Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Data. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Data. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 13 tháng 9, 2012

Một phần Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm như thế nào?

14/9/12- Bất chấp luật pháp quốc tế, sau khi chiếm đóng Hoàng Sa, Trung Quốc lại một lần nữa dùng vũ lực xâm lược một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Khúc ca bi tráng…

Tháng 01 năm 1988, CHND Trung Hoa đã huy động một lực lượng hải quân gồm nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa xuất phát từ Hải Nam tiến xuống phía Nam, trong đó có 4 chiếc đến khu vực phía Tây Bắc quần đảo Hoàng Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động các tàu vận tải của Việt Nam trong khu vực biển gần bãi đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên. Lực lượng tàu chiến này đặt dưới sự chỉ huy của một Bộ Tư lệnh đặc biệt được thành lập để tổ chức triển khai chiến dịch đánh chiếm một phần quần đảo Trường Sa, bắt đầu từ ngày 14 tháng 3 năm 1988, nấp dưới luận điệu quen thuộc “phản công để tự vệ”.


Bức tranh vẽ lại cuộc chiến đấu anh dũng của Thiếu úy Trần Văn Phương chống lại rất đông quân Trung Quốc trên bãi đá Gạc- Ma. Bức tranh được treo trang trọng tại phòng truyền thống Vùng 4 Hải quân Việt Nam.

Trong chiến dịch này, Trung Quốc đã sử dụng một liên đội tàu chiến gồm 6 chiếc, trong đó có 3 chiếc tàu hộ vệ số 502, 509, 531 trang bị tên lửa và pháo 100mm, các tàu này đã tấn công, bắn chìm 3 tàu vận tải của Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế cho các bãi đá Len Đao, Cô Lin, Gạc Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn đang do Việt Nam quản lý.


Bãi đá Cô Lin, nơi tàu HQ- 505 ủi bãi giữ chủ quyền. Hiện tại Hải quân Việt Nam vẫn ngày đêm canh giữ.

Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ và đồng đội trên tàu HQ- 505 đã anh dũng, mưu trí giữ được bãi đá Cô Lin:

Trong lúc tàu HQ-604 và đảo Gạc Ma bị tấn công dữ dội thì bên đảo Len Đao và Cô Lin, tàu HQ-605 và HQ-505 cũng đồng thời bị bắn. Khi thấy tàu HQ-604 bị bắn chìm, thuyền trưởng tàu HQ-505 Vũ Huy Lễ cho tàu lùi ra lấy đà và ủi lên đảo Cô Lin. Khi tàu HQ-505 trườn lên được hai phần ba thân tàu lên đảo thì bốc cháy. Thủy thủ tàu vừa dập lửa vừa đưa xuồng đến cứu thủy thủ tàu HQ-604.

Nguồn Vietnamnet


Trong cuộc xâm chiếm bất hợp pháp của Trung Quốc tại khu vực bãi đá ở Trường Sa, tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Ga Ven, đá Tư Nghĩa, đá Gạc Ma, đá Su Bi.

Các chiến sĩ hải quân Việt Nam dù bị động trước số lượng áp đảo của tàu chiến Trung Quốc vẫn chiến đấu anh dũng, hy sinh, bảo vệ được chủ quyền tại đá Cô Lin và Len Đao


Năm 1988, Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông báo cho Liên Hợp quốc, gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc Kinh và đặc biệt là các công hàm ngày 16, 17, 23 tháng 3 năm 1988 đề nghị hai bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp. Trung Quốc tiếp tục chiếm giữ các bãi đá đã chiếm được và khước từ thương lượng. Ngày 14 tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phản đối việc Quốc hội Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam (Nghị quyết ngày 13/4/1988 thành lập tỉnh Hải Nam).


Vòng hoa thả trôi tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ hy sinh trong trận chiến bảo vệ Trường Sa 1988

Việt Nam tiếp tục đấu tranh bảo vệ chủ quyền

Tháng 4/1988, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công bố Sách trắng “Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế”

Ngày 01 tháng 7 năm 1988, tỉnh Phú Khánh được tách làm hai tỉnh : Phú Yên và Khánh Hòa, huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa.

Ngày 4 tháng 3 năm 1992, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Công hàm phản đối “Pháp lệnh về lãnh hải , vùng tiếp giáp lãnh hải của CHND Trung Hoa”. Công hàm khẳng định Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 22 tháng 01 năm 1994, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố Việt Nam có quyền kiểm soát đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam là nước đầu tiên chiếm hữu và quản lý nhà nước hai quần đảo này từ thế kỉ XVII.

Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982, trong đó có đoạn ghi: “Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các vấn đề tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các hành động khác có liên quan về Biển Đông thông qua luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước năm 1982 về Luật Biển của Liên Hợp quốc, tôn trọng quyền chủ quyền về kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán đề tìm giải pháp cơ bản, lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực”.


Hải quân Việt Nam, vững tay súng bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương

Danh sách 64 chiến sĩ đã hy sinh ngày 14-3-1988 trong trận chiến bảo vệ quần đảo Trường Sa:

1- Vũ Phi Trừ, quê Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hóa.

2- Nguyễn Văn Thắng, quê Thái Hưng, Thái Thụy, Thái Bình.

3- Phạm Gia Thiều, quê Hưng Đạo, Trung Đồng, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Hà Nam)

4- Lê Đức Hoàng, quê Nam Yên, Hải Yên, Tĩnh Gia, Thanh Hóa.

5- Trần Văn Minh, quê Đại Tân, Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh (nay là tỉnh Nghệ An).

6- Đoàn Đắc Hoạch, quê 163 Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng

7- Tạ Trần Văn Chức, quê Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình

8- Hán Văn Khoa, quê Văn Lương, Tam Thanh, Vĩnh Phú (nay là tỉnh Phú Thọ).

9 - Trần Văn Phong, quê Hải Tây, Hải Hậu, Hà Nam Ninh (Nam Định).

10- Nguyễn Văn Hải, quê Chính Mỹ, Thủy Nguyên, Hải Phòng.

11- Nguyễn Tất Nam, quê Thường Sơn, Đô Lương, Nghệ Tĩnh.

12- Trần Đức Bảy, quê Phương Phượng, Lê Hòa, Kim Bảng, Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Hà Nam).

13- Đỗ Việt Thắng, quê Thiệu Tân, Đông Sơn, Thanh Hóa.

14- Nguyễn Văn Thủy, quê Phú Linh, Phương Đình, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (nay là Hà Nam).

15- Phạm Hữu Đoan, quê Thái Phúc, Thái Thụy, Thái Bình16- Bùi Duy Hiền, quê Diêm Điền, Thái Thụy, Thái Bình.

17- Nguyễn Bá Cường, quê Thanh Quýt, Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam).

18- Kiều Văn Lập, quê Phú Long, Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Nội.

19- Lê Đình Thơ, quê Hoằng Minh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

20- Cao Xuân Minh, quê Hoằng Quang, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

21- Nguyễn Mậu Phong, quê Duy Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (nay là Quảng Bình).

22- Trần Văn Phương, quê Quảng Phúc, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

23- Đinh Ngọc Doanh, quê Ninh Khang, Hoa Lư, Hà Nam Ninh (Ninh BÌnh).

24- Hồ Công Đệ, quê Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hóa.

25- Đậu Xuân Tư, quê Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).

26- Bùi Bá Kiên, quê Văn Phong, Cát Hải, Hải Phòng.

27- Đào Kim Cương, quê Vương Lộc, Can Lộc, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).

28- Phan Tấn Dư, quê Hòa Phong, Tuy hòa, Phú Khánh (Phú Yên).

29- Nguyễn Văn Phương, quê Mê Linh, Đông Hưng, Thái Bình.

30- Võ Đình Tuấn, quê Ninh Ích, Ninh Hòa, Phú Khánh (Khánh Hòa).

31- Nguyễn Văn Thành, quê Hương Điền, Hương Khê, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).

32- Phan Huy Sơn, quê Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).

33- Lê Bá Giang, quê Hưng Dũng, thành phố Vinh, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).

34- Nguyễn Thắng Hải, quê Sơn Kim, Hương Sơn, Nghệ Tĩnh (Hà Tĩnh).

35- Phan Văn Dương, quê Nam Kim, Nam Đàn, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).

36- Hồ Văn Nuôi, quê Nghi Tiến, Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh (Nghệ An).

37- Vũ Đình Lương, quê Trung Thành, Yên Thành, Nghệ Tĩnh.

38- Trương Văn Thinh, quê Bình Kiên, Tuy Hòa, Phú Khánh (Phú Yên).

39- Trần Đức Thông, quê Minh Hòa, Hưng Hà, Thái Bình.

40- Trần Văn Phong, quê Minh Tâm, Kiến Xương, Thái Bình.

41- Trần Quốc Trị, quê Đông Thạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình)

43 - Lê Thế, quê tổ 29, An Trung Tây, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).

44- Trần Đức Hóa, quê Trường Sơn, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

45- Phan Văn Thiềng, quê Đông Trạch, Bố Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

46- Tống Sĩ Bái, quê phường 1, Đông Hà, Bình Trị Thiên (Quảng Trị).

47- Hoàng Ánh Đông, quê phường 2, Đông Hà, Bình Trị Thiên (Quảng Trị).

48- Trương Minh Phương, quê Quảng Sơn, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

49- Nguyễn Minh Tâm, quê Dân Chủ, Hưng Hà, Thái Bình.

50- Trần Mạnh Viết, quê tổ 36, Bình Hiên, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng)

51- Hoàng Văn Túy, quê Hải Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

52- Võ Minh Đức, quê Liên Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

53- Võ Văn Tứ, quê Trường Sơn, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

54- Trương Văn Hướng, quê Hải Ninh, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

55- Nguyễn Tiến Doãn, quê Ngư Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

56- Phạm Hữu Tý, quê Phong Thủy, Lệ Ninh, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

57- Nguyễn Hữu Lộc, quê tổ 22, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).

58- Trương Quốc Hùng, quê tổ 5, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).

59- Nguyễn Phú Đoàn, quê tổ 47, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP. Đà Nẵng).

60- Nguyễn Trung Kiên, quê Nam Tiến, Nam Ninh, Hà Nam Ninh (Nam Định)

61- Phạm Văn Lợi, quê Quảng Thủy, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Quảng Bình).

62- Trần Văn Quyết, quê Quảng Thủy, Quảng Trạch, Bình Trị Thiên (Q. Bình).

63- Phạm Văn Sửu, quê tổ 7, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP Đà Nẵng).

64- Trần Tài, quê tổ 12, Hòa Cường, Đà Nẵng, Quảng Nam-Đà Nẵng (TP Đà Nẵng)

Nguồn: Vietnamnet

64- Trần Tài, quê tổ 12, Hòa Cường, Đà Nẵng,
Quảng Nam-Đà Nẵng (TP Đà Nẵng)

Nguồn: Vietnamnet


HỒNG CHUYÊN

(Lược trích từ sách Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông)

Nguồn: Infonet

3

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2012

Những điểm mốc chiếm hữu thực sự của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa

09/9/2012- Từ thế kỷ XVII, Người Việt đã liên tục khẳng định, bảo vệ, thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cho dù gặp bất cứ trở ngại, khó khăn nào.

Dấu ấn Việt Nam đầu tiên, thường xuyên, liên tục trên Hoàng Sa và Trường Sa

Sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông” viết: “Sử sách Việt Nam và cả ở Trung Quốc đều chép đội Hoàng Sa được thành lập vào đầu thời chúa Nguyễn. Hải ngoại Kỷ sự (Trung Quốc) viết năm 1696, chép thời Quốc Vương trước đã có những hoạt động của đội Hoàng Sa và Phủ biên tạp lục viết năm 1776, chép ‘Tiền Nguyễn Thị’. Đại Nam thực lục tiền biên (1821) chép ‘Quốc sơ trí Hoàng Sa’. Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (năm 1686), đã đề cập đến các hoạt động của đội Hoàng Sa. Phủ biên tạp lục cũng như các tài liệu khác đều cho biết đội Hoàng Sa khi trở về đất liền vào thàng tám Âm lịch vào Cửa Eo hay Tư Hiền rồi nộp sản vật tại chính dinh ở Phú Xuân. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan mới bắt đầu dời chính dinh đến Kim Long vào năm Dương Hòa đầu năm (1635) và thời chúa Nguyễn Phúc Tần mới dời qua Phú Xuân.”

“Chúng ta có cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa ra đời sớm nhất từ thời chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), hay chắc chắn hơn từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Bởi chính thời kỳ này, các thuyền của Đội Hoàng Sa mới đi vào cửa Eo (Thuận An) và nộp sản vật tại chính dinh Phú Xuân.”

Sang thời Tây Sơn, sách Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông ghi rõ: “Trong thời gian từ năm 1771 đến 1801, gần như lúc nào cũng có chiến tranh, trên đất liền cũng như ngoài Biển Đông, từng khu vực có lực lượng hoặc do Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh hoặc quân Tây Sơn làm chủ.”

“Chỉ trong vài năm bị đình đốn, ngày 15 tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) cai hợp Hà Liễu ở phường Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn) thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi đã làm đơn xin với chính quyền Tây Sơn được lập lại hai đội Hoàng Sa và Quế Hương, sẵn sàng vượt biển ra các cù lao (đảo) ngoài biển để làm nhiệm vụ theo thông lệ và sẵn sàng ứng chiến chống kẻ xâm phạm”. Thêm một cứ liệu khác: “Năm Thái Đức thứ 9 (1786)- Niên hiệu Nguyễn Nhạc- ngày 14 tháng 2 (Âm lịch) chính quyền Tây Sơn ra quyết định sai phái Hội Đức Hầu, cai đội Hoàng Sa, cưỡi 4 chiếc thuyền vượt biển ra thẳng Hoàng Sa cùng các xứ cù lao ngoài biển.

Theo các tư liệu còn lưu lại cho thấy, người phụ trách dân binh với chức Thái phó, một chức quan lớn trong chiều. Chính quyền Tây Sơn còn yêu cầu các thuyền của đội Hoàng Sa phải mang biển hiệu thủy quân, song lại nhắc nhở không được lấy danh nghĩa thủy quân mà làm càn, bắt nạt dân làm muối và đánh cá.”


Văn bản phát hiện ở làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế với nội dung xử lý vụ kiện giữa phường Mỹ Toàn (nay là làng Mỹ Lợi, xã Vinh Mỹ) và phường An Bằng (xã Vinh An) về việc tranh chấp một chiếc vỏ thuyền của đội Hoàng Sa dạt vào bờ biển giáp ranh giữa hai phường này. Văn bản cho thấy, năm 1760, dưới thời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) đã có cai đội Hoàng Sa chuyên trách quản lý và khai thác sản vật ở quần đảo Hoàng Sa. Bản gốc bằng chữ Hán được viết trên giấy dó.

Mặc dù tình hình đất nước thời đó xảy ra nhiều cuộc chiến tranh nhưng Chúa Nguyễn, Nhà Tây Sơn cũng không quên tiếp tục việc gìn giữ chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. "Dấu ấn" này đã mang tính công vụ Nhà nước thời bấy giờ chứ không phải hoạt động đánh cá hay thuyền buôn thông thường của người dân.

Nhà Nguyễn tiếp tục khắc đậm "dấu ấn Việt Nam" trên Biển Đông

Ngay sau khi thay thế Nhà Tây Sơn, vua Nhà Nguyễn không chỉ tập trung vào việc trị an đất nước mà còn lập lại đội Hoàng Sa. Sách Dấu ấn Việt Nam trên biển Đông chỉ rõ: “Chỉ một năm sau khi lên ngôi hoàng đế, tháng 7 năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long đã cho lập lại đội Hoàng Sa. Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 12 viết: “Lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự của biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa”.


Mộc bản triều Nguyễn trong sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) ghi lại Bộ công tâu lên triều đình nội dung: "Cương giới mặt biển ta có xứ Hoàng Sa rất hiểm yếu"

Tiếp nối các đời vua Nhà Nguyễn từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… việc duy trì Hải đội Hoàng Sa rất đều đặn. Hải đội Hoàng Sa dưới thời Nguyễn có tầm quan trọng như một lực lượng "đặc nhiệm" để bảo vệ chủ quyền. Sách viết: “Lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ xác lập và thực thi chủ quyền này là một ‘lực lượng đặc nhiệm’ gồm kinh phái, tỉnh phái và dân binh địa phương trong đó có dân binh đội Hoàng Sa. Kinh phái đứng đầu là thủy quân cai đội hay thủy quân chánh đội trưởng chỉ huy cùng với lực lượng thủy quân lấy trong vệ thủy quân đóng ở kinh thành hay cửa Thuận An.”
Ngăn chặn âm mưu thôn tính Hoàng Sa từ trứng nước

Theo Hiệp ước Patenôtre được ký giữa Việt Nam và Pháp, Pháp sẽ là đại diện ngoại giao cho Việt Nam. Từ thời kỳ này, chính quyền thuộc địa Pháp đã có những hành động cụ thể để củng cố, khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Sách Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông chỉ ra âm mưu “nhòm ngó” Hoàng Sa từ những năm 1909 của một chính quyền địa phương Quảng Đông. Thông qua bức thư của Lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ trưởng Bộ ngoại giao Pháp ngày 04.05.1909 cuốn sách đã chỉ ra những nội dung sau:

“- Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas, Trung Quốc muốn bắt đầu chiếm luôn quần đảo Paracel gần Hải Nam (Quần đảo Hoàng Sa).

- Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên (của Trung Quốc- PV) là của Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò).

- Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa bị đối xử tàn tệ, vợ con bị bắt đến đảo Hải Nam.”

Cuốn sách đã chỉ ra nhiều sự kiện thực thi chủ quyền thay Việt Nam của chính phủ Pháp. Nhưng đáng chú ý nhất là: “Ngày 13.04.1930, Thông báo hạm Malicieuse do thuyền trường De Lattre điều khiển đi ra quần đảo Trường Sa theo chỉ thị của Toàn quyền Đông Dương để dựng bia chủ quyền chiếm giữ đảo Trường Sa và các đảo phụ thuộc. Hoạt động này đã được toàn quyền Đông Dương báo cáo lên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp tại Paris (Điện số 689 ngày 18.04.1930).

Ngày 23.09 .1930, Pháp gửi thông báo ngoại giao cho các cường quốc về việc Pháp đã chiếm đóng quần đảo Trường Sa.”

Ngoài những hoạt động về ngoại giao và thông báo chính quyền Pháp còn thay mặt Việt Nam thực thi việc chiếm hữu liên tục, thực sự. Sách viết: “Năm 1938, Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và xây dựng hải đăng, một trạm khi tượng (OMM đăng ký số 48860 ở đảo Hoàng Sa và số 48859 ở đảo Phú Lâm).


Ngày 15.06 .1938, Pháp xây xong trạm khí tượng ở trạm Ba Bình quần đảo Trường Sa.”
“Tháng 6 năm 1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Hoàng Sa với dòng chữ: “Respublique Francaise_ Royaume d’Annam- Archipel de Pacel 1816- Ile de Pattle 1938”.


Bia chủ quyền do Pháp thay mặt Việt Nam xây dựng trên quần đảo Hoàng Sa

Việc thực thi chủ quyền của Việt Nam dưới thời kỳ Pháp làm đại diện diễn ra liên tục và thực sự. Người Pháp đã thay Việt Nam xây dựng nhiều công trình ghi dấu ấn chủ quyền như bia chủ quyền, trạm khí tượng và hải đăng…. và công bố chủ quyền cho các cường quốc….

Liên tục thực thi chủ quyền trên Biển Đông trong bất kỳ hoàn cảnh nào

Lợi dụng Việt Nam đang đối phó với sự trở lại của Pháp và lo kháng chiến chống Pháp, quân Tưởng Giới Thạch đã kéo quân xuống chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sách viết: "Ngày 26.10.1946, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa dân quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung đội độc lập của hải quân lấy cớ giải giáp quân Nhật ra chiếm các đảo quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Ngày 29.11.1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới quần đảo Hoàng Sa. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa.”

Trước tình hình đó, “ngày 13 .01 .1947, Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa” Sách Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông cũng lý giải: “Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc lập từ năm 1945, không còn ràng buộc vào hiệp định Patenôtre (1884) với Pháp, song Pháp cho rằng theo Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn nằm trong khối liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.”

Sách viết: “Ngày 1.10.1949, nước CHND Trung Hoa ra đời, đơn vị đồn trú của Trung Hoa Dân quốc phải rút khỏi Phú Lâm, trong khi Pháp vẫn duy trì đồn trú tại đảo Hoàng Sa.
Sau Hiệp định Genève ký kết ngày 20.7.1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam.

Ngày 14.10.1950, Chính phủ Pháp chính thức trao lại cho chính phủ Bảo Đại việc quản lý và bảo vệ Hoàng Sa. Tổng trấn Trung phần, Phan Văn Giáo, đã chủ trì việc ban giao này.”

Dù trong giai đoạn nào, Việt Nam luôn thực thi chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Việc bảo vệ, quản lý, xây dựng, gìn giữ chủ quyền của Nước CHXHCN Việt Nam được sách Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông ghi chép khá đầy đủ. Trong phạm vi bài viết này, người viết không thể đưa hết nội dung của những mốc thời gian, những việc khẳng định, thực thi chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông mà chỉ trích lược một vài dấu mốc chính trong cuốn sách. Nội dung được trình bày trong trọn vẹn trong Chương 3 (từ trang 77 đến hết trang 134).


Hải quân Việt Nam luôn chắc tay súng giữ gìn biển đảo quê hương

HỒNG CHUYÊN

(Lược trích từ sách Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông- Chủ biên Ts Trần Công Trục)

Infonet
0

Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2012

Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990

Tác giả Nguyễn Trung là cựu Đại sứ VN tại Thái Lan, cựu thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, cựu thành viên Viện Nghiên cứu Phát triển IDS.

11/8/2012- Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta.


Tóm tắt lịch sử đã xảy ra: Không thể nào chấp nhận được thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, ngay sau 30-04-1975 Trung Quốc đã tạo ra cái “bẫy Campuchia”, khuyến khích Khmer đỏ khiêu khích vũ trang đánh Việt Nam và đến tháng 4-1977 Khmer đỏ đã tiến hành chiến tranh lớn tấn công diện rộng toàn vùng biên giới Tây Nam nước ta giáp Campuchia; đồng thời ngày 17-02-1979 Trung Quốc huy động 60 vạn quân phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn ồ ạt tiến công toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, với cái đích kiêu ngạo “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Với chiến lược căng Việt Nam ra cả hai đầu mà đánh, hai cuộc chiến tranh dã man này nhằm mục đích khuất phục nước ta, trên thực tế đến 1989 mới thực sự im tiếng súng ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia. Song cả hai cuộc chiến tranh này đã thất bại, vì Trung Quốc không thực hiện được mục tiêu chiến lược của nó là khuất phục Việt Nam, hơn thế nữa Việt Nam đã đánh tan Khmer đỏ và cứu được nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc luôn là đòi hỏi chiến lược của Việt Nam, song tình hình nêu trên cho thấy dù bị sức ép quyết liệt từ phía Trung Quốc và bị bao vây cấm vận vì vấn đề Campuchia, Việt Nam không ở trong thế yếu. Song vào thời điểm cuối những năm 1980 và đầu năm 1990 các nước Liên Xô Đông Âu sụp đổ. Diễn biến này được lãnh đạo nước ta lúc ấy coi là hệ quả phản công của chủ nghĩa đế quốc, và lo rằng nạn nhân kế tiếp có thể là Việt Nam. Với tư duy như vậy, sau nhiều nỗ lực khác không thành vì bị Trung Quốc luôn gây sức ép, lãnh đạo nước ta đã chấp nhận hai đòi hỏi quan trọng nhất của Trung Quốc là rút quân khỏi Campuchia và loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch để mở đầu cho quá trình bình thường hóa quan hệ. Ngày 3 và 4 tháng 9-1990 cuộc họp cấp cao Thành đô được tiến hành, Việt Nam tham gia với mong muốn bình thường hóa quan hệ và liên minh với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bất chấp việc Trung Quốc tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, bất chấp công cuộc đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986 mang lại thành quả bất ngờ và nhanh chóng cải thiện tình hình kinh tế nước ta trong những năm ấy.

Sai lầm nghiêm trọng thứ nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không nhìn ra sự sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới cho phép nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi cùng với cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước mình, không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội này đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính trị.

Sai lầm nghiêm trọng thứ hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình thường hóa quan hệ quốc gia – quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có ảo tưởng liên minh ý thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những mâu thuẫn hay xung đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc gia và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta đã chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần như với bất cứ giá nào.

Bình thường hóa quan hệ Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam được hưởng một thời kỳ hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là thời kỳ hòa hoãn trên thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức hệ. Thực tế diễn ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt Nam đã làm tất cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với cái đích trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung Quốc. Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi mặt.

Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.

Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên ngoài.

Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân.

Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc.

Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước đang lâm nguy.

Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen!

Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!

Để mỗi chúng ta có những căn cứ các đáng về mối lo nguy cơ mới, trong phần phụ lục kèm theo bài này, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trích dẫn trong tài liệu nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội nghị Thành Đô 9-1990.

-----------------
Phụ lục

Một số ý trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu

Hội nghị Thành Đô, tháng 9 năm 1990

Dương Danh Dy, Hà Nội, tháng 10 -2011

“…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên tắc” về CPC như đã trình bày trên, phía Việt Nam đã không hề(hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.. Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”…




Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thưòng chiến tranh(trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thưòng hoá quan hệ hai nuớc) nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi nghĩa của mình? Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dưòng như giành được “vị thế chính nghĩa” trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính qui xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Làm cho một bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: “Việt Nam xua đuổi nguời Hoa”, “Việt Nam xâm lược Cămpuchia”… là đúng, việc thế giới “ lên án, bao vây cấm vận Việt Nam” là cần thiết, việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học” là phải đạo v.v.… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.



…Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc( ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên).



…Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát..”. Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc(tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được…



…Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến đại hội VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…



…Có thể có ngưòi không đồng ý nhận định này, nhưng người viết bài này luôn cho rằng rằng Nguyễn Cơ Thạch là số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am hiểu sâu sắc tình hình quốc tế, có quan hệ tương đối tốt với một số chính khách phương tây và đặc biệt là người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam, đang tích cực vạch trần và ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá quyền của họ khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh thấy rằng nếu không cương quyết ép ban lãnh đạo Việt Nam loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ “sớm thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc”, sẽ nhanh chóng có “ vai trò quan trọng trong khu vực và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung Quốc thế hệ nào cũng đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm….



…Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam ( lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)

Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói rõ vấn đề



…Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “ cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề. “Hội nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu những người có trách nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội nghị này và nghiêm chỉnh đánh giá lại “kết quả”

…Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà ngưòi viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?

(1)Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước xhcn Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.

Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện “bức tường Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yelsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Cộng hoà liên bang Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên, Trong tình hình như thế mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc”(Hồi ký Trần Quang Cơ)


Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện Thiên An Môn”, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ ... Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự(có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ)Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.


(2)Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh”kiên cường, bất khuất, không sợ địch”mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho ngưòi tiền nhiệm. Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa xã hội” “vì đại cục”… của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.

Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi “láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí” luôn rêu rao “16 chữ vàng” đang không ngừng vận dụng những “thành quả cũ” vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tưong lai….

…”

Hết

Võng Thị, Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2012


Theo Viet-Studies
9

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Cuộc chiến đẫm máu của Việt Nam đánh bại Trung Quốc

Tim King Salem-News.com

24-10-2010

Hồi tưởng về thời điểm một cuộc chiến mà hầu hết người Mỹ không thấy quen thuộc.

(SALEM, Oregon) – Trung Quốc đã thất bại trong một cuộc chiến tranh quan trọng trong năm 1979 chống lại Việt Nam, dù rất nhiều người ở phương Tây không hiểu rõ lịch sử quan trọng của nó. Bên phía Việt Nam là việc công nhận hiếm hoi liên quan đến sự tình nguyện của nước này để đánh bại Khmer Đỏ tàn bạo ở quốc gia láng giềng Campuchia, sau chiến tranh của Mỹ tại Đông Nam Á. Còn với Trung Quốc, cuộc xâm lược Việt Nam, chỉ thất bại và rút lui sau 29 ngày, thì cuối cùng họ đã từ bỏ cuộc xâm lược của mình.

Hãy trở lại năm 1970, khi Mỹ đã có sáu năm bước vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, là năm mà các lực lượng Mỹ xâm chiếm Campuchia, nước có biên giới giáp với phía bắc và nam Việt Nam. Các lực lượng cộng sản chiến đấu chống lại những đơn vị quân đội Mỹ; quân đội Bắc Việt và du kích Việt Cộng, sử dụng Campuchia như là một nơi ẩn náu và chu chuyển. Họ tiến vào nước này từ phía bắc và lộ diện ở những khu vực phía nam bị Mỹ kiểm soát.

Năm 1973, một lệnh ngừng bắn được kêu gọi ở Việt Nam. Năm 1975, các lực lượng Mỹ cuối cùng đã rút khỏi nước này, chỉ để lại phía sau POW và MIA (tù binh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh).

Lúc đó, toàn bộ Việt Nam đã nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản Hà Nội và vẫn như thế kể từ ấy.

Điều thú vị là, Việt Nam có được sự hỗ trợ chủ yếu từ Liên bang Xô Viết trong suốt cuộc chiến tranh với Mỹ, chứ không phải là láng giềng Trung Quốc như một điều hợp lý được mong đợi. Trung Quốc là một người ủng hộ chính quyền lợi của Việt Nam cho tới lúc bắt đầu chiến tranh với Mỹ, đó cũng là năm sự ủng hộ của Trung Quốc với Việt Nam chấm dứt.

Như các thông tin của Wikipedia, đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Minh có một lịch sử lâu đời. Khi Việt Nam chiến đấu chống Pháp năm 1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vừa thành lập và Việt Minh có được mối quan hệ gần gũi. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và “Nhóm tư vấn quân sự Trung Quốc” dưới sự chỉ đạo của Vi Quốc Thanh đã đóng một vai trò quan trọng trong việc Việt Minh đánh bại quân đội Pháp.

Quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc bắt đầu tan rã sau cái chết của nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin – người chịu trách nhiệm về việc sát hại hàng triệu người Nga. Mao Trạch Đông nói, Nikita Khrushchev đã phạm một sai lầm nghiêm trọng trong một “Bài phát biểu bí mật” lên án Stalin. Những gì thực sự khiến Chủ tịch Mao giận dữ là sự ủng hộ của Khrushchev về việc cùng tồn tại hoà bình với phương tây.

Sự thù địch gia tăng và dẫn tới cái gọi là “chia rẽ Trung – Xô”.

Thời điểm đó, mới chỉ bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ, Bắc Việt vẫn ủng hộ Trung Quốc, phần lớn do sự ủng hộ của Trung Quốc với chính sách tái thống nhất của Bắc Việt; điều mà Liên Xô khi đó vẫn không để tâm.

Trung Quốc rút khỏi sự ủng hộ từ Bắc Việt cùng năm cuộc chiến tranh Mỹ bắt đầu, năm 1964, khi đảng của Khrushchev sa thải ông và thay thế là Brezhnev ở cương vị Bí thư Thứ nhất và Alexei Kosygin đảm nhận ghế Thủ tướng.

Bắt đầu trong năm 1965, lòng trung thành của những người cộng sản Việt Nam chuyển hướng tới Liên Xô; khi đó cả Liên Xô và Trung Quốc đang ủng hộ vũ khí cho Bắc Việt trong cuộc chiến tranh chống lại Nam Việt Nam và Mỹ.

Kết cục bất ngờ với Khmer Đỏ

Cộng sản Việt Nam và Khmer Đỏ của Pol Pot từng làm việc với nhau thời kỳ đầu, nhưng mối quan hệ bắt đầu tách rời khi chế độ Campuchia yêu cầu Việt Nam trả lại những khoảnh đất cho Campuchia bị “mất” trong một số thế kỷ trước. Việt Nam không quan tâm và Pol Pot đã trả đũa bằng cách tàn phá tộc người Việt Nam trong một vụ thảm sát bên trong Campuchia.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng, Khmer Đỏ đã phạm tội diệt chủng chống lại người dân ở các chủng tộc khác nhau bao gồm tộc người Trung Quốc, Việt Nam và người Campuchia.

Liên Xô cuối cùng đã ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến đánh bại Pol Pot ở Campuchia, sau thời kỳ diệt chủng khét tiếng bi thảm. Sự ủng hộ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa với Pol Pot đã khiến cho Liên bang Xô viết coi đây là một cơ hội. Họ hậu thuẫn các lực lượng chiến đấu dày dạn của quân đội Việt Nam để dễ dàng đánh bại Khmer Đỏ diệt chủng.

Người Việt Nam biết có thể có sự trả đũa từ Trung Quốc, nhưng họ chọn cách tiếp nhận ủng hộ của Xô Viết và hy vọng việc phô trương lực lượng sẽ kiềm chế được Trung Quốc. Về lâu dài, họ đã thất bại trong canh bạc của mình.

Cuộc xâm chiếm chính thức của Việt Nam tại Campuchia xảy ra vào cuối 1978. Khmer Đỏ thiếu kinh nghiệm chiến đấu, kinh nghiệm của họ là ức hiếp và giết hại dân thường, chứ không phải thực tế giao chiến quân đội.

Ngày 7/1/1979, các lực lượng Campuchia được sự hỗ trợ của chính phủ Việt Nam đã chiếm giữ Thủ đô Phnom Penh, chấm dứt chế độ Khmer Đỏ. Pol Pot trốn vào rừng và sống ở đó trong nhiều năm. Tới năm 1997, ông và một người còn lại của Khmer Đỏ hoạt động ở khu vực biên giới Campuchia và Thái Lan.

Cuộc chiến 29 ngày

Thứ duy nhất thiếu vắng trong cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc ngày 17/2/1979 là máy bay. Trung Quốc đổ bộ vào các khu vực biên giới chính của Việt Nam với bộ binh, thiết giáp và pháo binh. 29 ngày chiến tranh của họ không đạt được thắng lợi đáng kể và thất bại trong việc phô trương lực lượng chống lại Xô Viết.

Theo Wikipedia:

Trong vòng một ngày, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã tiến sâu vào Việt Nam khoảng 8km dọc theo một mặt trận rộng lớn. Sau đó họ đã chậm lại và gần như đình trệ vì sức kháng cự mạnh mẽ của Việt Nam và những khó khăn trong hệ thống hậu cần Trung Quốc. Ngày 21/2, cuộc tiến quân được phục hồi chống lại Cao Bằng ở cực bắc và chống lại trung tâm quan trọng nhất khu vực là Lạng Sơn. Quân đội Trung Quốc tiến vào Cao Bằng ngày 27/2,nhưng thành phố hoàn toàn không được bảo vệ cho tới ngày 2/3. Lạng Sơn thất thủ hai ngày sau đó. Ngày 5/3, Trung Quốc nói rằng, Việt Nam đã bị trừng phạt thích đáng, tuyên bố chiến dịch kết thúc. Bắc Kinh toàn bố “bài học” của họ đã hoàn thành và PLA hoàn tất việc rút quân vào ngày 16/3.

Quan điểm của Việt Nam trong sự trỗi dậy của các hoạt động chiến đấu là, Bắc Kinh đã nếm trải một thất bại quân sự nếu không phải là sự bại trận hoàn toàn.

Theo GlobalSecurity.org:

Cuộc tấn công 1979 đã xác định rõ nhận thức của Hà Nội về mối đe doạ Trung Quốc. Chỉ huy cấp cao Quân đội Nhân dân Việt Nam (PAVN) từ nay trở đi phải giả định, lập kế hoạch mục tiêu rằng, Trung Quốc có thể trở lại và có thể không chỉ dừng lại ở các chân đồi mà có thể tiến tới Hà Nội. Chiến tranh biên giới đã tăng cường quan hệ Xô – Việt. Vai trò quân sự của Xô Viết tại Việt Nam đã gia tăng trong những năm 1980 khi Liên Xô cung cấp vũ khí cho Việt Nam; hơn thế nữa, các tàu Liên Xô được quyền tiếp cận các cảng ở Đà Nẵng và vịnh Cam Ranh, máy bay do thám Liên Xô được hoạt động ở các sân bay Việt Nam. Người Việt Nam đáp trả chiến dịch của Trung Quốc bằng cách biến các khu vực giáp với biên giới Trung Quốc thành “những pháo đài sắt” có người điều khiển, được trang bị tốt và lực lượng bán quân sự được đào tạo kỹ càng. Ước tính có 600.000 quân được chỉ định để đối phó với các hoạt động của Trung Quốc và sẵn sàng cho một cuộc xâm lược khác của Trung Quốc. Kích cỡ chính xác của các hoạt động biên giới rất khó xác định, nhưng giá trị về tiền tệ với Việt Nam là đáng kể.

Theo trang web SinoVietnameseWar.com, di sản của chiến tranh là lâu dài, đặc biệt ở Việt Nam. Ở đất nước bị tàn phá bởi hai cuộc chiến tranh, Trung Quốc với tất cả bản chất, đã thực thi một “chính sách tiêu thổ” khi rút lui về Trung Quốc, gây ra những tổn thất trên diện rộng với vùng nông thôn và cơ sở hạ tầng của Việt Nam.

Làng mạc điêu tàn, đường bộ và đường sắt thiệt hại trong tay của người Trung Quốc.

Trong cuốn Defending China (Bảo vệ Trung Quốc) phát hành năm 1985, Gerald Segal kết luận rằng, cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Trung Quốc năm 1979 là một thất bại hoàn toàn: “Trung Quốc đã không thể buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, không chấm dứt được các cuộc đụng độ ở biên giới, không tạo được sự nghi ngờ về sức mạnh của Liên Xô, không xua đi được hình ảnh về Trung Quốc là một con hổ giấy, và không kéo được Mỹ vào một liên minh chống Liên Xô”.

Tuy nhiên, như Wikipedia thuật lại, Bruce Elleman lập luận rằng “một trong những mục tiêu ngoại giao quan trọng nhất đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày rằng, những đảm bảo hỗ trợ quân sự của Liên Xô với Việt Nam là lừa gạt. Phơi bày nó ra ánh sáng, chính sách của Bắc Kinh thực tế là một thành công ngoại giao, kể từ khi Moscow không tích cực can thiệp, vì vậy cũng cho thấy những hạn chế thực tế của hiệp ước quân sự Xô – Việt … Trung Quốc đã giành được một thắng lợi chiến lược bằng cách giảm thiểu khả năng tương lai của một cuộc chiến hai mặt trận chống lại Liên Xô và Việt Nam.

“Các cuộc đụng độ biên giới tiếp tục trong suốt những năm 1980, bao gồm một vụ chạm trán đáng kể vào tháng 4/1984; đây là lần đầu tiên chứng kiến việc Trung Quốc sử dụng súng trường tấn công kiểu 81”, theo trang web SinoVietnameseWar.com.


Video: chiến tranh Việt-Trung nhìn từ phía Việt Nam

Sau nhiều năm đàm phán không thành công, một hiệp định biên giới cuối cùng đã được ký kết giữa hai nước năm 1999. Vị trí biên giới chính xác được giữ bí mật, các vấn đề còn tiếp tục, và Việt Nam cuối cùng đã từ bỏ đất đai lại cho Trung Quốc.


Video: Cuộc chiến Trung-Việt nhìn từ phía Trung Quốc

Có điểm lưu ý tích cực, đó là tuyên bố tháng 12/2007 về tuyến đường Hà Nội – Côn Minh; một bước ngoặt trong quan hệ Trung – Việt, sẽ được xây dựng. Con đường này sẽ đi qua vùng biên giới từng là một chiến trường giữa hai nước. Nó sẽ góp phần phi quân sự hoá khu vực biên giới, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và hợp tác công nghiệp giữa các bên, SinoVietnameseWar.com nhấn mạnh.

Nguồn: Salem-News

Bản tiếng Việt: Ba Sàm
0

Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

Đối diện với TQ, nước cờ nào cho VN trên bàn cờ thế giới hiện nay?

15/7/12- VHNA: Tình hình đất nước ta đang có không ít khó khăn. Vấn đề cơ bản nhất, khó khăn nhất là phải đối phó với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của nhà cầm quyền Trung Quốc. Họ đang có nhiều âm mưu, thủ đoạn vừa tinh vi, xảo quyệt, vừa trắng trợn, lỗ mãng nhằm thôn tính Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Làm gì và làm như thế nào để bảo vệ chủ quyền của đất nước? Đây đang là mối quan tâm của đông đảo các tầng lớp nhân dân.

Bài phân tích tình hình của Lê Nguyên mà chúng tôi giới thiệu là một trong nhiều ý kiến để bạn đọc tham khảo. Đây là ý kiến của cá nhân Lê Nguyên, không phải là quan điểm của VHNA.


Nếu lấy cái mốc 2007-2008 là thời điểm có những sự kiện quan trọng mang tính bước ngoặt – trong nước, năm 2007, lần đầu tiên có sự bùng nổ các phong trào biểu tình chống Trung Quốc vốn kết tụ từ những âm ỉ trước đó, và trong quan hệ với quốc tế, từ năm 2008, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO – thì có thể thấy trong vòng dăm năm trở lại đây, Việt Nam đang dần tiến tới một khúc quanh quan trọng mang tính quyết định cho vận mệnh của chính mình. Nếu đặt Việt Nam giữa các “ông lớn” trên bàn cờ thế giới hiện nay và thu gọn lại thành một quan hệ tay ba Việt Nam – Trung Quốc – Hoa Kỳ thì có thể công thức hoá khúc quanh quan trọng này dưới dạng các câu hỏi mang tính chiến lược, và việc lựa chọn đáp án nào sẽ mang tính quyết định cho vị thế của Việt Nam trên sân khấu chính trị châu Á – Thái Bình Dương cũng như thế giới nói chung: 1/ Đi gần hơn nữa với Trung Quốc trên mặt trận chống lại sức ảnh hưởng (ảnh hưởng vốn có và nỗ lực ảnh hưởng trở lại mang tính chiến lược) của Mỹ? 2/ Cố gắng giữ thăng bằng, hay là đu dây, giữa các cường quốc mà đặc biệt là giữa hai gã khổng lồ của thế kỉ 21 là Mĩ và Trung Quốc? và 3/ Trở thành đồng minh với Mĩ trong nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc?

Thực ra đã có nhiều bài báo từ nhiều phía, nhiều lực lượng khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp cổ xuý và vận động cho từng đáp án này. Trước hết đánh giá một cách sơ bộ về 3 câu hỏi: câu 1 dường như ít có khả năng xảy ra, bất chấp những cáo buộc, đôi khi là cực đoan, của các tiếng nói bất mãn trong và ngoài nước trước những phản ứng có vẻ như quá nhu của Việt Nam trước các động thái của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Ngoại trừ những tuyên bố phần nhiều là có tính toán về mặt ngoại giao và thường được để cho giới lãnh đạo cấp cao Việt Nam về bên Đảng lên tiếng, cộng với những tuyên bố vừa cứng rắn, doạ dẫm, vừa phủ dụ lôi kéo của phía Trung Quốc được thể hiện qua tờ Hoàn cầu Thời báo, thì khó có thể tưởng tượng được kịch bản 1 này lại được Việt Nam lựa chọn. Hai lựa chọn còn lại (giữ thăng bằng, đu dây, hay liên minh với Mĩ) thường gây nhiều tranh cãi nhất, và sẽ là trọng tâm mà tôi phân tích ở đây. Do vậy, trong bài báo này tôi sẽ đặt mối quan hệ này vào một bối cảnh rộng hơn với việc khu biệt hoá thành 6 lực lượng trên sân khấu chính trị châu Á – Thái Bình Dương hiện nay: 1/ Việt Nam – 2/ Trung Quốc – 3/ Hoa Kỳ - 4/ Đông Nam Á – 5/ Các cường quốc bậc trung hoặc từng là siêu cường có mối ràng buộc gần với những động thái giữa ba bên (Việt – Trung – Mỹ) bao gồm Ấn Độ, Nhật, Hàn Quốc, Australia, và Nga – 6/ Liên Âu và phần còn lại của thế giới nói chung. Sau khi phân tích những vấn đề nội tại trong sự phát triển của Việt Nam và mối quan hệ giữa Việt Nam với các lực lượng còn lại, tôi sẽ cố gắng đi tới câu trả lời là một lựa chọn nước cờ cho Việt Nam.

Về cơ bản, mối tương tác giữa các lực lượng nêu trên là mối tương tác dựa trên sự ràng buộc giữa giá trị và lợi ích.[i] Mối quan hệ giữa Việt Nam với các lực lượng còn lại do vậy cần được các nhà hoạch định chính sách nhìn nhận trong mối tương tác giữa giá trị và lợi ích này. Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng vào một thế giới toàn cầu hoá, không quá khó để xác định và đánh giá bình diện giá trị: đó là các giá trị về tự do, dân chủ và luật chơi quốc tế. Đó là các yếu tố cần thiết vừa đem lại chính “giá trị” và “lợi ích” cho người dân trong nước, vừa tạo nên “quyền lực mềm” cho quốc gia với tư cách là một đối thủ trong cuộc chơi toàn cầu. Bình diện còn lại, “lợi ích,” mới là yếu tố khó giải quyết vì bản chất của con người – xét ở cấp độ cá nhân cũng như một thực thể lớn hơn và trừu tượng hơn là quốc gia – là lòng tham. Lòng tham này được kích thích hay chế ngự dựa vào các yếu tố, thứ nhất là thực lực của bản thân từng đối thủ, và thứ hai là các “giá trị.” Nếu một lực lượng nào đó trên bàn cờ chính trị này bị chi phối quá lớn bởi bình diện “lợi ích” và bất chấp cả bình diện “giá trị,” lúc đó tất yếu nảy sinh mâu thuẫn và xung đột với các lực lượng còn lại. Các thế lực có thực lực yếu hơn, do vậy thường nhấn mạnh bình diện “giá trị,” dựa vào “giá trị” để bảo vệ mình, tất nhiên đồng thời với đó là tranh thủ thời gian để phát triển thực lực, tăng sức mạnh thực tế hỗ trợ cho cuộc cạnh tranh.

Trong thời gian qua, có thể quan sát thấy Việt Nam đã có những bước đi khá khôn ngoan và đúng hướng trong việc nhấn mạnh “giá trị” đồng thời ra sức củng cố và phát triển thực lực của mình. Bên cạnh việc mua sắm thêm nhiều vũ khí hiện đại để xây dựng một lực lượng quân đội ngày càng tinh nhuệ như là những biểu hiện cụ thể nhất của việc phát triển thực lực, ít nhất là đủ sức răn đe đối thủ, việc Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu thông qua luật biển vào cuối tháng 6 vừa rồi với những điều chỉnh cho phù hợp hơn với luật quốc tế, chính là những điều chỉnh khôn ngoan để phát triển bình diện “giá trị,” tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

Đó chính là những động tác cụ thể trong chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước thực hiện theo nguyên tắc tự lực tự cường mà Việt Nam đã quá thấm thía trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Song đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá, cộng với một thực tế là thực lực của mình còn rất yếu nếu so sánh với Trung Quốc sát cạnh như một gã khổng lồ và tham lam, những động tác trên là không đủ nếu thiếu đi những tương tác với các lực lượng bên ngoài còn lại trong sơ đồ nêu trên. Vấn đề cần đặt ra, do vậy, là phải đánh giá được “giá trị,” “lợi ích” và ý đồ của mỗi thế lực nêu trên trong cuộc chơi để từ đó có những bước đi hợp lí trong quan hệ với từng đối tượng.

Cho đến thời điểm này thì có thể nói không quá khó để nhận ra ý đồ, tham vọng của từng bên trong mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Với Việt Nam, trước hết là bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình theo đúng quy định của luật quốc tế về phạm vi 200 hải lí của khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; tiếp theo, bảo vệ phần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) mà mình đã chiếm hữu và quản lí liên tục trong lịch sử. Với Trung Quốc, hiện tại khó có thể dám phiêu lưu vào một xung đột quân sự trên biển Đông, song tham vọng lợi ích của nó đã quá rõ ràng: quyết tâm cướp đoạt Hoàng Sa và Trường Sa, biến 80% diện tích biển Đông thành cái ao nhà của mình, từ đó thực hiện tham vọng lớn hơn: dùng biển Đông làm bàn đạp tiến ra xưng hùng với thế giới.

Do vậy, trong mối quan hệ trực tiếp với Trung Quốc, bên cạnh gấp rút trở thành một thực lực đủ mạnh về kinh tế lẫn quốc phòng, Việt Nam cần phải cho Trung Quốc thấy giới hạn của sự hoà hiếu và tính nguyên tắc trong việc quyết tâm bảo vệ chủ quyền của mình. Bên cạnh một số chiến lược đã và đang được các nhà lãnh đạo Việt Nam thực hiện như chiến lược “nhím xù lông,” chiến lược “chống tiếp cận,” Việt Nam cần phải sử dụng đa dạng các phương cách khác nhau như ngoại giao nhân dân, ngoại giao đa phương, tranh thủ nước lớn và cộng đồng quốc tế. Đặc biệt Việt Nam có thể sử dụng truyền thông và tiếng nói của các học giả để nói cho Trung Quốc hiểu rằng Việt Nam sẵn sàng chiến đấu đến cùng một khi bị dồn đến chân tường, rằng gây sự với Việt Nam, Trung Quốc có thể lặp lại sai lầm trong lịch sử: 600 năm trước, bại trận ở Việt Nam đã khiến nhà Minh phải co về cố thủ nội địa và từ bỏ mộng vươn ra đại dương của mình. Lần này cũng vậy, sa lầy vào một xung đột quân sự lâu dài với Việt Nam có thể sẽ khiến Trung Quốc trở nên khốn đốn và tan tành mộng bá chủ toàn cầu.

Trong quan hệ giữa Việt Nam với lực lượng ngoài Trung Quốc, lực lượng số 6, tức “EUvà phần còn lại của thế giới nói chung,” là ở xa nhất và có tác động ít trực tiếp nhất. Song EU với tư cách là một thực thể kinh tế quan trọng và cái nôi của các giá trị toàn cầu như tự do, dân chủ, vai trò của nó cũng không hề nhỏ. Về mặt kinh tế, có thể thấy sự ràng buộc rất lớn giữa EU như là một khu vực đang phải đối diện với những khó khăn rất lớn về kinh tế, và Trung Quốc như là một thế lực kinh tế mới nổi, có dự trữ ngoại tệ rất lớn và một công xưởng sản xuất hàng hoá cho toàn thế giới. Sự phụ thuộc về mặt kinh tế, tài chính của EU và Trung Quốc là điều có thể trông thấy rõ, song không vì thế mà Trung Quốc có thể hoàn toàn khuất phục được EU trong việc ủng hộ các tham vọng quá đáng về lợi ích của mình. Bên cạnh đó, các nước EU cũng ngày càng tỏ ra e ngại Trung Quốc không chỉ như một thế lực hung hãn đang trỗi dậy, mà còn vì bản chất của nó là một sự kết hợp giữa nền toàn trị phi dân chủ với một chủ nghĩa tư bản hoang dã sẵn sàng vi phạm các cam kết về an toàn thực phẩm cũng như về luật lệ quốc tế và về nhân quyền nói chung chỉ để thực hiện các tham vọng lợi ích của mình. Do vậy, trong mối quan hệ với lực lượng này (EU và phần còn lại của thế giới nói chung), Việt Nam cần có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa về kinh tế và chính trị để biến mình thành một địa chỉ hấp dẫn cho quan hệ kinh tế với EU, xây dựng sự ràng buộc lợi ích lớn hơn giữa hai bên. Những cải cách về chính trị cũng là để đi gần hơn với EU và tranh thủ sự ủng hộ của EU trên bình diện “giá trị.”

Các cường quốc bậc trung trong vùng (Ấn Độ, Nhật, Hàn Quốc, Australia, và Nga) ở các mức độ khác nhau đều có xung đột về lợi ích với Trung Quốc và ngày càng cảnh giác trước một Trung Quốc hung hãn. Nhật, Hàn Quốc, Australia và ở một góc độ nào đó là Ấn Độ, đều là đồng minh của Mĩ. Tuy có thể không nói ra trực tiếp, song kiềm chế một nước Trung Quốc độc đảng và tham lam đều là mục tiêu chung của các quốc gia này dưới sự dẫn dắt của Mĩ. Trường hợp của Nga có phức tạp hơn. Nga từng là siêu cường một thời, song với tình hình hiện thời, uy thế ngày xưa đã mất cũng như mối ràng buộc quyền lợi của Nga với Việt Nam và vùng Đông Nam Á không còn trực tiếp thiết thân như xưa, cho nên trong bài toán Việt – Trung hiện nay, tạm thời có thể xếp Nga vào nhóm các cường quốc bậc trung trong vùng này. Nga có quan hệ lợi ích kinh tế mật thiết với Trung Quốc và có thể liên minh tạm thời với Trung Quốc để kiềm chế Mĩ. Song về lâu dài, Nga không thể trở thành đồng minh với Trung Quốc và vẫn luôn cảnh giác với Trung Quốc, không muốn Trung Quốc vươn lên lãnh đạo thế giới. Xét về bình diện“giá trị,” dù hiện thời chính quyền Putin có là một chế độ độc tài được bọc ngoài bởi một lớp nhung dân chủ, thì về lâu dài, xã hội – văn hoá Nga vẫn gần gũi Mĩ – Âu hơn là với Trung Quốc. Chiến lược của Việt Nam do vậy phải không ngừng củng cố quan hệ kinh tế và chính trị với các cường quốc này, lôi kéo các cường quốc này can dự sâu hơn vào vấn đề biển Đông, tăng cường sự ràng buộc về mặt lợi ích với các nước, đồng thời cần cải cách chính trị, phát huy tự do dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của các cường quốc này trên bình diện “giá trị.”

Thực ra hai lực lượng khó giải quyết nhất chính lại là ASEAN và một phần nào đó là Mĩ. Với Asean, trước hết phải có những phương thức ngoại giao khác nhau để các nước trong khối thấy được yêu cầu đoàn kết để tiếng nói chung bởi Trung Quốc sẽ là một thế lực có tiềm năng gây nguy hại không chỉ với những nước có can hệ trực tiếp về mặt lợi ích với Trung Quốc, mà còn đối với cả khu vực và thậm chí là cả khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Song, đối phó với việc Trung Quốc đang dùng quyền lực của cơ bắp lẫn đồng tiền để khiến Asean phải thúc thủ, Việt Nam không thể đủ tài chính và cơ bắp để chạy đua theo cách đó với Trung Quốc. Một chiến lược thu phục lâu dài đối với các nước Asean mà Việt Nam cần tạo ra phải là sự thu phục bằng quyền lực mềm, bằng “giá trị”. Muốn làm được điều đó, bản thân Việt Nam phải chứng tỏ mình sẵn sàng tạo nên và đi theo các “giá trị” ấy, thông qua đó tác động lên những nước đang hoặc có nguy cơ rơi vào vòng tay Trung Quốc, giúp các nước cảnh giác trước những mối lợi trước mắt do Trung Quốc đem lại, và nhận ra rằng các bình diện “giá trị” như tự do, dân chủ, pháp quyền là cái đích tất yếu cần phải đi đến để đảm bảo một sự phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, giúp mỗi quốc gia kia tự xây dựng nên “sức đề kháng” đối với một gã láng giềng khổng lồ, độc tài và tham lam.

Song những diễn biến căng thẳng của diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 19 vừa diễn ra tuần rồi với sự thất bại của cả khối không đưa ra được tuyên bố chung buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam phải thấy rằng với toàn bộ tính chất phức tạp về lịch sử, tôn giáo, chính trị, địa dư,… giữa 10 nước, phải mất một thời gian khá dài, có thể lên tới tầm ít nhất vài thập kỉ, thậm chí là nửa thế kỉ nữa thì ASEAN mới có thể tạo ra được một sự thống nhất như của châu Âu hiện thời. Dựa vào Asean là cần thiết nhưng không đủ, đặc biệt không kịp cho diễn tiến phát triển dồn dập của bàn cờ chính trị khu vực, và cho những tình huống cấp bách có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con bài chốt, chung quy lại, không ai khác, chính là Mĩ.

Với Mĩ, bên cạnh sự khó khăn mà nền kinh tế khổng lồ này đang gặp phải, sự phụ thuộc về mặt kinh tế vào Trung Quốc, Mĩ còn tỏ ra e dè ngại va chạm với Trung Quốc phần nhiều vì những lí do lịch sử: những va chạm và thất bại của Mĩ ở Đông Á (chiến tranh Triều Tiên) và Đông Nam Á (chiến tranh Việt Nam) trong thế kỉ 20 luôn luôn nằm trong thế kình địch với Trung Quốc. Đó vẫn là những vết thương lịch sử khiến Mĩ thận trọng và cân nhắc kĩ cho mỗi hành động trong hiện tại. Trong mối quan hệ Việt – Mĩ, hai bên đã có những bước tiến dài đáng kinh ngạc sau khi bình thường hoá vào năm 1995, song mối nghi kị lẫn nhau vẫn chưa phải là hoàn toàn chấm dứt. Mĩ với tư cách là lãnh đạo của thế giới tự do, ở một mức độ nào đó hẳn vẫn còn cái nhìn nghi ngại về Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam hẳn cũng vẫn còn nghi ngại Mĩ rất nhiều vì vẫn chưa quên nỗi đau về việc bị các cường quốc trong thế kỉ 20 thoả hiệp trên lưng mình, trong đó có Mĩ. Song, quá khứ là bài học cần phải nhớ để rút ra kinh nghiệm cho bài toán hiện tại và tương lai; trong khi đó, xét trên tổng thể, chỉ có Mĩ là lực lượng duy nhất có thể làm đối trọng với Trung Quốc hiện nay.

Như vậy, qua sự phân tích các bình diện “giá trị,” “lợi ích” và ý đồ của từng lực lượng trong sơ đồ trên, có thể đi đến một nhận định: bài toán then chốt nhất trong số các bài toán trên là phát triển mối quan hệ với Mĩ, lấy Mĩ làm đối trọng chính hỗ trợ cho sự đương đầu với Trung Quốc. Và trước hết, vấn đề then chốt trong bài toán then chốt cần giải này là phải cố gắng xoá tan sự nghi ngại đến từ cả hai phía, xây dựng và phát triển lòng tin lẫn nhau.

Làm thế nào để đạt được điều đó? Câu trả lời là: phải làm thế nào để cho hai bên tương hợp về “giá trị” và “lợi ích.” Tương hợp về “lợi ích” gần như đã không cần bàn cãi: bên cạnh yếu tố kinh tế thì xét về mặt địa – chính trị chiến lược, trong khi Việt Nam cần Mĩ làm đối trọng với Trung Quốc, Mĩ cũng rất cần Việt Nam như là một mắt xích quan trọng trong việc thực hiện kiềm chế tham vọng của Trung Quốc để cố gắng giữ ngôi vị bá chủ và tham vọng toàn cầu của mình.

Sự “quyền biến” của Mĩ trong mối quan hệ với hai nước đồng minh của mình là Nhật Bản với Phillipines trong cuộc đối đầu với Trung Quốc vừa qua đưa ra cho Việt Nam những bài học quan trọng: Mĩ sẵn sàng “cắt nghĩa” bản hiệp ước an ninh với Nhật theo hướng có lợi cho Nhật, tuyên bố có trách nhiệm bảo vệ quần đảo Senkaku (mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư Đài) cho Nhật bởi một thực tế thấy rõ là Nhật có thực lực. Trong khi đó, tình hình ngược lại với Phillippines trong vụ xung đột ở bãi đá ngầm Scarborough bởi thực lực của nước này quá yếu, đặc biệt là về mặt quân sự – quốc phòng.

Những cố gắng trong việc giữ thăng bằng giữa hai cường quốc Mĩ và Trung Quốc, kéo các cường quốc khác tham gia vào cuộc chơi để tăng thanh thế cho bản thân, đồng thời bên cạnh đó là những bước đi thận trọng, kín đáo ngày càng gần gũi hơn với Mĩ, là những nước đi khôn ngoan của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Song một vấn đề chiến lược quan trọng mà các nhà lãnh đạo Việt Nam phải thống nhất được với nhau, đó là giữ mối cân bằng này đến mức nào, đằng sau mối cân bằng này là mục tiêu chiến lược nào cần hướng đến. Liệu mối cân bằng này có duy trì mãi được không? Và quan trọng hơn, liệu mối cân bằng này có là giải pháp tối ưu hỗ trợ Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Quốc hay không? Nếu câu trả lời là “không” thì lãnh đạo Việt Nam phải trả lời tiếp câu hỏi: Vậy phải xây dựng mối quan hệ với Mĩ đến mức độ nào mới đủ sức làm thoái lui dã tâm của Trung Quốc và trong tình huống khẩn cấp xảy ra (một cuộc xung đột vũ trang chẳng hạn) thì lập tức có ngay lực lượng hỗ trợ đủ mạnh để đập tan ý chí của Trung Quốc? Trả lời câu hỏi này đồng nghĩa với việc các Việt Nam cần phải xác quyết một mục tiêu chiến lược rạch ròi, phải thống nhất được với nhau và quyết tâm đi tới mục tiêu đó. Mục tiêu đó là gì?

Dự đoán chính trị là một điều rất khó. Trong khoa học chính trị, người ta thường đưa ra các dự báo dựa trên các biến thiên (tham số) là các hành động của mỗi bên trong cuộc chơi chung, theo công thức: nếu các tham số a, b thì sẽ cho ra kết quả X; nếu các tham số là c, d thì sẽ cho ra kết quả Y. Trong bài toán đang đặt ra cho Việt Nam ở đây cũng vậy. Một kịch bản tốt đẹp và có phần lí tưởng là Trung Quốc sẽ gạt bỏ “lợi ích” của mình để tuân theo “giá trị” chung; lúc đó chiến lược giữ thăng bằng của Việt Nam hẳn tiếp tục phát huy tác dụng. Song dựa trên các dữ kiện lịch sử với các tham số như chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc và chủ nghĩa bành trướng đại Hán cũng như diễn biến dồn dập và căng thẳng gần đây, rõ ràng kịch bản trên khó lòng xảy ra. Trung Quốc có vẻ không sẵn sàng từ bỏ “lợi ích” của mình và đồng thời có vẻ không còn che giấu cho tham vọng soán ngôi bá chủ toàn cầu. Do vậy Việt Nam cũng phải sẵn sàng các bước đi cần thiết cho chiến lược của mình trong cuộc chơi này. Theo đó, Việt Nam cần tiếp tục cố gắng giữ thăng bằng trong chừng mực còn thấy nó cần thiết, trong khi đóphải luôn tỉnh táo quan sát và dự báo động thái của đối thủ.Đồng thời, bằng các cách thức không khoa trương gây ồn ào và khó chịu không cần thiết cho đối thủ, Việt Nam càng thân thiết với Mỹ càng tốt để làm sao có thể thiết lập một mối quan hệ Việt – Mỹ có tính đồng minh không chính thức hay có thể gọi là đồng minh dự bị, chẳng hạn như mối quan hệ giữa Mĩ và Singapore hiện nay. Mối quan hệ đồng minh dự bị có sự ràng buộc cần thiết nhất định nào đó về mặt hỗ trợ quân sự giữa hai bên, đồng thời nó có tính bước đệm cho một quan hệ đồng minh chính thức khi cần thiết.

Song vấn đề đặt ra là trong khi khéo léo giữ mối thăng bằng, phải làm sao để cho các bước đi này có tiến độ nhanh hơn. Để đạt được tiến độ cần thiết cũng như là một mục tiêu chiến lược cần hướng đến, Việt Nam còn nhiều việc cần phải làm. Xét từ mối quan hệ giữa “giá trị” và “lợi ích” mà tôi nêu trên, rõ ràng lời giải là phải làm cho “giá trị” và “lợi ích” giữa hai bên trở nên tương hợp. Mĩ kêu gọi Việt Nam tham gia vào TPP và Việt Nam đã có phản hồi tích cực, sẵn sàng tham gia, đó là những bước đi rất quan trọng và hữu ích. Mĩ cũng nên có một số hành động mang tính biểu tượng, chẳng hạn huỷ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam để thứ nhất, thể hiện sự hợp tác toàn diện về mặt quân sự; thứ hai, nó như là một sự khuyến khích động viên cho Việt Nam tiếp tục cải cách; và thứ ba, rõ ràng Mĩ cũng thu được mối lợi của việc xuất khẩu vũ khí mà lâu nay, bất chấp lệnh cấm trên của Mĩ, Việt Nam vẫn có nguồn cung ứng hữu hiệu từ Nga.

Song mong muốn là một chuyện, thực tế lại là chuyện khác và phức tạp hơn nhiều. Không phải cứ muốn kết ước đồng minh là lập tức có thể đặt bút kí kết ước đồng minh. Bên cạnh việc phải có những nước đi khéo léo và tiệm tiến, tránh gây sốc cho một Trung Quốc khổng lồ ngay sát bên, thì còn một trở ngại khác quan trọng hơn cần phải giải quyết: dù sao đi nữa cũng khó có thể tưởng tượng được việc Mĩ lại có một đồng minh là một quốc gia cộng sản và là kẻ thù cũ của nhau. Đó là những trở ngại khó vượt qua cho việc đi đến kết ước đồng minh. Nhưng nếu cả hai bên cùng có thiện chí trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau thì vẫn có thể đạt được mục đích. Phạm vi bài viết này không cho phép bàn quá rộng, song có thể dễ dàng đồng ý với nhau là nền kinh tế phát triển mạnh và vững chắc, bền vững chỉ khi được hỗ trợ bởi một thể chế dân chủ, và sự vững mạnh về kinh tế phải đi kèm với sự giàu có, sự tự do và các giá trị dân chủ cho mỗi người dân.[ii] Nếu bước đi này xảy ra, Mĩ có thể (và nên) phản hồi theo hướng tích cực là hình thành một quan hệ đồng minh dự bị với Việt Nam để khi chín muồi, mối quan hệ đồng minh dự bị này có thể dễ dàng phát triển ở mức cao hơn.

Một khi đã phân tích thấu đáo từng lực lượng trên bàn cờ chính trị thế giới, dự đoán các kịch bản khác nhau cho cuộc chơi này, từ đó xác quyết cho mình chiến lược cần theo đuổi và cái đích cần đi tới, thì việc đạt được kết quả hay không chỉ còn phụ thuộc vào ý chí và sự khôn ngoan của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Một điều tưởng đã nhàm, song chung quy lại, rõ ràng cái cần phải làm ngay và làm xuyên suốt, vẫn là tiếp tục dân chủ hoá đất nước, xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự với một thể chế tam quyền phân lập. Đó là điều cần thiết để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh đặng theo đuổi triết lí tự lực tự cường đã được đúc rút qua chiều dài lịch sử chống ngoại xâm.

[i] Xem thêm: Lê Nguyên: “’Giá trị Mỹ’ và ‘lợi ích Mỹ’ trong ván bài ‘cách mạng hoa Nhài’,” link: http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/2121-gia-tri-myq-va-qloi-ich-myq-trong-van-bai-qcach-mang-hoa-nhaiq.html

[ii] Xem thêm bài viết “’Giá trị Mỹ’ và ‘lợi ích Mỹ’ trong ván bài ‘cách mạng hoa Nhài’” ở link trên, đặc biệt là đoạn kết.

Tác giả Lê Nguyên

Văn Nghệ Nghệ An
2

Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2012

Việt Nam giữa hai bờ Trung – Mỹ


Việt Nam duy trì tình hữu nghị với Trung Quốc
(BBC-03 /7/2012) Một trong những thành tựu lớn nhất của Việt Nam trong những năm 1990 là việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991) và Mỹ (1995).

Việc bình thường hóa với Trung Quốc giúp Việt Nam bước đầu phá thế bị bao vây cô lập, cho phép Việt Nam cải thiện quan hệ với ASEAN và Mỹ. Trong khi đó, việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ giúp Việt Nam lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các cường quốc trên thế giới.

Ngoài ra, các sự kiện trên cũng giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập quốc tế, góp phần đưa Việt Nam gia nhập vào một loạt các tổ chức và diễn đàn quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, WTO, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), và gần đây nhất là các vòng đàm phán về Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi Việt Nam cũng gặp phải một thách thức không nhỏ: làm sao duy trì được sự cân bằng giữa hai siêu cường vốn đang ngày càng có xu hướng mâu thuẫn nhau?

Quan hệ Việt – Trung

Đây là một thách thức không mới đối với Việt Nam. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, sau khi Trung Quốc và Liên Xô chia rẽ, việc Việt Nam không duy trì được cân bằng trong quan hệ với hai cường quốc này đã góp phần dẫn tới sự lao dốc của quan hệ Việt – Trung trong những năm 1970, trong đó đỉnh cao là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 cùng tình trạng thù địch giữa hai nước trong thập niên 1980.

Những kinh nghiệm cay đắng đó vẫn còn dư vị, và Việt Nam hẳn nhiên không muốn lịch sử lặp lại. Vì vậy Việt Nam coi quan hệ hệ hòa bình và ổn định với Trung Quốc là một trong những ưu tiên đối ngoại hàng đầu của mình. Bên cạnh việc duy trì một môi trường khu vực hòa bình có lợi cho phát triển trong nước, còn có một số lí do khác khiến các nhà hoạch định chính sách Việt Nam muốn bảo vệ quan hệ với Trung Quốc.

Trước hết, Trung Quốc là một đồng minh ý thức hệ thân cận của Việt Nam. Đầu những năm 1990, khi chủ nghĩa cộng sản rơi vào thoái trào, ý thức hệ là một yếu tố góp phần dẫn tới sự bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Ngày nay, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là hai đảng cộng sản lớn duy nhất còn cầm quyền trên thế giới, và hai đảng tin rằng sự hỗ trợ lẫn nhau sẽ giúp họ duy trì được quyền lực của mình.

Hai đảng đã có những biện pháp cụ thể hướng tới mục tiêu này. Ví dụ, hai đảng đã tổ chức các cuộc hội thảo thường niên nhằm thảo luận các chủ đề tư tưởng và trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề như xây dựng đảng, dân vận, hay ngăn chặn “diễn biến hòa bình”. ĐCSVN nhận thấy sự cầm quyền nếu được duy trì của ĐCSTQ không chỉ mang lại cho mình một nguồn chính danh từ bên ngoài mà còn là một sự hỗ trợ đối với an ninh của chế độ. Trong trường hợp ĐCSTQ sụp đổ, ĐCSVN sẽ gặp những thách thức vô cùng lớn trong việc duy trì quyền lực của mình ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai nước cũng ngày càng gia tăng. Kể từ năm 2004 Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2010, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 27 tỉ đô la Mỹ, chiếm 17% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam trong năm. Vì vậy, bất chấp những vấn đề có thể gây căng thẳng trong quan hệ hai nước, đặc biệt là tình trạng thâm hụt thương mại kinh niên của Việt Nam, Việt Nam vẫn coi quan hệ kinh tế song phương là có lợi và hữu ích cho mối quan hệ hòa bình và hợp tác giữa hai nước.

Tuy nhiên, những căng thẳng gia tăng gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc đang đe dọa xóa bỏ những cải thiện trong quan hệ hai nước đã đạt được trong hơn hai thập kỷ qua. Sự căng thẳng này xuất phát từ nhiều yếu tố. Một mặt, sự trỗi dậy và quy mô hiện đại hóa quân đội vô tiền khoáng hậu của Trung Quốc đã làm sống dậy sự lo sợ của Việt Nam đối với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.


Trước đây ít ai nghĩ có một ngày Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lại được đón tiếp nồng hậu ở Hà Nội

Mặt khác, các tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước trong Biển Đông càng làm nỗi lo sợ này của Việt Nam trở nên sâu sắc hơn. Trong khi không muốn thù địch với Trung Quốc, Việt Nam cũng không thể hi sinh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ để làm đẹp lòng Bắc Kinh. Chính vì thế, Việt Nam đã và đang tìm cách kết nối với các cường quốc bên ngoài để có thể ít nhất là răn đe, ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc trên Biển Đông, và xa hơn là giúp cân bằng với sức mạnh vượt trội của nước này trên bình diện khu vực.

Quan hệ Việt - Mỹ

Trong bối cảnh đó, Mỹ rõ ràng là một đối tác được ưa thích của Việt Nam. Sau khi hai cựu thù bình thường hóa quan hệ năm 1995, quan hệ song phương đã tiến triển nhanh chóng tới mức đã có những lời kêu gọi từ hai phía nâng cấp quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược.

Quan hệ kinh tế đã được tăng cường làm nền tảng vững chắc cho hợp tác song phương. Sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực năm 2001, kim ngạch thương mại song phương đã tăng hơn 12 lần trong vòng chỉ 10 năm, đạt 21,8 tỉ đô la Mỹ năm 2011. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Bên cạnh đó, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam cũng gia tăng trong những năm gần đây, biến Mỹ trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Việt Nam trong năm 2010. Quyết định của Việt Nam tham gia vào đàm phán TPP cũng cho thấy độ chín ngày càng tăng của quan hệ song phương cũng như mong muốn của Việt Nam thúc đẩy quan hệ với cựu thù, không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn vì các lí do chiến lược.

Bên cạnh quan hệ kinh tế gia tăng, quan hệ chính trị giữa hai nước cũng làm bất ngờ nhiều nhà quan sát. Trong thập kỷ qua, hai nước đã trao đổi nhiều chuyến viếng thăm cấp cao. Các mối quan hệ quân sự dù còn khiêm tốn cũng đã không ngừng được tăng cường. Sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như sự hung hăng ngày càng tăng của nước này trong tranh chấp Biển Đông rõ ràng là những yếu tố cơ bản trong nỗ lực của Việt Nam nhằm xích lại gần hơn với Mỹ.

Nhiệm vụ này dường như đã được tiếp sức bởi quyết định gần đây của Mỹ trong việc tăng cường vai trò và sự hiện diện ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Bên lề hội nghị thượng đỉnh APEC tại Hawaii tháng 11/2011, Ngoại trưởng Clinton đã tuyên bố Mỹ coi trọng và mong muốn thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, trong đó có việc nâng tầm quan hệ, hướng tới đối tác chiến lược.

Dù sự xích lại gần nhau giữa hai cựu thù là thật sự ấn tượng, vẫn còn đó những trở ngại mà hai nước phải vượt qua nếu muốn đưa quan hệ song phương tiến lên phía trước. Rào cản lớn nhất có lẽ chính là sự khác biệt giữa hệ thống chính trị hai nước và nhận thức khác nhau về các giá trị như dân chủ và nhân quyền.

Trong khi một bộ phận ĐCSVN vẫn nghi ngờ ý định thực sự của Mỹ trong việc cải thiện quan hệ với Việt Nam và coi Mỹ là kẻ chủ mưu chính trong âm mưu “diễn biến hòa bình”, thì Mỹ cũng coi Việt Nam là một nước có thành tích nhân quyền yếu kém. Một số chính trị gia Mỹ đã nhấn mạnh rằng sự cải thiện hơn nữa trong quan hệ song phương sẽ phụ thuộc vào việc Việt Nam có cải thiện được hồ sơ nhân quyền của mình hay không.

Lập trường của Mỹ không chỉ xuất phát từ chính sách mở rộng dân chủ và nhân quyền khắp toàn cầu, mà còn xuất phát từ sức ép của cộng đồng người Việt tại Mỹ. Phần lớn trong số hơn 1,7 triệu người Mỹ gốc Việt rời khỏi Việt Nam sau năm 1975 và vẫn còn giữ thái độ thù địch với chế độ của ĐCSVN. Họ đã tiến hành các chiến dịch đòi chính phủ Mỹ hạn chế quan hệ với Việt Nam nhằm thúc ép Việt Nam tự do và dân chủ hóa chính trị.

Dưới sức ép đó, Mỹ đã thực thi một số biện pháp, bao gồm ban hành một báo cáo thường niên về tình hình nhân quyền của Việt Nam và đôi lần can thiệp với chính quyền Việt Nam về việc bắt giữ các nhà bất đồng chính kiến. Mỹ cũng đã từng liệt Việt Nam vào danh sách các “quốc gia đặc biệt quan ngại” về tự do tôn giáo. Một dự luật tìm cách gắn viện trợ của Mỹ với hồ sơ nhân quyền của Việt Nam cũng đã đôi lần được thông qua bởi Hạ viện Mỹ nhưng chưa từng được Thượng viện phê chuẩn.

Tuy nhiên, với sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự tái ưu tiên chiến lược của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, vấn đề nhân quyền có khả năng sẽ giảm vai trò là rào cản trong quan hệ hai nước. Lịch sử đã chỉ ra rằng vì các lý do chiến lược Mỹ sẵn sàng thúc đẩy quan hệ gần gũi với một số quốc gia nhất định bất chấp tình hình chính trị nội bộ của các nước đó, bao gồm cả tình trạng nhân quyền. Mỹ đã từng là đồng minh với Iraq của Saddam Hussein hay Ai Cập của Hosni Mubarak, và đã từng có bước xích lại chiến lược với Trung Quốc nhằm đối phó với Liên Xô những năm 1970.

Vì vậy nếu Mỹ nhận thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa lợi ích của mình và cần phải được ngăn chặn, Mỹ có thể sẽ bỏ qua tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam để theo đuổi một mối quan hệ đối tác chiến lược gần gũi hơn.

Lựa chọn của Việt Nam?

Tuy nhiên, ngay cả trong tình huống đó, vẫn còn một câu hỏi cần đặt ra: Việt Nam sẽ sẵn sàng đi xa tới đâu trong mối quan hệ này? Câu trả lời khả dĩ nhất lúc này có lẽ là “Không quá xa!” Một mối quan hệ Việt – Mỹ mật thiết hơn sẽ gây nên những căng thẳng không mong muốn trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, đặc biệt khi mà quan hệ Trung – Mỹ có khả năng xấu đi do cạnh tranh chiến lược, và Việt Nam không muốn tiếp tục trải qua những kinh nghiệm khó khăn thời kỳ những năm 1970-1980.

Cho dù tình thế đã thay đổi trong hơn ba thập kỷ qua, và Việt Nam giờ có khả năng và điều kiện tốt hơn trong việc chống chọi với áp lực từ Trung Quốc trong trường hợp quan hệ song phương xấu đi, nhưng sự gần gũi về mặt địa lý cũng như sự bất đối xứng quá lớn về quyền lực giữa hai nước vẫn khiến Việt Nam phải cân nhắc trước khi thực hiện bất cứ bước đi nào có thể làm quan hệ của mình với người làng giềng khổng lồ phương Bắc trở nên bất ổn.

Hơn nữa, với tư cách là một nước nhỏ, Việt Nam không muốn bị vướng vào cuộc chơi quyền lực giữa các nước lớn. Trong trường hợp muốn khai thông bế tắc trong quan hệ song phương, các nước lớn có thể sẵn sàng thỏa hiệp trên lưng của các đồng minh nhỏ của mình. Hiệp định Geneva năm 1954 hay Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 là hai trường hợp điển hình, trong đó Việt Nam bị chính các đồng minh nước lớn của mình phản bội.

Chính vì vậy chính sách tối ưu của Việt Nam vẫn là duy trì cần bằng trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Với định hướng đó, trong khi Việt Nam tiếp tục muốn thúc đẩy quan hệ với Mỹ như là một biện pháp nhằm răn đe các hành động hiếu chiến của Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam sẽ cố gắng không đẩy quan hệ với Mỹ đi quá xa làm tổn hại quan hệ với Trung Quốc.

Một khả năng duy nhất có thể khiến Việt Nam vượt quá giới hạn và tạm thời ngả hẳn vào tay Mỹ là khi Trung Quốc có các hành động hiếu chiến chống lại Việt Nam, như xâm lược các đảo hay bãi đá Việt Nam đang nắm giữ ở Trường Sa.

Còn trong thời gian trước mắt, Việt Nam sẽ tiếp tục chính sách cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc. Theo đó, Việt Nam sẽ coi quan hệ với Mỹ và Trung Quốc như là một phần của chiến lược “đa dạng hóa và đa phương hóa” quan hệ đối ngoại nhằm phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong nước của mình mà thôi.

Đây là bản lược dịch một phần trong báo cáo “Vietnam’s strategic trajectory: From internal development to external engagement” do Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI) xuất bản. Tác giả Lê Hồng Hiệp hiện đang là Nghiên cứu sinh Tiến sĩ ngành Khoa học chính trị tại Đại học New Southwales, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/07/120702_viet_china_us_strategy.shtml
2

Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Lưỡi bò bắt đầu liếm...

Bài hay! Bạn chịu khó đọc hết nhé!

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2012-06-28


Ngày 23 tháng 6 vừa qua tổng công ty dầu khí Hải Dương của Trung Quốc chính thức mở thầu khai thác dầu tại 9 địa điểm thuộc khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.


Bản đồ chỉ rõ 9 lô dầu khí mà Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc mở thầu quốc tế hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam.

Động thái mới nhất này cho thấy quyết tâm sử dụng đường lưỡi bò phi pháp để xâm chiếm chủ quyền nước khác đã bắt đầu lộ liễu bất chấp dư luận quốc tế.

Mục đích đã phơi bày

Từ nhiều năm nay các nước trong khu vực Biển Đông đã liên tiếp lên tiếng chống đối đường lưỡi bò của Trung Quốc và ai cũng thấy rằng con đường 9 khúc này là mục tiêu của mưu đồ bành trướng, phù hợp hoàn toàn với tham vọng của một chính quyền chủ trương lấy sức mạnh Đại Hán để vẽ lại bản đồ từng có thời bị xâu xé bởi nội thù cũng như ngoại xâm.

Đường lưỡi bò được Trung Quốc đầu tư không giới hạn qua các chiến dịch vận động, viết lại lịch sử, giả mạo hiện vật cũng như mua chuộc, khống chế các nhà khoa học Trung Quốc chân chính để bóp méo sự thật với mục đích duy nhất: chiếm đoạt tài nguyên giàu có của Biển Đông. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh cho biết nhận định của ông về con đường lưỡi bò này:

"Cái lưỡi bò ấy do chính phủ Quốc Dân Đảng tự vẽ ra, tôi nhấn mạnh chữ “tự vẽ ra” không được quốc tế công nhận cho nên nó chẳng có giá trị pháp lý gì cả. Họ sẽ không dám làm gì và các nhà thầu cũng không dại gì mà dính vào chuyện ấy. Tám trăm tờ báo của họ đã đồng thanh phản đối, bác bỏ Luật Biển mà Quốc hội Việt Nam thông qua là một điều vô lý.

Tôi đã yêu cầu chính phủ phải đưa ra những tài liệu, căn cứ rất có giá trị của mình để mà đấu lý với họ chứ không thể để cho họ nói càn nói bậy thì không được."


Ngày 23 tháng Sáu vừa qua Trung Quốc đã dùng con đường 9 khúc này để xâm lược vùng biển Việt Nam. Bắc Kinh cho phép Tổng công ty dầu khí Hải Dương còn được gọi là CNOOC mở thầu 9 lô dầu đang hoạt động tại vùng biển Việt Nam.

Theo ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Petro Vietnam phát biểu trong cuộc họp báo vào ngày 27 tháng Sáu thì các lô mà Trung Quốc gọi thầu có tổng diện tích hơn 160.000 km2 nằm trong một khu vực mà Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã có các hoạt động khai thác dầu khí từ lâu với các đối tác nước ngoài.

Thạc sĩ Hoàng Việt hiện giảng dạy môn luật quốc tế tại Đại học Luật Thành phố cho biết cái nhìn của ông qua khía cạnh luật pháp:

"Khi Trung Quốc kêu gọi đấu thầu 9 lô đó khi chúng nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam cho thấy một điều Trung Quốc họ ngang ngược bất chấp luật pháp quốc tế. Họ không dựa vào một cơ sở nào mà công ước quốc tế về luật biển quy định là mỗi quốc gia ven biển sẽ có đặc quyền kinh tế 200 hải lý cũng như thềm lục địa 200 hải lý kéo dài từ đường cơ sở.
Đối với thềm lục địa thì đó là một đặc quyền của quốc gia ven biển. Nếu quốc gia ven biển đó không khai thác các tài nguyên sinh vật hay không sinh vật trên vùng thềm lục địa thì không quốc gia nào được quyền khai thác khi chưa được sự đồng ý của quốc gia có đặc quyền.

Thềm lục địa này hoàn toàn là của Việt Nam nhưng Trung Quốc họ đưa ra đấu thầu thì tôi cho rằng họ bất chấp công lý, bất chấp luật pháp quốc tế và chắc chắn đối với hành động như vậy của Trung Quốc thì không ai trên thế giới này người ta ủng hộ cả."


Chắc chắn nếu là người Việt, không ai không có cùng nhận xét với Thạc sĩ Hoàng Việt, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nguyên đại biểu quốc hội cho biết suy nghĩ của ông:

"Bây giờ chính phủ cũng đã có công hàm, thái độ kiên quyết bác bỏ và khi mình đã kiên quyết thì không anh nào dại dột chui vào chỗ ấy để gây phức tạp cho họ đâu. Còn bây giờ về quan hệ ngoại giao nhà nước cũng phải đấu tranh làm rõ quan điểm của mình theo Luật Biển và DOC. Mình phải lấy hai cái này để đấu tranh vì dứt khoát khu vực ấy là thềm lục địa của mình rồi.

Trong vùng 200 hải lý của mình thì không anh nào có thể xâm phạm được. Đây không phải là vùng tranh chấp, nếu vùng tranh chấp thì còn có thể bàn cãi còn đây là vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam nên không thể tranh cãi nữa. Về phương thức như thế nào để chúng ta bảo vệ thì chúng tôi tin chắc rằng ta đã có những kinh nghiệm lần trước rồi và đã có những cơ sở pháp lý và đã được thế giới người ta rất đồng tình nên chúng tôi không thể nhân nhượng.

Thế giới người ta cũng thấy rõ rồi cho nên vấn đề này tôi tin rằng Trung Quốc chỉ nói thế thôi chứ bây giờ họ có thể gọi thầu nhưng những nước khác người ta thấy rằng anh chui vào một chỗ nguy hiểm thì cũng chả ai dại gì mà chui vào để đối đầu với Việt Nam và đối đầu toàn vùng Đông Nam Á."


Lưỡi bò lấn vào biển Việt Nam bao xa?

Để dễ theo dõi hơn, người dân bình thường Việt Nam có thể thấy rằng từ khu vực các lô dầu mà Việt Nam đang khai thác nếu vào tới Quảng Ngãi chỉ cách 76 hải lý, cách khu gần nhất ở Nha Trang là 60 hải lý. Điểm gần nhất giữa Nha Trang và Phan Thiết có 57 hải lý. Và nghiêm trọng hơn cả, điểm gần nhất chỉ cách đảo Phú Quý của Việt Nam chỉ hơn 30 hải lý. Có nghĩa là bàn chân Trung Quốc chỉ cách Việt Nam 30 hải lý mà thôi.

Tại sao đường lưỡi bò lại quan trọng đối với Trung Quốc như vậy? Ông Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Bắc Kinh nhận xét:

"Tại sao Trung Quốc phát triển ở Biển Đông như vậy thì nó có hai điều. Một là bành trướng bá quyền hai nữa là vấn đề sống còn của Trung Quốc. Hiện nay họ đã khai thác tài nguyên cạn kiệt, ô nhiễm môi trường, ruộng đất không còn…thế nên bây giờ họ phải vươn ra biển.

Vươn ra biển Bắc thì vướng Nhật Bản, phía khác thì Nga cũng là cường quốc nên không làm được cho nên chỉ có cách chĩa vào Biển Đông vì các nước nhỏ và yếu hơn nên dễ chiếm vì Biển Đông có dầu có tất cả mọi cái mà Trung Quốc rất cần.

Ở Trung Quốc hiện nay mang hai tính chất: một tính chất bành trướng bá quyền, thứ hai là mang tính sống còn. Bành trướng bá quyền nếu bị đánh dập đầu, đánh dập ý chí thì nó buông nhưng vì sống chết của Trung Quốc nếu không có Biển Đông thì sẽ chết cho nên họ rất ngoan cố và rất nguy hiểm."


Trung Quốc thấy rõ thế yếu của các nước trong khu vực nên sau nhiều nỗ lực vận động bằng dư luận cho đường lưỡi bò phi pháp, Bắc Kinh đã liều lĩnh tiến thêm một bước nữa tuy chỉ là ném một viên đá thăm dò nhưng tiềm ẩn dưới những hành động này là các phương án tiếp theo trong đó từng bước sẽ được Bắc Kinh tiến hành tùy theo sự chống đối của quốc gia bị lấn ép.

Bài học khó nuốt của Philippines vẫn âm ỉ cháy trong cơn khát dầu khủng khiếp của một đất nước mơ làm bá chủ thế giới nhưng đụng phải một đất nước tuy nhỏ bé nhưng kiên cường và rất thông minh trong cách đối phó với kẻ mạnh. Liệu Việt Nam có thể làm gì trên phương diện pháp lý quốc tế để vạch trần âm mưu này của Trung Quốc. Thạc sĩ Hoàng Việt cho biết:

"Công ước luật biển mang tính chất của công pháp quốc tế thì nó không có cơ quan gọi là thi hành án cho việc các quốc gia vi phạm. Tuy nhiên nó có cơ chế khác chẳng hạn như sự lên án của dư luận quốc tế thì rất quan trọng. Còn tòa án quốc tế luật biển, về mặt lý thuyết như vừa rồi Philippines vẫn có thể mời Trung Quốc ra tòa án quốc tế Luật Biển.

Tòa án này có chức năng giải quyết tranh chấp trên cơ sở giải thích, vận dụng, áp dụng các điều khoản của công ước và vì vậy vẫn có khả năng đưa ra tòa án quốc tế mặc dù Trung Quốc không đồng ý. Như Philippines vừa rồi họ đưa ra và bảo rằng dù Trung Quốc không đồng ý họ vẫn đơn phương mang ra tòa án quốc tế luật biển và xem xét lại các quy định của tòa án quốc tế về luật biển. Vấn đề quan trọng nhất là ý chí chính trị có quyết tâm hay không."


Không giống như Philippines Việt Nam có hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa lý khá bất lợi so với Trung Quốc. Về chính trị Trung Quốc đã tận dụng con bài Chủ nghĩa Xã hội để trói chặt Việt Nam vào 16 chữ giả dối.

Về kinh tế Bắc Kinh không ngại dùng những thủ thuật quen thuộc để Hà Nội khó thoát ra tấm lưới lãi suất và kho hàng nguyên liệu giá rẻ. Hai thứ vũ khí này đã khiến Việt Nam trong một thời gian dài tê liệt ý chí để cuối cùng cũng sực tỉnh khi ngày 23 tháng 6 đòn chí tử cuối cùng được Bắc Kinh giáng xuống: dùng đường lưỡi bò tấn công thẳng vào đặc quyền kinh tế biển Việt Nam.

Thế nào là hành động phi pháp?

Theo dõi phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lương Thanh Nghị sau khi vụ việc xảy ra giới quan sát nhận thấy đây là phát ngôn mạnh mẽ nhất từ trước tới nay với những từ ngữ sát phạt nặng nề và nêu bật tính chất vụ việc.

Ông Lương Thanh Nghị khẳng định, “việc phía Trung Quốc ngang nhiên mời thầu quốc tế tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là hành động phi pháp và không có giá trị”.

Trong ngôn ngữ ngoại giao khi dùng cụm từ “hành động phi pháp” là hình thức chống đối cao nhất và nghiêm trọng nhất của quốc gia này đối với quốc gia khác. Trung Quốc chắc chắn thấy rõ phản ứng của Việt Nam qua tuyên bố này và họ sẽ điều chỉnh những hoạt động sắp tới trong kế hoạch đã được trù tính.

Khi bị phản ứng dữ dội bước kế tiếp của Trung Quốc sẽ theo hai kịch bản: một là đề nghị thương thuyết theo kiểu hai bên cùng khai thác, hai là tiến hành chiến tranh chớp nhoáng để khẳng định con đường lưỡi bò phi pháp. Khả năng Việt Nam chấp nhận thương thuyết là không tưởng còn khả năng thứ hai nếu xảy ra thì Việt Nam sẽ ra sao? Ý kiến của ông Nguyễn Trọng Vĩnh:

"Không sợ họ đánh đâu! Họ bây giờ đang bị cô lập trước quốc tế từ Hàn Quốc qua Nhật Bản tới Australia. Ấn Độ và Myanma cũng khác trước rồi Trung Quốc không còn nắm được họ nữa. Cho nên họ đang ở cái thế cô lập và nội bộ họ đang đấu tranh với nhau đầy mâu thuẫn cho nên họ không dám đánh đâu, tôi nói với chính phủ như thế và ta cứ đấu."

Còn ông Dương Danh Dy thì mạnh mẽ hơn, ông cho biết:

"Tôi xin nhắc chính người Trung Quốc nói chứ tôi không nói tôi chỉ lấy tin trên mạng Trung Quốc đó là: Đánh, chiếm Trường Sa thì dễ. Nhưng giữ thì khó. Tôi xin nói chỉ có mấy cây số nếu anh chiếm Trường Sa thì tên lửa của chúng tôi ụp lên anh vì Việt nam đủ sức làm điều này đó là chưa nói đến máy bay. Tên lửa di động trên bờ cứ nhắm vào tất cả tàu bè Trung Quốc đi qua là bắn thì các anh sống thế nào được?

Cho nên chuyện không phải đơn giản đâu. Tôi xin nhắc lại trước đại hội 18 sắp khai mạc thì họ có thể có những hành động bất ngờ nhưng theo tôi những chuyện họ tuyên bố vừa rồi vẫn là trên giấy. Ngoài cái chuyện cắt cáp ra thì mọi chuyện vẫn là trên giấy. Họ tuyên bố chủ quyền chỉ là trên giấy và đường 9 đoạn cũng chỉ là trên giấy mà thôi."


Việt Nam đã sẵn sàng?

“Lộng giả thành chân” là một câu thành ngữ xuất phát từ Trung Quốc vẫn là cẩm nang của Bắc Kinh hiện nay trong các đối sách Biển Đông. Để đối phó với những thủ đoạn này Việt Nam đã sẵn sàng chưa hay vẫn còn tin rằng mọi sự đều có thể giải quyết trong tinh thần đồng chí?

Phải thừa nhận rằng về mặt chính trị xã hội Việt Nam chưa chuẩn bị đủ những điều cần thiết cho việc khơi dậy tâm lý toàn dân. Qua chính sách tránh gây khiêu khích, Việt Nam đã mắc bẫy Trung Quốc khi cấm tuyệt đối những thông tin về Biển Đông và chính sách này đã gây hệ lụy trước mắt là nhiều cán bộ và dân chúng rất mù mờ về Hoàng Sa và Trường Sa.

Tâm lý ấy ăn sâu đến nỗi khi vụ mở thầu 9 điểm của Trung Quốc xảy ra rất nhiều tờ báo trong nước loan tin cuộc họp báo của ông Đỗ Văn Hậu, tổng giám đốc PVN mà không đem hình ảnh cùng lời phát ngôn mạnh mẽ của ông Lương Thanh Nghị lên mặt báo.

Thậm chí có báo còn không loan tin vụ xâm chiếm chủ quyền nghiêm trọng này. Thiếu tướng Nguyễn Trong Vĩnh cho biết ý kiến của ông nên mở rộng cửa để người dân biểu tỏ sự phản ứng của mình đối với Trung Quốc, ông nói:

"Phải để cho nhân dân người ta phản đối. Không những chính phủ phản đối nhưng dân chúng tôi cũng phải quyết liệt phản đối. Không được cấm người ta biểu tình phản đối phải để cho dân lên tiếng phải để người yêu nước biểu tình phản đối sự bành trướng của Trung Quốc."

Khi dân chúng không xem việc mất biển vào tay Trung Quốc là hệ trọng thì sức mạnh duy nhất có thể giữ được nước là lòng dân sẽ bị phân tán và lúc ấy cơ hội cho đạo quân thứ 5 của Trung Quốc đang hiện diện tại Việt Nam quấy phá đất nước sẽ không phải là nhỏ.

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/when-u-shap-begin-06282012055941.html
0