Vibay

Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012

"CHO TÔI LÀM SÓNG DƯỚI CON TÀU ĐƯA TIỂN BÁC"


Tàu Amiral Latouche Tréville của Hãng tàu Chargeurs Réunis (hãng Năm Sao) - con tàu đưa người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh: S.T

19-05-2012 GS Tương Lai

Đưa tiễn một cuộc đi xa. "Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi. Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác"*. Thế rồi con tàu càng đi, càng bồi hồi nhớ nước. "Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ. Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương..."*.

Chao ôi, sóng quê hương?

Biển, trong cảm thức của người Việt rất mãnh liệt và sâu lắng. Bao đời đứng trước biển, “mỗi người Việt Nam dù sống ở đâu, ngay cả ở trên miền núi, hình như bao giờ cũng nghe được tiếng rì rào của biển cả ngày đêm không mỏi vỗ sóng vào bờ…... Con mắt và trái tim chúng ta vì vậy sẽ không chỉ dừng lại ở đường bờ biển thường được biểu diễn bằng một nét vẽ mảnh ở trên bản đồ : những phần đất nổi và đất nằm dưới mặt biển mà chúng ta có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ rộng lớn hơn nhiều, và chúng ta phải có ý thức rõ ràng về điều đó. Đường biên giới của ta là bất khả xâm phạm”! Những dòng chữ đầy ắp cảm xúc này được trích từ tác phẩm “Thiên nhiên Việt Nam” của gs. Lê Bá Thảo, nhà khoa học địa lý hàng đầu của Việt Nam, xuất bản năm 1990. Từ những ý tưởng ấy nếu biết chân thành cảm thụ, bền tâm suy ngẫm, sẽ hiểu ra rất nhiều điều. Từ lớp vỡ lòng, con em chúng ta cần phải được dạy điều đó để từ tờ giấy trắng tâm hồn tuổi thơ đã đậm tô rõ nét niềm tự hào về biển trời thân tương và hùng vĩ của tổ quốc. Có như vậy thì mới thấm thía được với cảm nhận "sóng vỗ dười thân tàu đâu phải sóng quê hương".

Từng bước trưởng thành, thế hệ trẻ Việt Nam cần phải thường xuyên được củng cố và nâng cao nhận thức, vun đắp tình cảm thiêng liêng đối với Tổ quốc, một đất nước bán đảo đứng trước Biển Đông, với thềm lục địa bao gồm nhiều hòn đảo mà tự bao đời ông cha ta đã từng xác lập chủ quyền bằng những hành động cụ thể, có khi bằng máu của mình đã lưu ghi trong sử sách. Tình cảm ấy gắn liền với nghĩa vụ thiêng liêng phải gìn giữ và bảo vệ. Chẳng thế mà hơn năm trăm năm trước, 1473, theo sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, vua Lê Thánh Tông đã cảnh báo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy : “Nếu người dám đem một thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì phải tội tru di ”.

Lùi xa về mấy trăm năm trước nữa, giữa thế kỷ XII, cũng sách trên ghi : năm 1161, “Lý Anh Tông sai đô tướng Tô Hiến Thành và phó tướng Đỗ An Di đem hai vạn quân đi tuần tiễu ở các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên cõi xa”. Năm 1171, vua “đi tuần các hải đảo, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết dân tình đau khổ và đường đi xa gần thế nào”. Năm 1172, “mùa xuân tháng 2, vua lại đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về”. Liệu đây có phải là vị vua đầu tiên vẽ bản đồ đất nước?

Đừng quên là nhiều trận quyết chiến chiến lược đánh tan giặc ngoại xâm đã từng xảy ra nơi của biển khi mà những đạo binh xâm lược luôn dùng đường biển để tiến vào nước ta : trận Bạch Đằng năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán do Vạn vương Hoằng Tháo cầm đầu và chết trên biển. Bình về chiến công này, Ngô Thì Sĩ viết : “một vũ công cao cả vang dội đến nghìn thu há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu”! Quả đúng như thế.

Trận quyết chiến chiến lược của quân dân đời Trần tháng ba năm Mậu Tí [1288] dưới sự chỉ huy của Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo đánh tan mấy chục vạn quân Nguyên cũng diễn ra trên khúc sông Bạch Đằng lịch sử này. Trong "Nguyên sử, q.166, Phàn Tiếp truyện" chép : Kịch chiến từ giờ Mão đến giờ Dậu" tức là từ sáng đến chiều, đã nói lên tính khốc liệt của cuộc chiến. Tướng giặc Ô Mã Nhi từng khoác lác hăm dọa vua Trần : "Ngươi chạy lên trời, ta theo lên trời; ngươi chạy xuông đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước" để rồi cuối cùng bị tóm cổ tại ghềnh Cóc, sông Chanh, một nhánh chảy vào sông Bạch Đằng, nơi Hưng Đạo vương đã dàn thế trận với những bãi cọc đâm thủng thuyền giặc. Rõ ràng là, trong những trận quyết chiến chiến lược đó, thủy binh luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong tư duy chiến lược của ông cha ta, tiêu biểu là Hưng Đạo Vương.

Vì thế, việc dựng tượng Trần Hưng Đạo, thiên tài quân sự Việt Nam, vị tướng duy nhất được nhân dân phong Thánh, tại Song Tử Tây, nơi đầu sóng ngọn gió ở Trường Sa là một việc làm thật có ý nghĩa, một bước đột phá trong quyết sách giữ nước, thể hiện rõ bản lĩnh "có cứng mới đứng đầu gió" của dân tộc ta. Trong tâm thức Việt Nam, "Đức Thánh Trần" còn tượng trưng cho oai lực trừ tà diệt quỷ. Những hồn ma Toa Đô, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp... và lũ hậu duệ của chúng đang lảng vảng ở Biển Đông chắc sẽ phải hồn xiêu phách tán trước oai lực ấy.

Trong tương quan về vị thế địa chính trị, địa chiến lược, thì mỗi thước, mỗi tấc đất trên thềm lục địa, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Tổ quốc hôm nay. Khi mà vấn đề Biển Đông đang là một thực tế nổi cộm trong đời sống quốc tế với những thủ đoạn vừa nham hiểm vừa trắng trợn của thế lực bành trướng hiếu chiến đang thè cái "lưỡi bò ham hố" muốn liếm trọn vùng biển giàu "vàng đen" và vị trí chiến lược nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương này, thì việc thông tin đầy đủ và khơi động tình cảm yêu nước và ý chí bảo vệ chủ quyền lãnh thổ phải là nghĩa vụ của những người có trách nhiệm với đất nước.

Vào thời điểm nhạy cảm như thế, càng phải có ý thức thường trực về việc động viên tình cảm yêu nước của thế hệ trẻ, cổ vũ và tạo cho họ điều kiện để thực hiện quyền được yêu nước của mình. Làm thất thoát hay để thui chột tình cảm ấy, vì những ứng xử tế nhị trên trường quốc tế mà cản trở việc tuổi trẻ thể hiện tình cảm yêu nước đó là có tội với đất nước, đáng hổ thẹn với cha ông đã bao đời đổ máu để giữ gìn từng tấc đất, từng thước biển, từng hòn đảo làm nên giang sơn gấm vóc hôm nay. Vì thê, tượng Đức Thánh Trần dựng tại Song Tử Tây cùng với phong trào "góp đá xây dựng Trường Sa" là một tín hiệu cổ vũ cho ý chí quật cường của thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay. Hai câu thơ ghi trong "Kỷ yếu Trường Sa" chép ra đây đã phần nào nói lên được điều đó:

“Xây vững chãi những công trình trên biển
Tôn cao nền Tổ quốc giữa đại dương "

Là một bán đảo với chiều dài gấp bốn chiều rộng, bờ biển trải dài từ Vịnh Bắc Bộ sang đến Vịnh Thái Lan, hải phận mở rộng ra 12 hải lý, tức là trên 22km và vùng kinh tế biển rộng 200 hải lý thường tương ứng với thềm lục địa ở đáy biển, nối dài bờ biển ra ngoài khơi đến độ sâu 200m thì chiến lược biển phải là một chiến lược có tầm vóc xuyên suốt thời gian và không gian. Khi con thuyền đất nước đã vượt qua quãng nước lợ pha vị mặn ở đầu cửa sông, khởi đầu một vòng lượn ngoạn mục ở khúc quanh của dòng chảy để hướng ra biển thì một “chiến lược biển” được vạch ra cách đây hơn 5 năm là sự ghi nhận một bứt phá trong tư duy về biển. Năm năm đã trôi qua, chiến lược ấy đã được thực hiện như thế nào?

Để “vựơt biển”, trước hết phải vượt lên chính mình, phải thay đổi “tâm thế lục địa” bằng “tầm mắt đại dương”. “Chiến lược biển”phải là một bước phát triển có ý nghĩa trực tiếp về kinh tế, nhưng còn hơn thế, có ý nghĩa khởi động, nhằm chuyển đổi tâm thức của dân tộc . Nâng cách nghĩ của dân tộc lên một tầm tư duy mới, đưa đất nước vươn xa hơn trong vị thế địa-chính trị đặc thù của một bán đảo nằm ở ngã tư đường biển quốc tế nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương.

Mà đâu phải chỉ bây giờ đây ta mới bàn về “chiến lược biển”. Ngẫm sâu vào tự tình dân tộc sẽ thấy rằng, trong cảm thức người Việt chúng ta, núi và biển có sức lay động thật mãnh liệt. Biểu tượng con Rồng, cháu Tiên từ huyền thoại Lạc Long - Âu Cơ ghi đậm không chỉ là hình tượng thăng hoa của nguồn cội, mà suy ngẫm cho kỹ, thì ra đây từng là sự lựa chọn thế tồn tại của ông cha ta, hướng núi hay hướng biển? “Hình khe thế núi gần xa, đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”, dựa vào hình thể đất nước thì chọn hướng nào để phát triển?

Phải chăng truyền thuyết 50 người con theo cha lên núi và 50 người theo mẹ xuống biển là một lựa chọn của sự cân bằng tâm thế hướng núi và hướng biển. Mà hướng biển xem ra có phần ưu trội vì trong mô hình mẫu hệ thì “mẹ Âu Cơ” chắc không phải là yếu thế hơn, nếu không là ngược lại. Chỉ có điều, ân huệ của biển rất nhiều song không dễ thụ hưởng, còn tai họa vì bão lụt do biển gây ra thì lại bạo liệt tàn khốc.

Vì thế, dựa vào địa hình, “yếu tố trội” và là yếu tố bảo thủ nhất, biến đổi chậm nhất theo thời gian, cùng với các yếu tố tự nhiên khác như khí hậu, sông ngòi và lớp phủ sinh vật, thì chọn “hướng núi”, dựa vào núi để mà mở nước phải chăng là một sự lựa chọn trong thế chẳng đặng đừng vào buổi ấy. Mặc dù vậy, trong sâu thẳm tâm thức Việt, cả hai hướng ấy quyện vào nhau. Những lời “nguyện nước thề non” của thi sĩ Tản Đà, có sức khơi gợi mãnh liệt tâm thức ấy
“Non cao đã biết hay chưa,
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”

Mà đâu chỉ nỗi khắc khoải của một tài thơ nằm vắt ngang thế kỷ XIX và thế kỷ XX, hơn nửa thế kỷ sau, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng nói về sự gắn quyện ấy :
Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao, đi về biển rộng”

Vì trên đất nước ta đâu cũng có “những giòng sông nối đôi tay liền với biển khơi”. Người nhạc sĩ thiên tài ấy gợi lên một ý tưởng rất lạ : “Bao năm chờ đợi sóng gần ta” và rồi trong “bao năm chờ đợi” ấy liệu đã có những ai nghe được, cảm được “biển có bâng khuâng gọi thầm”?

Vâng, biển gọi. Vì đi về phía biển là đi tìm một chân trời.

Lịch sử đã từng ghi nhận bản lĩnh mở đường, đi về phương Nam của Nguyễn Hoàng thế kỷ XVII. Bản lĩnh đó được bật dậy từ một tầm nhìn : nhìn ra cái thế chiến lược của việc mở nước về phương Nam, hướng ra biển từ giải Hoành Sơn, tạo ra một thế phát triển mới. Quả là, “vạn đại dung thân” là gì, nếu không phải là thấy chiến lược bừng sáng trong đầu về một chân trời mới mở rộng ra trước mắt, không phải cho một đời Nguyễn Hoàng, mà cho ngàn ngàn đời một dân tộc thường xuyên đi tìm lối thoát khỏi một vị thế địa dư trứng nằm dưới đá ? (Cao Huy Thuần).Tầm nhìn chiến lược, xuyên lịch sử, xuyên không gian và thời gian từ đôi mắt của bậc danh sĩ thế kỷ XVI Nguyễn Bỉnh Khiêm, với bản lĩnh và sự nghiệp của người anh hùng đi mở cõi Nguyễn Hoàng, đã khởi đầu cho một chuyển đổi tâm thế dân tộc : hướng ra biển.

Gợi lại đôi điều “cảm thức về biển” khi vấn đề Biển Đông đang nóng bỏng đòi hỏi mỗi người Việt Nam phải biết hướng ra biển không chỉ bằng đôi mắt mà phải bằng cả trái tim. Chính với trái tim ấy mà Hồ Chí Minh quyết vượt biển tìm đường cứu nước trong trái tim rớm máu

" đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngũ
sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
xa nước rồi càng hiểu nước đau thương" *

Vì thế , thay vì "làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác", hôm nay, nhân kỷ niệm ngày sinh thứ 122 Chủ tịch Hồ Chí Minh, học theo tầm nhìn đại dương của Bác Hồ, thế hệ trẻ quyết noi gương ông cha, giữ vững và phát huy bản lĩnh Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giữ nước và phát triển đất nước theo mong ước cuối cùng của Bác : "Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

T.L

Những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau
(bản gốc)
GS Tương Lai

"Nỗi đau dân nước" giờ đây là gì, khi mà sự nghiệp giải phóng dân tộc đã hoàn thành, non sông quy vào một mối đã hơn phần ba thế kỷ, bằng thời gian của cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc gộp lại?
Dạo ấy, trong "Cửa Mở", một tập thơ làm xáo động dư luận một thời, Việt Phương viết vào dịp Bác Hồ mất, mở đầu bài: "Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương":
"Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt
Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui".

Những ngày này thì trời lại đang nắng gắt. Đài truyền hình vừa đưa tin những vùng đất chuyên canh trồng ngô huyện miền núi ở Lào Cai đang nứt nẻ. Trên màn hình, những khuôn mặt sạm đen khắc khổ nói mà như mếu về nỗi lo đói, vì vụ ngô mất trắng, vì mãi chẳng có giọt mưa nào.

Chẳng phải chỉ ở miền núi mới có nắng nóng như thiêu, như đốt, Hà Nội cũng đang nóng dữ. Nhiều nơi nhiệt độ lên đến 42 khi những "bàn chân nổi giận" của bà con nông dân ta vẫn kiên gan kéo lên tỉnh, lên trung ương, nơi họ tin rằng gần mặt trời, dù phải dẫm trên đường nhựa thì nóng bỏng hơn, để khiếu kiện chuyện đất đai. Và, ở Văn Giang, Hưng Yên nắng nóng hầm hập khiến sau ngày 24.4.2012, Thủ tướng Chính phủ phải nhắc nhở : "Hãy làm hết lòng, hết trách nhiệm, hết sức với các khiếu kiện của công dân, để phần lớn bà con thấy được lẽ phải, đồng tình và chấp hành pháp luật"..."Tinh thần là không được dùng vũ khí, không được để chết người. Nhân đây tôi cũng nói luôn, không được dùng quân đội vào cưỡng chế". [Vietnamnet. 4.5.2012].[Đoạn in chữ đỏ là từ bản gôc, khi đăng, Tòa soạn cắt bỏ]

Vậy thì liệu "trời không đổ mưa" như buổi ấy có làm khuây khỏa được nỗi niềm "không vui" của Bác như tác giả của "Cửa Mở" day dứt?

Cũng vào dịp ấy, Tố Hữu viết:
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu...
Đau, bởi nhẽ
"Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người [Bác ơi!]

Chao ôi, "nỗi đau dân nước" buổi ấy là nỗi đau chiến tranh, nỗi đau của những người mẹ khắc khoải ngóng con từ chiến trường máu lửa tàn khốc, nỗi đau của người vợ nhận được tin dữ, nỗi đau của bom B52, của chất độc "diệt cỏ" rải xuống cây cỏ, xóm làng, nỗi đau của xà lim "chuồng cọp", trại tập trung tra tấn tù đày, bọn chó săn tay sai rình rập khắp nơi để đe dọa, bắt bớ, đánh đập những người yêu nước...

Thế còn "nỗi đau dân nước" giờ đây là gì, khi mà sự nghiệp giải phóng dân tộc đã hoàn thành, non sông quy vào một mối đã hơn phần ba thế kỷ, bằng thời gian của cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc gộp lại?

Gộp lại thời gian thì đồng thời cũng "gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thành nỗi đau của tôi" tích tụ trong trái tim Hồ Chí Minh. Câu này Bác nói với một nhà báo nước ngoài 50 ngày trước khi mất, lúc "ngừng đập trái tim tột bậc con người" [Việt Phương. Cửa Mở].


Chính vì thế, chắc là trong những ngày này Bác cũng khó vui khi
"người thắng trận này không phải nhân dân" [Nguyễn Minh Thuyết. Đối thoại]
và " ...Khi mồ hôi trở nên quá rẻ

Kẻ ranh ma trở nên quá giàu" [Nguyễn Khoa Điềm. Cánh đồng buổi chiều]
Đắm mình trong những miên man suy ngẫm cứ ngỡ như là Bác đã nói về những điều này khi trong Di chúc Bác đã lưu ý đến "cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi"! Đây là điều Hồ Chí Minh gọi là "cuộc chiến đấu khổng lồ", mà để giành thắng lợi thì phải "động viên toàn dân, tổ chức giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân"!

"Những cái cũ kỹ, hư hỏng" thì đã quá rõ, cho dù thông thường thì chúng lại đội lốt của người vì nước vì dân để lừa mị dân. Thế còn những "cái mới mẻ tốt tươi" là gì nếu không phải là dân chủ và tự do? Độc lập đã hoàn thành, vấn đề còn lại phải là dân chủ và tự do. Ai cũng nhớ câu nói của Hồ Chí Minh từ những ngày chính quyền mới thành lập năm 1946: "Nếu độc lập mà dân không được hưởng tự do và hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì".

Dân chủ là tiền đề tất yếu để có tự do và hạnh phúc, là công cụ và phương tiện để đấu tranh giành tự do và xây đắp hạnh phúc. Không ai cho không quyền đó. Máu chảy thành sông, xương chất thành núi để giành độc lập, điều kiện tiên quyết để đấu tranh cho dân chủ và tự do! Phải chăng đây chính là "cuộc chiến đấu khổng lồ"? Nghĩ kỹ về cuộc "chiến đấu khổng lồ" mà Bác viết trong Di chúc có dáng dấp của những lời tiên tri.

Tiên tri? Đúng như vậy. Có người gọi là "những dự cảm thiên tài" của những tầm vóc vĩ nhân. Xin gợi lại vài cứ liệu lịch sử để hiểu thêm về điều đó: Ví như, năm 1941, trong cuốn sách nhỏ Bác viết làm tài liệu tuyên truyền về "Lịch sử nước ta" bằng thơ lục bát, ở cuối có mục "Những năm tháng quan trọng", Bác viết : "1945-Việt Nam độc lập"! Trong Hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, lúc ấy "Anh em có người nói sớm, kẻ nói muộn. Bác nghe trao đổi chỉ nói:" Để rồi xem".

Một ví dụ khác: trong diễn văn đọc tại lễ mừng Quốc khánh 2.9.1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc-Nam nhất định sẽ sum họp một nhà". Trong bút tích bản thảo in trên báo "Nhân Dân" số ra ngày 30.4.1985 cho thấy: Bác gạch dưới những chữ "chậm lắm là 15 năm nữa"! Rồi chuyện Bác từng căn dặn Tư lệnh bộ đội Phòng không-Không quân: "Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội!

Phải chăng những dấu ấn của thiên tài ấy là sự thăng hoa kỳ diệu của bản lĩnh Hồ Chí Minh. Bản lