Vibay
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chiến tranh Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chiến tranh Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

Vì sao Nguyễn Văn Thiệu quyết định bỏ rơi Tây Nguyên?

(16/04/2020)- Là một sĩ quan lục quân được đào tạo bài bản theo chương trình của Pháp trước khi bước vào chính trường Thiệu không thể không hiểu vị trí chiến lược của Tây Nguyên. Vậy thì vì sao ông ta đã quyết định đi một nước cờ như vậy?


Từ bỏ cao nguyên

Trong suốt lịch sử chiến tranh xâm lược Việt Nam, cả người Pháp và người Mỹ đều đánh giá Tây Nguyên là nóc nhà của Đông Dương. Đó là một vùng có giá trị chiến lược quân sự quan trọng, ai làm chủ được Tây Nguyên sẽ làm chủ được Đông Dương. Tuy nhiên, vào năm 1975, quân đội Sài Gòn đã quyết định rút khỏi vùng đất chiến lược này. Đó không phải một đợt lui binh chiến thuật mà là một cuộc rút lui quy mô lớn với cả một quân đoàn được trang bị hiện đại gồm hàng ngàn xe pháo và các trang bị cồng kềnh. Quyết định rút lui này được đưa ra sau khi quân đội Sài Gòn để mất thành phố Buôn Ma Thuột.

Theo lời khai của viên Đại tá Phạm Duy Tất – Chỉ huy trưởng biệt động quân thuộc Quân khu 2 (VNCH) được tướng Văn Tiến Dũng trích trong hồi ký Đại thắng mùa xuân, ngày 14/3/1975, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu đã có cuộc họp với các tướng lĩnh ở Cam Ranh để bàn về bước đi sau khi thất trận ở Buôn Ma Thuột.

Trong cuộc họp đó, Thiệu hỏi tướng Cao Văn Viên có còn quân trù bị để tăng cường cho Tây Nguyên không thì nhận được câu trả lời không còn. Thiệu lại hỏi Phạm Văn Phú – Tư lệnh Quân đoàn 2 rằng nếu không có tăng viện thì giữ được bao lâu. Phú trả lời giữ được 1 tháng với điều kiện được yểm trợ không quân tối đa, tiếp tế đường không đầy đủ để bù đắp thiệt hại của những trận vừa qua. Phú thề sẽ tử thủ ở Pleiku nếu được đáp ứng các điều kiện trên.

Tuy nhiên ông Thiệu nói ngay cả việc tiếp tế đường không cũng không thể đáp ứng và kết luận rằng phải rút khỏi Kon Tum, Pleiku để bảo toàn lực lượng, lấy quân đưa về giữ đồng bằng ven biển, tiếp tế thuận lợi hơn.

Vấn đề rút theo đường nào cũng được đưa ra bàn bạc. Tướng Cao Văn Viên nói rằng trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, chưa có lực lượng nào rút theo đường 19 mà không bị diệt còn đường 14 thì càng không thể được. Những người dự họp cho rằng chỉ có đường số 7 từ lâu không dùng đến, tuy xấu nhưng như vậy có thể tạo yếu tố bất ngờ giúp cuộc rút lui an toàn.

Ngày 15/3 Quân đoàn 2 VNCH bắt đầu rút khỏi Tây Nguyên với liên đoàn biệt động số 6, liên đoàn biệt động số 23 và lữ đoàn kỵ binh số 2 làm nhiệm vụ bảo vệ đường, liên đoàn công binh đi trước để chữa đường, bắc cầu. Trước đó, vào đêm 14 rạng ngày 15/3, Bộ Chỉ huy tiền phương Quân đoàn 2 VNCH đã rút về Nha Trang bằng máy bay.

Tuy nhiên, cuộc rút lui sau đó bị thất bại. Theo Lịch sử kháng chiến chống Mỹ tập 8, Quân đoàn 2 VNCH bị chặn lại thị xã Cheo Reo và bị đánh tan tại đây. Phần lớn vũ khí và phương tiện của quân đoàn này hoặc bị phá hủy hoặc bị quân giải phóng chiếm được.

Mặc dù một số lượng lớn bộ binh của Quân đoàn 2 chạy thoát về phía đồng bằng ven biển nhưng tinh thần hoang mang và các vũ khí nặng đã mất hết nên quân đoàn này cơ bản đã bị loại khỏi vòng chiến. Mặt khác, các nhóm tàn quân rút được về đồng bằng không những không thể tăng cường thêm sức phòng thủ mà thậm chí chỉ làm tăng thêm không khí hoang mang cho những kẻ chưa bị tấn công.

Vì sao Thiệu quyết rút khỏi cao nguyên?

Nhận xét về quyết định rút khỏi Tây Nguyên của quân đội Sài Gòn, trong hồi ký Đại thắng mùa xuân, Đại tướng Văn Tiến Dũng viết: “…trong ký ức tôi hiện lên nhiều hình ảnh rút chạy của địch trong cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ: cảnh tháo chạy của Sáctông và Lơpagiơ trên đường số 4 hồi Chiến dịch Giải phóng Biên giới, cảnh tháo chạy của Trung đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ ở Khe Sanh năm 1968, của Sư đoàn 1, các lữ đoàn dù và lữ thuỷ quân lục chiến nguỵ ở Đường 9-Nam Lào năm 1971, của Sư đoàn 3 nguỵ ở Quảng Trị năm 1972. Địch đã nhiều phen rút chạy trước sức tiến công của ta và thường áp dụng những thủ đoạn nghi binh khác nhau khi rút. Nhưng giờ đây, cả một quân đoàn chủ lực của nguỵ rút chạy hộc tốc, bỏ cả Tây Nguyên – một địa bàn chiến lược rất quan trọng thì vì sao? Theo lệnh ai? Hai đòn sấm sét ta đánh ở Nam Tây Nguyên đã làm rung động quân địch đến thế kia ư? Đúng là đòn đánh trúng huyệt, địch bắt đầu ngấm, chỉ sau có mấy ngày. Đúng là địch đã choáng váng và rối loạn về chiến lược. Lại một sai lầm nữa rất lớn về chiến lược của chúng”.

Người quyết ý rút bỏ cao nguyên là Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu. Là một sĩ quan lục quân được đào tạo bài bản theo chương trình của Pháp trước khi bước vào chính trường Thiệu không thể không hiểu vị trí chiến lược của Tây Nguyên. Vậy thì vì sao ông ta đã quyết định đi một nước cờ như vậy?

Trong cuốn sách Khi đồng minh tháo chạy, ông Nguyễn Tiến Hưng – phụ tá của ông Thiệu đã cố gắng trả lời câu hỏi này dựa trên các sự kiện liên quan. Theo ông Hưng, ảnh hưởng lớn nhất cho quyết định này là tình hình viện trợ quân sự của Mỹ.

Giữa tháng 8/1974, Quốc hội Mỹ duyệt mức chuẩn chi viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng hòa ở con số 700 triệu USD. Cũng thời điểm đó, theo tính toán của Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH, dự trữ đạn dược và xăng dầu đã gần cạn, nếu không có bổ sung, dự trữ đạn tồn kho chỉ đủ cung ứng được từ 30 đến 45 ngày. Tướng Cao Văn Viên nói rằng: “Số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng 6/1975 nếu không nhận được thêm viện trợ”.

Trên cơ sở đó, một số tướng lĩnh Sài Gòn dưới sự cố vấn của sĩ quan Mỹ đã đề xuất lên ông Thiệu ý tưởng rút bỏ cao nguyên nếu quân giải phóng tổng tấn công. Ông Nguyễn Tiến Hưng kể lại rằng trong một cuộc họp hồi cuối năm 1974, ông đã đọc được một tài liệu phân tích ảnh hưởng của các mức viện trợ quân sự tới khả năng chiến đấu và phân chia theo từng quân, binh chủng. Theo đó, nếu mức viện trợ quân sự là 1,4 tỷ USD thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả 4 vùng chiến thuật. Nếu là 1,1 tỷ thì vùng I phải bỏ. Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được vùng I và vùng II chiến thuật. Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc. Nếu dưới 600 triệu thì chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.

Ngoài ra, từ 1/8/1974, một nhóm nghiên cứu của quân đội Sài Gòn được Chuẩn tướng về hưu Ted Sarong của Australia cố vấn đã đi đến kết luận là quân đội Sài Gòn nên bỏ vùng I và vùng II và tập trung lại để chỉ giữ một tuyến từ Tây Ninh tới Nha Trang.

Như vậy, quyết định rút khỏi cao nguyên của ông Thiệu ít nhất đã được xem xét từ trước đó vài tháng nhưng không phải dựa trên những cân nhắc chiến lược chiến thuật quân sự mà chỉ dựa trên số lượng viện trợ quân sự Mỹ. Qua đó cho thấy rõ tính chất phụ thuộc của quân đội Sài Gòn vào Mỹ.

Theo TRẦN VŨ / NGƯỜI ĐƯA TIN
0

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2020

Tổng kho Long Bình: Những bí ẩn chưa được giải đáp

(10/04/2020)- Tổng kho Long Bình được canh phòng cẩn mật và giữ bí mật ở mức độ cao. Phải chăng vì vậy, cho đến nay – dù đã “đổi chủ” hơn 40 năm song vẫn còn nhiều bí ẩn chưa có lời giải?


Những con số khiến thiên hạ phải giật mình

Sau khi thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” và đưa quân đội vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam, lượng vũ khí và quân trang quân dụng để bảo đảm cho đội quân này tăng lên theo cấp số nhân và càng ngày càng lớn.

Theo các tài liệu thống kê để lại cho biết: Lượng đạn dược được chuyển đến Việt Nam trung bình khoảng 40.000 tấn/tháng trong năm 1966, một năm sau số lượng đã tăng lên gần gấp đôi đạt 75.000 tấn/tháng vào năm 1967.

Đầu năm 1968 số lượng vận chuyển đã tăng lên đến 90.000 tấn/tháng, đến giữa năm 1968 số lượng đã vượt quá 100.000 tấn/tháng.

Đấy mới chỉ là khối lượng đạn dược. Còn để phục vụ đầy đủ cho một đội quân nhà nghề “được trang bị tới tận răng” như quân đội Mỹ thì còn biết bao nhiêu thứ quân trang, quân dụng khác.

Từ các phương tiện chiến tranh như máy bay, xe tăng, pháo cối… cùng với khí tài vật tư dự trữ phục vụ sửa chữa, bảo dưỡng trang bị cho đến lương thực thực phẩm, quân trang quân dụng, đồ dùng sinh hoạt… của mỗi người lính còn cao gấp nhiều lần con số đó.

Trong khi đó, theo yêu cầu của Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ tại Nam Việt Nam thì số lượng vật chất dự trữ phải đảm bảo đủ cho quân đội sử dụng ít nhất là 6 tháng.

Và đó chính là lý do bức bách mà Mỹ phải tiến hành xây dựng Tổng kho dự trữ chiến lược tại Long Bình – một địa điểm vừa thuận lợi cho quá trình tiếp nhận hàng hóa, đồng thời cũng có thể nhanh chóng tiếp tế cho cả 4 vùng chiến thuật và Biệt khu Thủ Đô.

Với quy mô như vậy, Tổng kho Long Bình được xây dựng trên diện tích khoảng 24 km2 với hàng chục phân kho. Mỗi phân kho bao gồm hàng chục dãy nhà kho cả nổi cả chìm tùy theo loại hàng hóa mà nó chứa trong đó.

Các nhà kho nổi thường được làm bằng nhà thép tiền chế khẩu độ rộng với chiều dài từ vài chục đến hàng trăm mét. Còn các kho chìm dùng để chứa bom đạn, hóa chất… thì thường có mái vòm bằng tôn dày, sau đó đổ đất lên trên.

Xung quanh các nhà kho thường có lũy đất hoặc thùng phuy sắt đổ đất xếp chồng lên nhau bảo vệ. Một số hàng hóa cồng kềnh, nặng nề như máy bay trực thăng, xe tăng, xe thiết giáp – nhất là số cũ hỏng đem về đổi và sửa chữa thì để ở ngoài trời…

Để ra vào tổng kho (TK) có 12 cổng mở theo nhiều hướng khác nhau với hệ thống đường sá rất hiện đại. Hàng ngày có hàng ngàn chuyến xe trọng tải lớn ra vào song không bao giờ có hiện tượng ùn tắc xảy ra.

Với khối lượng hàng hóa tàng trữ trong kho lên đến hàng chục triệu tấn, TK Long Bình trở thành kho dự trữ chiến lược lớn nhất ngoài nước Mỹ của quân đội Hoa Kỳ và được quản lý bằng máy tính IBM 360/50- một trong những hệ thống máy tính hiện đại nhất thời đó.

Do tính chất quan trọng như vậy, TK Long Bình được bảo vệ hết sức cẩn mật và nghiêm ngặt. Xung quanh TK có hàng rào dây thép gai từ 7 đến 12 lớp; giữa các hàng rào dây thép gai đều bố trí mìn nhiều loại. Phía trong và ngoài hàng rào đều bị phát quang.

Phía trong hàng rào có đường dành cho xe tuần tra. Dọc đường tuần tra, cứ vài trăm mét lại có một tháp canh, trên đó được trang bị đèn pha cực mạnh để chiếu sáng ban đêm. Giữa các phân kho cũng có hàng rào dây thép gai.

Toàn bộ phần bên trong kho gần như không có cây xanh lớn, chỉ có loại cỏ Mỹ mà lá sắc như dao. Đảm nhiệm công tác bảo vệ kho thường xuyên là 2000 sĩ quan, binh lính.

Ngoài ra, còn một số đơn vị chiến đấu cũng có doanh trại trong khuôn viên kho nhưng được ngăn cách đặc biệt với kho hàng.

Có điều không hiểu sao trong khi các nhà kho xây dựng rất vững chắc, lâu bền thì nhà ở của sĩ quan, binh lính và nhân viên trong kho lại khá đơn giản và có vẻ ngắn hạn. Đó thường là loại nhà làm bằng gỗ xẻ lợp tôn.

Các thanh gỗ kích thước 15 x 6 cm được lắp ghép thành khung nhà (chỗ nào là cột thì ghép 2-3 thanh bằng đinh rồi bắt bu- lông xuống nền bê tông), mặt trong vách dùng gỗ dán, mặt ngoài gỗ xẻ “lợp” như vẩy cá.

Giữa hai lớp là chất chống nóng khá giống mùn cưa. Sàn cũng bằng gỗ xẻ và trải một lớp nhựa mỏng. Nhà ở của sĩ quan thường là nhà 2 tầng, phòng có máy điều hòa nhiệt độ; còn binh sĩ và nhân viên thì ở nhà 1 tầng, khu vệ sinh chung.

Mặc dù được bảo vệ như vậy song TK Long Bình cũng đã bị đặc công Quân giải phóng (QGP) “hỏi thăm” nhiều lần và cũng tổn thất đáng kể. Một số trận đánh tiêu biểu như:

Trận đánh ngày 23.6.1966, phá hủy 40.000 viên đạn pháo.

Đêm 03.02.1967, làm nổ tung 40 dãy nhà kho, phá hủy 800.000 viên đạn pháo.

Ngày 13.8.1972, phá hủy 17 dãy nhà, thiêu hủy 15.000 tấn bom đạn, xăng dầu, diệt 300 địch.

Ngày 14.12.1972, phá hủy gần 200 xe quân sự.

Từ khi thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, quân đội Mỹ giảm dần sự hiện diện tại chiến trường miền Nam. Cho đến khi Hiệp định Pa- ri được ký kết, quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam thì TK Long Bình cũng từng bước được bàn giao cho quân lực Việt nam Cộng Hòa (VNCH).

Khi về tay VNCH, lượng hàng hóa trong kho vẫn còn tương đối phong phú nên quân lực VNCH vẫn khá dồi dào về nhiên liệu, đạn dược.

Các tài liệu lưu trữ cho thấy: Tháng 2.1973, quân lực VNCH đã sử dụng 78.000 tấn bom đạn – nghĩa là gần bằng những tháng cao điểm khi còn quân Mỹ. Trong cả năm 1973, VNCH sử dụng 326.000 tấn bom đạn, nhiều nhất từ trước đến lúc ấy.

Tuy nhiên, của kho không vô tận. Cùng với lượng viện trợ của chính phủ Mỹ giảm dần từ 1,4 tỷ USD/ năm xuống 700 triệu, rồi 300 triệu USD/ năm, lượng hàng hóa viện trợ cũng giảm sút nhanh chóng.

Theo hồi ký của TS Nguyễn Bá Cẩn, một trợ lý thân cận của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì từ năm 1973 trở đi, lượng hàng hóa, vật tư dự trữ trong TK Long Bình chỉ đủ đảm bảo cho quân đội 3 tháng thay vì 6 tháng như trước đây.

Mùa Xuân năm 1975, sau những thất bại liên tiếp tại địa bàn Quân khu I và II, ông Thiệu chủ trương “trì hoãn chiến” cố giữ lấy quân khu IV và vùng đất còn lại để tìm một giải pháp chính trị nên đã ra lệnh cho quân đội phân tán TK Long Bình về địa bàn Quân khu IV (Miền Tây Nam Bộ).

Tuy nhiên, công việc này được triển khai chậm và thiếu tính tổ chức nên không mấy hiệu quả và thất thoát nhiều.

Hãy nghe một sĩ quan VNCH thuộc Quân đoàn 4 hồi tưởng:

“Ngày 28.4.1975- Ban chỉ huy Trung đoàn đóng tại Trường Trung học Cần Giuộc. Phía trước là đồng ruộng, sau mùa gặt nên đất đã khô và trơ những gốc rạ.

TK Long Bình có lệnh phân tán quân trang quân dụng nên đã đưa xuống đây cả mấy chục chiếc GMC và xe JEEP các loại kèm theo một lệnh miệng: Mỗi xe chỉ có đầy bình xăng, sử dụng chiếc nào đến hết xăng là bỏ luôn.

Vừa xe, vừa gạo và quân trang chất thành những đống cao giữa trời, trên những đám ruộng khô”.

Trước tình hình ấy, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, một phân đội đặc công của QGP Miền (B2) được giao nhiệm vụ tiến công TK Long Bình và họ đã hoàn thành nhiệm vụ mà không gặp mấy khó khăn. Từ đó, TK Long Bình thuộc quyền kiểm soát của QGP miền Nam Việt Nam.

Những tin đồn “vô tiền khoáng hậu”

Do quy mô lớn, lượng hàng hóa phong phú lại được bảo vệ hết sức cẩn mật nên ngay từ khi mới đưa vào sử dụng, TK Long Bình đã được bao bọc trong màn khói vô cùng bí hiểm và gây sự chú ý đặc biệt đối với dân chúng xung quanh nói riêng cũng như cả miền Nam nói chung.

Người ta thì thầm rỉ tai nhau: “TK Long Bình không thiếu một thứ gì, kể cả những loại vũ khí tối tân nhất!”. Rồi họ ngó trước, ngó sau và tranh luận với nhau xem trong đó có “bom nguyên tử hay không?”.

Lại có người viện dẫn lời của những người quen biết làm “ở trỏng” mà khẳng định chắc nịch: “Trong đó có 2 “mũi tên gẫy” là loại vũ khí tối tân nhất của Mỹ, có sức hủy diệt ngang với bom nguyên tử và vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu”.

Người ta còn mắt trước mắt sau rồi thì thầm vào tai nhau: “Ngoài những nhà kho trên mặt đất thì TK Long Bình còn một hệ thống hầm ngầm lớn hơn rất nhiều (có người còn khẳng định rộng đến 300 km2).

Các kho ngầm này có nhiều lớp cửa, khóa cửa có mã khóa bí mật. Nếu mở không đúng sẽ tự hủy và vụ nổ này có thể sẽ tàn phá một nửa thành phố Sài Gòn và toàn bộ thành phố Biên Hòa”.

Thật sự đó là những thông tin hết sức hấp dẫn đối với trí tò mò của mọi người và nó cứ thế lan truyền!

Trong khi đó, ngay sau 30/4/1975 TK Long Bình được sử dụng làm nơi đóng quân của hầu hết các đơn vị binh chủng kỹ thuật của Binh đoàn Hương Giang như Lữ đoàn xe tăng 203, các Lữ đoàn Pháo binh, Công Binh và Phòng Không….

Tuy nhiên, các đơn vị này cũng chỉ sử dụng phần doanh trại của các đơn vị quân đội và nhà ở của sĩ quan, binh sĩ, nhân viên tổng kho và không đụng chạm gì đến các phân kho.

Trong thời gian đầu – khi mà công tác bảo vệ kho chưa vào quy củ chặt chẽ thì “lính tráng” các đơn vị cũng giành nhiều thời gian khám phá xung quanh và họ chỉ biết trầm trồ trước sự phong phú, dồi dào của hàng hóa, vật tư chứa chất ở nơi đây.

Riêng về xe quân sự – kể cả tăng thiết giáp và ô tô- đã lên đến gần 1.000 chiếc. Tất nhiên, họ cũng thu một số “chiến lợi phẩm” song chủ yếu là đồ ăn, thức uống cùng một số vật tư phục vụ cho việc bảo quản, bảo dưỡng trang bị mà thôi.

Còn các đơn vị cũng tranh thủ tăng cường vào biên chế của mình một số loại phương tiện vận tải thích hợp.

Một thời gian ngắn sau đó, TK Long Bình được giao cho Tổng cục Kỹ thuật quản lý. Từ đó, công tác bảo vệ và bảo quản được tiến hành chặt chẽ hơn rất nhiều nên hầu hết vật tư, hàng hóa trong TK vẫn còn nguyên vẹn.

Song song với việc đó, một đoàn cán bộ kỹ thuật của QĐND Việt Nam từ Hà Nội vào đã nhanh chóng tiếp quản và khai thác thành công hệ thống máy tính IBM360/50- trong đó có dữ liệu quản lý kho của quân lực VNCH.

Sau khi khai thác thành công – khoảng 1 tháng sau ngày tiếp quản, đoàn công tác đã cung cấp cho Tổng cục Kỹ thuật danh mục toàn bộ hàng còn tồn trong các kho, trong đó kho lớn nhất là Tổng kho Long Bình.

Đây là một thành công lớn trong công tác tiếp quản Tổng kho của QĐND Việt Nam.

Với dữ liệu đầy đủ và lực lượng được tăng cường, công tác quản lý và bảo quản hàng hóa, vật tư trong TK Long Bình đã càng ngày càng đi vào nề nếp, đảm bảo quy trình nghiêm ngặt đối với những chủng loại hàng hóa khác nhau.

Các loại hàng hóa, vật tư phù hợp đã được huy động phục vụ cho việc sửa chữa trang bị vũ khí. Đặc biệt là phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế.

Một số phế liệu hoặc vật tư lưỡng dụng có thời hạn cũng được thanh lý để dùng vào mục đích dân dụng như lốp xe cũ, nhựa đường…

Thời kỳ đổi mới, một phần diện tích của TK Long Bình cũ đã được sử dụng cho mục đích khác như xây dựng khu công nghiệp, doanh trại quân đội, nhà ở cho cán bộ- nhân viên…

Tuy nhiên, phần lớn diện tích vẫn tiếp tục được sử dụng làm kho của Quân đội, vẫn được bảo vệ nghiêm ngặt và vẫn có phần kỳ bí như xưa.

Trong điều kiện đó, những tin đồn xung quanh cái Tổng kho bí ẩn vẫn tiếp tục được lan truyền rộng rãi, nhất là khi có một sự kiện nào đó như cháy, nổ xảy ra quanh khu vực đó.

Nào là: “Việt nam đã nhờ cả Liên Xô mở khóa các kho ngầm, một số chuyên gia đã bị hy sinh song vẫn không thành công!”.

Nào là: “Sau khi quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ được bình thường hóa, phía Mỹ đã đề nghị Việt Nam cho họ mở khóa với điều kiện sẽ “cưa đôi” những thứ trong đó- riêng 2 “mũi tên gẫy” phải trả về cho họ. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà phía Việt Nam không đồng ý”… v.v… và v.v…

Những tin đồn về TK long Bình không chỉ tồn tại trong nước mà cả ở nước ngoài- nhất là ở Mỹ. Thậm chí một tờ báo Mỹ còn đưa tin:

“Năm 2001, Mỹ từng cử 1 đội biệt kích thuộc quân đoàn Gost Recon và Skull tham gia chiến dịch thu hồi 2 “mũi tên gãy” ở VN nhưng nhiệm vụ thất bại. Toàn bộ 12 binh sĩ Mỹ hi sinh tại Long Bình do bị phát hiện. Tất cả thi thể 12 binh sỹ đều bị tiêu huỷ hoàn toàn”.

Không loại trừ sẽ còn nhiều lời đồn đoán “vô tiền, khoáng hậu” nữa về bí ẩn Tổng kho Long Bình tùy theo trí tưởng tượng của tác giả. Thôi thì ai tin cứ tin! Còn Tổng kho Long Bình thì vẫn thế mà thôi!

Theo THẾ GIỚI TRẺ
0

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2019

Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không


0

Chiến tranh Việt Nam - Tài liệu tổng hợp

Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh trên chiến trường Đông Dương (1945–1979), bắt đầu ngày 1 tháng 11 năm 1955 khi Phái bộ Cố vấn và Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ (MAAG) được thành lập ở miền Nam Việt Nam và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

1. Chiến tranh Việt Nam (tài liệu PDF, Wikipedia)

2. Phim tài liệu của Mỹ: The Vietnam War (Vietsub)

3. Phim tài liệu: Việt Nam - Cuộc chiến 10.000 ngày

4. Phim tài liệu Việt Nam: Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không
0

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2019

Vụ buôn lậu vô tiền khoáng hậu của phu nhân Tổng thống Thiệu

Một vụ buôn lậu với nhiều loại mặt hàng xa xỉ trên thị trường lúc đó: Rượu, thuốc lá, đồng hồ… với lượng lớn được di chuyển từ biển Gò Công về Sài Gòn.



Điều đáng nói là vụ buôn lậu này do một nhân vật có quyền lực tối cao trong chế độ Sài Gòn cũ, chính vì thế, hoạt động buôn lậu cũng có xe còi hụ dẫn đường và chuyên chở trên những chiếc xe quân vụ. Nếu không bị phát hiện thì đường dây này sẽ mãi chìm váo bóng tối. Vụ việc gây chấn động Sài Gòn và cả thế giới quan tâm tới chính trường Sài Gòn lúc đó, khi Mỹ đứng sau giật dây chính quyền Sài Gòn. Sau khi vụ việc bị phát hiện, cách hành xử của Sài Gòn cũng hết sức “đặc biệt” để bưng bít vụ buôn lậu vô tiền khoáng hậu này.

Một con đường buôn lậu trên biển, sau đó chuyển về Sài Gòn bằng đường bộ và để qua mắt cú vọ là báo chí và dân đen thời bấy giờ, bọn buôn lậu đã sử dụng luôn những chiếc quân xa, có còi hụ dẫn đường. Vụ việc bất ngờ bị phát giác khi hai viên sỹ quan lo ngại về đoàn quân xa “phóng nhanh vượt ẩu”, trong khi Phủ đầu rồng lại có lệnh kiểm soát nghiêm ngặt vì nghi ngại đảo chính.

Sự thật phía sau những đoàn xe quân sự

Trước khi đi vào chi tiết vụ buôn lậu từng chấn động Sài Gòn này, chúng tôi muốn nói một chút về Nguyễn Văn Thiệu và đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh. Bởi chính sự hậu thuẫn và quyền lực của chính quyền Thiệu mà bà Mai Anh có đủ quyền để thực hiện những phi vụ này trót lọt.

Ngay từ giữa những năm 60 thế kỷ trước, Mỹ đã nhận thấy Nguyễn Văn Thiệu là một trong những quân bài mới trong ván bài đang dang dở ở miền Nam Việt Nam. Chính vì thế, Mỹ đã hỗ trợ rất nhiều để Thiệu và đảng Dân chủ do ông ta lập ra chiếm được thế thượng phong trên chính trường Sài Gòn.

Và sự thực đến ngày 4/9/1967, trong cuộc bầu cử giả hiệu, Thiệu đã liên danh với Nguyễn Cao Kỳ dù chỉ giành được 34,8% số phiếu bầu của các cử tri, nhưng vẫn trở thành tổng thống của cái gọi là nền đệ nhị cộng hòa.

Thiệu đã hậu thuẫn rất mạnh mẽ cho vợ mình cùng các đàn em mua bán hàng lậu, thu về những khoản lợi nhuận kếch xù. Sau này, khi vụ việc tại Long An được phát giác và cách hành xử của Thiệu sau đó, người ta mới té ngửa về sự hậu thuẫn đó như thế nào.

Đệ nhất phu nhân có tên thật là Nguyễn Thị Mai Anh – con gái thứ bảy trong một gia đình có tới 12 anh em. Gia đình bà có nghề y truyền thống nổi tiếng ở TP. Mỹ Tho, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay). Đây cũng là cơ sở cho bà Mai Anh thực hiện việc buôn bán của mình được thuận lợi. Là người theo đạo công giáo toàn tòng, nhưng bà Mai Anh ảnh hưởng khá lớn từ nếp gia phong của một gia đình phong kiến. Mỹ Tho thời ấy cũng không xa Sài Gòn, đặc biệt có tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho và ngược lại hết sức thuận lợi.

Ông Nguyễn Khánh Linh, một người nghiên cứu về Sài Gòn xưa cho biết, khi đương là đệ nhất phu nhân, bà Mai Anh được nhiều người nhận xét là có khuôn mặt phúc hậu, thường quan tâm đến người khác. Đồng thời, bà cũng lập ra nhiều quỹ, trung tâm bảo trợ xã hội… Sau này, người ta mới biết được rằng, những quỹ, trung tâm đó là một trong những tấm bình phong cho các hoạt động buôn lậu của bà và đàn em.

Đặc biệt, sau khi vụ Long An bị phát giác vào năm 1974, trước khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước 1 năm. Vào những năm trước giải phóng, tình hình miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn hết sức ngổn ngang. Chính vì vậy, nạn buôn lậu, đặc biệt là bạch phiến, cướp giật… diễn ra như cơm bữa. Thi thoảng nhà chức trách lại phát hiện hay tóm cổ vài ba tên đầu sỏ cho vào nhà đá. Tuy nhiên, đó là những tên tác chiến độc lập, không có ô dù che đỡ, còn khó khăn chính là nạn buôn lậu do những người cầm quyền thực hiện. Đến nay, những nghi án về đường dây buôn lậu “an toàn nhất thế giới” do Ngô Đình Nhu cầm đầu vẫn còn được bàn tán nhiều. Bên cạnh đó, vụ của bà Mai Anh là rõ ràng hơn cả.

Ông Trần Nguyễn Hoa, năm nay đã ngoài 70 tuổi, ngụ tại Chợ Lớn, TP.HCM cho biết, thời ấy, ở miền Nam không có tình trạng buôn lậu qua biên giới Tây Nam. Con đường nhập hàng lậu chủ yếu từ tàu biển đậu ở ngoài khơi dùng các thuyền đưa vào đất liền. Bà Mai Anh cũng đã biến cung đường này thành một con đường “tơ lụa” hết sức chặt chẽ. Theo đó, từ biển Gò Công, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) khi các tàu lớn neo đậu tại đây, sẽ có những chiếc thuyền nhỏ của Định Tường nối đuôi nhau ra nhận hàng chở vào Mỹ Tho. Từ Mỹ Tho, theo đường 4 (QL1A ngày nay) hàng được đưa về Chợ Lớn trên những chiếc GMC (xe nhà binh) có còi hụ và quân cảnh dẫn đường. Chính vì thế, những chiếc chiến xa này cứ ào ào chạy bạt mạng, dân thường không dám đụng tới. Cảnh này cũng thường thấy trên đường, dân thường chỉ biết nhường đường. Với cách làm này, việc buôn lậu an toàn đến mức tuyệt đối, không ai nghĩ rằng, đoàn xe quân sự lại đi buôn hàng lậu.

Cuộc truy đuổi chặn bắt như trong phim

Theo ông Trần Hoàng, chủ bút một tờ báo trước giải phóng, đoàn xe gồm hàng chục chiếc quân xa thuộc Quân vận vùng 3, xe tới đâu là còi inh ỏi để báo cho các trạm biết rằng, đây là đoàn xe ưu tiên, không được chặn, xét. Nếu trường hợp là xe chở vũ khí, đạn dược, nhiên liệu quan trọng thì còn có cả phi cơ L19 (thời ấy hay gọi là máy bay bà già) bay rề rề trên không để thám thính và phòng ngừa phục kích. Khoảng 15h ngày 31/1/1974, có một đoàn xe GMC phủ bạt, mở đèn chạy từ TP. Mỹ Tho, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) theo đường 4 về Sài Gòn. Dẫn đầu là chiếc Jeep của Quân cảnh thuộc Biệt khu Thủ đô có treo cờ 3 que. Khi đoàn quân xa do đại úy Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Quân cảnh thuộc Biệt khu Thủ đô dẫn đầu tới trạm kiểm soát hỗn hợp gồm quân cảnh và cảnh sát ở Long An thì có chuyện xảy ra.

Mặt trời cũng đã xế bóng, tuy nhiên nhìn vẫn còn tỏ mặt người, lúc này, trong trạm kiểm soát của Quân cảnh Long An chỉ có 2 viên hạ sỹ. Ông Hoàng cho biết thêm, hai tên này không lạ gì đại úy Nhiều và thấy rõ mặt đại úy Nhiều ngồi trên xe. Theo lời 2 tên này, có vẻ như đại úy Nhiều đã xỉn. Về sau, khi đứng trước Ủy ban điều tra, hai viên sỹ quan này khai rằng, ngay lúc đó họ đã thi hành phận sự, thổi còi chặn đoàn xe lại nhưng đoàn xe không dừng. Chính vì đoàn quân xa cứ lao như điên cho nên họ không khỏi lo lắng cho phận sự và trách nhiệm của mình. Dù biết rằng, đoàn quân xa có quân cảnh mở đường hợp lệ, kể cả việc đại úy Nhiều chễm chệ trên xe nhưng đoàn tùy tùng lại hết sức nhốn nháo, có cả quân nhân và dân sự. Nhiều người ăn mặc lôi thôi, nhếch nhác, trong khi đó, tốc độ của các quân xa là quá nhanh khi qua trạm gác. Lúc này, họ cũng nhớ tới nghiêm lệnh của Phủ Tổng thống là phải kiểm soát chặt chẽ kể cả những đoàn quân xa khả nghi tiến vào đô thành. Đây là biện pháp nhằm phòng ngừa âm mưu đảo chính của Phủ đầu rồng.

Trong khi hai viên sỹ quan đang phân vân, thì đoàn quân xa đã đi mất hút tầm nhìn của họ. Lập tức, họ gọi cho chỉ huy trưởng trực tiếp là trung úy Thọ. Nghe tin giật mình, Thọ cũng tá hỏa, chưa biết đối phó thế nào cho ổn. Không có cách nào khác, Thọ gọi báo khẩn lên thượng cấp là đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An để xin chỉ thị. Không khỏi lo ngại, đặc biệt là chiếc ghế mình đang ngồi, nếu có chuyện gì xảy ra, thế nên, đại tá Năm cũng cấp tốc điện cho thuộc cấp là quận trưởng Bến Lức để chặn đoàn quân xa. Tuy nhiên, ông này cho biết, đoàn quân xa đã vượt qua trạm, lúc này mối lo sợ càng lớn hơn làm cho đại tá Năm bàng hoàng lo lắng. Đại tá Năm lập tức gọi chọ quận trưởng Gò Đen, chốt chặn cuối cùng vào Sài Gòn, bằng mọi giá phải chặn cho được đoàn quân xa này.

Lúc này, được biết, đoàn quân xa đang di chuyển đến đoạn giữa Bến Lức và Gò Đen, được lệnh khẩn của cấp trên, quận trưởng Gò Đen ngay lập tức chỉ thị cho các binh sỹ và các lực lượng nhân dân tự vệ trong vùng đem các chướng ngại vật ra đặt chặn ngang đường. Đồng thời, còn cho lính tráng đem dây thép, kẽm gai giăng kín cả lối đi. Dân chúng trong khu gia binh gần đó, biết tin cũng hùa vào đem bàn ghế ra chặn đường. Cảnh tượng diễn ra như phim hành động.

Vén màn bí mật

Ông Nguyễn Khánh Linh, một nhà nghiên cứu về Sài Gòn xưa cho biết, sau khi dựng, giăng chướng ngại vật, đoàn xe do đại úy Nhiều trờ tới và bắt buộc phải dừng lại. Tuy nhiên, tên quận trưởng Gò Đen cũng không dám xét hỏi, chỉ biết gọi cho đại tá Lê Văn Năm, tỉnh trưởng tỉnh Long An xin chỉ thị. Thế là, mặc dù trời đang phủ bóng đêm nhưng đại tá Năm cùng đoàn xe hộ tống cũng phải cấp tốc lên đường đến Gò Đen để làm rõ vụ việc. Có lẽ vụ việc sẽ êm xuôi, nếu không có sự cố bất ngờ diễn ra trước khi đại tá Năm đến.

Theo đó, trong thời gian chờ đại tá Năm đến để giải quyết thì đoàn quân xa vẫn nằm bất động và được bịt bạt kín mít. Nhưng đám binh lính gác trạm tò mò đã gỡ bạt ra xem. Khi thấy đoàn xe chở toàn rượu, thuốc lá, đồng hồ… hàng hiệu, đám binh lính này hoa cả mắt. Nổi lòng tham, toán lính mở bạt, nhảy lên hôi của lậu. Lúc đầu, chỉ một số tên lính thực hiện trót lọt việc ăn cắp hàng, sau đó tin“ngon ăn” này lọt đến tai đám gia binh, cả đám nháo nhào nhảy vào hôi đồ lậu. Cảnh tượng tranh giành nhau hôi của diễn ra như vụ cướp thực thụ.

Ông Trần Nguyễn Hoa, nay đã ngoài 70 tuổi, ngụ tại Chợ Lớn, TP.HCM cho biết thêm, sau khi kiểm đếm lại, người ta ước tính số hàng này đã mất đi khoảng một nửa. Trong tình huống hoảng loạn và màn đêm buông xuống, đám mặc thường phục cũng nhảy khỏi xe quân xa và mất dạng trong bóng đêm. Cảnh hỗn loạn chỉ chấm dứt khi đại tá Năm cùng đoàn tùy tùng đến nơi.

Lúc đó, vào khoảng 21h. Dù vậy, sau khi hỏi chuyện, đại tá Năm cũng không biết xử trí như thế nào cho phù hợp. Buộc lòng, đại tá Năm phải gọi khẩn báo cho trung tướng Phạm Quốc Thuần, Tư lệnh Quân đoàn 3. Trong lúc nói chuyện qua điện thoại, tướng Thuần cũng không dám ban hành một chỉ thị nào cho đại tá Năm để giải quyết vụ việc. Thay vào đó, tướng Thuần cho biết sẽ báo cáo vụ việc lên Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng Tổng thống để xin ý kiến. Ngay sau đó, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và vợ chồng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã biết chuyện làm ăn đổ bể, dù đã tính đến cả phương án tối ưu.

Theo ông Trần Hoàng một chủ bút thời đó thì mỗi dịp lễ tết, Phủ đầu rồng lại đồng thời ban hành những chỉ thị đặc biệt và lưu ý những đơn vị chỉ huy quân sự địa phương từ trên xuống dưới phải canh chừng cẩn mật, nếu có gì khả nghi ở địa phương nào thì phải cấp tốc báo cáo lên cấp trên để kịp thời xử lý. Ai lơ là nhiệm vụ thì sẽ xử lý nghiêm theo quân lệnh. Vì thế để cho chắc ăn, đường dây buôn lậu này đã sử dụng thêm xe quân cảnh, có còi hụ dẫn đường. Điều đó đảm bảo chắc chắn rằng, đây là đoàn xe công vụ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không có trạm nào được xét hỏi, dừng xe. Với đường dây của Nguyễn Thị Mai Anh thì đặc biệt có đoàn xe quân cảnh trực thuộc Tiểu đoàn 6 Quân cảnh, Biệt khu Thủ Đô, dưới quyền chỉ huy của trung tá Nguyễn Văn Phần (còn gọi là Văn Phan).

Nguồn gốc hàng lậu?

Ông Trần Hoàng cho biết, vụ việc buôn lậu đổ bể giữa đường, báo chí Sài Gòn thời bấy giờ một phen được hả hê. Bởi từ trước cho tới khi vụ việc bị phát giác, cánh báo chí luôn bị bưng bít thông tin, đặc biệt những chuyện làm ăn của các phu nhân của tổng thống, thủ tướng… Ông Trần Hoàng cho biết thêm, vụ buôn lậu được phát hiện tại Long An mà thời đó, cánh báo chí chúng tôi đặt tên là “vụ còi hụ Long An” có quy mô rất lớn, có sự tham gia của nhiều đơn vị, thuộc nhiều binh chủng khác nhau.

Đầu tiên, báo chí quan tâm nhiều nhất là xem ai đứng đằng sau vụ việc, rồi đến nguồn hàng này từ đâu chuyển về Việt Nam với lượng lớn như trên. Báo chí cũng điều tra ra được, hàng vào Việt Nam bằng đường thủy và thường vào một khung giờ quy định. Theo đó, con tàu Panama vào biển Việt Nam lúc trời tối, đồng thời, ở đây đã có sẵn một số lực lượng Giang Đoàn (lính thủy) của TP. Mỹ Tho chờ sẵn và chịu trách nhiệm chuyển vào đất liền. Những kiện hàng này được vận chuyển về một kho chứa tại Chợ Gạo, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay). Công tác bốc dỡ hàng hóa phải kết thúc vào khoảng trưa hôm sau. Còn trong quá trình vận chuyển về Chợ Lớn phải “me” lúc trời tối đến Phú Lâm (cửa ngõ vào trung tâm Sài Gòn) là vừa. Như vậy sẽ tránh được sự dòm ngó, đặc biệt là cánh báo chí.

Tại khu vực kho hàng ở Chợ Gạo, người ta thường thấy nhiều chiếc GMC thuộc Quân vận vùng 3 “cắm”. Số quân xa này được đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá Trần Quốc Khang. Điều đáng nói ở đây là địa điểm chứa hàng lậu là Chợ Gạo, TP.Mỹ Tho của tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay) thuộc vùng 4 chiến thuật nhưng đoàn quân xa chuyên chở hàng từ Chợ Gạo về Chợ Lớn lại là những chiếc quân xa thuộc Quân vận khu 3. Ngay cả quân cảnh mở đường cho đoàn quân xa chở hàng lậu cũng thuộc quân khu 3. Rồi đến địa điểm xuống hàng lậu và đem phân phối tại thị trường cũng thuộc lãnh thổ quân khu 3, do Biệt khu Thủ Đô đảm trách. Nhiều người cho rằng, đã có sự thỏa hiệp của những ông bà trùm để không xảy ra những tranh chấp.

Cũng theo ông Linh, lúc đó, dư luận cũng quan tâm đến chuyện những “trùm” ở Phủ đầu rồng buôn bán những mặt hàng gì? Khi được công bố, nhiều người mới té ngửa vì có quá nhiều mặt hàng xa xỉ phẩm, đắt tiền, đặc biệt là để bán dịp Giáng sinh và Tết: Các loại rượu quý: Cognac, Martel, Whisky, Champagne… Các loại thuốc lá thơm: Caraven “A”, 555, Marlboro… Các loại quần áo, hàng vải, tơ lụa; giày vớ của Pháp, Ý… Các loại đồ chơi điện tử của Nhật; Đồng hồ hiệu: Omega, Longine, Rolex, Senko, Certina… Các loại bánh kẹo nổi tiếng của Anh, Hà Lan, Đan Mạch… Tổng số hàng này trị giá khoảng hơn nửa tỷ đồng tiền Việt Nam lúc bấy giờ.

Xử cả kẻ buôn lậu, lẫn người bắt buôn lậu

Chiếu theo những quy định, luật lệ khi đó thì sẽ có một phiên tòa để làm rõ công – tội rành mạch. Tuy nhiên, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại được tham mưu và “ấn” cho mỗi người một bản án cụ thể, tùy theo mức độ tham gia vụ việc. Thậm chí những người có công ngăn chặn vụ buôn lậu cũng không hề được thưởng hay nêu công trạng, trái lại còn bị lãnh những bản án nặng. Giới báochí thời ấy gọi đó là một phiên tòa đặc biệt.

Tổng thống Thiệu không có cách nào để giấu mặt, đành phải xuất đầu lộ diện và trực tiếp giải quyết vấn đề. Theo lẽ thường, vào thời điểm ấy, nếu những sự vụ tương tự như thế diễn ra thì nó sẽ thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của viên Tổng Giám đốc Quan thuế hoặc cao lắm là tới Tổng trưởng Tài chính hay Kinh tế, chứ chưa đến mức phải tới tay Phủ Tổng thống. Bên cạnh đó, một chi tiết cũng đáng chú ý là khi vụ án xảy ra, nhiều tờ báo hả hê và nhảy vào loannhưng đã bị… tuýt còi ngay lập tức.

Ông Nguyễn Khánh Linh, một người nghiên cứu về Sài Gòn xưa cũng được nghe một số nhân chứng trong vụ việc sau này kể lại, để giải quyết vụ việc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã cho thành lập một Ủy ban điều tra và thanh mãi (giải quyết số hàng còn lại sau khi bị cướp) gồm: Tổng Giám đốc Quan thuế, Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia cùng một vài tay chân thân tín khác. Số hàng còn lại được đem ra đấu giá, số tiền thu được đem vào cứu trợ cho các gia đình cô nhi quả phụ tử sỹ.

Cũng có thông tin cho rằng, sau khi vụ việc đổ bể, do đám con trẻ làm hư chuyện, báo chí lên tiếng và dư luận trong Bộ Tổng tham mưu ồn ào về vụ buôn lậu có còi hụ dẫn đường, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đành phải đích thân ra lệnh cho thành lập một Ủy ban điều tra cấp Trung ương, gồm Bộ Quốc phòng, Tổng Thanh tra, Quân cảnh và An ninh Quân đội do Đổng lý Bộ Quốc phòng Tôn Thất Chước làm Chủ tịch Ủy ban.

Thế là hàng loạt người dính líu vào vụ án vô tiền khoáng hậu này đều bị triệu tập điều tra. Đó là đại úy Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 6 Quân cảnh của Biệt Khu Thủ Đô; đại úy Thế, Tiểu đoàn 4 Quân cảnh, Trưởng đồn Quân cảnh Mỹ Tho (đại úy Thế là con rể đại tá Luông, Giám đốc Cảnh sát Quân khu 3); đại úy Quới, trưởng đoàn quân xa thuộc Quân vận vùng 3… Rồi trưởng ty cảnh sát Chợ Gạo; thiếu tá chỉ huy trưởng Giang Đoàn ở Mỹ Tho… Đặc biệt, đáng chú ý nhất là những người có công ngăn chặn và bắt chuyến hàng lậu được dẫn bằng xe quân cảnh có còi hụ như trung úy Thọ, trưởng đồn quân cảnh Long An rồi hai viên sỹ quan quân cảnh gác trạm kiểm soát Long An cũng bị bắt. Đây là những người có công trong việc báo cáo vụ việc lên thượng cấp để tỉnh trưởng Lê Văn Năm cho chặn đoàn xe bằng bất cứ giá nào.

Theo ông Linh, nếu chiếu theo Luật Thuế quan thời đó thì hai viên sỹ quan quân cảnh gác trạm kiểm soát Long An, trung úy Thọ, thiếu tá quận trưởng Gò Đen và đại tá Lê Văn Năm xứng đáng được thưởng vì là những người có công khám phá và chặn được đoàn quân xa chở hàng lậu. Nhưng ngược lại, tất cả đều bị bắt nhốt và chờ hình phạt vì đã vô tình để thất thoát một số lượng lớn tài sản quốc gia. Theo đó, một mặt Tổng thống Thiệu sai thuộc cấp hứa ngầm sẽ giảm án cho những người bị tống giam sau một thời gian ngồi bóc lịch tượng trưng. Đồng thời, Tổng thống Thiệu cũng ban hành một sắc lệnh quy định trách nhiệm trực tiếp cho các tướng lãnh chỉ huy cao cấp. Giới phân tích chính trị lúc ấy cho rằng, cũng từ đây, cơn ác mộng bị đảo chính cứ lởn vởn trong đầu của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho tới ngày ông qua đời.

Vụ mất tích và cái chết bí hiểm

Và kết quả của vụ xét xử này cũng làm nhiều người bất ngờ. Điển hình đại uý Nhiều, Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 6 Quân cảnh thuộc Biệt Khu Thủ Đô; đại uý Thế, trưởng đồn Quân Cảnh Mỹ Tho; đại uý Quới, chỉ huy đoàn quân xa; thiếu tá chỉ huy Giang Đoàn Mỹ Tho… mỗi người lãnh 6 năm cấm cố, bị tước đoạt binh quyền và lưu đày ra ngoài Côn Đảo. Có tin cho rằng, đại úy Nhiều bị án khủng 20 năm tù và đày ra khổ sai ở Côn Đảo.

Còn đại tá Lê Văn Năm, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long An bị giáng cấp xuống đại uý và bị thuyên chuyển ra Sư Đoàn 21, đóng ở Chương Thiện, Gia Rai và phải đi hành quân như một lao công chiến trường. trung uý Thọ, Trưởng đồn Quân cảnh Long An, mặc dù đã có công và rõ ràng không dính líu gì vào vụ buôn lậu, đã bị phạt mấy chục ngày trọng cấm, có ghi vào quân bạ và bị thuyên chuyển đi làm Trưởng đồn Quân cảnh Phước Long. Tương tự, hai viên hạ sĩ quan Quân cảnh, thuộc trạm kiểm soát Long An, đã có công đầu tiên báo cáo về hành tung của đoàn quân xa, đều bị phạt mỗi người mấy chục ngày trọng cấm, có ghi vào hồ sơ và thuyên chuyển lên Pleiku, thuộc Tiểu Đoàn 2 Quân cảnh.

Điều đáng nói là nhiều người sau khi đi thi hành án được một thời gian ngắn thì mất tích hoặc chết không rõ nguyên nhân. Trường hợp được ghi nhận là trong một thời gian, sau khi đi làm Trưởng đồn Quân cảnh Phước Long, trung úy Thọ đã được báo là mất tích không rõ lý do gì. Tương tự như trung úy Thọ, hai viên sỹ quan một thời gian sau khi đi thực hiện nhiệm vụ mới ở Pleiku cũng bị bắn chết không rõ nguyên nhân.

Dư luận cũng lên tiếng về việc không thấy ai đứng đầu tổ chức buôn lậu này đứng ra chịu trách nhiệm. Có điều các mũi búa rìu dư luận đều chĩa vào Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh với sự cộng tác mật thiết của vợ chồng tẩu tướng Trần Thiện Khiêm cũng như vợ chồng người chị gái của đệ nhất phu nhân cư ngụ tại Mỹ Tho. Gia đình bên vợ Tổng thống Thiệu đã lấy danh nghĩa Phủ đầu rồng (Phủ Tổng thống) để tổ chức buôn bán. Họ mượn cớ ngày tết sắp đến, ngân sách Quốc gia không đủ để đài thọ quà cáp cho gia đình cô nhi quả phụ tử sỹ trên toàn quốc, nên phải tổ chức kinh tế mạo hiểm với nhóm thương gia người Tàu trong Chợ Lớn và ăn chia theo tỷ lệ 50 – 50. Số tiến ăn chia này sẽ được bổ sung vào quỹ cứu trợ “Cây Mùa Xuân” cho cô nhi quả phụ tử sỹ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa do các đấng mệnh phụ phu nhân lãnh đạo.

Lưới trời lồng lộng

Ông Trần Hoàng, Chủ bút một tờ báo trước giải phóng nói thêm, dù đã được ngụy trang hết sức cẩn thận nhưng vụ việc cũng chỉ bị phát hiện một cách hết sức bất ngờ, ngoài ý muốn của Phủ đầu rồng. Bởi, kể từ sau khi chính quyền cách mạng Việt Nam thực hiện Chiến dịch Tổng tiến công Mậu Thân (1968) thì hàng năm, cứ tới dịp lễ tết là chính quyền Thiệu lại nơm nớp lo sợ. Chính vì vậy, Thiệu luôn phải nhắc nhở quân đội chính quy, kể cả địa phương và các đơn vị nhân dân tự vệ… phải đề cao cảnh giác. Đến năm 1972, sau khi chúng ta ký Hiệp định Paris, Mỹ rút quân về nước thì ghế ngồi của Thiệu tại Phủ đầu rồng đã không yên ổn. Lúc đó, theo lời các thầy bói (Thiệu rất tin vào bói toán) thì Thiệu lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị đảo chính. Và Thiệu thừa biết chắc rằng, nếu có biến cố xảy ra thì hắn cũng phải đi chầu Diệm – Nhu sớm. Do vậy, chính quyền của Thiệu cùng với Thủ tướng Khiêm đã thủ thế rất kỹ. Thế nên việc buôn lậu cũng phải có tay chân tín cẩn thực hiện, đặc biệt là các vị trí then chốt trong quân đội. Song chẳng ai học hết chữ ngờ.

Phân chia nhiều lĩnh vực buôn lậu

Theo nhiều chuyên gia nghiên cứu lịch sử, sau khi vụ “Còi hụ Long An” bị phát hiện, dưới thời trị vì của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên và các tay chân thân tín đã xuất hiện nhiều đường dây buôn lậu độc quyền. Ngoài đường dây của đệ nhất phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh còn có đường dây buôn lậu Sài Gòn – Vũng Tàu thuộc thẩm quyền của vợ nhỏ Thiệu là bà Cryrnos, làm chủ khách sạn ở Vũng Tàu và vợ chồng Đặng Văn Quang. Còn việc buôn bán các loại giấy phép xuất nhập cảng và hối đoái, chuyển ngân là của vợ chồng Trần Thiện Khiêm với người anh trai của bà Khiêm là Hai RI. Đây cũng là tập đoàn chuyên khai thác lâm sản, đặc biệt là các loại gỗ quý trái phép.
.
Theo NGƯỜI ĐƯA TIN
0

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2018

Ảnh Thuyền nhân Việt Nam

Thuyền nhân Việt Nam là hiện tượng gần một triệu người Hoa và người người Việt vượt biên khỏi Việt Nam bằng đường biển bắt đầu sau chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, diễn ra cao điểm vào năm 1978-1979 (năm diễn ra chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc) và tiếp diễn cho đến giữa thập niên 1980.


Đến năm 1999 vẫn còn một vài người Việt cùng người Trung Quốc vượt biển đến Hồng Kông để kiếm tiền dễ hơn trong khi nhiều trại ở Đông Nam Á vẫn chưa giải quyết xong những người ứ đọng.


Cuối cùng, Indonesia đóng cửa trại tị nạn ở Galang năm 1996; Thái Lan năm 1997; Philippines năm 1997, Hồng Kông năm 2000.

Năm 2001, Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc chính thức dẹp bỏ trại tỵ nạn cuối cùng đặt tại Malaysia, chấm dứt 21 năm Cao ủy Tỵ nạn hợp tác ở nước này để giúp người vượt biển đến từ Việt Nam.

Số người vượt biên diễn ra cao điểm vào các năm 1978 - 1979 (thời kỳ diễn ra chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới Việt - Trung) trong đó chiếm một tỷ lệ đa số là người Hoa, họ vượt biên vì lo sợ chiến tranh nổ ra giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Một số thống kê chỉ ra rằng vào năm 1982 số lượng người Hoa chiếm tới 2/3 trong số những người vẫn còn sống sót sau khi vượt biên từ Việt Nam bằng đường biển.

Ngoài ra, có khoảng 250.000 người gốc Hoa vượt biên sang Trung Quốc bằng đường bộ tại biên giới phía Bắc từ tháng 4 năm 1978 đến mùa hè năm 1979. Vào năm 1980, số người vượt biên sang Trung Quốc đạt 260.000 người.

Sau giai đoạn này, số Hoa kiều tại Việt Nam đã giảm một nửa (từ 1,8 triệu năm 1975 xuống còn 900.000 vào năm 1989), người Hoa đã không còn là thế lực kiểm soát nền kinh tế Việt Nam như trước nữa, và Việt Nam đã trở thành nước duy nhất ở Đông Nam Á thành công trong việc đồng hóa người Hoa.

0

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2018

Ảnh màu Quân đội VNCH thập niên 1960

Đây là một số bức ảnh màu hiếm thấy về chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa thập niên 1960 do tờ Toutiao của Trung Quốc đăng tải. Các chú thích dưới đây được lược dịch theo nguyên văn.



Trước năm 1975, vũ khí trang bị của quân đội VNCH hoàn toàn là kiểu Mỹ và có thể gọi là số 1 số 2 ở Đông Nam Á nhưng mặc dù có vũ khí trang bị ưu thế như vậy, quân đội VNCH cuối cùng vẫn bị đánh bại.

Bắt đầu từ thời kỳ Ngô Đình Diệm chấp chính, miền Nam Việt Nam nhận được viện trợ quân sự từ Mỹ. Khi đó Ngô Đình Diệm được Mỹ chống lưng đã cự tuyệt Hiệp định Geneve. Để đáp ứng đầy đủ điều kiện viện trợ của Mỹ, Nam Việt thực thi cải cách, các lĩnh vực quân sự toàn bộ sử dụng tiêu chuẩn Mỹ, từ quân trang đến vũ khí trang bị đều là hàng Mỹ sản xuất.

Sau khi chiến tranh Việt Nam nổ ra, Mỹ càng không tiếc tiền cung cấp cho Nam Việt nhiều viện trợ và đưa vũ khí tiên tiến đến vũ trang cho quân đội VNCH với hy vọng có thể ngăn quân đội miền Bắc thống nhất Việt Nam. Trong ảnh này là học viên trường quân sự VNCH với trang phục mô phỏng trang phục học viên trường quân sự Westpoint của Mỹ.

Nguyễn Cao Kỳ trong quân phục VNCH thập niên 1960. Nguyễn Cao Kỳ từng là Thủ tướng và Phó Tổng thống VNCH, đồng thời cũng là một tướng không quân.

Trong ảnh là Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ trong một buổi xuất hiện công khai trước công chúng.

Nguyễn Văn Thiệu là một tướng trong quân đội VNCH, khi Ngô Đình Diệm bị ám sát, ông ta nắm quyền ở Nam Việt nhưng cuối cùng đưa Nam Việt đi xuống vực thẳm. Năm 1975 khi Việt Nam thống nhất, ông ta chạy sang Đài Loan.

Nam Việt Nam tuy nhận viện trợ của Mỹ gần 20 năm nhưng cuối cùng không thể một mình đứng vững. Hai năm sau khi Mỹ rút đi, quân đội Nam Việt bị quân đội Bắc Việt tấn công đã binh bại như núi lở và cuối cùng diệt vong.
0

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2018

Em Để Dành Mùa Xuân, Đợi Anh Về Mới Nở

(FB Doan Quang Minh) - NHỜ CỘNG ĐỒNG MẠNG CHIA SẺ GIÚP!


Năm 1968, hàng trăm trận mưa bom ác liệt trút xuống vùng căn cứ kháng chiến Liên khu 5. Quân địch sau khi bị tổn thất nặng ở thành phố trong trận Tổng tiến công Tết Mậu Thân của quân ta đã trút cơn giận dữ lên những khu rừng đại ngàn của Trường Sơn.

Trong số những người ngã xuống sau trận mưa bom, có một chiến sĩ không ai biết tên tuổi, quê quán của anh. Chỉ biết trong túi áo anh có một tấm ảnh nhỏ cỡ 6x9. Ảnh tô màu khá đẹp. Người trong ảnh là một nữ công nhân, mặc sơmi trắng, quần yếm xanh, tay cầm chiếc thoi dệt vải. Mặt sau của ảnh có bài thơ chép tay: "Đợi Anh về”

Đây là thông tin được Cựu chiến binh Đặng Minh Phương, người lưu giữ bức ảnh này cung cấp. Nhiều năm qua, ông vẫn đau đáu với ước mong tìm lại người trong ảnh và gia đình liệt sĩ nhưng vẫn chưa thể thực hiện được. Sau này, kỷ vật được trao lại cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.

Ngày hôm qua, Thượng tá Trần Thanh Hằng, cán bộ nghỉ hưu của Bảo tàng Lịch sử Quân sự VN đã chia sẻ và mong muốn của bà cũng như nhiều cán bộ đang công tác tại bảo tàng là tìm được hoặc có thông tin về người phụ nữ trong ảnh, từ đó hy vọng sẽ xác định được tên, tuổi, quê quán của liệt sĩ và tìm về với gia đình của anh...


Nguồn: https://www.facebook.com/hashtag/ng%C6%B0%E1%BB%9Di_s%C3%A0i_g%C3%B2n?source=feed_text
0

Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2018

Tại sao Mỹ thất bại ở Việt Nam? Một Câu Hỏi Chưa Có Lời Giải Đáp

(Trương Quang Đệ/ Viet_Studies) - Theo VOA hội thảo lần này gần như đạt đến một nhận xét chung: Lợi thế của Miền Bắc là có chính nghĩa và chính nghĩa này do bộ máy tuyên truyền của Miền Bắc hoạt động hiệu quả. Một mặt đối với nhân dân trong nước, cuộc chiến được xem là chiến đấu chống xâm lược, giải phóng dân tộc. Mặt khác trên trường quốc tế, Mỹ không thể tránh được việc bị coi là xâm lược vì Mỹ đã giúp Pháp tái chiếm Đông Dương nhưng không thành công. Phía VNCH thì không thoát được cảnh lệ thuộc hoàn toàn vào ngoại bang, lại mất lòng dân vì các chính sách bạo lực trong một đường lối chống cộng cực đoan.


Mấy ngày gần đây ở Washington diễn ra một cuộc hội thảo khá đồ sộ, thu hút đông đảo chuyên gia, học giả, chính khách quốc tế và hiển nhiên có nhiều người Mỹ, người Việt tham gia. Chủ đề hội thảo là "Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Nam sau 43 năm". Chủ đề rộng như vậy nhưng thực tế những người tham gia hội thảo đều cố gắng hạn chế vào khuôn khổ tìm kiếm một lời giải đáp mà họ hy vọng là thỏa đáng cho câu hỏi: Tại sao Mỹ thất bại ở Việt Nam?

Ai cũng biết từ 1975 đến nay đã có hàng núi văn kiện, bài báo, hồi ký của các chính khách và các tướng lĩnh Nỹ, Pháp, Việt Nam (bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc) nói về cuộc chiến Việt Nam và sự thất bại của Mỹ. Bên cạnh đó, nhiều hội thảo đã được tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới về chủ đề này, đặc biệt hội thảo giữa những năm 90 của thế kỷ trước ở Hà Nội với sự tham gia của Tướng Giáp và cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara.

Hầu như những kết luận của các hội thảo, những nhận xét của các nhà báo, chính khách, học giả.. vẫn chưa thuyết phục được hết thảy mọi người. Phía thắng cuộc không phải ai cũng thỏa mãn với những kết luận chính thức trong các văn kiện của Đảng Cộng Sản cầm quyền hay những gì được ghi trong các sách giáo khoa lịch sử. Phía thua cuộc, Mỹ và nhiều giới quân sự, dân sự VNCH cũ có vẻ ấm ức không hiểu tại sao lại thua và muốn biết đâu là lời giải đích thực thay vì những nhận xét không mấy thuyết phục của mỗi bên từng thấy trên báo chí và trong các hồi ký, bút ký. Do vậy câu hỏi trên gây ra tranh cãi liên miên và chắc sẽ không bao giờ dứt.

Linh tính báo cho tôi hay là phải nhiều thập kỷ nữa họa chăng mới có lời giải đáp thuyết phục được mọi người. Việc phía Mỹ cũng như những người thuộc chính quyền Sài Gòn cũ băn khoăn trăn trở là điều dễ hiểu vì trước đây họ tin chắc rằng không có lí do gì để thất bại cả, Họ có nhiều lợi thế hơn Miền Bắc.

Thực vậy, về mặt vật chất VNCH và Mỹ có một đội quân trội hơn nhiều so với Miền Bắc: quân số, vũ khí, phương tiện hậu cần vv... Họ luôn làm chủ bầu trời, mặt biển và đường sông. Họ hành quân bằng trực thăng và các phương tiện cơ giới linh hoạt, trong lúc đó quân đội Miền Bắc và quân Giải phóng Miền Nam chủ yếu dùng đôi chân. Về tinh thần, họ được nhiều quốc gia Phương Tây và Đông Nam Á ủng hộ và các đồng minh này luôn phối hợp chặt chẽ với nhau. Trong lúc đó Miền Bắc dựa vào Trung Quốc và Liên xô trong hoàn cảnh hai nước này thù hằn không đội trời chung, xung đột gay gắt. Trong nước thì Miền Nam có nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường tự do khiến cho dân chúng có đời sống không chỉ no đủ mà còn khá tiện nghi. Trong lúc đó ở Miền Bắc với nền kinh tế kế hoạch hóa bao cấp, cuộc sống đa số dân chúng hết sức khó khăn gian khổ.

Theo VOA hội thảo lần này gần như đạt đến một nhận xét chung: Lợi thế của Miền Bắc là có chính nghĩa và chính nghĩa này do bộ máy tuyên truyền của Miền Bắc hoạt động hiệu quả. Một mặt đối với nhân dân trong nước, cuộc chiến được xem là chiến đấu chống xâm lược, giải phóng dân tộc. Mặt khác trên trường quốc tế, Mỹ không thể tránh được việc bị coi là xâm lược vì Mỹ đã giúp Pháp tái chiếm Đông Dương nhưng không thành công. Phía VNCH thì không thoát được cảnh lệ thuộc hoàn toàn vào ngoại bang, lại mất lòng dân vì các chính sách bạo lực trong một đường lối chống cộng cực đoan.

Không biết những nhận định trên đây của hội thảo vừa qua ở Mỹ có sức thuyết phục đến mức nào, nhưng tôi tin rằng sự tranh cãi đôi khi lại bùng nổ dữ dội hơn. Bởi lẽ phía thua cuộc luôn dị ứng với khái niệm "chính nghĩa". Họ nhìn sự vật theo nhãn quan đồng đại, nghĩa là lấy cái hiện nay để suy xét cái đã qua. Lập luận của họ là "Đã là cộng sản thì làm sao có chính nghĩa với những vụ như cải cách ruộng đất, cải tạo công thương...ở trong nước và Thiên An Môn, Khơ Me đỏ... ở bên ngoài".

Thực ra muốn xem xét sự vật một cách khách quan thì phải đặt mình vào hoàn cảnh đất nước năm 1945. Hội thảo Washington vừa qua cho rằng Miền Bắc có được chính nghĩa nhờ khéo tuyên truyền, vận động quần chúng. Sự thực không hẳn như vậy. Chính nghĩa của Miền Bắc do Trời cho khi họ duy nhất huy động dân chúng chống lại việc tái chiếm thuộc địa của Pháp. Chỉ cần so sánh bản chất Quân đội Nhân dân và Quân đội Cộng hòa thì thấy chính nghĩa thuộc về ai. Quân đội Nhân dân có nguồn gốc lịch sử từ Đội tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nuyên Giáp chỉ huy và điều nực cười là do Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS ở Côn Minh huấn luỵện.


Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội VNTTGPQ (tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam) được thành lập tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo, thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Ảnh baotanglichsu.vn

Trên thực tế Quân đội Nhân dân được tạo ra từ nhiều nguồn tự phát của từng địa phương, từng bộ phận dân chúng gần như không có sự lãnh đạo của Đảng như sách vở chính thức gán ghép về sau. Công lao của Bộ Thanh niên trong Chính phủ Trần Trọng Kim rất lớn: lực lượng thanh niên của Bộ này chuyển sang phục vụ Việt Minh ngay sau khi VNDCCH chưa thành lập, hầu hết nhân sự từ bộ trưởng trở xuống đều tham gia Việt Minh. Từ ngày Pháp chiếm lại Nam Bộ và ba bốn năm sau đó, việc liên lạc từ Trung Ương xuống địa phương rất khó, vì vậy các địa phương tổ chức lấy lực lượng vũ trang cấp trung đội hay đại đội. Các chỉ huy đến từ hàng ngũ binh lính cũ của Pháp, các nhóm vũ trang Bình Xuyên vv.

Nên nhớ rằng trước năm 1950, khi Mao chưa giành được chính quyền, Quân đội Nhân dân không có nước ngoài nào giúp đỡ, trừ Mỹ đối với đội du kích tướng Giáp những năm 1944-1945. Mọi người hiểu ngay rằng Quân đội Nhân dân đúng là do dân lập ra theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Quân đội Nhân dân chỉ được trang bị bằng vũ khí thô sơ (giáo, mác, gậy...) và súng đạn lấy được từ những trận phục kích lẻ tẻ. Không chỉ quân đội, các chính quyền địa phương của VNDCCH đều do dân tự phát bầu ra, đa số cán bộ chủ chốt ban đầu là những nhân sĩ, người có trình độ học vấn khá, những bộ mặt văn hóa địa phương. Sau này khi thực thi đường lối tả khuynh, người ta mới lần lượt thay thế những loại cán bộ như thế, kể cả trong quân đội, bằng những tầng lớp công nông ít văn hóa.

Còn Quân đội Cộng Hòa thì sao? Các ông Diệm, Nhu, những người có thể được coi là quốc gia đích thực vì không dính gì đến quân viễn chinh Pháp, khi lật đổ Bảo Đại để lập nên VNCH đã mắc sai lầm là giữ nguyên quân đội của Bảo Đại do Pháp dựng nên để chiến đấu cùng họ trong việc tái chiếm thuộc địa.


Ảnh bienxua.wordpress.com

Chính phủ của ông Diệm chỉ xua được tướng Hinh về Pháp mà thôi. Khi Pháp rút đi thì Mỹ thay thế Pháp để trang bị, huấn luyện quân đội này và như vậy quân đội đó luôn nằm dưới sự thao túng của ngoại bang, nhiều lần trở thành công cụ của Mỹ để lật đổ các chính quyền VNCH. Đó là nguyên do tại sao nó tan rã nhanh chóng khi không còn sự hỗ trợ trực tiếp của ngoại bang nữa.

Có thể góp với hội thảo ở Mỹ vừa qua một vài suy nghĩ cá nhân có tính tư biện, mong được lắng nghe và bàn thảo thêm cho rõ. Mỹ thất bại ở Việt Nam cách đây 43 năm là do, như các cụ ngày xưa nói, không có "thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Về thiên thời, dầu mục tiêu của Mỹ là ngăn cộng sản từ phía Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á theo hiệu ứng domino (thuyết Eisenhower), nhưng thời điểm Mỹ can thiệp vào Việt Nam trùng với trào lưu phi thực dân hóa rầm rộ toàn cầu. Vô hình trung, cuộc chiến do Mỹ chủ xướng biến thành cái đuôi của cuộc chiến tranh thực dân đang hết thời. McNamara cũng nhận là Mỹ gặp phải sự kháng cự của toàn thể một dân tộc chứ không riêng gì lực lượng cộng sản. Về địa lợi, lực lượng miền Bắc và quân giải phóng miền Nam là những lực lượng tại chỗ (quân miền Bắc cư trú ở dãy Trường Sơn, quân giải phóng sống ngay ở Sài gòn và khắp nơi miền Nam), họ bám trụ vào dân, thông thạo địa hình, khi ẩn khi hiện làm Mỹ nản lòng trong việc săn bắt. Về nhân hòa thì như trên đã nói, việc cộng sản đe dọa thì chưa thấy mà chỉ thấy Mỹ thực hiện một cuộc phiêu lưu quân sự nhằm duy trì việc chia cắt vĩnh viễn Việt Nam, việc chia cắt không một người Việt nào tán thành, các nước trên thế giới thì dè dặt không ai muốn công khai ủng hộ Mỹ.

Tướng Mỹ Omar Bradley (1893-1981), trong phiên điều trần trước Ủy Ban Quốc phòng và Đối ngoại Thượng Viện Mỹ ngày 15/5/1951 về việc có nên mở rộng chiến tranh Triều Tiên sang lãnh thổ Trung Quốc không, đã nói một câu chí lý: Đó sẽ là một cuộc chiến sai lầm, sai địa điểm, sai thời gian, sai địch thủ (the wrong war at the wrong place, at the wrong time and with the wrong enemy ). Câu nói ấy vận dụng vào trường hợp Việt Nam thì quá thích hợp. Quả vậy, ngoài đặc thù về nơi chốn, thời điểm bất lợi đã phân tích trên đây, cái sai về địch thủ lần này rõ rệt hơn nhiều so với năm 1951 ở Triều Tiên. Mỹ cứ tưởng vào Việt Nam để tiêu diệt một toán quân cộng sản chân tay của Nga và Trung Quốc. Thực tế Mỹ phải chống lại hầu như toàn bộ người Việt đã biết thế nào là độc lập khi Nhật lật đổ Pháp trao lại cho họ rồi ít tháng sau, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, họ tự vũ trang một cách tự phát để chống lai quân viễn chinh Pháp đang ra sức tái chiếm thuộc địa.

Trương Quang Đệ
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 26-9-18

Nguồn: http://www.viet-studies.net/kinhte/TruongQuangDe_CauHoiChuaGiaiDap.html
0

Thứ Tư, 19 tháng 9, 2018

Ảnh Thuyền nhân Việt Nam

Thuyền nhân Việt Nam là hiện tượng gần một triệu người Hoa và người người Việt vượt biên khỏi Việt Nam bằng đường biển bắt đầu sau chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, diễn ra cao điểm vào năm 1978-1979 (năm diễn ra chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc) và tiếp diễn cho đến giữa thập niên 1980.


Đến năm 1999 vẫn còn một vài người Việt cùng người Trung Quốc vượt biển đến Hồng Kông để kiếm tiền dễ hơn trong khi nhiều trại ở Đông Nam Á vẫn chưa giải quyết xong những người ứ đọng.


Cuối cùng, Indonesia đóng cửa trại tị nạn ở Galang năm 1996; Thái Lan năm 1997; Philippines năm 1997, Hồng Kông năm 2000.

Năm 2001, Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc chính thức dẹp bỏ trại tỵ nạn cuối cùng đặt tại Malaysia, chấm dứt 21 năm Cao ủy Tỵ nạn hợp tác ở nước này để giúp người vượt biển đến từ Việt Nam.

Số người vượt biên diễn ra cao điểm vào các năm 1978 - 1979 (thời kỳ diễn ra chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới Việt - Trung) trong đó chiếm một tỷ lệ đa số là người Hoa, họ vượt biên vì lo sợ chiến tranh nổ ra giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Một số thống kê chỉ ra rằng vào năm 1982 số lượng người Hoa chiếm tới 2/3 trong số những người vẫn còn sống sót sau khi vượt biên từ Việt Nam bằng đường biển.

Ngoài ra, có khoảng 250.000 người gốc Hoa vượt biên sang Trung Quốc bằng đường bộ tại biên giới phía Bắc từ tháng 4 năm 1978 đến mùa hè năm 1979. Vào năm 1980, số người vượt biên sang Trung Quốc đạt 260.000 người.

Sau giai đoạn này, số Hoa kiều tại Việt Nam đã giảm một nửa (từ 1,8 triệu năm 1975 xuống còn 900.000 vào năm 1989), người Hoa đã không còn là thế lực kiểm soát nền kinh tế Việt Nam như trước nữa, và Việt Nam đã trở thành nước duy nhất ở Đông Nam Á thành công trong việc đồng hóa người Hoa.

0