Âm mưu bành trướng không che đậy của Trung Quốc (TQ) đã khiến cục diện an ninh - quốc phòng khu vực đang thay đổi sâu sắc với mức độ gần như toàn diện. Việc các quốc gia sắm vũ khí hoặc liên kết hợp tác quốc phòng hầu như xuất hiện hàng ngày.
Nếu chẳng phải vì chính sách “Thuận ngã giả xương, nghịch ngã giả vong” của TQ (Theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại ta thì ta cho chết) thì hòa bình khu vực đã không bịđe dọa và các nước đã chẳng đầu tư cho quốc phòng nhiều đến vậy. Duyên hải phòng ngự bây giờ đã trở thành chính sách an ninh quốc gia hàng đầu đối với châu Á…
Đ ể đối phó với “đại chu biên lưỡi bò”
Philippines đã lên kế hoạch hiện đại hóa quốc phòng với bước khởi động 14 tỉ peso (318 triệu USD) mới được giải ngân cho quân đội (1); trong khi Ấn Độ vừa mua 9 chiến đấu cơMiG-29K của Nga để trang bị cho hàng không mẫu hạm INS Vikramaditya (2), trong khuôn khổ chương trình nâng cấp hải quân với ngân sách gần 50 tỉ USD trong hai thập niên tới (3). Đó là chưa kể hợp đồng 10 vận tải cơ C-17 Globemaster III trị giá 4,1 tỉ USD với Boeing – hợp đồng trị giá cao nhất từ trước tới nay giữa Ấn Độ với một công ty vũ khí Mỹ (4).
Năm 2010, Viện Nghiên cứu Hòa bình quốc tế Stockholm cho biết các thương vụ vũ khí tại châu Á đã tăng gấp đôi từ 2005 đến 2009 so với 5 năm trước, với Malaysia tăng 722%, Singapore 146%, Indonesia 84%… (5); và báo cáo mới nhất của viện này (công bố tháng 3-2011) cho thấy thêm rằng trong giai đoạn 2006-2010, châu Á cùng châu Đại Dương chiếm 43% thương vụ nhập khẩu vũ khí (nhiều nhất thế giới) và nước nhập vũ khí nhiều nhất giai đoạn trên là Ấn Độ (9%); theo sau là TQ (6%) và Hàn Quốc (6%)…
Ngay cả với một đảo quốc nhỏ bé lâu nay vốn yên phận với chính sách dĩ hòa vi quý là Singapore cũng đẩy mạnh đầu tư quốc phòng (mua 8 chiếc F-15E của Mỹ; hai tàu khu trục La Fayette của Pháp, 40 xe tăng của Đức – chiếm 4% thương vụ nhập vũ khí năm 2010)… Năm 2009, Malaysia mua chiến đấu cơ trang bị tên lửa hiện đại từ Nga, tàu ngầm từ Pháp và Tây Ban Nha, khu trục hạm từ Đức và xe tăng từ Ba Lan…
Với Hàn Quốc, chỉ riêng từ năm 1999 đến 2006, chi tiêu quốc phòng đã tăng hơn 70% (6). Từ năm 2007, Hàn Quốc đã bắt đầu có mặt trong nhóm 5 nước duy nhất trên thế giới có tàu khu trục được trang bị hệ thống tên lửa bắn chặn hiện đại Aegis. Và để đối phó “cục diện quốc phòng khu vực đang thay đổi từng ngày”, Hàn Quốc đã đưa ra chương trình “Cải tổ quốc phòng” trị giá 665 tỉ USD với việc tăng ngân sách quốc phòng trung bình 10%/năm từ năm 2007 đến 2020. Báo cáo ngân sách quốc phòng 2010 của Hàn Quốc cho thấy, nước này đã tăng chi tiêu lên 23,7% chỉ riêng cho dàn tàu chiến so với năm trước…
Để có thể ứng chiến với dàn tàu ngầm của TQ dù đa số là mẫu tàu của Liên Xô từ thập niên 50-60 của thế kỷ trước được tân trang (7), các nước khu vực cũng xoáy mạnh đầu tư vào tàu ngầm. Đây là một trong những điểm đáng chú ý trong chiến lược quốc phòng khu vực mà rõ ràng là nhằm phòng thủ trước tư duy “đại chu biên lưỡi bò” bao trùm biển Đông của TQ. Đầu thập niên 90, Hàn Quốc bắt đầu chế tạo chiếc đầu tiên trong số 9 tàu ngầm hiện đại dựa vào mẫu Type 209 của Đức. Sau khi mua 4 tàu ngầm cũ của Thụy Điển hồi thập niên 90, Singapore lại mua thêm 2 chiếc năm 2005.
Trong khi đó, Malaysia mua vài chiếc lớp Scorpene từ Pháp và Indonesia mua lớp Kilo từ Nga (tương tự Việt Nam, với 6 chiếc). Với Australia, nước này đã lên kế hoạch thay thế6 chiếc lớp Collins cũ (dự kiến năm 2025 sẽ bỏ kho) bằng 12 chiếc thế hệ mới trang bị tên lửa hành trình với trị giá khoảng 25 tỉ đôla Australia (trở thành chương trình hiện đại hóa quốc phòng tốn kém nhất lịch sử Australia). Và với Ấn Độ, tàu ngầm và khu trục hạm hẳn còn chưa đủ. Nước này đang đầu tưđáng kể vào hàng không mẫu hạm.
Hiện Ấn Độ có 1 hàng không mẫu hạm, chiếc INS Vikramaditya 44.500 tấn (vốn là chiếc Adm Gorshkov thuộc lớp Kiev của Liên Xô, đang được tân trang tại Ukraine, dự kiến hoạt động vào cuối năm 2012). Công nghiệp tàu Ấn Độ cũng đang tự đóng hàng không mẫu hạm riêng (chiếc INS Vikrant dự kiến sẽ hạ thủy năm 2014 và chiếc thứ 2 năm 2017). Nhưđã nói, Ấn Độ là nước đầu tư quốc phòng mạnh nhất châu Á, nếu không kể TQ. New Dehli đặc biệt tập trung vào hải quân.
Từ năm 2002, Ấn Độ bắt đầu xây dựng chương trình hiện đại hóa để biến họ thành lực lượng hải quân mạnh thứ ba thế giới (8), so với vị trí hạng 5 hiện tại (họ hiện có 171 tàu chiến với khoảng 250 chiếc đấu cơ). Năm 2009, Ấn Độ bắt đầu đóng INS Arihant, chiếc tàu ngầm hạt nhân tự chế tạo đầu tiên, dự kiến hạ thủy cuối năm 2011 (trở thành nước thứ 6 thế giới có khả năng tự đóng tàu ngầm hạt nhân). INS Arihant trang bị tên lửa Shaurya (do chính Ấn Độ sản xuất) mang đầu đạn hạt nhân với tầm xa 750km được thiết kế đặc biệt cho (việc phóng từ) tàu ngầm. Tàu ngầm INS Arihant dài 111m còn có 12 tên lửa Sagirika với tầm xa 1.900km.
Ấn Độ đang xúc tiến chương trình đóng 5 tàu ngầm hạt nhân trong một thập niên tới với chi phí 2,9 tỉ USD… Với châu Á, nhất thiết phải kể đến Nhật. Hải quân nước này hiện có 44.000 quân, 18 tàu ngầm, 47 khu trục hạm (hầu hết được trang bị tên lửa Aegis – số lượng nhiều thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ), 9 tàu phá mìn, 9 tàu đổ bộ…
Chỉ tàu chiến không chưa đủ để đương đầu với “sức mạnh quân sự” từ phía TQ! Phải có thêm các căn cứ hải quân mới có thể hỗ trợ các chiến dịch quân sự nếu xảy ra chiến tranh, hay ít nhất cũng làm điểm chốt quân sự đóng vai trò như một vị trí chiến lược ngoại giao. Đảo Jeju là một căn cứ như vậy (9).
Là một tỉnh tự trị thuộc Hàn Quốc, Jeju (diện tích 1.848km2; dân số hơn 530.000 người) có một vị trí cực kỳ chiến lược, xét về mặt quân sự. Nhìn trên bản đồ, có thể thấy Jeju chỉ cách Thượng Hải 490km (theo đường chim bay), Bắc Kinh 940km, Hongkong 1.700km, Đài Bắc 1.030km… Phía đông đối mặt đảo Tsushima và tỉnh Janggi của Nhật; phía tây nhìn thẳng sang Thượng Hải.
Thời Thế chiến thứ hai, Nhật Bản từng sử dụng Jeju để bảo vệ nước Nhật trước quân đội Mỹ. Tại đó, Nhật đã dựng nhiều xưởng may quân nhu để cung cấp cho 75.000 lính của họ. Với cảnh quan thanh bình và thơ mộng như thiên đường, Jeju đã được UNESCO chọn là Di sản Văn hóa thế giới năm 2007 và cố Tổng thống Roh Moo-hyun cũng từng gọi Jeju là “hòn đảo hòa bình”.
Tuy nhiên, với nhu cầu bức thiết cho an ninh quốc gia, Hàn Quốc đang biến đảo Jeju thành căn cứ hải quân, với hỗ trợ tích cực của đồng minh Mỹ. Seoul dự kiến lập cảng cho dàn khu trục hạm trang bị tên lửa Aegis (do nhà thầu Lockheed Martin cung cấp) tại Jeju. Dự kiến hoạt động vào năm 2014, quân cảng Jeju sẽ là điểm đồn trú của “biên đội tác chiến di động” với dàn tàu chiến hùng hậu gồm khu trục hạm KDX-II 4.500 tấn, khu trục hạm KDX-III 7.600 tấn trang bị tên lửa Aegis, tàu ngầm Type-214 1.800 tấn, trực thăng diệt tàu ngầm (của Hãng Westland Lynx, Anh)(10)…
Với biển Đông, luận điệu Trung Quốc là “đường lưỡi bò”. Với Ấn Độ Dương, đó là chiến lược “Chuỗi ngọc trai” (“Nhất xuyến trân châu”) trong khuôn khổ cái gọi là “Hải thượng thông tín tuyến lộ”.
Thắt chặt hợp tác quốc phòng
Kế hoạch điều chỉnh quốc phòng để cân bằng sức mạnh quân sự với TQ bằng việc mua sắm súng ống thật ra chưa quan trọng so với những động thái hợp tác quốc phòng giữa châu Á với Mỹ, bởi chính điều này mới thật sự tạo ra một cục diện hoàn toàn mới đối với quốc phòng khu vực, với những ảnh hưởng tới quan hệ ngoại giao, đưa đến những tính toán có tính chiến lược lâu dài và dần có thể trở thành lá chắn phòng thủ chung cho châu Á trước sự đe dọa hung hăng từ TQ. Quan hệ quốc phòng mang tính đối phó tức thì giữa Philippines và Mỹ trong thời gian gần đây là một ví dụ. Không chỉ mở hầu bao mua vũ khí của Mỹ mà Manila còn có thể cho phép quân đội Mỹ trở lại đóng quân ở nước mình (tại hai căn cứ truyền thống Subic và Clark). Tháng 8/2011, Mỹ sẽ giao cho Philippines một tàu tuần dương hiện đại thuộc lớp Hamilton – một trong những phản hồi cực kỳ “tích cực” trước cảnh báo nảy lửa của Thứ trưởng Ngoại giao TQ Thôi Thiên Khải rằng, Mỹ “không nên đùa với “hỏa” coi chừng phỏng tay” (vào ngày 22/6/2011), dù chính TQ là nơi châm ngọn lửa đang lan rộng khắp biển Đông, xuất phát từ một động thái ngoại giao mà cây bút sừng sỏ Daniel Blumenthal (vốn là Phó giám đốc Ủy ban An ninh – Kinh tế Mỹ – Trung và là Giám đốc đặc trách TQ – Đài Loan – Mông Cổ thuộc Phòng An ninh Quốc tế của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ) nói là TQ “đang cưỡi lên lưng cọp”(11).
Xét về khả năng tạo lực cản (đối với chiến lược lấn rộng và lấn sâu của TQ tại biển Đông) có thể được xem là đáng sợ nhất (nếu TQ, còn sáng suốt nhận thấy như vậy!), sựhợp tác quốc phòng đáng chú ý hơn cả là giữa Mỹ và đồng minh truyền thống Nhật Bản. Tại cuối cuộc họp của Ủy ban Tư vấn An ninh ở Washington DC giữa Ngoại trưởng MỹHillary Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates cùng hai đồng cấp Takeaki Matsumoto và Toshimi Kitazawa mới đây, hai bên: “Sau khi xem xét và cập nhật “Các mục tiêu chiến lược chung”, “dựa vào những biến động trong môi trường an ninh tại Thái Bình Dương trong đó có sự tăng cường xây dựng quân đội của TQ” – đã cùng kết luận rằng, việc tăng cường bảo vệ an ninh biển Đông là điều quan trọng nhất, trong đó có sự “cộng tác” của Australia cùng Hàn Quốc. Với sự gắn kết của 4 nước phát triển hùng mạnh từ tài lẫn vật (Mỹ, Nhật, Australia, Hàn Quốc), có thể thấy cục diện quốc phòng Thái Bình Dương đang và sẽ nghiêng về bên nào.
Thắt chặt hợp tác quốc phòng
Kế hoạch điều chỉnh quốc phòng để cân bằng sức mạnh quân sự với TQ bằng việc mua sắm súng ống thật ra chưa quan trọng so với những động thái hợp tác quốc phòng giữa châu Á với Mỹ, bởi chính điều này mới thật sự tạo ra một cục diện hoàn toàn mới đối với quốc phòng khu vực, với những ảnh hưởng tới quan hệ ngoại giao, đưa đến những tính toán có tính chiến lược lâu dài và dần có thể trở thành lá chắn phòng thủ chung cho châu Á trước sự đe dọa hung hăng từ TQ. Quan hệ quốc phòng mang tính đối phó tức thì giữa Philippines và Mỹ trong thời gian gần đây là một ví dụ. Không chỉ mở hầu bao mua vũ khí của Mỹ mà Manila còn có thể cho phép quân đội Mỹ trở lại đóng quân ở nước mình (tại hai căn cứ truyền thống Subic và Clark). Tháng 8/2011, Mỹ sẽ giao cho Philippines một tàu tuần dương hiện đại thuộc lớp Hamilton – một trong những phản hồi cực kỳ “tích cực” trước cảnh báo nảy lửa của Thứ trưởng Ngoại giao TQ Thôi Thiên Khải rằng, Mỹ “không nên đùa với “hỏa” coi chừng phỏng tay” (vào ngày 22/6/2011), dù chính TQ là nơi châm ngọn lửa đang lan rộng khắp biển Đông, xuất phát từ một động thái ngoại giao mà cây bút sừng sỏ Daniel Blumenthal (vốn là Phó giám đốc Ủy ban An ninh – Kinh tế Mỹ – Trung và là Giám đốc đặc trách TQ – Đài Loan – Mông Cổ thuộc Phòng An ninh Quốc tế của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ) nói là TQ “đang cưỡi lên lưng cọp”(11).
Xét về khả năng tạo lực cản (đối với chiến lược lấn rộng và lấn sâu của TQ tại biển Đông) có thể được xem là đáng sợ nhất (nếu TQ, còn sáng suốt nhận thấy như vậy!), sựhợp tác quốc phòng đáng chú ý hơn cả là giữa Mỹ và đồng minh truyền thống Nhật Bản. Tại cuối cuộc họp của Ủy ban Tư vấn An ninh ở Washington DC giữa Ngoại trưởng MỹHillary Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates cùng hai đồng cấp Takeaki Matsumoto và Toshimi Kitazawa mới đây, hai bên: “Sau khi xem xét và cập nhật “Các mục tiêu chiến lược chung”, “dựa vào những biến động trong môi trường an ninh tại Thái Bình Dương trong đó có sự tăng cường xây dựng quân đội của TQ” – đã cùng kết luận rằng, việc tăng cường bảo vệ an ninh biển Đông là điều quan trọng nhất, trong đó có sự “cộng tác” của Australia cùng Hàn Quốc. Với sự gắn kết của 4 nước phát triển hùng mạnh từ tài lẫn vật (Mỹ, Nhật, Australia, Hàn Quốc), có thể thấy cục diện quốc phòng Thái Bình Dương đang và sẽ nghiêng về bên nào.
Phần mình, Mỹ rõ ràng đã không còn bỏ rơi và bỏ lỏng Thái Bình Dương. Điều đó được khẳng định bởi những ý kiến kêu gọi Washington tăng cường sức mạnh quân sự liên tục được “dội” lên các trang báo Mỹ, hối thúc Washington phải tỏ rõ vị thế là cường quốc số một thế giới về quân sự. Một bài bình luận mới đây (13) còn nhấn mạnh, Nhà Trắng không nên cắt ngân sách quốc phòng bởi chỉ như vậy mới có thể đương đầu với nanh vuốt của con cọp TQ. Bài báo cho biết, Bộ Quốc phòng Mỹ đang phát triển khái niệm quân sự mới gọi là “Trận chiến Hải – Không” (AirSea Battle) với sự ăn nhịp đồng bộ giữa hải quân và không quân. Kế hoạch thắt lưng buộc bụng quốc phòng do đó sẽ làm suy yếu hải quân – lực lượng chủ lực của AirSea Battle, trong khi hải quân nói rằng, họ cần 328 con tàu so với 284 hiện tại; cần nhiều chiến đấu cơ thế hệ thứ năm hơn, nhiều tàu ngầm hơn, nhiều khu trục hạm hơn…
Thay vì liên kết châu Á để tạo ra một “thế kỷ châu Á” (như từng được dự báo cuối thế kỷ XX), bằng chính sách “Hòa bình quật khởi” (phát triển trên tinh thần hòa bình) thật sự, để đưa mình lên vị trí trung tâm của luận thuyết đầy tham vọng là “Hoa vi trung” (Sinocentric) một cách nhẹ nhàng theo bài bản của thủ thuật sử dụng nhuyễn lực (quyền lực mềm), TQ đã tự tách ra khỏi quỹ đạo chung của các nước láng giềng châu Á bằng lối tiếp cận “cương lực” đầy ngạo mạn và ngổ ngáo. Làm thế nào mà một mình TQ có thểđối phó với cả châu Á để giành chiếm trọn biển Đông? Trong khi họ thật ra hoàn toàn chưa đủ sức mạnh toàn diện để có thể đóng vai anh bá vương khu vực! Nhà phân tích Carl Ungerer thuộc Viện Chính sách chiến lược Australia đã bình một câu nghe thật nhớ đời: “TQ háu ăn vô độ nhưng mà họ còn chưa mọc đủ răng”!(14).
Chuyện gì xảy ra khi Trung Quốc thọc tay vào Ấn Độ Dương?
Không chỉ với khu vực nóng hổi châu Á – Thái Bình Dương, TQ còn tham vọng thọc tay cả vào Ấn Độ Dương. Với biển Đông, luận điệu TQ là “đường lưỡi bò”. Với Ấn Độ Dương, đó là chiến lược “Chuỗi ngọc trai” (“Nhất xuyến trân châu”) trong khuôn khổ cái gọi là “Hải thượng thông tín tuyến lộ”. Sự “manh động” của TQ tại Ấn Độ Dương tất nhiên không lọt khỏi tầm mắt các bên liên quan và cũng đang dẫn đến những tư duy mới trong chiến lược phòng thủ đối với các nước khu vực…
Cái “lưỡi lợn” ở Ấn Độ Dương
Ngay sau chuyến kinh lý TQ của Thủ tướng Pakistan Yusuf Raza Gilani hạ tuần tháng 5-2011, ông Ahmad Mukhtar, Bộ trưởng Quốc phòng nước này tuyên bố rằng, Pakistan sẵn sàng giang tay chào đón TQ đến lập quân cảng tại Gwadar (tỉnh Baluchistan, nam Pakistan), nơi mà Công ty Cảng Loan kiến thiết (China Harbour Engineering Co) đã chi 200 triệu USD để xây công trình hải cảng hiện đại (động thổ năm 2007). Gwadar là một trong những điểm chiến lược tại vành đai Ấn Độ Dương. Cách biên giới Iran 70km về phía đông và nằm ở vị trí cửa ngõ vịnh Ba Tư, cảng Gwadar là điểm xung yếu với tầm quan trọng không chỉ đối với tuyến hàng hải thương mại mà còn quân sự. Với tuyến lộ “Nhất xuyến trân châu” mà Gwadar là một trong những “viên ngọc” chính yếu, TQ có thể né được eo biển Malacca (nằm giữa Indonesia và Malaysia) vốn là một trong những điểm nhức nhối đặc biệt đối với các tàu dầu và thương mại của TQ lâu nay, do họ thường xuyên bị đe dọa và quấy rầy không phải bởi… lực lượng Hải giám từ nước láng giềng nào đó mà bởi bọn hải tặc liều mạng!
