Hùng Tâm/Người Việt
Từ 27 tháng 6 này đến mùng 7 tháng 8, 22 quốc gia trong vành cung Thái Bình Dương (RIMPAC hay Rim of the Pacific) sẽ có cuộc thao dượt hải quân hỗn hợp, hai năm lại tiến hành một lần. Lần này, có bốn quốc gia đã đưa tiềm thủy đĩnh (tầu ngầm) vào cuộc và Hoa Kỳ là nước duy nhất gửi tới loại tầu ngầm nguyên tử.
Hiển nhiên là Hải Quân Trung Quốc và lãnh đạo Bắc Kinh theo dõi rất sát khả năng vận hành của Hoa Kỳ dưới đáy biển.
Vì thế, “Hồ Sơ Người-Việt” kỳ này xin tìm hiểu khái quát về cuộc hội ngộ đó.
Việc Trung Quốc xây dựng lực lượng hải quân lớn mạnh đã khởi sự từ 20 năm trước, tức là 10 năm sau khi quốc gia này bắt đầu cải cách kinh tế. Nhưng mục tiêu bành trướng ngày càng trở thành tinh vi và có trọng tâm. Ngày nay, sự kiện đó đã thành mối quan tâm cho nhiều quốc gia trong vùng và nhất là cho Hoa Kỳ.
Là siêu cường quân sự có thực lực từ cả trăm năm nay, mà cũng là một “quốc gia hải đảo” nằm giữa hai đại dương lớn nhất địa cầu, Hoa Kỳ cần phát triển khả năng lưu thông tự do trên mọi mặt biển để bảo vệ quyền lợi của mình. Ngược lại, Trung Quốc mới chỉ ra khỏi đại lục và vừa bước chân xuống biển. Sự gặp gỡ tất nhiên của hai nước là một biến cố đáng chú ý.
Chúng ta có nhiều giác độ khác nhau để nhìn vào cuộc gặp gỡ lịch sử này.
Trung Quốc ngoài Ðông Hải
Khái niệm Ðông hải hay “biển Ðông” là cách gọi tiện dụng, hàm ý mặt biển ở phía Ðông của Trung Quốc. Nếu không bị bó trong khuôn khổ tư duy và cảm nhận đó, người ta cũng có thể gọi biển Ðông này là... biển Tây của Hoa Kỳ. Nước Mỹ thực dụng không cần để ý đến cách gọi mà lại rất chú ý đến cách bảo vệ quyền lợi.
Khu vực Ðông Hải đó có hai phần.
Phía Bắc và đích thực là biển Ðông của Trung Quốc thì có vùng Ðông Bắc Á Châu, kéo dài từ lãnh thổ Nga qua bán đảo Triều Tiên, biển Nhật Bản xuống tới Eo biển Ðài Loan và dãy đảo Lưu Cầu hay Ryu Kyu của Nhật. Phía Nam, và đích thực là biển Ðông của Việt Nam, có vùng biển Ðông Nam Á. Nhìn theo giác độ kinh tế thì biển Ðông Nam Á mới là khu vực then chốt vì nối liền Thái Bình Dương với Ấn Ðộ Dương và là vùng sinh hoạt sinh tử của Nhật Bản phía Bắc với lãnh hải của Úc Ðại Lợi ở phía Nam. Ðây là nơi sinh sống của gần 600 triệu dân Ðông Nam Á và hai tỷ người chung quanh, từ miền Nam Trung Quốc đến bán đảo Ấn Ðộ.
Một số nhà tư tưởng hay lý luận của Trung Quốc và cả Tây phương nhắc đến chuyện xưa để bàn về chuyện nay. Nếu ngày nay Trung Quốc coi Ðông hải là khu vực chiến lược của họ thì chẳng khác gì Hoa Kỳ đã từng xem Tây Bán cầu, là đại lục Mỹ Châu nếu nhìn từ Âu Châu, là khu vực ảnh hưởng của Mỹ.
Họ nhắc đến “Chủ thuyết Monroe” của Hoa Kỳ xuất hiện từ đầu thế kỷ 19 dưới thời Tổng Thống James Monroe. Thật ra, chủ thuyết đó do Ngoại Trưởng John Quincy Adams đề xướng (trước khi cũng thành tổng thống) nhắm vào hai khía cạnh. Thứ nhất, sau hàng loạt cuộc chiến thời Napoléon, Hoa Kỳ không muốn can dự vào chuyện Âu Châu. Thứ hai, Hoa Kỳ cũng không muốn các nước Âu Châu lập thêm thuộc địa tại các quốc gia Trung Nam Mỹ.
Về sau, khái niệm hai mặt đó được thu gọn thành “Mỹ Châu là của người Mỹ.” Mà “người Mỹ” ở đây là Hoa Kỳ. Trung Quốc ngày nay cũng có thể lý luận trên các diễn đàn quốc tế rằng “Á Châu là của người Á” với hàm ý là không của Hoa Kỳ.
Chỉ nội lý luận đó đã nói lên mâu thuẫn không thể tránh với nước Mỹ, khi Hoa Kỳ khẳng định rằng mình là một quốc gia Châu Á và bảo vệ quyền lợi của Mỹ tại Á Châu là mục tiêu chiến lược. Lý luận này của Hoa Kỳ không xuất phát từ Ngoại Trưởng Hillary Clinton ngày nay mà từ lãnh đạo Mỹ vào đầu thế kỷ 20, trước tiên là Tổng Thống Theodore Roosevelt.
Hệ quả thứ hai của “chủ thuyết Monroe - với màu sắc Trung Hoa,” rằng Á Châu là của người Á, còn đụng vào một thực tế phức tạp khác của Châu Á. Về địa dư, lục địa này bao gồm các nước Tây Á như Iran hay Saudia Arabia đến Viễn Ðông, như Nga, Ðại Hàn, Nhật Bản qua bán đảo Ấn Ðộ đến các quốc gia quần đảo hay bán đảo tại Ðông Nam Á. Trong một chuỗi dài như vậy, Á Châu là của người Á nào?
Nói cách khác, Á Châu có thể là của người Á, mà không thể là của người Trung Hoa. Nhật Bản, Ðại Hàn, Ấn Ðộ và nhiều quốc gia khác tất nhiên cũng đồng ý như vậy!
Một cách nhìn cũng chiến lược, và đây là vấn đề của Việt Nam, thì nếu ngoài Ðông hải của Trung Quốc (khu vực Ðông Bắc Á), lãnh đạo Bắc Kinh gặp phải bốn nước cứng đầu là Nga, Nam Hàn, Ðài Loan Nhật Bản, tại Ðông hải của Việt Nam (khu vực Ðông Nam Á), họ không có đối thủ. Vì chỉ gặp các nước nhỏ yếu hơn, đó là 10 quốc gia trong Hiệp hội ASEAN.
Chiến lược Ðông hải của Trung Quốc tất nhiên nhắm vào Ðông Nam Á, gây ảnh hưởng tới 10 nước trong nhóm ASEAN. Ða số trong nhóm này lại là đồng minh hay đối tác của Hoa Kỳ.
Sau khi nhắc lại bối cảnh chung, chúng ta nên mò sâu hơn xuống đáy biển.
Hải Quân Trung Quốc
Hoa Kỳ là siêu cường đại dương từ cả thế kỷ. Hàng không mẫu hạm đầu tiên của Mỹ đã được hạ thủy từ 1911, 100 năm trước khi Hải Quân Bắc Kinh thử nghiệm “tầu sân bay” Varyag mua lại của Ukraine. Hoa Kỳ cũng là cường quốc thường xuyên lâm chiến ở mọi nơi trong mọi hình thái chiến tranh và có kinh nghiệm chiến trường hơn hẳn mọi quốc gia khác trên địa cầu. Binh lính và sĩ quan Mỹ lên lon là từ thành tích tác chiến và cải thiện phương pháp tổ chức hay chiến lược, chứ không từ các tiêu chuẩn nào khác, như đảng tịch, hay sắc tộc.
Kết hợp với sức mạnh kinh tế và khả năng sáng tạo về kỹ thuật từ cả trăm năm, Hoa Kỳ trở thành quốc gia không đối thủ ngoài đại dương. Ngoài đại dương tức là trên không gian và dưới cả đáy biển. Hoa Kỳ không có nhu cầu xâm lăng hoặc đưa quân vào kiểm soát Trung Quốc qua hình thức trận địa chiến, như Nhật Bản đã làm và thất bại. Siêu cường này chỉ cần bảo vệ quyền tự do và ưu thế của mình trên các đại dương, và dĩ nhiên ngoài Ðông hải của Trung Quốc và Ðông hải của Việt Nam.
Trước một đối phương như vậy, Trung Quốc không dại gì mà trực diện thách đố, gây hấn hay tấn công trong một cuộc chiến tất bại ở ngoài đại dương.
Lãnh đạo Bắc Kinh chỉ muốn cản trở sự xâm nhập của Hoa Kỳ ở ngoài biển và ngăn ngừa sự khống chế của Hoa Kỳ trên không gian. Họ nhắm vào hai mục tiêu “cản trở” và “ngăn ngừa” (Ngũ Giác Ðài của Mỹ gọi tắt là A2/AD, anti-access/area denial) với điều kiện là không bị thiệt hại. Họ thực hiện mục tiêu có điều kiện ấy qua tính toán về lẽ hơn thiệt: làm sao cho Hoa Kỳ cân nhắc lợi hại và e ngại tổn thất mà chấp nhận sự hiện diện của Trung Quốc ngoài biển.
Không thể trực diện đối đầu ngoài biển và trên không gian, Trung Quốc đi ngầm ở dưới: dùng tiềm thủy đĩnh làm sức mạnh hăm họa hay can gián. Ngày xưa, chúng ta có một chữ cho khái niệm “deterrence” này, là “gián chỉ,” xin hiểu là can gián và cấm chỉ.
Vì lối tính toán ấy, Hải Quân Trung Quốc ngày nay có lực lượng tiềm thủy đĩnh cổ điển lớn nhất thế giới. Cổ điển là chạy bằng dầu cặn, diesel. Song song, họ cũng có một số tầu ngầm chạy bằng năng lượng nguyên tử (hay hạt nhân, hạch tâm, nuclear). Gần đây, dường như họ còn cải tiến loại cổ điển bằng sức đẩy của phản lực để có thể nằm lâu hơn dưới đại dương. Hiện nay, Hải Quân Trung Quốc đã có 60 tầu ngầm đủ loại và đặt chỉ tiêu là nâng số này lên 75 trong thập niên tới.
Nhưng nằm im dưới biển để làm gì nếu không có khả năng tấn công?
Khả năng đó là loại phi đạn đối hạm ASBM, Anti Ship Ballistic Missile. Dùng ám khí bắn từ đáy biển để phục kích các chiến hạm của Mỹ. Nếu các ám khí này lại mang đầu đạn nguyên tử thì ưu thế của các hạm đội Mỹ có thể bị triệt tiêu. Các nhà nghiên cứu quân sự đều đang tìm hiểu khả năng này của Hải Quân Trung Quốc (được gọi tắt là PLAN, People's Liberation Army - Navy).
Vì thế, song song với cách dàn trận trên mặt đất, như xây dựng các đơn vị Công Binh của Hải Quân, loại Hải quân Công xưởng, ngoài biển Ðông Nam Á là chuyện đang xảy ra, Trung Quốc cũng bố trí phương tiện dưới đáy biển. Và tìm hiểu xem Hoa Kỳ biết được tới đâu và sẽ làm những gì để chống trả.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn vào không gian ba chiều này, trên không, ngoài biển và dưới đáy, như một hệ thống quân sự thống nhất, với sự phối hợp chặt chẽ về thông tin, điều động và tác chiến. Vệ tinh, tầu ngầm hay hỏa tiễn gì thì cũng do con người điều khiển căn cứ trên nhận thức và tổ chức với những phương tiện hiện đại nhất mà cũng phải là bí mật nhất.
Hoa Kỳ đã có cả trăm năm đào luyện, Trung Quốc mới chỉ bắt đầu. Khi nào các sĩ quan hải quân đời nay lên tới chức Ðô đốc, trong sự cải tiến đồng bộ của cả hệ thống quốc phòng, thì hải quân Trung Quốc mới trở thành một sức mạnh đáng kể. Nghĩa là cũng phải một thế hệ, 25-30 năm nữa. Trong khoảng thời gian đó, Hoa Kỳ không ngồi yên hoặc ngủ quên.
Ðiều đáng chú ý nhất của cuộc cờ đấu trí hơn là đấu lực, Hoa Kỳ lại thường hay hốt hoảng.
Tương quan lực lượng
Người ta có cảm tưởng là nước Mỹ chỉ có khả năng tập trung trong ngắn hạn vào những ưu tiên nhất thời, nên lâu lâu lại giật mình rằng họ có vấn đề và bị tụt hậu trong nhiều lãnh vực khác. Truyền thông và chính giới Hoa Kỳ thường có thói quen như vậy. Rồi trong cái trớn của sự “giác ngộ,” người ta mới vận động phương tiện (ngân sách) cho các ưu tiên mới đã bị lãng quên quá lâu...
Một thí dụ liên quan đến hồ sơ lần này là cuộc tranh luận về ngân sách quốc phòng để trang bị cho hải quân. Hoa Kỳ cần phải có 600 chiến hạm như dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan, chứ chỉ có 284 đơn vị như hiện nay thì không đủ, nhất là khi cần bố trí 60% lực lượng hải quân tại Thái Bình dương. Một thí dụ khác là từ năm 2000, so với Mỹ thì Hải Quân Trung Quốc đã thiết kế tầu ngầm nhiều gấp bốn lần, và qua năm 2005 thì tỷ lệ này lên gấp tám. Trong khi ấy, Hải Quân Mỹ mất dần khả năng tấn công tiềm thủy đĩnh và sẽ thua sút Trung Quốc. Một thí dụ cũng thời sự là lời báo động về cuộc thi đua võ trang do Trung Quốc đề xướng trong khi cả nước Mỹ lên cơn sốt về nhu cầu tiết giảm công chi và phải cắt bớt quân phí.
Trong cuộc thao dợt RIMPAC kỳ này, chắc chắn là truyền thông được nhắc nhở về tình trạng sa sút đó của Hoa Kỳ. Hoặc về sức mạnh của các tiềm thủy đĩnh Trung Quốc, ngày càng chìm sâu và lâu hơn, di động âm thầm hơn nên khó bị phát giác, với những ám khí hiện đại hơn. Song song, Hoa Kỳ cũng phải quan niệm lại chiến lược phòng thủ tích cực của mình qua sự hợp tác với các đồng minh tại Ðông Nam Á. Người ta nói đến khái niệm “trục bánh và nan hoa” (hub and poke) theo đó, Hoa Kỳ là trục bánh xe nằm ở giữa, chung quanh là những chiếc nan hoa nối kết với các đồng minh ở ngoài biển Ðông.
Các đề tài ấy rất hấp dẫn cho truyền thông báo chí và tất nhiên là được Trung Quốc mở ăng ten theo dõi rất sát để thẩm định tương quan lực lượng giữa hai bên.
Kết luận ở đây?
Bắc Kinh có thể thấy mình đang có cơ hội nhấn tới. Khi nước Mỹ còn lúng túng bên trong về chuyện chi thu đến độ hụt hơi về quốc phòng thì đấy là lúc Trung Quốc phải nắm lấy thời cơ và đầu tư rất mạnh vào hệ thống gián chỉ của mình dưới đáy biển.
Nhưng chúng ta nghĩ sao nếu Hoa Kỳ cũng mong muốn điều ấy?
Gần một phần tư thế kỷ trước, dưới thời Tổng Thống Jimmy Carter, dân Mỹ cũng than vãn về kinh tế suy sụp và tâm lý bất an (malaise) của Hoa Kỳ và báo động về sự lớn mạnh của Liên Bang Xô Viết. Sau đó cuộc thi đua khiến Liên Xô sụp đổ - một cách bất ngờ như nhiều người đã bình luận!
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=151108&zoneid=403
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét