Vibay

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2011

Anh hùng - Thiếu tướng Lê Mã Lương: Chúng ta tiếp tục khẳng định chủ quyền đất nước

(Người Cao Tuổi - 09/12/2011) Sau phiên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn các đại biểu Quốc hội về tình hình kinh tế - xã hội, xây dựng Luật Biểu tình, khẳng định chủ quyền biển đảo… Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Lê Mã Lương trao đổi với phóng viên Báo Người cao tuổi về vấn đề chủ quyền Biển Đông…

PV: - Là người nhiều năm nghiên cứu lịch sử và phục vụ trong quân đội, trong đó có hơn nửa thập kỉ ở biên giới phía Bắc Tổ quốc, ông suy nghĩ gì khi thời gian qua Trung Quốc có những hoạt động đe dọa đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam?

Anh hùng Lê Mã Lương: - Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, quan hệ hai nước có những lúc thăng trầm nhưng Trung Quốc là người bạn, người láng giềng tốt của dân tộc Việt Nam. Chúng ta không bao giờ quên những đóng góp, ủng hộ của nhân dân, của Đảng và Chính phủ Trung Quốc. Tuy nhiên, từ năm 1979 - 1986, tranh chấp biên giới Việt - Trung liên tục xảy ra. Với sự nỗ lực của lãnh đạo hai nước, việc cắm mốc biên giới trên đất liền đã tạm ổn, nhưng vấn đề biển Đông lại đang bị “xới xáo”.

Hồi còn ở biên giới, khi tiếp xúc với những người dân Trung Quốc, ban đầu tôi rất ngạc nhiên bởi mỗi ngày, họ trồng một cây ngô, một cây đậu, một cây khoai, mua rễ cây sa mộc, cây trẩu, hoa hòe, nắn dòng chảy trên sông, suối có lợi cho Trung Quốc để đạt mục tiêu lấn sang đất Việt Nam. Nhưng càng về sau, càng hiểu rằng hành động đó xuất phát từ tư tưởng bành trướng đã ăn sâu vào suy nghĩ của người Trung Quốc từ thế hệ nọ tới thế hệ kia. Vì vậy, sự kiện tàu quân sự của Trung Quốc ngụy trang thành tàu dân sự, cắt cáp tàu Bình Minh và Viking 2 của Việt Nam, tôi không quá bất ngờ.

PV: - Mới đây, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi với các đảo ở Biển Đông và lập trường của chúng tôi dựa trên các bằng chứng lịch sử cũng như pháp lí, bất kì quốc gia nào tiến hành các hoạt động thăm dò dầu khí trong phạm vi quyền hạn này mà không có sự chấp thuận của Trung Quốc là vi phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Theo ông, những hành động và phát ngôn đó của Trung Quốc có là bước đi trong chiến lược bành trướng lâu dài đã được vạch sẵn?

Anh hùng Lê Mã Lương: - Những hành động, phát ngôn đó rất thiếu trách nhiệm và thiếu thiện chí. Âu cũng là một bước đi trong chiến lược bành trướng lâu dài đã được vạch sẵn của một số lãnh đạo Trung Quốc. Việc khống chế Biển Đông nằm trong chiến lược, ý đồ lâu dài của Trung Quốc, không đơn thuần là vấn đề dầu mỏ, khí đốt mà còn gây áp lực lên các nước Đông Nam Á, làm giảm bớt ảnh hưởng của Mỹ và một số nước khác ở khu vực này.


Anh hùng LLVTND, Thiếu tướng Lê Mã Lương tại nhà riêng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay Trung Quốc khó mà thực hiện được ý đồ của mình. Bởi vấn đề lịch sử Biển Đông của Trung Quốc nêu ra với thế giới không có sức thuyết phục vì trái với Luật Biển quốc tế. Hơn nữa, tham vọng của Trung Quốc là muốn đàm phán song phương với từng nước có xung đột, song các nước như Phi-lip-pin, Việt Nam, Ma-lai-xi-a, Ấn Độ… thừa hiểu nếu đoàn kết lại thì nhất định Trung Quốc phải điều chỉnh chiến lược về Biển Đông. Mặt khác, không chỉ có Mỹ mà các nước như Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản… cũng sẽ bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình theo Luật Biển quốc tế. Trước đó, Ấn Độ cũng đã bác bỏ sự phản đối của Trung Quốc về việc thăm dò dầu khí. Ấn Độ tuyên bố hợp tác với Việt Nam là phù hợp với luật pháp quốc tế. Bộ Ngoại giao Ấn Độ từng khẳng định: “Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải ở các vùng biển quốc tế, bao gồm cả Biển Đông và quyền qua lại phù hợp với các nguyên tắc được chấp thuận của luật pháp quốc tế. Các nguyên tắc này cần được tất cả các bên tôn trọng”.

PV: - Ông suy nghĩ thế nào về quan điểm của PGS.TS. Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính trị thế giới cho rằng, đứng về những lợi ích quan trọng nhất của Việt Nam, Trung Quốc và các nước ASEAN, nếu các bên đều nhìn về những lợi ích cơ bản, nhìn vào những triển vọng cơ bản thì hoàn toàn có những cơ sở để giải quyết tốt đẹp?

Anh hùng Lê Mã Lương: - Tôi đồng ý với quan điểm của PGS.TS. Võ Đại Lược. Từ kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp về phân định biên giới trên bộ và Vịnh Bắc bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, tôi thấy kinh nghiệm để giải quyết các tranh chấp ở biển Đông bằng thương lượng, hợp tác thì tất cả các bên đều có lợi. Nếu xảy ra xung đột thì không nước nào được lợi. Thậm chí còn sụt giảm, mất cả vai trò, vị thế trên trường quốc tế.

PV: - Ông đánh giá thế nào về nội dung Thủ tướng Chính phủ trả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội về quan điểm và chủ trương của Chính phủ về vấn đề biển đảo trước những hành động của các thế lực bên ngoài vi phạm chủ quyền biển đảo của chúng ta?

Anh hùng Lê Mã Lương: - Cụ thể: Về chủ trương của Chính phủ bảo đảm chủ quyền ở Biển Đông, bảo đảm ngư dân đánh bắt cá: Quán triệt đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia của Đảng và Nhà nước ta và trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển 1982 LHQ, Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông - DOC đã kí giữa ASEAN và Trung Quốc, căn cứ vào thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên mà ta và Trung Quốc kí mới đây trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc.

Căn cứ chủ trương, đường lối, nguyên tắc trên, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền với bốn loại vấn đề trên Biển Đông.

Thứ nhất, đàm phán với Trung Quốc để phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Trong Vịnh Bắc Bộ, sau nhiều năm đàm phán, ta và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận, phân định ranh giới năm 2000. Còn vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, nếu theo Công ước Luật Biển 1982, thềm lục địa của chúng ta chồng lấn với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Từ năm 2006, hai bên đã tiến hành đàm phán. Mãi đến năm 2009, hai bên quyết định tạm dừng vì lập trường của hai bên khác xa nhau. Đến đầu năm 2010, hai bên thỏa thuận nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Sau nhiều vòng đàm phán, nguyên tắc đó đã được hai bên kí kết trong dịp Tổng Bí thư thăm Trung Quốc.

Trên nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển này, vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vì vậy, hai nước cùng nhau đàm phán để phân định ranh giới vùng biển này trên cơ sở Công ước Luật Biển, Tuyên bố DOC và các nguyên tắc đã thỏa thuận để đưa ra giải pháp hợp lí mà hai bên có thể chấp nhận được. Chúng ta đang cùng Trung Quốc thúc đẩy xúc tiến đàm phán giải quyết phân định này. Cũng xin nói thêm, trong khi chưa phân định, trên thực tế, với chừng mực khác nhau, hai bên cũng đã tự hình thành vùng quản lí của mình trên cơ sở đường trung tuyến. Trên cơ sở này, chúng ta có đối thoại với Trung Quốc bảo đảm an ninh an toàn cho khai thác nghề cá của đồng bào.

Thứ hai, chúng ta phải khẳng định chủ quyền về quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam có đủ căn cứ pháp lí và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự, ít nhất là từ thế kỉ XVII, khi hai quần đảo này chưa có bất kì một quốc gia nào có mặt. Và chúng ta đã làm chủ trên thực tế, liên tục, hòa bình, nhưng đối với Hoàng Sa, năm 1956, Trung Quốc đã đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo.

Năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lí của chính quyền Sài Gòn, tức chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn đã lên án việc làm này và đề nghị LHQ can thiệp. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ pháp lí và lịch sử để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán, giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này phù hợp Hiến chương LHQ, Công ước Luật Biển, Tuyên bố DOC.

Thứ ba, quần đảo Trường Sa, năm 1975, giải phóng, thống nhất Tổ quốc, hải quân ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa, đó là: đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca. 5 đảo này do quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lí, chúng ta tiếp quản. Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo... Ngoài ra, chúng ta còn xây dựng thêm 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở vùng biển này, thuộc 200 hải lí vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trong khi đó, ở quần đảo Trường Sa này, Trung Quốc đã chiếm 7 đảo đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi, Phi-líp-pin chiếm 5 đảo, Ma-lai-xi-a, Bru-nây đòi chủ quyền trên vùng biển nhưng không giữ đảo nào.

Như vậy, trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia, các bên có đòi hỏi chủ quyền, cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà ta đang nắm giữ.

PV: - Ông thấy những chủ trương của chúng ta đối với thực hiện chủ quyền ở quần đảo Trường Sa được Thủ tướng đưa ra như thế nào?

Anh hùng Lê Mã Lương: - Trước hết ta yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực.

Thứ hai, chúng ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế - xã hội, kĩ thuật, cơ sở vật chất ở các nơi ta đang nắm giữ: Đường sá, điện nước, trạm xá, trường học, nước để cải thiện đời sống, tăng cường khả năng tự vệ của quân dân ở quần đảo này.

Thứ ba, chúng ta có cơ chế chính sách, hiện đã có, Chính phủ đang yêu cầu sơ kết, đánh giá lại cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bào ta khai thác thủy hải sản, vận tải biển trong khu vực này, khuyến khích hỗ trợ bà con ta làm ăn sinh sống và thực hiện chủ quyền trên vùng biển Trường Sa.

Thứ tư, liên quan cam kết quốc tế, chúng ta nghiêm túc thực hiện và yêu cầu các bên liên quan nghiêm túc thực hiện theo đúng Công ước Luật Biển 1982 và Tuyên bố DOC, bảo đảm tự do hàng hải ở Biển Đông, hòa bình và an ninh trật tự, ở Biển Đông. Đây là mong muốn và lợi ích của các bên, không chỉ của Việt Nam. Biển Đông là tuyến đường vận tải hàng hóa từ Đông sang Tây, chiếm từ 50-60% tổng lượng hàng hóa vận tải từ Đông sang Tây. Chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền trong phạm vi 200 hải lí thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam theo Công ước Luật Biển 1982. Chúng ta đã và sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền, quản lí, thực hiện chủ quyền ngày càng đầy đủ và hiệu quả hơn.

PV: - Xin cảm ơn ông!

Tuấn Đạt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét