm nguy hiểm, nếu không nói là tội lỗi! (Điều này được lặp lại ở những năm 90 của thế kỷ 20, như trên tôi đã nói).
Năm 1976 , họ xúi Khơme Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam của ta.
Năm 1979, họ đánh biên giới phía Bắc nước ta. Đây là cuộc chiến phi nghĩa đáng xấu hổ nhất thế kỷ 20 của họ, nhưng không hiểu sao báo chí ta lại ‘’định hướng‘’… im lặng …cho đến hôm nay? Nhưng lịch sử thì không bao giờ ngừng trôi, nó sẽ chảy theo đúng dòng chảy của nó: Đó là Sự thật lịch sử.
Năm 1988, họ đánh chiếm một số đảo Trường Sa của ta, sáu mươi bốn chiến sĩ của ta đã ngã xuống ở biển Đông.
Lịch sử Việt – Trung ngoài sự giúp đỡ chí tình cho cuộc chiến giải phóng dân tộc của chúng ta do những nguyên nhân sâu xa từ quyền lợi dân tộc của họ như tôi đã trình bày ở trên, còn có một sự thật lịch sử khác nữa vẫn còn lưu khá đậm trên giấy trắng mực đen và đặc biệt trong nhân dân Việt Nam – hết thế hệ này qua thế hệ khác: Đó là tư tưởng đại Hán có lịch sử từ nghìn năm qua, đừng ai vội nghĩ dễ xóa nhòa, hoặc dùng ý chí chủ quan bắt mỗi người dân Việt Nam phải quên đi, để chỉ nghĩ tới “16 chữ vàng” hôm nay.
Lịch sử quan hệ Việt – Trung cho chúng ta những bài học thật sâu sắc:
- Không có sự giúp đỡ nào trong sáng, vô tư cả!
– Không thể có bốn phương vô sản đều là anh em!
Bây giờ thì tôi thấy chính trị gia người Anh Lord Palmaroton là đúng, khi ông nói: “Chúng ta không có thù vĩnh viễn cũng như bạn muôn đời. Chỉ có quyền lợi dân tộc là vĩnh viễn và muôn đời mà thôi”.
Quân sự
Với sự phát triển kinh tế, có thể quân sự của Trung Quốc đã phát triển đáng kể, đặt ra một mối đe dọa lớn đối với an ninh của Việt Nam. Theo tuyên bố chính thức của Trung Quốc, ngân sách quân sự cho năm 2011 là 91,5 tỷ USD, trong khi Việt Nam được cho là đã phân bổ chỉ 2,6 tỷ USD. Đặc biệt đáng lo ngại cho Việt Nam là mở rộng ngân sách quân sự của Trung Quốc tập trung vào lực lượng không quân và hải quân, tăng cường năng lực của Trung Quốc vào biển Đông nơi Trung Quốc và Việt Nam đang tranh chấp chủ quyền.
Tên lửa Đông Phong của TQ, tầm bắn 3000km
Chiến thuật sống biển:
(Thanhnien Online) Các hoạt động của TQ ở biển Đông ngay từ những năm 1990 đã được các nhà nghiên cứu quốc tế đặt tên là "chiến thuật gặm nhấm". Tôi (TS Nguyễn Hồng Thao) thì thích dùng hình tượng "chiến thuật sóng biển" để khái quát hóa các động thái gần đây của TQ ở biển Đông hơn. Trước mỗi cơn bão, sóng biển xô bờ với bước sóng ngày càng ngắn và cao độ ngày càng lớn hơn. Sóng xô vào rồi rút ra. Bạn nghĩ an toàn rồi, chịu được thì cơn sóng khác lại ập đến to hơn, cao hơn. Bạn vượt qua quen dần, không phòng bị cho đến khi cơn bão quật đến.
Năm 1992 khi VN có phản ứng vụ Crestone, TQ đã tạm dừng. Tới 1995, TQ quay sang Philippines ở Đá Vành Khăn. 1996 là vụ đường cơ sở ở Hoàng Sa. 1998, TQ đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá. Lo ngại dấy lên, các nước lên tiếng, TQ tạm thời dịu đi và ký DOC. Sau đó là Hiệp định khảo sát Trung - Phi (2004). Bị phản đối, họ lùi chấp nhận Thỏa thuận ba bên Trung - Phi - Việt (2005). Khi thỏa thuận này kết thúc 2008 thì 2009 TQ đưa đường lưỡi bò ra LHQ. Vừa qua là các vụ quấy nhiễu Philippines ở Bãi Cỏ Rong, cắt cáp tàu Bình Minh II và Viking 2 trên thềm lục địa VN. Khi bị phản đối dữ dội, Bản hướng dẫn thực thi DOC được ký nhưng sau đó lại là tàu sân bay và dàn khoan trên biển.
Mỗi lần TQ phô trương sức mạnh đều cố đạt một cái gì đó, tạo sự đã rồi và xoa dịu dư luận bằng một bước lùi nhẹ trước khi tiến một bước dài mới. Vì vậy, tình hình sẽ còn phức tạp nếu các nước ASEAN không đoàn kết, dư luận thế giới không đồng lòng ngăn chặn kịp thời các bước phiêu lưu đe dọa hòa bình ổn định ở biển Đông.
Nói như Perry Diaz, một nhà báo Philippines (tháng 6 năm 2011): Trong một hội nghị bàn về tranh chấp biển Đông, các chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc nói rằng đường lối cứng rắn trong các Học viện quân sự Trung Quốc là "để dạy cho hàng xóm" một bài học vì "đã xâm nhập vào biển Đông," mà họ nghĩ rằng phát động cuộc chiến chống lại "kẻ xâm lược" là chính đáng. Thật ngạc nhiên là Trung Quốc bây giờ gọi Philippine và Việt Nam là "kẻ xâm lược".
Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào chúng ta có thể bảo vệ lãnh thổ Trường Sa khỏi bị tấn công bởi Trung Quốc? Có lẽ giải pháp là chào đón người Mỹ trở lại, nếu không trong một ngày đẹp trời chúng ta có thể thức dậy để xem những người lính Trung Quốc canh gác trên bờ biển của chúng ta mà không biết chuyện gì đã xảy ra tối qua./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét