Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2020

Quan điểm triết học Trung Hoa cổ đại về mô hình nhà nước lý tưởng

Trong tiến trình phát triển lịch sử triết học, nhà nước là một trong những vấn đề thu hút sự nghiên cứu của nhiều trào lưu triết học, nhiều triết gia từ cổ đại đến hiện đại.


Trung Quốc là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm và rực rỡ nhất, đồng thời đây cũng là một trong 3 “cái nôi” đầu tiên xuất hiện triết học (cùng với Ấn Độ và Hy Lạp). Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn chưa thể lý giải được tại sao thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc ở Trung Quốc khi công cụ bằng sắt chưa phổ biến, sản xuất chưa phát triển đã có quốc gia phong kiến và là thời kỳ “bách gia chư tử, bách gia tranh minh”( chư tử tranh minh khai học thức, bách hoa tề phóng tụ thanh phương)- thời kỳ học thuật phát triển như “nấm mọc sau cơn mưa”. Và dấu ấn rõ nhất của nền triết học Trung Quốc cổ đại để lại, còn ảnh hưởng sâu sắc đến ngày nay đó chính là quan điểm về mô hình nhà nước- quốc gia lý tưởng của một số trường phái triết học tiêu biểu: Nho gia (Khổng Tử); Đạo gia (Lão Tử); Mặc gia (Mặc Tử) và Pháp gia (Hàn Phi Tử).

Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của triết học Trung Quốc cổ đại , đó là vừa thống nhất vừa đa dạng. Xuất phát từ điều kiện lịch sử xã hội đương thời: chiến tranh loạn lạc triền miên, các chư hầu đều muốn thôn tính lẫn nhau, dẫn tới sự bất ổn xã hội. Các trường phái triết học Trung Quốc thời cổ đại đều hướng đến mục đích nhằm ổn định xã hội, chấm dứt chiến tranh, kiến lập nên một chế độ ổn định lâu dài: Nho gia đưa ra đường lối chính danh, đức trị; Mặc gia với thuyết kiêm ái; Đạo gia với chủ trương vô vi; ở Pháp gia là đường lối pháp trị triệt để. Đa dạng ở chỗ mỗi trường phải trên đều có những chủ trương, đường lối của riêng mình trong việc đề ra những biện pháp cải tạo xã hội.

Thời đại Khổng Tử là thời đại “vương đạo suy vi”; “bá đạo” đang nổi lên lất át vương đạo của nhà Chu; trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu đang bị đảo lộn, như ông than rằng “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi; cha không phải đạo cha, con không phải đạo con”. Từ đó, ông chủ trương lặp lại pháp chế kỷ cương của nhà Chu với nội dung mới cho phù hợp . Từ đây, Khổng Tử đề ra mô hình nhà nước- quốc gia lý tưởng. Đó là xã hội phong kiến, nhà nước phong kiến theo điển chế của nhà Chu rất có trật tự tôn ti; từ thiên tử tới các chư hầu lớn nhỏ, quí tộc, bình dân ai có phận nấy, có quyền lợi và nhiệm vụ sống hòa hảo với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, giữ chữ tín với nhau, không xâm phạm nhau, ai cũng phải tu thân nhất là hạng vua chúa vì ngoài bổn phận dưỡng dân- lo cho dân đủ ăn đủ mặc thì còn có bổn phận giáo dân bằng cách làm gương cho họ và bằng lễ, nhạc, văn, đức. Bất đắc dĩ mới dùng tới hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, yêu trẻ, kính già để các giai cấp hòa hợp nhau, trên không hiếu dưới, dưới không oán trên. Đó là xã hội “tiểu khang” ( Thuật ngữ “tiểu khang” hiện nay đã được đưa vào trong nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 với mục tiêu xây dựng xã hội Trung Quốc “tiểu khang”- xã hội khá giả toàn diện trên cơ sở mối quan hệ tông tộc- gia đình, dòng họ).

Mặc gia với đại diện tiêu biểu là Mặc Tử chủ trương “kiêm ái”, muốn mọi người cùng thương yêu nhau và làm lợi cho nhau; mơ ước xây dựng một xã hội trong đó mọi người không có sự phân biệt sang- hèn, trên- dưới. Ông chủ trương nhà nước phải dùng người có tài, muốn xây dựng một quốc gia thống nhất, quyền hành tập trung vào một người tài đức do dân cử lên, không có đảng phái, tư tưởng từ trên xuống dưới nhất loạt như nhau, ai cũng lo lợi chung của đồng bảo, xã hội; dân đông đúc mà đủ ăn đủ mặc, cần và kiệm, không có sự xa hoa, muốn được “chính bình dân an”- thế giới đại đồng. Tư tưởng trên có điểm tương đồng với học thuyết xây dựng chủ nghĩa cộng sản của Mác-Ăngghen-Lênin với tư tưởng “của cải chung, mọi người sống bình đẳng, bác ái”.

Ngược lại với học thuyết xây dựng mô hình nhà nước-quốc gia lý tưởng của Nho gia (Khổng Tử) và Mặc gia( Mặc Tử), Đạo gia với đại diện tiêu biểu nhất là Lão Tử lại chủ trương “vô vi”. Trong Đạo đức kinh, chương thứ 80, Lão Tử đã phác họa ra mô hình quốc gia lý tưởng với những đặc điểm: Nước nhỏ, dân ít. Dù có khí cụ gấp trăm sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có thuyền xe mà không ngồi, có binh khí mà không bày. Bỏ hết văn tự, bắt dân dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ. Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần áo tầm thường mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, phong tục giản phác mà lấy làm vui (nghĩa là chỉ lo ăn no mặc ấm, ở yên, sống vui, ghét xa xỉ). Các nước gần gũi có thể trông thấy nhau, nước này nghe được tiếng gà, tiếng chó của nước kia mà nhân dân các nước ấy đều già chết cũng không qua lại với nhau.

Còn phái Pháp gia (Hàn Phi Tử) lại muốn có một quốc gia thống nhất như Mặc Tử, quyền hành tập trung vào một người là vua (không do dân cử mà cũng chẳng cần có đức chỉ cần biết thuật trị người); kinh tế phải khuếch trương (phát triển) để cho nước mạnh mà chiến thắng được những nước khác, không cần văn hóa cho cao, chỉ cần nông phẩm và binh khí cho nhiều; vua chẳng cần thi ân huệ, dạy dân, cứ ngất ngưởng ngồi trên mà điều khiển guồng máy bằng cách áp dụng pháp luật một cách nghiêm khắc và công bằng, không chút tư vị (dù là với người thân, vì vua không thân với ai hết; kể cả cha mẹ, vợ con). Đây chính là lý tưởng “quốc cường quân tôn”. Hàn Phi Tử chỉ rõ: cái thiết yếu của pháp luật là ở chỗ phải trình bày rõ ràng, trình bày công khai ra chỗ trăm họ; ai giữ pháp luật cẩn thận thì thưởng, ai trái pháp lệnh thì phạt công minh. Ông nêu yêu cầu các nước cần kiên trì, kiên quyết đổi mới chế độ chính trị theo con đường pháp trị để quốc gia đất nước được cường thịnh (tư tưởng trên đã được nước Tần cuối thời Chiến Quốc thực thi triệt để đường lối pháp trị của Hàn Phi Tử đã trở thành nước hùng mạnh, thôn tính sáu nước lớn còn lại, lần đầu tiên thống nhất Trung Quốc trong lịch sử).

So sánh học thuyết về nhà nước- quốc gia lý tưởng của bốn trường phái triết học trên chúng ta thấy rõ: chủ trương của Nho gia (Khổng Tử) thực tế hơn Mặc gia(Mặc Tử); Đạo gia(Lão Tử); nhân bản hơn học thuyết của Pháp gia(hàn Phi Tử) và ảnh hưởng trong văn hóa Trung Quốc và văn hóa của chế độ phong kiến phương Đông hơn hai ngàn năm qua thì Nho gia có ảnh hưởng rõ nhất, sâu sắc nhất. Hạn chế chung cơ bản của bốn trường phái trên trong quan điểm về mô hình nhà nước-quốc gia lý tưởng ở chỗ: chỉ xuất phát từ lập trường giai cấp đề ra những chủ trương phiến diện, thậm chí là cực đoan- phi thực tế, ảo tưởng như tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử.

Tuy nhiên, từ quan điểm về mô hình nhà nước- quốc gia lý tưởng nêu trên của bốn trường phái, chúng ta có thể thấy rõ những điểm tiến bộ ưu việt: Ở Nho gia là tư tưởng ai ở địa vị nào thì làm tốt cương vị đó, coi trọng gia đình là nền tảng, danh phải chính ngôn mới thuận; thượng bất chính, hạ tắc loạn; mọi người cư xử với nhau bằng nhân, nghĩa, lễ..Ở Mặc gia là tư tưởng mọi người thương yêu nhau, cần cất nhắc và sử dụng người có thực tài trong sử dụng, bổ nhiệm, không phân chia bè cánh-đảng phải. Ở Đạo gia là tư tưởng coi trọng thiên nhiên, sống hòa mình, gần gũi với thiên nhên, theo qui luật của tự nhiên. Ở Pháp gia đó là tư tưởng đề cao tinh thần thượng tôn của pháp luật phải được thực thi trong mọi mặt của đời sống xã hội, là tinh thần độc lập tự cường quốc gia, dân tộc. Đó là những “hạt nhân hợp lý” trong học thuyết xây dựng nhà nước- quốc gia lý tưởng và có giá trị sâu sắc trong điều kiện hiện nay. Và suy cho cùng, muốn đánh giá một học thuyết, hay quan điểm triết học là tiến bộ hay không thì trước tiên phải đặt nó trong bối cảnh đương thời, thấy được nó là tiến bộ so với các triết thuyết khác, và sau một khoảng thời gian vẫn thấy nó còn hợp lý thì có thể coi triết thuyết ấy là vĩ đại, vượt tầm thời đại.

Theo LÊ CAO ĐỘ / TRUONGCHINHTRINGUYENVANLINHHY.ORG.VN
0

Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Nhận diện các quy luật cơ bản của tư duy logic

Trong số các quy luật của tư duy có bốn quy luật cơ bản. Đó là: quy luật đồng nhất, quy luật không mâu thuẫn, quy luật triệt tam.


Ta xét hai ví dụ suy luận:

“Mọi người đều phải chết.
Socrate là người.
Vậy, Socrate phải chết.”
(1)

và:

“Vợ tôi là đàn bà.
Em là đàn bà.
Vậy, em là vợ tôi”
(2)

Rõ ràng suy luận thứ nhất đúng, còn suy luận thứ hai thì sai. Nhưng căn cứ vào cơ sở nào mà ta xác định được như vậy? Tất nhiên là có thể căn cứ trực tiếp vào thực tiễn. Tuy nhiên thực hiện việc đó gặp phải rất nhiều khó khăn, vì ở đây sau khi kiểm tra thấy kết luận đúng ta cũng không thể nói rằng chắc chắn suy luận đúng. Một phương pháp khác thuận tiện và hiệu quả hơn nhiều là sử dụng các quy luật của tư duy, tức là các quy luật mà môn logic nghiên cứu, để làm cơ sở cho việc xét đoán. Suy luận nào tuân theo các quy luật đó thì hợp lý, đúng; suy luận nào không tuân theo những quy luật đó thì vô lý, sai.

Như đã biết, quy luật của tư duy là những mối liên hệ bên trong, bản chất, lặp đi lặp lại trong các quá trình tư duy. Con người phát hiện ra các quy luật của tư duy thông qua hoạt động nhận thức trải nhiều thế kỷ chứ không phải bẩm sinh đã biết đến chúng. Con người biết cách vận dụng các quy luật đó, biết suy luận tuân theo các quy luật đó là nhờ quá trình học tập và rèn luyện chứ không phải có tính chất bản năng.

Trong số các quy luật của tư duy có bốn quy luật cơ bản. Các quy luật này được gọi là cơ bản vì: thứ nhất, chúng phản ánh những tính chất cơ bản nhất của các quá trình tư duy; thứ hai, vì bất cứ quá trình tư duy nào cũng phải tuân theo chúng; thứ ba, vì các quy luật khác có thể rút ra được từ chúng, nhưng không thể rút ra chúng từ các quy luật khác. Các quy luật cơ bản đó là: quy luật đồng nhất, quy luật không mâu thuẫn, quy luật triệt tam.

I. QUY LUẬT ĐỒNG NHẤT

Phát biểu: A là A. Một tư tưởng, khi đã định hình, phải luôn là chính nó trong một quá trình tư duy.

Quy luật này phản ánh tính ổn định, xác định của tư duy. Điều này có nghĩa là, trong quá trình hình thành của mình, một tư tưởng (khái niệm, phán đoán, lý thuyết, giả thuyết, …) có thể thay đổi, nhưng khi đã hình thành xong thì không được thay đổi nữa. Nếu nó vẫn tiếp tục thay đổi thì logic hình thức sẽ coi nó là tư tưởng khác. Tính ổn định như vậy là điều kiện cần cho mọi quá trình tư duy. Mặc dù tư tưởng – cũng như mọi sự vật và hiện tượng khác -, luôn luôn vận động và biến đổi, nhưng nếu tuyệt đối hóa mặt biến đổi đó của tư tưởng thì không thể nào tư duy được. Một ý kiến được nói ra phải có nội dung không đổi ít nhất là trong cùng một quá trình tranh luận, trình bày ý kiến, chứng minh quan điểm, … nghĩa là một quá trình tư duy, thì người ta mới có thể căn cứ vào nó để xét đoán đúng sai, hợp lý hay bất hợp lý, …

Nội dung của quy luật đồng nhất có thể được diễn giải cụ thể hơn thông qua những yêu cầu sau:

1. Một từ chỉ được dùng trong suy luận với một nghĩa duy nhất. Không được phép dùng một từ hoặc một biểu thức ngôn ngữ nói chung lúc thì với nghĩa này, lúc thì với nghĩa khác trong cùng một quá trình suy luận. Cũng vậy, trong cùng một quá trình suy luận một khái niệm, một tư tưởng, … không được thay đổi nội dung của mình. Nếu một tư tưởng xuất hiện nhiều lần trong một quá trình tư duy thì tất cả những lần xuất hiện đó nó phải có cùng một nội dung, phải có giá trị chân lý như nhau. Điều này có nghĩa là ở các quá trình tư duy khác nhau ta có thể dùng từ với nhiều nghĩa khác nhau, tư tưởng có thể có những giá trị chân lý khác nhau, nhưng trong cùng một quá trình suy luận thì từ ngữ bao giờ cũng được dùng với một nghĩa duy nhất, tư tưởng phải có cùng một nội dung duy nhất, phải có cùng một giá trị chân lý duy nhất. Vi phạm yêu cầu này, tư duy sẽ không nhất quán, lẫn lộn và người khác sẽ không hiểu.

2. Những từ ngữ khác nhau nhưng có nội dung như nhau, những tư tưởng tương đương với nhau về mặt logic, nghĩa là bao giờ cũng có giá trị chân lý như nhau, phải được đồng nhất với nhau trong quá trình suy luận. Vi phạm yêu cầu này, ta không rút ra được thông tin cần thiết. Ví dụ: người ta cho biết rằng, tác giả Truyện Kiều là người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, và hỏi quê quán của nhà thơ Nguyễn Du. Nếu ta không đồng nhất nhà thơ Nguyễn Du với tác giả Truyện Kiều thì ta không trả lời được cho câu hỏi này. Ta cũng không thể suy luận được.

Đây là những yêu cầu dành cho quá trình tư duy, những yêu cầu này bắt buộc phải tuân theo để tư tưởng được sáng tỏ, dễ hiểu. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp rất nhiều trường hợp chúng bị vi phạm một cách vô tình hay cố ý. Ví dụ, các trò chơi chữ là những vi phạm cố ý:

Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn
.

Ở đây, cùng một chữ “lợi” nhưng được hiểu theo hai nghĩa khác nhau.

Yêu cầu của quy luật này rất đơn giản. Tuy nhiên, để tuân thủ yêu cầu này không phải là dễ. Đồng nhất những cái gì và không đồng nhất những cái gì là dựa vào sự hiểu biết, dựa vào trình độ văn hóa của chủ thể tư duy, và dựa vào bối cảnh tư duy. Bởi vì, xét cho cùng, quy luật này đòi hỏi phải đồng nhất những thứ không đồng nhất. Chính điều này giải thích tại sao khi nghe một câu chuyện vui thì nhiều người bật cười nhưng một số người khác thì không. Người ta cười vì đã đồng nhất được những cái mà người kể muốn đồng nhất, còn nếu không làm được điều đó thì người ta không cười. Như trong ví dụ sau đây:

Lớp đang học về truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, Cu Tèo ngủ gật. Thấy vậy, thầy giáo hỏi: “Tèo, ai đã lấy cắp nỏ của An Dương Vương ?”. Giật mình, Cu Tèo vội đáp: “Thưa thầy con không lấy, con không lấy, bạn nào lấy con không biết…”.

Thầy giáo chán nản, đem câu chuyện kểlại cho hiệu trưởng nghe. Hiệu trưởng nghe xong, trầm ngâm một lúc rồi bảo: “Thôi được, chuyện đâu còn có đó, trẻ con ấy mà. Thầy xem thử cái nỏ đó giá bao nhiêu để trường bỏ tiền ra mua một cái khác thay thế. Rõ khổ, đồ dùng dạy học thì đang thiếu tứ bề!”.

Câu chuyện được đem kể lại ở sở giáo dục và đào tạo. Những người có mặt bò lăn ra cười, chỉ một người không cười, đó là kế toán trưởng. Mọi người ngạc nhiên nhìn bà ta, bà ta nói: “Tôi mà là giám đốc sở thì tôi sẽ cách chức tay hiệu trưởng đó. Tiền đâu ra mà cái gì cũng mua, cái gì cũng chi như vậy?…”


(Theo báo “Người lao động”)

Quy luật đồng nhất là quy luật của tư duy hình thức, không nên nhầm lẫn rằng đây là quy luật của hiện thực khách quan bên ngoài tư duy. Quy luật đồng nhất, vì vậy, không dẫn đến việc phủ định nguyên lý biện chứng là sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi, trong cùng một thời điểm một sự vật vừa chính là nó vừa không phải là nó. Tư duy hình thức phản ánh hiện thực khách quan một cách lý tưởng[1], phản ánh hiện thực khách quan trong sự đứng im tương đối của nó, bỏ qua sự vận động và biến đổi của nó, phản ánh các sự vật và hiện tượng trong sự tách rời ra khỏi các sự vật và hiện tượng khác. Một sự vật của hiện thực khách quan có thể được tư duy phản ánh từ nhiều góc độ khác nhau, tạo nên những đối tượng khác nhau trong tư duy. Nếu hai sự vật trong hiện thực khách quan A và B có chung một tính chất nào đó thì tư duy có thể phản ánh tính chất chung đó ở hai sự vật đã nêu và tạo thành hai đối tượng khác nhau trong tư duy. Hai đối tượng này của tư duy đồng nhất với nhau. Chính vì vậy mà mặc dù trong hiện thực khách quan không hề có hai sự vật hoàn toàn giống nhau, nhưng ta vẫn có thể đồng nhất chúng với nhau. Có thể làm như vậy là bởi ta chỉ đồng nhất chúng trong một mối quan hệ nhất định mà thôi. Ví dụ, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai người khác nhau, tuy nhiên, khi tư duy phản ánh các ông từ góc độ là nhà thơ thì tạo thành hai đối tượng đồng nhất với nhau trong tư duy.

Vì tư duy phản ánh hiện thực khách quan nên thông qua quy luật đồng nhất của tư duy ta có thể nói về ba loại đồng nhất khác nhau: đồng nhất tư tưởng với tư tưởng, đồng nhất tư tưởng với đối tượng trong hiện thực và đồng nhất đối tượng trong hiện thực với đối tượng trong hiện thực. Cần lưu ý rằng ở đây thông qua sự đồng nhất tư tưởng với tư tưởng ta mới có thể đồng nhất đối tượng trong hiện thực với đối tượng trong hiện thực. Điều này làm cho phạm vi ứng dụng của quy luật này được mở rộng hơn nhiều.

Ta xét vài ví dụ:

Ví dụ 1. Trước Tòa bà Minh nói “Tôi đồng ý bán nhà giúp con trả nợ” nhưng thư ký phiên tòa ghi “Tôi đồng ý bán nhà trả nợ giúp con”. Sai lầm này của thư ký phiên tòa đã làm cho việc thi hành án sau này gặp nhiều khó khăn.[2]

Ví dụ 2. Có diễn giả nói: “Hình như trên đời có luật bù trừ. Người ta bị mù một mắt thì mắt kia sẽ tinh hơn. Bị điếc một tai thì tai kia sẽ nghe rõ hơn, ….”. Nghe vậy, có thính giả kêu lên: “Rất đúng, tôi cũng thấy rằng nếu một người cụt chân thì y như rằng chân kia sẽ dài hơn”. Câu nói này của anh ta làm cho cả thính phòng cười ồ lên. Anh ta đã không nhận thấy rằng khi diễn giả nói “…mắt kia sẽ tinh hơn”, “…tai kia sẽ nghe rõ hơn” là tác giả so sánh với mắt và tai bình thường, còn anh ta thì so sánh “chân kia” với chân cụt.

Quy luật đồng nhất là quy luật vô cùng quan trọng của logic hình thức. Nếu như các quy luật khác có thể đúng trong một số hệ logic hình thức và không đúng trong một số hệ logic hình thức khác thì cho đến nay chưa ai xây dựng được hệ logic hình thức nào có giá trị mà trong đó quy luật đồng nhất không đúng.

II. QUY LUẬT KHÔNG MÂU THUẪN

Phát biểu: Hai phán đoán, nhận định mâu thuẫn nhau, trái ngược nhau không thể nào cùng đúng. Trong hai phán đoán, nhận định như vậy có ít nhất là một phán đoán, nhận định sai.

Quy luật này phản ánh tính chất không mâu thuẫn của quá trình tư duy. Mâu thuẫn phá vỡ quá trình tư duy nên trong tư duy nhất định phải tránh nó. Tư duy của chúng ta không được chứa mâu thuẫn vì tư duy phản ánh hiện thực khách quan, mà trong hiện thực khách quan thì ở mỗi thời điểm không thể có trường hợp một đối tượng vừa có, lại vừa không có một tính chất nhất định nào đó. Ví dụ, tại một thời điểm, một bông hồng cụ thể không thể nào vừa có màu đỏ, vừa không có màu đỏ. Cần lưu ý rằng, mâu thuẫn mà chúng ta nói đến ở đây là mâu thuẫn hình thức, chứ không phải là mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn hình thức không thể có được vì, như đã biết, logic hình thức nghiên cứu tư duy với tư cách là sự phản ánh các sự vật và hiện tượng của hiện thực khách quan trong sự đứng im của nó, nghĩa là phản ánh hiện thực khách quan theo kiểu lý tưởng hóa.

Nội dung của quy luật không mâu thuẫn được diễn giải cụ thể hơn qua các yêu cầu sau đây:

1. Quá trình tư duy không được chứa mâu thuẫn trực tiếp. Cụ thể là không được cùng một lúc vừa khẳng định vừa phủ định một điều gì đó. Ví dụ, không thể vừa khẳng định rằng Liên minh châu Âu sẽ có được bản hiến pháp của mình, lại vừa khẳng định rằng Liên minh châu Âu sẽ không thể thông qua được một bản hiến pháp như thế.

Trong thực tế đôi khi ta gặp những câu nói có vẻ như chứa mâu thuẫn trực tiếp nhưng vẫn thấy chấp nhận được. Ví dụ, câu “Giải vô địch bóng đá quốc gia V-leage vừa qua vừa đạt, vừa chưa đạt” nhìn bề ngoài như chứa mâu thuẫn trực tiếp, nhưng lại vẫn chấp nhận được. Vậy phải chăng ở đây ta đã bỏ qua yêu cầu của quy luật không mâu thuẫn? Thật ra thì trong trường hợp này yêu cầu của luật không mâu thuẫn vẫn được tôn trọng, vì từ “đạt” trong câu nói trên được hiểu theo nhiều cách khác nhau, và vì vậy ở đây không có mâu thuẫn. Nếu tiếp tục làm rõ ý kiến của mình thì người đưa ra câu nói đó sẽ giải thích đã đạt ở mặt nào và không đạt ở mặt nào (đó là các mặt khác nhau). Nghĩa là anh ta sẽ cho biết hiểu theo nghĩa nào thì chuyến tập huấn được coi là đạt và hiểu theo cách nào thì không đạt.

2. Quá trình tư duy không được chứa mâu thuẫn gián tiếp. Cụ thể là không được khẳng định (hay phủ định) một vấn đề nào đó rồi lại phủ định (hay khẳng định) các hệ quả của nó. Ví dụ, nếu khẳng định rằng lý thuyết tương đối hẹp của Einstein là đúng thì không thểphủnhận công thức E = mc2 thể hiện mối liên hệ giữa năng lượng và khối lượng của ông.

Nếu như mâu thuẫn trực tiếp dễ được nhận thấy, và vì vậy dễ tránh, thì mâu thuẫn gián tiếp khó nhận thấy hơn, và vì vậy khó tránh hơn nhiều.

Ví dụ 3. Lời nói của Đức Phật với quỷ Mala: “(…) Ta không cần danh vọng, Mala, mi hãy thuyết những điều đó với những kẻ hám danh vọng. (…) Thành đạt, danh tiếng, danh dựvà vinh quang chỉ là sự hư ảo, sự thắng lợi của kẻ này là thất bại của người kia. (…) Ta trải cơ mạn xa để chiến đấu với người đây. Ta thà chết vinh trong trận chiến, còn hơn sống nhục trong đầu hàng.”[3] Trong lời nói này ta thấy câu cuối cùng “ta thà chết vinh trong trận chiến, còn hơn sống nhục trong đầu hàng” mâu thuẫn với những câu ở phía trên.

Khi rèn luyện tư duy nhiều ta sẽ nâng cao được khả năng phát hiện mâu thuẫn trong các suy luận của chính mình và của người khác, phát hiện thấy những cái không ổn trong các suy luận đó. Khi phát hiện rằng suy luận “có điều gì đó không ổn”, nghĩa là phát hiện ra khả năng chứa mâu thuẫn gián tiếp của nó, ta có thể tiến hành đặt liên tiếp các câu hỏi để người đưa ra suy luận trả lời và bằng cách đó chỉ ra mâu thuẫn trực tiếp.

Ví dụ 4. Khi thấy lời khai của người bị tình nghi phạm tội có chứa điều gì đó không ổn, cán bộ điều tra sẽ đặt ra cho người đó hàng loạt câu hỏi cho đến khi người đó không trả lời được nữa, vì thấy mình đã gặp mâu thuẫn rõ ràng, trực tiếp.

Ví dụ 5. Trong câu chuyện tiếu lâm về con rắn vuông, khi nghe chồng kể về một con rắn khổng lồ, chị vợ đã liên tục tỏ ý nghi ngờ về chiều dài của nó. Điều này làm cho anh chồng liên tục rút ngắn chiều dài của con rắn, và cuối cùng là có được con rắn vuông. Như vậy, mâu thuẫn chưa lộ rõ hẳn giữa sự tồn tại của con rắn khổng lồ trong câu chuyện của người chồng với thực tế đến lúc này đã trở thành mâu thuẫn rõ ràng giữa sự tồn tại của con rắn vuông với thực tế.

Câu “nói dối hay cùng” chính là nói về những trường hợp như thế này.

Nắm vững nội dung và áp dụng thành thạo quy luật không mâu thuẫn giúp ta trình bày tư tưởng nhất quán và dễ dàng phát hiện các biểu hiện ngụy biện trong suy luận.

III. QUY LUẬT TRIỆT TAM

Phát biểu: Một phán đoán, nhận định hoặc đúng hoặc sai chứ không thể có một giá trị thứ ba nào khác.

Đây là quy luật đặc trưng của logic hai giá trị – logic thông thường mà ta vẫn sử dụng.

Với một phán đoán, nhận định nhất định, quy luật triệt tam không cho biết nó đúng hay sai, nhưng cho biết rằng nó chỉ có thể hoặc đúng, hoặc sai chứ không thể có giá trị nào khác. Ví dụ, ta chưa biết câu nói “Có người ngoài Trái đất đến thăm Trái đất” đúng hay sai, nhưng quy luật triệt tam khẳng định rằng hoặc nó đúng, hoặc nó sai!

Quy luật triệt tam không cho phép người ta tránh né vấn đề khi trả lời câu hỏi. Nó không cho phép trả lời lấp lửng, nước đôi, mà đòi hỏi câu trả lời dứt khoát.

Ví dụ, khi một thanh niên đi kiếm việc làm được hỏi có biết ngoại ngữ hay không thì anh ta chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”, tất cả các câu trả lời khác đều không có giá trị.

Trong thực tiễn, người ta ứng dụng quy luật triệt tam để chứng minh bằng phản chứng.

Đôi khi ta gặp những câu nói rất sâu sắc mà biểu hiện trực tiếp là quy luật triệt tam. Ví dụ, cuối bộ sách Tam quốc diễn nghĩa, sau khi kể chuyện nhà Tấn thống nhất Trung Quốc, tác giả La Quán Trung đã viết, đại ý: Lịch sử các nước cứ như vậy, hết hợp thì tan, hết tan rồi lại hợp. Hay, cuối bộ sách Hồng lâu mộng, sau khi kể vợ Bảo Ngọc sinh con trai và gia đình họ Giả bắt đầu hưng thịnh trở lại, tác giả Tào Tuyết Cần viết, đại ý: Ở đời cứ như vậy, hết thịnh rồi thì suy, hết suy rồi lại thịnh.

Một số tác giả cho rằng quy luật triệt tam là hệ quả của quy luật đồng nhất. Đây là một sự nhầm lẫn. Ta có thể bác bỏ điều đó hết sức dễ dàng. Thật vậy, nếu quy luật triệt tam là hệ quả của quy luật đồng nhất thì ở bất cứ chỗ nào mà quy luật đồng nhất đúng thì quy luật triệt tam cũng phải đúng. Nhưng rõ ràng là trong các hệ logic ba giá trị quy luật đồng nhất vẫn đúng, trong khi đó thì quy luật triệt tam không đúng. Trong những suy luận nhằm rút ra quy luật triệt tam từ quy luật đồng nhất mà thỉnh thoảng ta gặp trong các tài liệu logic đã chứa sẵn vòng tròn logic. Thật vậy, những suy luận kiểu này được thực hiện trong khuôn khổ của logic hai giá trị và sử dụng các tính chất của logic đó. Tuy nhiên sở dĩ logic hai giá trị là logic hai giá trị là vì nó tuân thủ quy luật triệt tam. Như vậy có nghĩa là những tính chất của logic hai giá trị được sử dụng để rút ra quy luật triệt tam từ quy luật đồng nhất phụ thuộc vào chính quy luật triệt tam!

IV. QUY LUẬT LÝ DO ĐẦY ĐỦ

Phát biểu: Một tư tưởng chỉ có giá trị khi nó có đầy đủ các cơ sở.

Khác với ba quy luật trên, – những quy luật được Aristote tìm ra từ thời cổ đại -, quy luật này được Leibnitz phát hiện ở thế kỷ thứ 18.

Quy luật lý do đầy đủ đòi hỏi các tư tưởng phải được đưa ra trên những cơ sở nhất định. Tư duy của chúng ta cấu thành từ một chuỗi các tư tưởng như vậy. Những tư tưởng đi trước làm cơ sở cho những tư tưởng đi sau. Chỉ trong trường hợp đó thì tư duy mới được coi là chặt chẽ, có logic. Ngược lại, tư tưởng sẽ lủng củng. Người nghe sẽ thấy người nói nhảy từ vấn đề này qua vấn đề khác một cách tùy tiện. Trong thực tế, đòi hỏi làm một việc gì đó hoặc trình bày một vấn đề nào đó theo một trình tự nhất định chính là đòi hỏi thỏa mãn quy luật này.

Quy luật lý do đầy đủ dựa trên một quy luật rất cơ bản của tự nhiên là quy luật nhân – quả: Mọi sự vật và hiện tượng đều có nguyên nhân của nó. Trong cùng một điều kiện, cùng một nguyên nhân sẽ đưa đến cùng một kết quả. Nếu như tư tưởng phản ánh hiện tượng thì cơ sở của nó là cái phản ánh nguyên nhân của hiện tượng đó. Trong tự nhiên, nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Nhưng trong tư duy ta lại có thể biết hiện tượng trước rồi mới đi tìm nguyên nhân sau, nên thứ tự ở đây không giống trong tự nhiên.

Nguyên nhân mà chúng ta nói đến ở đây là nguyên nhân hiện thực, chứ không phải là nguyên nhân siêu nhiên, thần thánh, ma quỷ.

Ví dụ 6: Một người lái taxi nào đó luôn có thu nhập cao hơn so với nhiều người khác, mặc dầu anh ta làm việc trong cùng một điều kiện như họ. Khi đó, người ta hay nói rằng số anh ta may mắn. Nhưng nếu quan niệm như vậy thì ta sẽ không cải thiện được tình hình của mình. Ngược lại, nếu hiểu rằng hiện tượng này cũng phải có nguyên nhân của nó, và nguyên nhân đó là nguyên nhân vật chất, nghĩa là nguyên nhân có thể hiểu và ứng dụng được, thì ta sẽ tìm hiểu, phân tích những yếu tố đưa lại thành công cho người kia, rồi tìm cách để áp dụng, và nhờ đó có thể nâng cao thu nhập của mình.

Tuân thủ nghiêm các quy luật cơ bản trình bày trên đây sẽ giúp chúng ta suy nghĩ và trình bày tư tưởng của mình một cách rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu. Ứng dụng các quy luật này chúng ta cũng dễ dàng phát hiện các sai lầm trong suy luận của người khác và của chính mình để phản bác, để vạch trần sự ngụy biện, hoặc để tránh sai lầm.

————————

Chú thích:

[1] Chữ lý tưởng ở đây hiểu theo nghĩa là đẩy đến giới hạn, như các trừu tượng hóa toán học vậy.
[2] Lấy từ tư liệu của ThS. Lê Duy Ninh.
[3] Daisaku Ikeda Quan điểm của tôi về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mầu Ni, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996, tr.91.

Nguồn: Phạm Đình Nghiệm. Nhập môn Logic học. Nxb. Đại học quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, 2008, tr. 35-42.

Theo TRIETHOC.EDU.VN
0

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2019

Vài suy nghĩ về vai trò triết học Hegel và ‘ý niệm tuyệt đối’

Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1881) là đại biểu vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức, đỉnh cao của triết học tư sản và của chủ nghĩa duy tâm thế kỷ XIX.



Có nhiều người cho rằng triết học Hegel là duy tâm, trừu tượng, thần bí, khó hiểu, và do đó không có giá trị gì, chỉ là “đồ bỏ đi”. Họ coi khinh Hegel, phê phán triết học Hegel vì tính chất duy tâm của nó. Rất bực mình và phản đối điều đó, Marx đã cộng khai tuyên bố mình là đồ đệ của Hegel, thậm chí còn “thích dùng lối diễn đạt đặc trưng của Hegel” (Lời tựa bộ “Tư bản”).

Lenin, trong “Bút ký triết học”, nói rằng có nhiều loại chủ nghĩa duy vật cũng như nhiều loại chủ nghĩa duy tâm, và khẳng định: “Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn”.

Vả lại, trước Marx, nhưng nhà triết học nổi tiếng là duy vật của thế kỷ XVII – XVIII ở Anh và ở Pháp cũng vẫn chỉ là duy vật nửa vời “duy vật một nữa”, nghĩa là chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã hội thì họ cũng duy tâm. Hơn nữa, họ lại siêu hình, không lý giải được nguồn gốc, sự vận động và sự phát triển của thế giới khách quan. Chính đó là một lý do quan trọng làm cho chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII bị chủ nghĩa duy tâm của triết học Đức phủ định.

Triết học Hegel là một thứ “chủ nghĩa duy tâm thông minh”, có những “hạt nhân hợp lý” và rất có giá trị, trở thành một trong những tiền đề trực tiếp của chủ nghĩa Marx, được các học giả và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx – Lenin đánh giá rất cao.

Plekhanov, một người có học vấn uyên bác, từng được Lenin tôn làm thầy, đã đánh giá Hegel:”Chắc chắn sẽ mãi mãi được dành một trong những địa vị cao quí nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong các khoa học mà người Pháp gọi là “khoa tinh thần và chính trị”, không có một khoa học nào là không chịu ảnh hưởng mãnh liệt và rất phong phú của thiên tài Hegel: “Phép biện chứng, logic học, luật học, mỹ học, lịch sử triết học và tôn giáo – tất cả những khoa học đó đều có một hình thức mới nhờ sự tác động của Hegel.

Hegel đã để lại cho nhân loại một di sản triết học khổng lồ với những tư tưởng cực kỳ phong phú và sâu sắc. Ông từng nói:”Cái triết học mới nhất của một thời đại là kết quả của hết thẩy các triết học đã có từ trước và phải bao gồm những nguyên lý của tất cả những triết học đó”. Chính ông đã thực hiện xuất sắc yêu cầu đó với việc phân tích, phê phán các trào lưu triết học, các triết gia trước ông và cùng thời với ông. Hệ thống triết học của Hegel đã bao quát nhiều lĩnh vực và phát triển nhiều tư tưởng phong phú và đặc sắc, có ý nghĩa vạch thời đại. Vì vậy, F. Engels đã khẳng định:”Nếu không có triết học Đức mở đường, đặc biệt là nếu không có triết học Hegel, thì chủ nghĩa xã hội khoa học Đức – chủ nghĩa xã hội khoa học duy nhất chưa hề có từ trước đến nay, sẽ không bao giờ được xây dựng nên”.

Hegel là nhà triết học duy tâm theo trường phái chủ nghĩa duy tâm khách quan, hay chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Như Lenin nhận xét, Hegel tin tưởng và nghĩ một cách nghiêm túc rằng chỉ có chủ nghĩa duy tâm mới là triết học, bởi vì triết học là khoa học về tư duy, cái chung, mà cái chung tức là tư tưởng. ông cho rằng, cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại, cái bản chất sâu sắc nhất của thế giới không phải là ý thức cá nhân, là “cái tôi” chủ quan, mà là một ý thức nói chung nào đó rất “khách quan”, tồn tại độc lập với con người, có trước tự nhiên và có trước loài người, luôn luôn vận động và biến đổi được ông gọi là “ý niệm tuyệt đối”.

Có thể nói, toàn bộ triết học của Hegel xoay quanh phạm trù ý niệm tuyệt đối và sự vận động của ý niệm tuyệt đối trong hệ thống triết học đồ sộ của ông được trình bày theo kiểu “suy lý ba bước” (tam đoạn luận).

Hegel cho rằng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước tất cả mọi cái. Do có mâu thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối có sự tự vận động từ thấp lên cao, trải qua sự phát triển, thông qua các khái niệm, rồi lại trở về với nó với một sự phong phú hơn (logic học). Do có sự vận động và chuyển hoá, nên ý niệm tuyệt đối trở thành cái khác nó (tha hoá), đối lập với nó, tức là giới tự nhiên (triết học về tự nhiên). Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân mình trong đời sống có ý thức của cá nhân con người và xã hội loài người và sự hoàn thành sự vận động của nó, đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ thống triết học Hegel (triết học về tinh thần).

Hegel rất ưa thích và đề cao lối suy lý ba bước. Ông cho rằng mọi cái có lý tính đều là một suy lý ba bước: một cái chung liên hệ với cái đơn nhất thông qua cái riêng. Tuy nhiên, ông cũng phân biệt sự suy lý (tư duy) về sự vật với bản thân sự vật, cho rằng sự vật không phải là một chỉnh thể gồm ba mệnh đề. Và ông rất phản đối suy lý ba bước theo kiểu “hình thức vô ích” làm cho người ta buồn chán như ví dụ ông nêu ra: “Tất cả mọi người đều chết, Cai-i là một người, vậy Cai-i cũng chết”.

Trong hệ thống triết học lập luận theo lối “suy lý ba bước”, Hegel đã trình bày về sự vận động và biến hoá của ý niệm tuyệt đối một cách rất tư biện, nghĩa là không làm cho ý niệm phù hợp với sự vật mà trái lại, làm cho sự vật phù hợp với ý niệm… Ông cho rằng “tồn tại” là tính quy định thứ nhất của ý niệm tuyệt đối. “Tồn tại” ở đây không phải là thế giới vật chất, cũng không phải là sự phản ánh của thực tai vào ý thức con người, mà là khái niệm trừu tượng của tồn tại, tức là “tồn tại thuần tuý”. Tồn tại thuần tuý là tồn tại không có tính quy định nào, không cần một tiền đề nào, không có bất cứ một nội dung nào, không phải là sản phẩm của bất kỳ một sự trung gian nào nghĩa là đồng nhất với hư vô thuần tuý. “Tồn tại thuần tuý và hư vô thuần tuý là cùng một cái” là không có gì. Không có gì nhưng vẫn là một cái gì (cũng như số 0 vẫn là một cái gì khi phân biệt với những số khác). Theo Hegel, tồn tại thuần tuý chính là cái đang bắt đầu. “Cái đang bắt đầu là chưa tồn tại, nó chỉ hướng tới sự tồn tại…một sự không tồn tại mà cũng đồng thời là sự tồn tại”(?). Như vậy là khái niệm “tồn tại thuần tuý”đã chứa đựng mâu thuẫn trong bản thân nó, vì nó bao hàm hai mặt đối lập là tồn tại và hư vô và là sự thống nhất của tồn tại và hư vô. Do có mâu thuẫn mà nó vận động, và vận động đến mức nào đó thì dẫn đến sinh thành, tức là chuyển hoá thành một thứ tồn tại khác. “Tồn tại khác” này có tính quy định, không còn là “tồn tại thuần tuý” hay “hư vô” nữa, mà đã là một cái gì đó có “chất”, có “lượng”, được thống nhất ở trong “độ” (chú ý: chất, lượng, độ ờ đây không phải là chất, lượng, độ của sự vật mà là các khái niệm chất, lượng).

Ý niệm tuyệt đối khi đạt tới “độ” thì nhận được một sự quy định mới, sâu sắc hơn và cụ thể hơn, đó là khái niệm “bản chất”. Trong học thuyết về bản chất, Hegel đã đưa ra và phân tích nhiều khái niệm quan trọng như: bản chất, hiện tượng, bề ngoài, hiện thực quy luật… và nói về mối liên hệ giữa các phạm trù: quy luật và bản chất, quy luật và hiện tượng, bản chất và hiện tượng, bản chất và bề ngoài, bề ngoài và hiện tượng, khẳng định vả phủ định, tất nhiên và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực, tự do và tất yếu’ nguyên nhân và kết quả… Hegel đã trình bày nhiều vấn đề quan trọng của phép biện chứng, đặc biệt là về mâu thuẫn. Ông coi mâu thuẫn là phổ biến, là nguồn gốc và cơ sở của vận động, là nguyên lý của sự phát triển. Ông khẳng định: “Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó… Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì nó mới vận động, phải có xung lực và hoạt động”.

Ý niệm tuyệt đối là phạm trù xuất phát và trung tâm của triết học Hegel.

Một người uyên bác và vĩ đại như Lenin, khi nghiên cứu triết học Hegel nhiều lúc cũng phải thốt lên: “thần bí”, “cực kỷ khó hiểu và có lúc đã nói đùa: “Biện pháp làm nhức đầu tốt nhất là đọc triết học Hegel”. Nghiên cứu triết học Hegel đương nhiên là phải đụng đến phạm trù “ý niệm tuyệt đối” đầy bí hiểm. Vì vậy, trong bước đầu tìm hiểu triết học Hegel, tôi cung mạnh dạn nêu lên mấy nhận thức còn thô thiển của mình về ý niệm tuyệt đối của ông:

Ý niệm tuyệt đối là “khái niệm thích hợp”, có tính chân lý khách quan. Theo Hegel, ý niệm tuyệt đối hay ý niệm trước hết là khái niệm, song không phải mọi khái niệm đều là ý niệm. Ông phân biệt ý niệm với khái niệm và cho rằng ý niệm cao hơn khái niệm: “Khái niệm chưa phải là khái niệm (cái) cao nhất, cái còn cao hơn nứa là ý niệm”. Khái niệm khi phát triển thành khái niệm thích hợp thì trở thành ý niệm. Như vậy, cái “cao hơn” của ý niệm so với khái niệm chính là sự “thích hợp”, tức là sự phù hợp, sự thống nhất giữa khái niệm và tính khách quan. Khái niệm phát triển thành khái niệm thích hợp, trở thành ý niệm, thì chính là chân lý: “Y niệm là chân lý, vì chân lý là sự phù hợp giữa tính khách quan và khái niệm”.

Ý niệm tuyệt đối cũng là hiện thực, hay nói cách khác, hiện thực là “tồn tại khác” của ý niệm. Hegel đã khẳng định một cách hết sức duy tâm: “Thế giới là tồn tại khác của ý niệm…”. Mọi hiện thực chỉ là hiện thực trong chừng mực nó chứa đựng và biểu hiện ý niệm. Đối tượng, thế giới chủ quan và thế giới khách quan không những chỉ phải phù hợp nói chung với ý niệm, mà chính bản thân chúng là sự phù hợp của khái niệm và thực tại, thực tại mà không phù hợp với khái niệm thì chỉ là hiện tượng, chủ quan, ngẫu nhiên, tuỳ tiện, nghĩa là không phải chân lý. Toàn bộ hiện thực, dù là cái phổ biến, cái đơn nhất hay cái đặc thù, đều là những biểu hiện khác nhau về phạm vi và mức độ của ý niệm tuyệt đối. Toàn bộ hiện chực cũng là ý niệm, tồn tại đơn nhất chỉ là một mặt nào đó của ý niệm , ý niệm còn cần đến hiện thực khác như là tồn tại đặc thù.

Ý niệm tuyệt đối là “cái phổ biến”, là một hình thức bao hàm và quy tụ nhiều nội đung phong phú, được thể hiện ở mọi đối tượng, nhưng mỗi đối tượng lại nhận thức không giống nhau. Hegel nói rằng ý niệm tuyệt đối là cái phổ biến, là những chân lý mà cả ông già và đứa trẻ con đều nói, nhưng đối với ông già, những chân lý này có ý nghĩa của cả cuộc đời ông, còn đối với đứa trẻ thì chỉ có nghĩa là một cái gì đó mà ngoài cái đó ra còn có cả một cuộc đời và tất cả vũ trụ. “Giống như cùng một câu cách ngôn luận lý, nếu do một thanh niên nói ra, tuy anh ta hiểu nó hoàn toàn đúng đắn, thì lại không có cùng một tầm rộng như khi câu đó xuất phát từ miệng một người từng trải việc đời và khi nói câu đó, người này nói lên toàn bộ sức mạnh của nội dung của nó”.

Ý niệm tuyệt đối là quá trình, là phép biện chứng. Theo Hegel, phép biện chứng không ở trong lý trí của con người mà ở trong hiện thực khách quan, tức là ở trong “ý niệm tuyệt đối”. Ý niệm, vời tư cách là quá trình, trải qua ba giai đoạn trong sự phát triển của nó, ý niệm tuyệt đối chứa đựng mâu thuẫn, chứa đựng cái phủ định của chính nó, vận động từ nội dung này đến nội dung khác, từ đơn giản đến phức tạp, do đó, ý niệm tuyệt đối là sự sống vĩnh viễn. Chính bản thân ý niệm là phép biện chứng, đã luôn luôn tách rời và phân biệt, cái đồng nhất với cái khác nhau, cái chủ quan với cái khách quan, cái hữu hạn với cái vô hạn, linh hồn với thân thể và cũng chỉ vì vậy mà ý niệm là sự sáng tạo vĩnh viên, là sự sống vĩnh viễn và tinh thần vĩnh viễn.

Ý niệm tuyệt đối là một phạm trù triết học duy tâm của Hegel, như Lenin đã nhận xét: “Mọi người đều biết ý niệm của con người là gì, nhưng ý niệm mà không có con người, hoạt động có trước con người, ý niệm trừu tượng, ý niệm tuyệt đối, là một điều bia đặt thần học của nhà duy tâm Hegel”. Tuy nhiên, chính Lenin cũng thấy cái “hạt nhân hợp lý”, “hạt chân lý sâu sắc” trong ý niệm tuyệt đối của triết học Hegel, đó là phép biện chứng. Ý niệm tuyệt đối của Hegel có vẻ là tuyệt đối duy tâm, nhưng như Lenin đánh giá: “Hầu như không chứa đựng một chủ nghĩa duy tâm đặc biệt nào mà chỉ có chủ đề chủ yếu là phương pháp biện chứng và lẽ là sự trình bày hay nhất về phép biện chứng”.

Theo VŨ HÙNG / TẠP CHÍ TRIẾT HỌC
0