Thời điểm hiện tại, Bắc Kinh vẫn phủ nhận “tin đồn” xây quân cảng tại Gwadar, nhưng điều đó không khiến người ta ngừng nghi ngờ, đặc biệt khi TQ lâu nay vốn dòm ngó Gwadar như một trong những điểm kết nối của chiến lược “Chuỗi ngọc trai” – tức những điểm cảng được xâu nối, bắt đầu từ TQ đến Bangladesh rồi bọc qua Sri Lanka để vào biển Arập, tạo thành một hình chẳng khác gì cái “lưỡi… lợn” ôm trọn nước Ấn Độ và Ấn Độ Dương. Nếu đặt một căn cứ hải quân tại Gwadar, sức mạnh chiến lược TQ chắc chắn sẽ được cộng thêm. Từ bàn đạp Gwadar, TQ không chỉ có thể phủ sóng quân sự sâu vào Trung Đông mà còn thọc gót giày đinh vào Trung Á lẫn châu Phi. Và nếu Mỹ rút quân hết khỏi Afghanistan như cam kết của Tổng thống Barack Obama, Bắc Kinh càng có thuận lợi để “điền vào chỗ trống”.
Chuyện gì xảy ra khi Trung Quốc thọc tay vào Ấn Độ Dương?
Không chỉ với khu vực nóng hổi châu Á – Thái Bình Dương, TQ còn tham vọng thọc tay cả vào Ấn Độ Dương. Với biển Đông, luận điệu TQ là “đường lưỡi bò”. Với Ấn Độ Dương, đó là chiến lược “Chuỗi ngọc trai” (“Nhất xuyến trân châu”) trong khuôn khổ cái gọi là “Hải thượng thông tín tuyến lộ”. Sự “manh động” của TQ tại Ấn Độ Dương tất nhiên không lọt khỏi tầm mắt các bên liên quan và cũng đang dẫn đến những tư duy mới trong chiến lược phòng thủ đối với các nước khu vực…
Cái “lưỡi lợn” ở Ấn Độ Dương
Ngay sau chuyến kinh lý TQ của Thủ tướng Pakistan Yusuf Raza Gilani hạ tuần tháng 5-2011, ông Ahmad Mukhtar, Bộ trưởng Quốc phòng nước này tuyên bố rằng, Pakistan sẵn sàng giang tay chào đón TQ đến lập quân cảng tại Gwadar (tỉnh Baluchistan, nam Pakistan), nơi mà Công ty Cảng Loan kiến thiết (China Harbour Engineering Co) đã chi 200 triệu USD để xây công trình hải cảng hiện đại (động thổ năm 2007). Gwadar là một trong những điểm chiến lược tại vành đai Ấn Độ Dương. Cách biên giới Iran 70km về phía đông và nằm ở vị trí cửa ngõ vịnh Ba Tư, cảng Gwadar là điểm xung yếu với tầm quan trọng không chỉ đối với tuyến hàng hải thương mại mà còn quân sự. Với tuyến lộ “Nhất xuyến trân châu” mà Gwadar là một trong những “viên ngọc” chính yếu, TQ có thể né được eo biển Malacca (nằm giữa Indonesia và Malaysia) vốn là một trong những điểm nhức nhối đặc biệt đối với các tàu dầu và thương mại của TQ lâu nay, do họ thường xuyên bị đe dọa và quấy rầy không phải bởi… lực lượng Hải giám từ nước láng giềng nào đó mà bởi bọn hải tặc liều mạng!
Thời điểm hiện tại, Bắc Kinh vẫn phủ nhận “tin đồn” xây quân cảng tại Gwadar, nhưng điều đó không khiến người ta ngừng nghi ngờ, đặc biệt khi TQ lâu nay vốn dòm ngó Gwadar như một trong những điểm kết nối của chiến lược “Chuỗi ngọc trai” – tức những điểm cảng được xâu nối, bắt đầu từ TQ đến Bangladesh rồi bọc qua Sri Lanka để vào biển Arập, tạo thành một hình chẳng khác gì cái “lưỡi… lợn” ôm trọn nước Ấn Độ và Ấn Độ Dương. Nếu đặt một căn cứ hải quân tại Gwadar, sức mạnh chiến lược TQ chắc chắn sẽ được cộng thêm. Từ bàn đạp Gwadar, TQ không chỉ có thể phủ sóng quân sự sâu vào Trung Đông mà còn thọc gót giày đinh vào Trung Á lẫn châu Phi. Và nếu Mỹ rút quân hết khỏi Afghanistan như cam kết của Tổng thống Barack Obama, Bắc Kinh càng có thuận lợi để “điền vào chỗ trống”.
Tham vọng “Chuỗi ngọc trai” thể hiện ngày một rõ với thủ thuật thắt chặt bang giao kinh tế – chính trị của TQ với những nước nằm trên vành đai. Vài năm gần đây, TQ đã từng bước xây dựng các điểm kết nối từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương – từ Hải Nam đến các đảo nhỏở eo biển Malacca trong đó có loạt đầu tư xây dựng các công trình cảng tại Chittagong (Bangladesh); Sittwe, Coco, Hianggyi, Khaukphyu, Mergui và Zadetkyi Kyun (Myanmar); Laem Chabang (Thái Lan); Sihanoukville tại Campuchia; nhiều công trình cảng tại Ấn Độ Dương (Maldives, Pakistan…) và cả những đảo nhỏở biển Arập và vịnh Ba Tư. Tại vài đảo, TQ thậm chí xây hoặc nâng cấp đường băng cũng như thiết lập cơ sởquân sự, chẳng hạn tại đảo Phú Lâm (“Woody Island” – tên quốc tế; hay “Vĩnh Hưng đảo” – tên TQ) mà TQ đã chiếm của nước ta từ năm 1974 (15).
Một trong những nước được TQ ngắm đến nữa là Sri Lanka với việc đầu tư vào cảng Hambantota của nước này. Tiến trình xây dựng đã bắt đầu giai đoạn 1 vào năm 2008 với tổng kinh phí lên đến 1 tỉ USD (dự kiến hoàn thành trước năm 2023). Chẳng phải tự nhiên và “tốt lành” gì mà TQ đưa một nước nhỏ và “nghèo rớt mùng tơi” như Sri Lanka vào ghế “đối tác đối thoại” tại Tổ chức hợp tác Thượng Hải; cũng như hào phóng cho nước này vay nợ thoải mái (TQ đã qua mặt Nhật Bản để trở thành nhà viện trợ lớn nhất cho Sri Lanka). Bahukutumbi Raman – cựu viên chức tình báo cấp cao Ấn Độ – nói rằng, “sự hiện diện Hải quân Trung Quốc tại Hambantota chắc chắn sẽ làm tăng thêm mối lo cho Hải quân Ấn Độ”. Và với phía tây, TQ cũng bắt đầu đầu tư cho điểm nút Kenya… Trong báo cáo nội bộ do Hãng thầu quốc phòng Booz Allen Hamilton soạn cho (cựu) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld năm 2005, đề tựa “Energy Futures in Asia”, nhóm nghiên cứu cho biết, TQ thật ra không thuần túy thiết lập các điểm liên lạc thông tin (“Hải thượng thông tín tuyến lộ”) trên vành đai bao quanh Ấn Độ Dương (Booz Allen đặt tên là “Chuỗi ngọc trai”) mà thực chất đa số là những điểm nghe trộm chĩa tai vào Ấn Độ(16). Âm mưu TQ đãđược cảnh giác từ cuối thập niên 90, khi Bộ tư lệnh phía nam của quân đội Mỹ đưa ra một báo cáo mật cho biết TQ đã lên kế hoạch dùng những cảng thương mại khắp thế giới để kiểm soát các nút thắt có giá trị chiến lược quân sự. “TQ đang hướng đến việc không chỉ xây dựng lực lượng “hải quân xanh” (hiểu là xa bờ – MK) nhằm kiểm soát các tuyến hàng hải mà còn phát triển các bãi mìn ngầm cũng như khả năng tên lửa để ngăn chặn sự gián đoạn có thể của nguồn cung cấp năng lượng cho họtừ những mối đe dọa tiềm tàng, trong đó có Hải quân Mỹ” – báo cáo viết. Bắc Kinh tin rằng, Mỹ chắc chắn sẽ bít ngay nguồn cung cấp dầu từ Arập đến TQ một khi xung đột Đài Loan xảy ra – báo cáo chỉ thêm – và những nút chặn chiến lược tại “Chuỗi ngọc trai” là nhằm đối phó nguy cơđó…
Không chỉ là vấn đề “Nhất xuyến trân châu”
Chi tiết thời sự có thể giúp khẳng định thêm tham vọng TQ trong việc thiết lập “Hải thượng thông tín tuyến lộ” (Đường liên lạc biển), hay nói cách khác là “Chuỗi ngọc trai”, đặc biệt tại Pakistan, là việc Bắc Kinh lợi dụng quan hệ căng thẳng giữa Islamabad và Washington sau vụ biệt kích Mỹ tiêu diệt Osama bin Laden ngay “trong nhà” Pakistan ngày 2-5-2011. Về cái lối biến kẻ thù của kẻ thù thành bạn mình, TQ là một tay thâm cao thủ. Trong thực tế, Bắc Kinh lâu nay vẫn tranh giành ảnh hưởng Pakistan với Mỹ (trong khi Pakistan lại chơi hai mặt bằng cách vừa ngửa tay nhận tiền viện trợ của Mỹ vừa thậm thụt với TQ, để không chỉ làm lá bài mặc cả chuyện này chuyện kia với Mỹ mà còn nhằm sử dụng TQ như sức mạnh đối trọng với Ấn Độ, bởi quan hệ Bắc Kinh – New Dehli chưa bao giờ thật sự bình yên từ các mâu thuẫn biên giới). Cặp chơi xì phé Pakistan – Trung Quốc đã lật bài ngửa vào cuối tháng 5-2011, khi họ tuyên bố xúc tiến thực hiện hợp đồng để bàn giao 50 chiếc JF-17 Thunder cung cấp cho không quân Pakistan “trong vòng vài tuần” mà đáng lý kéo dài khoảng 2 năm.
Một trong những nước được TQ ngắm đến nữa là Sri Lanka với việc đầu tư vào cảng Hambantota của nước này. Tiến trình xây dựng đã bắt đầu giai đoạn 1 vào năm 2008 với tổng kinh phí lên đến 1 tỉ USD (dự kiến hoàn thành trước năm 2023). Chẳng phải tự nhiên và “tốt lành” gì mà TQ đưa một nước nhỏ và “nghèo rớt mùng tơi” như Sri Lanka vào ghế “đối tác đối thoại” tại Tổ chức hợp tác Thượng Hải; cũng như hào phóng cho nước này vay nợ thoải mái (TQ đã qua mặt Nhật Bản để trở thành nhà viện trợ lớn nhất cho Sri Lanka). Bahukutumbi Raman – cựu viên chức tình báo cấp cao Ấn Độ – nói rằng, “sự hiện diện Hải quân Trung Quốc tại Hambantota chắc chắn sẽ làm tăng thêm mối lo cho Hải quân Ấn Độ”. Và với phía tây, TQ cũng bắt đầu đầu tư cho điểm nút Kenya… Trong báo cáo nội bộ do Hãng thầu quốc phòng Booz Allen Hamilton soạn cho (cựu) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld năm 2005, đề tựa “Energy Futures in Asia”, nhóm nghiên cứu cho biết, TQ thật ra không thuần túy thiết lập các điểm liên lạc thông tin (“Hải thượng thông tín tuyến lộ”) trên vành đai bao quanh Ấn Độ Dương (Booz Allen đặt tên là “Chuỗi ngọc trai”) mà thực chất đa số là những điểm nghe trộm chĩa tai vào Ấn Độ(16). Âm mưu TQ đãđược cảnh giác từ cuối thập niên 90, khi Bộ tư lệnh phía nam của quân đội Mỹ đưa ra một báo cáo mật cho biết TQ đã lên kế hoạch dùng những cảng thương mại khắp thế giới để kiểm soát các nút thắt có giá trị chiến lược quân sự. “TQ đang hướng đến việc không chỉ xây dựng lực lượng “hải quân xanh” (hiểu là xa bờ – MK) nhằm kiểm soát các tuyến hàng hải mà còn phát triển các bãi mìn ngầm cũng như khả năng tên lửa để ngăn chặn sự gián đoạn có thể của nguồn cung cấp năng lượng cho họtừ những mối đe dọa tiềm tàng, trong đó có Hải quân Mỹ” – báo cáo viết. Bắc Kinh tin rằng, Mỹ chắc chắn sẽ bít ngay nguồn cung cấp dầu từ Arập đến TQ một khi xung đột Đài Loan xảy ra – báo cáo chỉ thêm – và những nút chặn chiến lược tại “Chuỗi ngọc trai” là nhằm đối phó nguy cơđó…
Không chỉ là vấn đề “Nhất xuyến trân châu”
Chi tiết thời sự có thể giúp khẳng định thêm tham vọng TQ trong việc thiết lập “Hải thượng thông tín tuyến lộ” (Đường liên lạc biển), hay nói cách khác là “Chuỗi ngọc trai”, đặc biệt tại Pakistan, là việc Bắc Kinh lợi dụng quan hệ căng thẳng giữa Islamabad và Washington sau vụ biệt kích Mỹ tiêu diệt Osama bin Laden ngay “trong nhà” Pakistan ngày 2-5-2011. Về cái lối biến kẻ thù của kẻ thù thành bạn mình, TQ là một tay thâm cao thủ. Trong thực tế, Bắc Kinh lâu nay vẫn tranh giành ảnh hưởng Pakistan với Mỹ (trong khi Pakistan lại chơi hai mặt bằng cách vừa ngửa tay nhận tiền viện trợ của Mỹ vừa thậm thụt với TQ, để không chỉ làm lá bài mặc cả chuyện này chuyện kia với Mỹ mà còn nhằm sử dụng TQ như sức mạnh đối trọng với Ấn Độ, bởi quan hệ Bắc Kinh – New Dehli chưa bao giờ thật sự bình yên từ các mâu thuẫn biên giới). Cặp chơi xì phé Pakistan – Trung Quốc đã lật bài ngửa vào cuối tháng 5-2011, khi họ tuyên bố xúc tiến thực hiện hợp đồng để bàn giao 50 chiếc JF-17 Thunder cung cấp cho không quân Pakistan “trong vòng vài tuần” mà đáng lý kéo dài khoảng 2 năm.
Trò chơi chính trị lợi dụng lẫn nhau giữa Bắc Kinh và Islamabad cho thấy nó mang lại nhiều rủi ro và nguy hiểm, bởi chẳng khác gì tạo ra thêm một thùng thuốc súng đối với an ninh khu vực vốn dĩ luôn chực nổ giữa Ấn Độ và Pakistan. Nó đồng thời cho thấy thêm rằng, TQ dính đến đâu là có chuyện đến đó! Tháng 4-2011, Trung tướng Tư lệnh trưởng Bộ Tư lệnh phía bắc của Ấn Độ, K.T.Patnaik nói rằng, lính TQ đã có mặt tại vùng ranh giới nhạy cảm thuộc vùng lãnh thổ tranh chấp Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan (19). “Nhiều người bây giờ lo rằng, ngộ nhỡ xảy ra chuyện thù địch giữa chúng tôi (Ấn Độ) với Pakistan thì TQ có thể được ghép vào tội đồng lõa như thế nào đây?” – Tướng Patnaik nói. Pakistan phản hồi rằng, hoàn toàn không có chuyện lính TQ cắm ở đất mình, chắc là “tình ngay lý gian” thôi, do có lần TQ có cử lính của họ đến giúp Pakistan chống đỡmột trận lụt. Tuy nhiên, New Delhi vẫn tin rằng, đó là những bằng chứng cụ thể cho thấy quân đội TQ không chỉ bao vây Ấn Độ ngoài Ấn Độ Dương mà cả trên đất liền. Một sĩ quan cấp cao nghỉ hưu của Ấn Độ cho biết, Cơ quan Tình báo Pakistan lâu nay thật ra là “bạn nhậu” thân thiết với tình báo TQ chứ không phải với CIA. Cần nhắc lại, tháng 1-2011, Ấn Độ đã bắt và trục xuất một nữ điệp viên TQ tên Vương Cầm cải trang làm phóng viên để thâm nhập vào tổ chức phiến quân Nagalim (NSCN-IM), một trong những nhóm bạo loạn lớn nhất Ấn Độ. Trước đó, tháng 10-2010, Ấn Độ cũng bắt được Anthony Shimray thuộc NSCN-IM tại Bangkok và tên này khai rằng, tình báo Trung Quốc đã ngỏlời giúp NSCN-IM mua tên lửa SAM!
TQ lại tiếp tục “uống mật gấu” khi phóng hai máy bay quân sự đến đảo tranh chấp Senkaku. Điếu Ngư ngày 4/7/2011, ngay thời điểm mà Ngoại trưởng Nhật – Takeaki Matsumoto đang có mặt tại Bắc Kinh để nói chuyện tử tế với Phó chủ tịch TQ Tập Cận Bình, Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc và Ngoại trưởng Dương Khiết Trì. Phản hồi việc Nhật phóng hai chiến đấu cơ F-15 lên nghênh tiếp, TQ nói rằng, Nhật nên “ngưng ngay” những “hành động mạo hiểm” tại biển Đông vì hoạt động máy bay quân sự TQ là “hoàn toàn” phù hợp luật pháp quốc tế – một lập luận nghe ngày càng quen tai nhưng mỗi lúc mỗi nghịch nhĩ. Nói là TQ “uống mật gấu” khi gây hấn với Nhật không phải không có lý do…
Nhật điều chỉnh sách lược quốc phòng như thế nào?
Nói về sức mạnh quân sự khu vực châu Á, Nhật có thể được xếp vào hàng đầu bảng. TQ hoàn toàn không có “cửa” khi so với Nhật về khoa học kỹ thuật lẫn khoa học quân sự, nếu không nói thẳng rằng, trình độ kỹ thuật quân sự TQ còn kém Nhật đến hàng thập niên. Trong khi TQ bất tài và kém cỏi về thực lực khoa học quân sự đến nỗi đành phải mua xác chiếc Varyag về “mổ bụng” để nghiên cứu kỹ thuật đóng tàu và tân trang nó thành cái – gọi – là “hàng không mẫu hạm Thi Lang”, gần 100 năm trước, Nhật đã có thể không chỉ tự đóng tàu sân bay mà còn thử nghiệm thực tế chiến trường với những trận hải chiến ngang dọc dậy sóng Thái Bình Dương từ thời Thế chiến thứ nhất. Sức mạnh quân sự Nhật hẳn còn kinh khủng như thế nào nữa, nếu Nhật không ngạo mạn gây hấn với cả khu vực để cuối cùng bị dập nát sau khi đánh thức người khổng lồ Mỹ và cuối cùng bị khống chế với điều 9 Hiến pháp nghiêm cấm phát triển quân đội được soạn sau Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, với sự “trỗi dậy hòa bình” của TQ, Nhật đã bắt đầu điều chỉnh chiến lược quốc phòng. Trong “Đề cương hướng dẫn chương trình phòng thủ quốc gia” do Bộ Quốc phòng Nhật ấn hành ngày 17/12/2010, Tokyo lần đầu tiên nhấn mạnh đến mối lo ngại về an ninh khu vực lẫn toàn cầu bởi sự phát triển quân sự không kiềm chế của TQ và do đó Nhật đã phải “chẳng đặng đừng” có động thái thích hợp để “tương thích”.
Sự cân chỉnh quốc phòng Nhật khó có thể bắt đầu từ ngân sách. Từ năm 1967 đến nay, ngân sách quốc phòng Nhật bị quy định không bao giờ vượt quá 1% GDP. Năm 2009, ngân sách quốc phòng Nhật là 4,77 nghìn tỉ yen, tương đương 0,94% GDP và 9,2% ngân sách chính phủ (23). Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm cho biết, chi tiêu quốc phòng Nhật năm 2008 là 46,3 tỉ USD – đứng thứ 7 thế giới sau Mỹ, TQ, Pháp, Anh, Nga và Đức. Nguồn (24) cho biết thêm, bởi sức khỏe ốm yếu của nền kinh tế, ngân sách quốc phòng Nhật đã giảm trung bình 5,2% kể từ năm 2001, xuống còn 4,68 ngàn tỉ yen, tức khoảng 56,4 tỉ USD. Trong tương lai, ngân sách quốc phòng Nhật cũng sẽ không tăng. Dự toán (tổng cộng) 5 năm tới là khoảng 23,49 nghìn tỉ yen (279 tỉ USD), giảm 750 tỉ yen so với giai đoạn tài khóa 2005-2009 (25). Để vượt qua vấn đề ngân sách teo tóp và tình trạng bị trói chân, trói tay bởi điều 9 của Hiến pháp, Tokyo đã ứng biến bằng cách tập trung nâng chất hơn là lượng (26). Cục Phòng vệ Nhật bắt đầu thiết lập nguyên tắc cho khả năng “phòng thủ cơ động”, giúp Không quân Nhật có thể phản ứng tức thời với mức độ linh hoạt cao (ngoài ra, một ủy ban trong Nội các chịu trách nhiệm điều phối với tất cả đơn vị của không quân cũng được thành lập).
Việc trang bị vận tải cơ chiến thuật C-2 Kawasaki (to gấp 4 thế hệ C-1) là nhằm đạt mục tiêu trên. Nhật còn đầu tư nghiên cứu chiến đấu cơ tàng hình để thay thế phi đội 202 chiếc F-15 Eagle thuộc thế hệ thập niên 70 của thế kỷ trước (dù máy bay này – của Hãng McDonnell Douglas, nay thuộc Boeing – là một trong những máy bay chiến đấu thành công nhất lịch sử với hơn 100 trận chiến trên không chưa hề thua trận nào!). Một trong những dự án nghiên cứu chiến đấu cơ tàng hình đáng chú ý nhất của Nhật là máy bay Shinshin (do Mitsubishi Heavy Industries đầu tư), có thể ra đời sau năm 2016 (27). Trước mắt, Nhật đang vận động hành lang (lobby) Quốc hội Mỹ để được mua F-22 Raptor do Lockheed Martin/Boeing tung ra từ năm 2005 (150 triệu USD/chiếc) – thế hệ máy bay chiến đấu được đánh giá số một hiện nay – nhưng Mỹ chưa đồng ý (với những tính năng vượt trội và kỹ thuật hiện đại, F-22 Raptor nằm trong danh sách những thiết bị quân sự – vũ khí hoàn toàn nghiêm cấm không được chuyển giao cho nước ngoài).
Mô hình chiến đấu cơ ứng dụng công nghệ tàng hình 5G Shishin ATD-X của Nhật Bản dự trù sẽ cất cánh vào năm 2016
Sự điều chỉnh phòng không còn bao gồm việc lực lượng Phòng vệ không quân tại căn cứ Naha (Okinawa) được bổ sung thêm một phi đội chiến đấu cơ chiến thuật; đồng thời dàn thêm hệ thống tên lửa bắn chặn PAC3 (Patriot Advanced Capability-3) cho 6 nhóm phòng không thay vì 3 nhóm hiện nay. Với bộ binh, yếu tố cơ động được chú ý với việc đưa vào sử dụng xe tăng hạng nhẹ TK-X MBT (Mitsubishi Heavy Industries sản xuất). Về phòng thủ tên lửa, năm 2011 sẽ là giai đoạn cuối của dự án hợp tác Mỹ – Nhật trong chương trình lắp hệ thống tên lửa bắn chặn hiện đại cho khu trục hạm Nhật (đây là phần tốn kém nhất trong ngân sách quốc phòng Nhật). Vài năm gần đây, Nhật đã đầu tư mạnh cho hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo: 1,1 tỉ USD năm 2004; 1,2 tỉ USD năm 2005; 1,4 tỉ USD năm 2006; 1,8 tỉ USD năm 2007, 1,1 tỉ USD năm 2008 và 1,1 tỉ USD năm 2009 (23) – bên cạnh việc “phát triển kỹ thuật khoa học quân sự” với ngân sách 1,2-1,8 tỉ USD/năm; và “xây dựng một hệ thống mạng thông tin liên lạc hiện đại” với 1,6-2,1 tỉ USD/năm.
Hệ thống hỏa tiễn đánh chặn SM-3 (Aegis) khai hỏa từ khu trục hạm Kongo
Với Hải quân, hạm đội tàu ngầm sẽ được tăng từ 16 lên 22 chiếc; tăng số khu trục hạm trang bị dàn tên lửa bắn chặn Aegis, đồng thời bổ sung hệ thống tên lửa chống đạn đạo SM-3 (Standard Missile-3) từ 4 lên 6; chưa kể việc nâng cấp khu trục hạm JDS Atago (DDG-177) và JS Ashigara (DDG-178) (đều do Mitsubishi Heavy Industries sản xuất). Cuối cùng, lực lượng tuần dương Nhật được giao nhiều vai trò hơn, với chức năng và hành động như là một lực lượng Hải quân thứ hai sau lực lượng Hải quân chính quy. Tư duy chiến lược quốc phòng mới cũng đề cập việc tái tổ chức lực lượng bộ binh. Lâu nay vốn đóng chủ yếu ở Hokkaido (phần cực Bắc đối diện Nga), bộ binh Nhật (155.000 lính) bây giờ được điều động tăng cường quanh quần đảo Nansei thuộc Okinawa (nam nước Nhật) và tại khu vực gần TQ và Đài Loan. Điều quan trọng cuối cùng cần nói là Hải quân Nhật cũng có kinh nghiệm (nhiều hơn Hải quân TQ) với vô số các cuộc thao dượt và tập trận với Mỹ cùng nhiều nước khác (chưa kể các chiến dịch hỗ trợ quân đội Mỹ trong cuộc chiến Iraq và Afghanistan).
Hải Quân Mỹ Nhật tập trận
Cựu cố vấn cấp cao Singapore Lý Quang Diệu từng nói: Chẳng lực lượng Hải quân châu Á nào có thể đọ nổi với Hải quân Nhật! Với bề dày lịch sử về kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật đóng tàu của Nhật, điều đó chẳng có gì lạ (hiện tại, Nhật có số tàu chiến hơn gấp đôi Hải quân Hoàng gia Anh và tàu ngầm gấp đôi Hải quân Pháp). Nhật có một lực lượng Hải quân được trang bị khả năng chống tàu ngầm (anti-submarine warfare-ASW) vô địch châu Á (28), được tổ chức thành bốn hạm đội, gồm 4 khu trục hạm Kongo (trang bị Aegis); 3 tàu chiến siêu tốc Towada; và 16 tàu ngầm – tất cả đều được kết nối hệ thống điện tử liên lạc đồng bộ với 100 máy bay tuần tra Lockheed P-3 Orion. Đó là chưa kể hai “siêu” khu trục hạm JDS Hyuga 13.500 tấn với bãi đáp trực thăng hoàn toàn có khả năng phòng không độc lập, được “giới thiệu” từ năm 2007. Có thể chở 11 trực thăng to loại Chinook hay 18-24 trực thăng nhỏ, Hyuga được trang bị kỹ thuật liên lạc hiện đại đến mức nó có thể trở thành tàu chỉ huy điều phối một cuộc chiến lớn. Nó còn có hệ thống tác chiến liên hợp PARS (Phased Array Radars); 64 tên lửa phòng không tầm trung Evolved Sea Sparrow (của Hãng Mỹ Raytheon; 800.000USD/quả) và hai khẩu pháo Phalanx CIWS 20 ly. Với thủy thủ đoàn 350 người, Hyuga thật ra chẳng khác gì một hàng không mẫu hạm mini, giống như loại Invincible của Anh, hoàn toàn có khả năng làm bãi phóng cho chiến đấu cơ như Harrier II hoặc F-35B JSF (mà Mỹ đang nghiên cứu để trang bị cho các tàu chiến đổ bộ)… Năm 2009, Nhật tiếp tục trình làng tàu ngầm thế hệ mới Sôryu (“Rồng Xanh”) chạy bằng hệ thống AIP (Air Independent Propulsion) “êm như lụa” dù nó nặng 2.900 tấn. Ngoài ra, còn có các hệ thống trên bộ điều phối liên lạc với các trạm thu tín hiệu tình báo từ vệ tinh và máy bay thám thính…
Bộ binh Nhật được nâng cấp với chiến thuật cơ động hơn và hỏa lực mạnh hơn
Điều đáng nói nhất về khả năng quân sự Nhật là họ không rình mò chôm chỉa hay ăn cắp của ai. Hầu hết vũ khí hiện đại Nhật đều do tự họ làm. Cứ nhìn khả năng kỹ thuật nghiên cứu không gian hay kỹ thuật trí thông minh nhân tạo của Nhật đủ biết trình độ khoa học nước này cao như thế nào. Theo một tài liệu năm 2008 (29), ba công ty vũ khí lớn nhất của Nhật là Mitsubishi Heavy Industries, Kawasaki Heavy Industries và Mitsubishi Electric. Xét về quy mô, ba công ty trên không thể so với những tập đoàn khổng lồ của Mỹ hay châu Âu nhưng xét về tổng doanh thu (total revenue), họ không hề nhỏ chút nào. Năm 2007, tổng doanh thu Mitsubishi Heavy Industries (26,024 tỉ USD) còn lớn hơn Raytheon (20,291 tỉ USD) của Mỹ và gần bằng BAE Systems (26,967 tỉ USD) của Anh; tương tự, tổng doanh thu của NEC (39,460 tỉ USD) gần tương đương với Lockheed-Martin (39,620 tỉ USD)!
Cần nhắc lại, ngay từ thời Thế chiến thứ hai, Nhật đã sản xuất được loại máy bay chiến đấu được đánh giá là hiện đại nhất và nguy hiểm nhất thế giới thời đó! Đó là chiếc Mitsubishi A6M Zero, được đưa vào sử dụng rộng rãi đầu Thế chiến thứ hai. Trong các cuộc đụng độ vào đầu cuộc chiến, Mitsubishi A6M Zero (chính là loại được dùng trong các chiến dịch Thần Phong) đã trở thành huyền thoại bởi khả năng bắn hạ máy bay đối phương với tỉ lệ “12 ăn 1”! Không đáng nể sao được, khi mà thời đó, Mitsubishi A6M Zero có thể bay với vận tốc 500km/giờở độ cao 4.000m và có khả năng nhào xuống độ cao 3.000m chỉ trong 3,5 giây! Mitsubishi A6M Zero, do kỹ sư Jiro Horikoshi thiết kế, được làm bằng hợp kim nhôm 7075 (trong chương trình nghiên cứu hợp kim quân sự tuyệt mật) mà Hãng Sumitomo Metal Industries sản xuất năm 1936. Gọi là hợp kim duralumin siêu đặc biệt, nó nhẹ và cứng hơn bất kỳ hợp kim nào khác thời điểm đó. Ngày 13/9/1940, Mitsubishi A6M Zero bắt đầu ghi những điểm đầu tiên trên bảng tỉ số, khi 13 chiếc Zero đụng độ với 27 chiếc đối phương (Polikarpov I-15 của Liên Xô và I-16 của Quốc dân đảng Trung Hoa) và bắn hạ không sót một mống! Một năm sau, Mitsubishi A6M Zero bắn cháy tan tành thêm 99 chiếc của Quốc dân đảng (vài tài liệu khác ghi 266 chiếc – theo Wikipedia). Mitsubishi A6M Zero đã vậy thì tất nhiên người em của nó hiện tại, Mitsubishi F-2, tất nhiên mạnh hơn nhiều (F-2 là sản xuất hợp tác giữa Mitsubishi Heavy Industries và Lockheed-Martin).
Nói về cái sự nhỏ trong khuôn khổ khái niệm kích cỡ, diện tích nước Nhật chỉ lớn hơn gần gấp ba tỉnh Quảng Đông của TQ (377.944km2 so với 177.900km2) với dân số chỉ hơn khoảng 23 triệu người (127 triệu so với 104 triệu) nhưng giá trị sức mạnh nước Nhật là ở chỗ tinh thần tự lực tự cường của họ, chứ không phải ăn cắp chỗ này một ít chỗ kia một tị, rồi tự thổi phồng sức mạnh mình để từ đó tỏ thói huênh hoang như một tên giàu xổi mới nổi cứ nghĩ ta đây là ông trời con muốn bắt tất cả phải nằm bẹp phủ phục dưới chân mình! Xét ở nhiều góc độ, Nhật, dù không phải là quốc gia có chân trong “ngũ cường” thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, mới đáng mặt là nước lớn và chững chạc một cách đáng kính trọng, với những đóng góp cụ thể và bền vững cho thế giới (đặc biệt các chiến dịch nhân đạo). Chỉ riêng điều này đã có thể thấy được tầm vóc nhỏ nhoi đáng hổ thẹn của “ông trời con” khi so với Nhật. Hơn nữa, Nhật đã thấu hiểu thế nào là bài học lịch sử đắt giá phải trả bằng cả một sinh mệnh dân tộc khi dở thói bá quyền du côn. Là dân châu Á với nhau, TQ hẳn cần nhận thức rõ điều đó mới phải. Còn nữa, với tiềm lực quân sự mạnh như vậy của Tokyo mà có kẻ còn nghĩ đến việc muốn đập Nhật thì phải nói là tên đó hẳn đã phải say rượu Mao Đài pha mật gấu, say lắm, say khướt, say dữ dội đến nỗi hóa thành… lú lẫn mất trí.
...
Theo: uminhcoc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét