Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng Ban Biên giới Chính phủ, cho biết Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ký kết và là quốc gia thứ 61 phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc (LHQ) về Luật Biển 1982 (UNCLOS). “Khi tham gia, Việt Nam ý thức được giá trị cơ sở pháp lý và bảo đảm được quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình ở thềm lục địa” - ông Trục khẳng định.
Tiên phong trong khu vực
Là người tham gia dịch thuật các tài liệu ra tiếng Việt và soạn thảo những văn bản pháp lý trước khi nước ta gia nhập UNCLOS, TS Trần Công Trục đánh giá cao thành công của Việt Nam sau khi ký công ước đặt nền tảng cho sự thiết lập một trật tự pháp lý mới liên quan đến các vấn đề biển và đại dương. UNCLOS đã tạo cơ sở giá trị xác định phạm vi các vùng biển một cách cụ thể; xác định quy chế pháp lý bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán và giải quyết các vùng chồng lấn theo nguyên tắc đàm phán hòa bình trên cơ sở công bằng.
Nguyên trưởng Ban Biên giới Chính phủ cho biết Việt Nam đã chủ động vận dụng các nội dung đã được đưa ra thương lượng tại Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 của LHQ để xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về biển của mình, như tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày 12-5-1977 về các vùng biển và thềm lục địa. Đây là tuyên bố chính thức đầu tiên về biển, thềm lục địa của Chính phủ Việt Nam.
Theo TS Trần Công Trục, Việt Nam là một trong các quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, có đường lãnh hải tính từ đường cơ sở cho phép mở rộng quyền của Việt Nam ra biển, không chỉ giới hạn trong quyền đánh cá mà còn có các quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. “Đây là một văn bản điển hình, tiên phong trong khu vực đưa được ra một tuyên bố chuẩn xác, phù hợp với UNCLOS nên đã không gặp phải sự phản ứng nào từ các nước trong khu vực” - ông Trục khẳng định.
Giải quyết nhiều tranh chấp
Đánh giá về vai trò của Việt Nam kể từ khi gia nhập UNCLOS, ông Trần Công Trục cho biết nước ta đã chủ động triển khai mọi công việc cần thiết để công ước này được vận dụng; chấp hành một cách nghiêm túc, hiệu quả trong thực tế quản lý, khai thác các vùng biển và thềm lục địa của mình ở biển Đông, một khu vực tồn tại nhiều loại tranh chấp phức tạp. Trách nhiệm đó đã được thể hiện trước hết qua việc tiến hành nghiên cứu, từng bước hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là sau khi Quốc hội thông qua Luật Biển ngày 21-6-2012.
Theo nhìn nhận của các thành viên, Việt Nam là một trong những nước ở khu vực đi tiên phong trong việc triển khai thực thi nghiêm túc và hiệu quả nội dung của UNCLOS. Là nước đầu tiên trong khu vực dịch UNCLOS ra tiếng bản xứ (tiếng Việt), Việt Nam đã cho ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với công ước; căn cứ vào các nguyên tắc, giải pháp giải quyết tranh chấp do công ước trù định để xúc tiến đàm phán hoạch định ranh giới biển, thềm lục địa với các nước láng giềng và đã thu được những thành quả đáng khích lệ.
Trên nền tảng UNCLOS, Việt Nam đã đàm phán thành công với một số quốc gia trong khu vực như giải quyết được ranh giới vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa trong vùng chồng lấn với Thái Lan ở vịnh Thái Lan ngày 9-8-1997; ký với Indonesia hiệp định phân định thềm lục địa ngày 26-6-2003 và đàm phán với Malaysia hợp tác cùng khai thác chung trong vùng chồng lấn 2.800 km2.
Ông Trục cũng nêu rõ những điểm mạnh trong các điều khoản của UNCLOS, giải quyết các tranh chấp, như có thể đưa ra “giải pháp tạm thời cùng khai thác chung nếu hai bên chưa đi được đến thỏa thuận”. “Đây là tiền lệ hết sức đáng lưu ý trong việc các bên giải quyết ranh giới vùng biển và thềm lục địa” - ông Trục nhận định.
Phê phán, bác bỏ yêu sách chủ quan
Đề cập quá trình Việt Nam áp dụng UNCLOS giải quyết các tranh chấp trên biển Đông, ông Trần Công Trục cho rằng tại đây đang tồn tại 2 loại tranh chấp chủ yếu: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tranh chấp ranh giới biển, thềm lục địa. “Đây là những tranh chấp rất phức tạp và kéo dài. Để giải quyết các tranh chấp này, luật pháp và thực tiễn quốc tế đã chỉ rõ những nguyên tắc pháp lý đã được vận dụng khá phổ biến, không thể có sự nhầm lẫn được” - ông Trần Công Trục nhìn nhận.
TS Trần Công Trục lưu ý: UNCLOS chỉ là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn, không phải căn cứ để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Việt Nam đã dựa vào công ước này để xúc tiến đàm phán phân định ranh giới biển, thềm lục địa và đã đạt những thành công, có nhiều đóng góp rất ý nghĩa trong việc giải quyết tranh chấp ranh giới biển, thềm lục địa giữa các nước trong khu vực và quốc tế. Việt Nam cũng kiên quyết phê phán và bác bỏ các yêu sách chủ quan không dựa vào những tiêu chuẩn của công ước này.
“Chúng ta không tách khỏi UNCLOS, tỏ rõ thiện chí của mình trong trách nhiệm giải quyết tranh chấp. Hiện thế giới rất quan tâm xem ứng xử của các bên tranh chấp trong giải quyết vấn đề ở biển Đông sẽ vận dụng công ước này đến đâu. Đây là vấn đề Việt Nam đang tiếp tục cùng các nước ASEAN phối hợp xử lý. Vận dụng ở đây phải là vận dụng một cách có trách nhiệm, cầu thị, khoa học và trung thực” - ông Trục đánh giá.
Dù khó khăn về kinh tế nhưng Việt Nam đã đầu tư xây dựng đèn biển trên các đảo mà chúng ta làm chủ nhằm bảo đảm hàng hải qua lại. Việt Nam đã và đang nỗ lực cùng khu vực và thế giới hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Công tác nghiên cứu, thăm dò tài nguyên trong vùng biển thềm lục địa, phạm vi mình có chủ quyền cũng là đóng góp quan trọng cho công đồng khu vực, quốc tế…
TS Trần Công Trục cho rằng UNCLOS tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng khai thác một cách chính đáng trên các vùng biển, thềm lục địa và đại dương thuộc chủ quyền nước ta nhằm phục vụ cho mục đích kinh tế. Việt Nam có quyền tham gia khai thác tài nguyên nằm ngoài vùng hải phận quốc gia gọi là vùng biển quốc tế, đáy đại dương… “Không được quên lợi ích lớn này của mình. Nhiều quốc gia còn ưu tiên về vùng biển quốc tế này nhiều hơn vùng chủ quyền họ đã có. Thông điệp của tôi là cần chú ý tới địa bàn này và cần quan tâm ngay từ bây giờ, nếu không sẽ quá muộn” - ông Trục lưu ý. Ông cho biết đến nay, việc xác lập và công bố hệ thống đường cơ sở của quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vẫn là nội dung còn để ngỏ, trong khi UNCLOS đã đề cập.
Bày tỏ sự lạc quan về tương lai phát triển của UNCLOS, ông Trần Công Trục cho rằng nếu tất cả các nước trên thế giới đều vì lợi ích chung và nhu cầu phát triển thì xu hướng này đang trở thành nguyện vọng chung của loài người trong việc khai thác nguồn tài nguyên biển trong thế kỷ XXI.
Tích cực vận dụng các quy định Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn Đại diện Thường trực Việt Nam tại LHQ, cho rằng là quốc gia ven biển với đường bờ biển dài trên 3.260 km, Việt Nam luôn tôn trọng mục tiêu và tôn chỉ của Công ước LHQ về Luật Biển 1982. Việt Nam đã, đang và sẽ tích cực vận dụng các quy định của UNCLOS trong những vấn đề trên biển; đồng thời kêu gọi các quốc gia cùng thực hiện đầy đủ công ước để xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển bền vững. Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định của Công ước LHQ về Luật Biển 1982, sau gần 3 năm nỗ lực (từ 2007 đến 2009), Việt Nam đã hoàn thành báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa bảo đảm chất lượng, xác định một cách có cơ sở khoa học và pháp lý phạm vi thềm lục địa mở rộng ở biển Đông theo đúng tiêu chuẩn, quy định của Ủy ban Thềm lục địa LHQ. |
“Tiến lùi” đúng lúc Với TS Trần Công Trục, kỷ niệm đáng nhớ nhất của ông là cuộc đàm phán phân định ranh giới biển trong vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cuộc đàm phán kéo dài hơn 1/4 thế kỷ, kể từ đầu những năm 1970 cho đến ngày 25-12-2000, hiệp định này mới được ký kết. Theo ông Trục, trong quá trình đàm phán, hai bên đều đưa ra nhiều quan điểm khác nhau nhưng đều cho rằng có thể rút lại các yêu sách được coi là “không hợp lý”. Kinh nghiệm được đúc kết là cần phải biết “tiến lùi” đúng lúc mới mong có được giải pháp hợp lý trong các tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp ở biển Đông. “Bằng tinh thần cầu thị và có trách nhiệm, Việt Nam đã chủ động thỏa thuận cùng Trung Quốc tiến hành đàm phán bằng con đường thông qua thương lượng hữu nghị, trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan trong vịnh nhằm đi đến một giải pháp công bằng mà cả hai bên đều có thể chấp nhận được” - nguyên trưởng Ban Biên giới Chính phủ nhớ lại. |
Nguồn: NLĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét