Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, vịnh Cam Ranh luôn giữ vai trò là một quân cảng quan trọng bậc nhất. Hội tụ đầy đủ những ưu thế mang tầm chiến lược về địa lý, hàng hải cũng như vị thế lịch sử quan trọng, Cam Ranh ngày nay luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt không chỉ của giới quân sự mà cả các nhà đầu tư quốc tế.
Gần đây, khi Việt Nam chuẩn bị xây dựng trung tâm cảng dịch vụ tại vịnh Cam Ranh nhằm tăng cường tác dụng của khu vực này trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội, người ta lại càng thấy quý giá hơn những gì Cam Ranh đã, đang và sẽ mang lại cho đất nước…
Radio Autralia: Việt Nam cho phép tàu nước ngoài sử dụng quân cãng Cam Ranh.
Trình bày: Liam Cochrane - Diễn giả: Ben Bland, Vietnam Correspondent, Financial Times, Hanoi
Sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc làm căng thẳng khu vực dẫn đến tàu quân sự Mỹ trở lại các bến cảng Việt Nam.
Việt Nam đã quyết định cho tàu nước ngoài sử dụng một căn cứ hải quân tại Quân cảng Cam Ranh giữa lúc căng thẳng gia tăng trên các hòn đảo tranh chấp ở Biển Đông.
Mỹ và Nga dự kiến sẽ đến lập căn cứ, trong một nỗ lực để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc.
Việt Nam đã đưa ra quyết định sau khi tàu giám sát hàng hải Trung Quốc cắt cáp được sử dụng bởi tàu thăm dò dầu Việt trong vùng biển tranh chấp.
Người trình bày: Liam Cochrane
Diễn giả: Ben Bland, phóng viên Việt Nam, Financial Times, Hà Nội
Bland: Đây là một tất yếu trong tranh chấp đang diễn ra xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong biển Đông và vùng biển xung quanh. Việt Nam hiện đang chiếm một số quần đảo Trường Sa, nhưng họ tuyên bố chủ quyền tất cả các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa hiện đang bị chiếm đóng bởi Trung Quốc và có một số khác nước Đông Nam Á và châu Á, bao gồm Brunei, Malaysia, Philippines và Đài Loan cũng đòi một số các hòn đảo này, đó là các rạn san hô và vấn đề thực sự nằm ở chổ là người ta tin rằng có rất nhiều dầu và khí đốt bên dưới các rạn san hô. Ngoài ra còn có ngư trường giàu có xung quanh các đảo và tuyến hàng hải quan trọng bật nhất của thế giới đi qua khu vực này, đây là một tuyến đường biển quan trọng đó là lý do tại sao Mỹ, Úc, Nga, các nước khác ngoài khu vực cũng có lợi ích trong khu vực này.
Cochrane: Bây giờ cho chúng tôi biết làm thế nào các vấn đề căn cứ hải quân ở Vịnh Cam Ranh được mở rộng cho nhiều nước ?
Blend: Vâng như bạn biết, Vịnh Cam Ranh là một biểu tượng chiến tranh lạnh khi người Mỹ đã ở đó, khi họ đã chiến đấu trong cuộc chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam và khi nó là một trong căn cứ Mỹ lớn nhất tại Việt Nam, và sau đó Nga lấy nó khi người Mỹ rời Việt Nam, cho thuê nó hơn 20 năm, trả lại trong năm 2002. Kể từ đó, các cơ sở phần lớn bị bỏ hoang. Hải quân Việt Nam đã có một cơ sở nhỏ, nhưng năm ngoái thủ tướng của Việt Nam công bố kế hoạch mở cơ sở để lực lượng hải quân nước ngoài đến đóng quân, Việt Nam sẽ không cho hải quân một nước thuê, nhưng nó sẽ cho phép lực lượng hải quân khác nhau đi vào để sửa chữa tàu của họ, để tiếp nhiên liệu, giao lưu quân sự và có khả năng là tập trận chung. Và điều này rất quan trọng vì Vịnh Cam Ranh được cho là một trong những cảng nước sâu tự nhiên tốt nhất tại Đông Nam Á. Đó là một vịnh rất sâu, được bảo vệ khỏi các cơn bão và nó cũng thực sự nằm ở vị trí chiến lược, gần các đảo tranh chấp và các vùng biển tranh chấp.
Cochrane: Vai trò của nó trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Làm thế nào mà động thái này được thực hiện tại Việt Nam?
Blend: Vâng, những người tôi đã nói chuyện ở đây hầu hết hoan nghênh động thái này, mặc dù có rất nhiều căng thẳng về ý tưởng của các lực lượng nước ngoài quay trở lại, vì vậy Chính phủ đã liên tục cố gắng nhấn mạnh rằng nó không phải là cho thuê toàn bộ. Nó cho phép người nước ngoài đến neo đậu Và tôi nghĩ chính phủ Việt Nam và nhân dân Việt Nam ngày càng hiểu rằng khi họ đối mặt với một Trung Quốc mạnh mẽ hơn bao giờ hết, Việt Nam cần phải tiếp cận với nhiều đối tác quốc tế để giúp cân bằng sự gia tăng của Trung Quốc và tôi nghĩ rằng chúng ta đang thấy rằng ở biển Đông trong mười năm qua, Trung Quốc đã thực sự tăng sức mạnh của hải quân, các căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam và kết quả là Việt Nam biết là không thể tranh chấp với đố thủ quá tầm. Họ cần liên minh với các nước khác trên thế giới để thử và đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực này.
Cochrane: Bây giờ bạn đề cập đến Mỹ và Nga là lực lượng hải quân tiềm năng quan tâm đến cảng này. Và bất kỳ các nước khác có thể quan tâm trong việc sử dụng căn cứ hải quân này?
Blend: Nó cũng có nghĩa tôi đã không đi ra ngoài để nói về quan tâm chính thức của họ, nhưng tôi nghĩ bạn có thể thấy, bạn có thể thấy lực lượng hải quân như hải quân Ấn Độ, Hàn Quốc, hải quân Úc, lực lượng hải quân khác đã thực sự gọi là ở tại các cảng khác của Việt Nam trong quá khứ. Bạn có thể nhìn thấy chúng đến, bởi vì họ, tất cả các quốc gia này rõ ràng tất cả đều có một quan tâm đến việc giữ những tuyến đường biển thương mại quan trọng mở. Họ cũng có lợi ích trong việc giúp cân bằng, sự gia tăng ở Trung Quốc, theo cách tinh tế. Tôi nghĩ không ai đề xuất các tàu đi vào vịnh Việt Nam để đối đầu với Trung Quốc. Nhưng tôi nghĩ rằng sự hiện diện của tàu khác nhau đến ở sẽ thúc đẩy vị trí của Việt Nam. Tôi nghĩ bạn đã nhìn thấy một điều tương tự ở Singapore từ lâu đã mở ra cơ sở Changi hải quân của mình sang Mỹ, đến Nhật Bản và Thái Lan và lực lượng hải quân khác và đó rõ ràng đã giúp thúc đẩy cảm khả năng của Singapore về an ninh, nó cũng tăng tiền thu cho họ. Các nhà phân tích nói với tôi rằng Singapore kiếm được cái gì đó như 30 triệu USD một năm từ việc đưa các tàu nước ngoài vào và khi họ trả tiền để sử dụng cơ sở vật chất và tôi nghĩ rằng thúc đẩy tài chính cũng sẽ được chào đón tại Việt Nam vào lúc này, nhất định sẽ cần thiết cho nền kinh tế.
Cochrane: Chắc chắn. Đã có được bất kỳ phản ứng từ Trung Quốc?
Blend: Không có phản ứng nào được nêu ra. Đây là vấn đề đang diễn ra. Như tôi đã nói thủ tướng đã thông báo tin tức này năm ngoái. Tôi hiểu rằng có một số chuyên gia tư vấn kỹ thuật của Nga hiện đang xem xét làm thế nào họ có thể xây dựng các cơ sở. Tôi nghĩ là nó sẽ mất một vài năm để cải thiện cơ sở để nó đủ tốt cho các tàu để đến neo đậu. Vì vậy, chúng ta chưa thấy bất kỳ phản ứng nào được nêu ra từ Trung Quốc, nhưng trong quá khứ, Trung Quốc đã từng trải nghiệm khúc xương khó nuốt do Nga có một cơ sở lớn tại Cam Ranh, rõ ràng là khá gần với vùng biển của họ. Vì vậy, chúng ta có thể mong đợi cuộc chơi của họ sẽ sôi động nếu tàu nước ngoài bắt đầu thường xuyên đến Cam Ranh, Trung Quốc sẽ không quá hài lòng. Nhưng Việt Nam có nói rằng, nó cũng sẽ được mỏ cho một số tàu Trung Quốc thăm Việt Nam như trong quá khứ và Việt Nam đang ở một vị trí kỳ lạ nơi mà một mặt nó phải đối mặt với một Trung Quốc thống trị và đau đầu về điều đó. Trên mặt khác, Việt Nam đã kết nối sâu sắc chính trị và kinh tế với Trung Quốc, vì vậy nó là một loại quan hệ rất phức tạp. Nó không phải là mối quan hệ hoàn toàn đối lập.
Bee.net.vn: Ai làm chủ được Cam Ranh, người ấy sẽ làm chủ được biển Đông
Vịnh Cam Ranh nằm trên tọa độ 11 độ kinh Đông, 12,10 độ vĩ Bắc, thuộc tỉnh Khánh Hòa, có vị trí địa - chính trị chiến lược quan trọng trên các tuyến hàng hải quốc tế Singapore, Hồng Kông, Thượng Hải, Yokohama. Được hình thành từ hai nhánh núi bao bọc, vịnh Cam Ranh có chiều rộng trung bình 12-13km, độ sâu từ 18-32m, có diện tích hơn 60km2 và cách đường hàng hải quốc tế khoảng 1 giờ tàu biển. Điều kiện thủy văn, địa chất rất thuận lợi, thủy triều trong vịnh khá đều đặn, tương đối đúng giờ. Đáy vịnh bằng phẳng, chủ yếu là cát phù sa khá chắc. Ngoài cửa vịnh có các đảo và cù lao chắn gió nên vịnh lặng sóng, thuận tiện cho thuyền neo đậu, tàu có trọng tải 100.000 tấn ra vào dễ dàng.
Nhiều nhà chiến lược phương Tây đã đánh giá Cam Ranh là một “pháo đài tự nhiên lý tưởng”, “một đồn phòng vệ của Thái Bình Dương”. Cửa vào cảng vịnh Cam Ranh hẹp bé, khó tiến công, dễ phòng thủ, địa thế hiểm yếu, không chế được hoàn toàn khu vực Biển Đông và là khu phòng thủ trọng yếu chiến lược trấn giữ giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Tạp chí Hải quân Mỹ Proceedings số tháng 10/1991 có viết: “Đối với hải quân Mỹ, Nga hay Trung Quốc, ai làm chủ được Cam Ranh, sẽ làm chủ được “trò chơi mèo vờn chuột” ở vùng biển Đông Nam Á và biển Đông”.
Từ xa xưa, các nhà quân sự đã nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của vịnh Cam Ranh. Tại đây hội tụ đầy đủ các yếu tố thuận lợi để xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự lớn trong khu vực.
Trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật năm 1905, sau khi hạm đội Viễn Đông bị Nhật Bản đánh tan, các tàu của hạm đội Bantich của Nga hoàng Nicolas đệ II do Đô đốc Zinovy Rozhestvensky chỉ huy vượt qua hành trình trên 16.628 hải lý đến Viễn Đông đã ghé vào vịnh Cam Ranh ngày 12/4/1905 để sửa chữa, tiếp nhiên liệu, lương thực, nước ngọt và than suốt một tháng trước khi tham gia trận đánh tại eo biển Tsushima nằm giữa Triều Tiên và Nhật Bản.
Sau chiến tranh Nga - Nhật lo sợ trước âm mưu tranh giành thuộc địa của Nhật Bản ở Viễn Đông và Thái Bình Dương, năm 1911, Chính phủ Pháp đã cử Đại úy hải quân Filiommeus chỉ huy xây dựng một quân cảng ở Cam Ranh thành một căn cứ hải quân lớn trong kế hoạch “phòng thủ chung” ở Đông Dương và xây dựng nhiều căn cứ quân sự khác trên đảo Cam Ranh hòng đối phó với cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng ngày 15/9/1940, Nhật gửi tối hậu thư đòi kiểm soát các căn cứ hải quân, trong đó có cảng và vịnh Cam Ranh. Năm 1942, Nhật chiếm cảng Cam Ranh, đồng thời xây dựng thêm sân bay làm bàn đạp chính để đánh chiếm Malaysia và các thuộc địa của Anh, Mỹ ở Thái Bình Dương.
Trong chiến tranh Việt Nam, Cam Ranh là một căn cứ quan trọng nhất của quân đội Mỹ và Chính quyền Sài Gòn. Năm 1965, Mỹ quyết định xây dựng Cam Ranh thành căn cứ quân sự liên hợp hải - lục- không quân và khu hậu cần lớn nhất Đông Nam Á để làm căn cứ tiếp liệu, khí tài quân sự và binh sĩ cho chiến tranh Việt Nam, đồng thời khống chế hành lang phía Tây Thái Bình Dương. Tại đây, Mỹ đã xây dựng căn cứ không quân gồm một sân bay với hai đường băng có chiều dài hơn 3.000m dùng cho máy bay hiện đại kể cả B52, một sân bay dùng cho trực thăng và hệ thống đường sá với tổng chiều dài 260km.
Tháng 3/1967, chính quyền Thiệu - Kỳ đã ký hiệp định bán đứng vùng bán đảo và vịnh Cam Ranh cho Mỹ 99 năm, bao gồm một vùng rộng lớn với diện tích 260km2 và Mỹ đã biến Cam Ranh thành căn cứ hải quân lớn nhất Đông Nam Á. Vịnh Cam Ranh trở thành trung tâm chỉ huy cho các hoạt động tuần tra trên không của hải quân Mỹ để giám sát chiến dịch “Market Time”, nhằm ngăn chặn Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Căn cứ Cam Ranh trở thành địa điểm chính sửa chữa tàu biển và cung cấp đạn dược, hậu cần cho hải quân, bao gồm cả cho tàu khu trục và tàu đổ bộ của hạm đội 7, Mỹ. Năm 1968, quân số của quân đội Mỹ và các lực lượng chư hầu ở Cam Ranh lên tới 30.000 quân (20.000 quân Mỹ và 10.000 quân của các nước chư hầu). Ở khu vực này còn xây dựng hệ thống kho tàng hậu cần và hệ thống tên lửa phòng không. Đặc biệt tại đây, quân đội Mỹ lần đầu tiên sử dụng cá heo được huấn luyện để bảo vệ cảng Cam Ranh.
Cam Ranh thời bình – căn cứ địa bảo vệ và xây dựng đất nước
Từ năm 1979, theo hiệp định ký kết giữa Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Xô, cảng Cam Ranh được dùng làm căn cứ hậu cần, tên gọi đầy đủ là Điểm cung cấp vật liệu - kỹ thuật số 922 (PMTO) của hạm đội Thái Bình Dương với diện tích khoảng 100km2 trong thời hạn 25 năm, phục vụ một đơn vị thường trực chiến đấu mang tên Liên đội tàu chiến số 17 của Hạm đội Thái Bình Dương.
Hải quân Liên Xô đã xây dựng thêm tại Cam Ranh 5 cầu tàu, 2 bãi chứa tàu lên cạn để bảo trì và sửa chữa; xây dựng thêm cơ sở tàu ngầm, kho chứa dầu, nhà máy điện, doanh trại; nâng cấp, kéo dài đường băng của sân bay, và một trung tâm trinh sát điện tử hiện đại.
Đơn vị đầu tiên của hải quân Liên Xô gồm 54 người đến triển khai trên bán đảo Cam Ranh vào tháng 4/1980. Ba năm sau, cả một hải đoàn cơ động của Hạm đội Thái Bình Dương đã được bố trí ở đây trong đó có các tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa hành trình chống hạm Project 670, 675, 675M; tàu ngầm nguyên tử chống tàu ngầm chiến lược Project 659, 671; tàu ngầm điện - diezei tiến công thông thường Project 641; Lữ đoàn tàu chiến đấu mặt nước số 119 (trang bị tuần dương mang tên lửa Project 1134, tàu khu trục tên lửa 956 và tàu hộ vệ tên lửa Project 1234).
Thời gian cao điểm năm 1986, quân số cao nhất lên tới 6.000 quân nhân và kỹ sư, công nhân Liên Xô/Nga làm việc tại đây. Liên Xô đã xây dựng ở đây khoảng 30 công trình bảo đảm. Như vậy, Cam Ranh trở thành căn cứ hậu cần lớn nhất của Hải quân Liên Xô ở nước ngoài, làm đối trọng với căn cứ quân ở hải ngoại lớn nhất của Mỹ tại Subic, Philippines.
Vào năm 2001, chính phủ hai nước Việt Nam và Liên bang Nga đã nhất trí chấm dứt sớm thỏa thuận ký năm 1979 trước 2 năm và ngày 4/5/2002, Đại tá chỉ huy trưởng Eryomin là người cuối cùng rời Cam Ranh, chấm dứt giai đoạn hiện diện của các lực lượng quân sự nước ngoài tại cảng Cam Ranh.
Sau khi Nga quyết định rút khỏi Cam Ranh, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam đã ra tuyên bố: Quan điểm của Việt Nam về việc sử dụng cảng Cam Ranh trong tương lai là sẽ không hợp tác bất cứ nước nào để sử dụng Cam Ranh vào mục đích quân sự. Việt Nam sẽ khai thác có hiệu quả nhất những tiềm năng và lợi thế của Cam Ranh phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để khẳng định lại quan điểm nhất quán của Việt Nam, ngày 30/10/2010, tại cuộc họp báo kết thúc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17 và các hội nghị cấp cao liên quan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thông báo: Việt Nam đã quyết định sẽ tự mình xây dựng cảng Cam Ranh bằng nguồn lực của chính mình. Cảng này sẽ trở thành càng dịch vụ tổng hợp, đảm bảo phục vụ Lực lượng Hải quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam và “Việt Nam sẵn sàng cung cấp dịch vụ cho tàu hải quân của tất cả các quốc gia, kể cả tàu ngầm, khi họ yêu cầu. Việt Nam sẽ cung cấp các dịch vụ như nhiều các quốc gia khác đã làm và theo cơ chế thị trường. Việt Nam đang xem xét ký hợp đồng thuê doanh nghiệp có khả năng, trình độ kỹ thuật cao, có kinh nghiệm, chuyên ngành của Nga để tư vấn giúp Việt Nam xây dựng trung tâm cảng dịch vụ này”.
Tuyên bố xây dựng một trung tâm dịch vụ hậu cần kỹ thuật tại Cam Ranh có một ý nghĩa rất to lớn đối với quốc phòng – an ninh và phát triển kinh tế xã hội, du lịch của Cam Ranh, đồng thời thu hút sự quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế. Quyết định này thể hiện quan điểm độc lập tự chủ, tính nhất quán của Việt Nam về tương lai của cảng Cam Ranh, về đường lối đối ngoại quốc phòng của Việt Nam phù hợp với quan điểm “ba không” trong quốc phòng, trong đó có không cho bất cứ nước nào vào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, và là biểu hiện sinh động đường lối phát triển kinh tế gắn liền với quốc phòng an ninh của Đảng ta.
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã tuyên bố: “Đây là căn cứ làm dịch vụ hậu cần kỹ thuật cho tất cả các nước trên thế giới, với tinh thần bình đẳng… Đồng thời nó không phải là một căn cứ quân sự nước ngoài, hay là cho nước ngoài thuê để làm căn cứ hậu cần kỹ thuật”. Bằng việc cho tàu của tất cả các nước tiếp cận với Cam Ranh, Việt Nam một mặt đã khẳng định chủ quyền của mình, mặt khác đã nối dài cách tiếp cận đa phương hóa trong việc sử dụng Cam Ranh và bảo đảm quyền tự do hàng hải trên biển Đông.
Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Việt Nam và Châu Á tại Học viện Quốc phòng Australia đã đánh giá cao Quyết định của Việt Nam khi cho rằng, hiện nay nhiều nước quan tâm đến địa điểm và quyền tiếp cận hơn là thiết lập căn cứ. Việc mở cửa vịnh Cam Ranh cho lực lượng Hải quân nước ngoài là một ngón đòn “bậc thầy” trong chính sách đối ngoại “đa phương” của Việt Nam.
Khi Trung tâm Cảng dịch vụ hậu cần kỹ thuật đi vào hoạt động. Các tàu nước ngoài sẽ được đảm bảo các dịch vụ như tiếp nhiên liệu và các nhu cầu yếu phẩm khác, bảo dưỡng, sửa chữa, thủy thủ đoàn nghỉ ngơi. Nguồn tài chính từ những dịch vụ này sẽ giúp chúng ta bù lại những chi phí cho hoạt động cả dân sự và quân sự. Một mặt là cơ hội để chúng ta nghiên cứu, học hỏi và tiếp cận những công nghệ đóng tàu hiện đại của thế giới, mặt khác chúng ta bớt lãng phí về năng lực. Chúng ta có quyền hy vọng Cam Ranh có thể trở thành một trong những cảng dịch vụ tốt nhất trong khu vực trong những năm tới.
Nguồn: Radio Australia, Theo thiếu tướng Từ Linh (ANTG)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét