25/5/12- Từ ngày 03 đến 05/06/2012, bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta công du Việt Nam. Sau đây là nhận định của giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, về chuyến đi này.
Năm 2003, Việt Nam và Hoa Kỳ đã đồng ý tiến hành trao đổi các chuyến viếng thăm ở cấp bộ trưởng Quốc phòng, ba năm một lần.
Năm 2003, bộ trưởng Quốc phòng, tướng Phạm Văn Trà đã thăm Washington. Năm 2006, bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld công du Hà Nội. Đến năm 2009, bộ trưởng Quốc phòng, tướng Phùng Quang Thanh thăm Washington.
Chuyến công du tới Hà Nội của bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta vào tháng Sáu, nằm trong hướng trao đổi các cuộc viếng thăm đã được thỏa thuận. Có thể giải thích thời điểm chuyến đi lần này của bộ trưởng Panetta là ông kết hợp với việc tham dự Đối thoại thường niên Shangri La, được tổ chức tại Singapore.
Chuyến đi Hà Nội hồi tháng 10 năm 2010 của cựu bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates không nằm trong thỏa thuận trao đổi các cuộc viếng thăm cấp bộ trưởng. Bộ trưởng Gates đã tới Hà Nội để dự lễ khai mạc Hội nghị bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng. (ASEAN Defense Ministers Meeting Plus).
Hoa Kỳ và Việt Nam đã tiến hành đối thoại về quốc phòng trong 8 năm qua. Cùng với thời gian, cuộc đối thoại này đã mở rộng, với sự tham gia của các quan chức cao cấp.
Cuộc đối thoại quốc phòng Mỹ-Việt thường niên đầu tiên diễn ra vào năm 2004. Bốn năm sau, cuộc đối thoại này được nâng lên thành Đối thoại Chính trị, An ninh và Quốc phòng, với sự tham gia của các quan chức cao cấp trong lĩnh vực ngoại giao và quốc phòng hai nước.
Đến năm 2010, đối thoại quốc phòng Mỹ-Việt được nâng cấp khi cuộc Đối thoại về Chính sách Quốc phòng đầu tiên được tổ chức giữa các sĩ quan quân đội cao cấp của bộ Quốc phòng Việt Nam và của bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ở cấp thứ trưởng.
Hoa Kỳ tiến hành đối thoại chiến lược với Việt Nam như là một phần trong chính sách liên kết chính thức của Mỹ. Hoa Kỳ mong muốn thể chế hóa quan hệ hợp tác quốc phòng qua một số lĩnh vực và để cho Việt Nam làm quen với việc hợp tác với Mỹ. Nói một cách khác, biến đổi một mối quan hệ không nằm trong các thỏa thuận, thành các hoạt động thường xuyên và để cho nó trở thành một phần trong hợp tác lâu dài về quốc phòng. Ví dụ, Việt Nam chấp nhận thực hiện các sửa chữa nhỏ đối với các tàu phi tác chiến của hải quân Mỹ. Đa số các sửa chữa gần đây được tiến hành trong khu vực dân sự của vịnh Cam Ranh. Bộ trưởng Panetta dường như sẽ thúc giục Việt Nam nên linh hoạt hơn khi áp dụng thỏa thuận này.
Tháng 09/2011, tại cuộc Đối thoại về Chính sách Quốc phòng lần thứ hai, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký biên bản ghi nhớ chính thức đầu tiên ( Memorandum of Understanding – MOU) về hợp tác quốc phòng. Biên bản này bao gồm 5 lĩnh vực ưu tiên : Thiết lập đối thoại cấp cao đều đặn giữa hai bộ Quốc phòng, an ninh hàng hải, tìm kiếm và cứu hộ, nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm về hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc và trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thảm họa thiên tai.
Chuyến công du của bộ trưởng Panetta sẽ có mục đích là thúc đẩy thỏa thuận để đạt được các bước tiến trong những lĩnh vực hợp tác này. Ngoài ra, bộ trưởng Panetta sẽ tìm kiếm một sự cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện Tuyên bố hợp tác sơ khởi về quân y, được ký kết hồi tháng 08/2011. Hoa Kỳ đề nghị đưa sang Việt Nam một đơn vị nghiên cứu y tế. Đây sẽ là một bước tiến lớn đối với Việt Nam bởi vì cho đến nay, Việt Nam vẫn chống lại sự hiện diện của các nhân viên mặc quân phục Mỹ, ngoài những người làm việc tại Phòng Tùy viên Quân sự.
Bộ trưởng Panetta cũng sẽ tìm cách thúc đẩy các thỏa thuận hợp tác về trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thảm họa thiên tai, chống khủng bố, chống buôn lậu ma túy, không phát triển vũ khí hạt nhân và an ninh hàng hải. Việt Nam sẵn sàng đóng góp đầu tiên vào việc giữ gìn hòa bình quốc tế trong khuôn khổ Liên Hiệp Quốc. Dường như bộ trưởng Panetta sẽ nêu vấn đề làm thế nào để Mỹ có thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong tiến trình này.
Gần đây, các Thượng nghị sĩ John McCain và Joe Liberman tiết lộ là trong chuyến viếng thăm của họ, phía Việt Nam đã trình bầy một « danh sách mong muốn » các thiết bị quân sự mà Việt Nam muốn được cung cấp. Các Thượng nghị sĩ đã nói rõ là vấn đề này sẽ không có tiến triển cho đến khi nào Việt Nam cải thiện tình trạng nhân quyền. Không có những dấu hiệu cải thiện nào kể từ sau chuyến công du của các Thượng nghị sĩ Mỹ.
Nội bộ Việt Nam bị chia rẽ trong việc làm thế nào xử lý quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Vẫn có một nhóm các nhân vật nặng về ý thức hệ trong Đảng còn cho rằng Hoa Kỳ thúc đẩy âm mưu diễn biến hòa bình để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Các lo ngại về ý thức hệ này thỉnh thoảng lại xuất hiện thông qua những cảnh báo nhắm vào Cơ quan hoạt động vì hòa bình – Peace Corps và các trường đại học Mỹ, muốn hoạt động tại Việt Nam. Phe bảo thủ cho rằng Việt Nam có thể xử lý được các tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông mà không cần phải ngả theo Hoa Kỳ. Phe bảo thủ có thể nêu ra là quan hệ với Trung Quốc được cải thiện kể từ sau chuyến công du Bắc Kinh của tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng, hồi tháng 10 năm ngoái. Cuộc viếng thăm của ông Trọng diễn ra sau khi Việt Nam đã cử hai đặc phái viên sang Trung Quốc hồi tháng Giêng và tháng Sáu. Đến tháng 10, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận về các Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển.
Các thành viên khác của đảng Cộng sản Việt Nam thì lại tiến hành chính sách chủ động hội nhập với thế giới, được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ 11 năm 2011. Chính sách này nhằm thúc đẩy Việt Nam có quan hệ đa dạng với tất cả các cường quốc lớn, trong đó có Hoa Kỳ. Hợp tác quốc phòng là một trong những khía cạnh của chính sách « chủ động hội nhập ». Cần ghi nhận là Việt Nam và Anh Quốc đạt được thỏa thuận về « quan hệ đối tác chiến lược ».
Bộ trưởng Panetta sẽ phải chú ý sao cho việc củng cố hợp tác quốc phòng giữa hai nước không bị các nhân vật bảo thủ trong đảng Cộng sản Việt Nam diễn giải như là một ý đồ lôi kéo Việt Nam vào trong chính sách ngăn cản, chống Trung Quốc. Việc này nói thì dễ hơn làm, cho dù Hoa Kỳ liên tục tuyên bố chính thức rằng họ muốn làm việc với Trung Quốc chứ không phải muốn kiềm chế.
Bộ trưởng Panetta cũng sẽ phải đối mặt với tình thế khó xử trong các vấn đề nhân quyền. Ông có thể giảm nhẹ vấn đề và đẩy sang bộ Ngoại giao Mỹ. Thế nhưng, bộ trưởng Panetta không thể không chú ý tới chính sách của Mỹ và các mối quan ngại ở Hoa Kỳ của các các công dân Mỹ và của những thành viên chủ chốt trong Nghị viện. Mặt khác, bộ trưởng Panetta phải rất thận trọng, tránh tạo ra những mong đợi thiếu thực tế liên quan đến đường hướng hợp tác quốc phòng trong tương lai, nơi các quan chức Việt Nam, những người đang thúc đẩy chính sách « chủ động hội nhập ». Cuối cùng, bộ trưởng Panetta cũng phải ý thức được rằng những nhân vật bảo thủ trong Đảng cũng sẵn sàng dùng vấn đề nhân quyền để ngăn cản sự phát triển mối quan hệ hợp tác quốc phòng chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ.
Đức Tâm
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20120525-muc-dich-chuyen-tham-viet-nam-cua-bo-truong-quoc-phong-my
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét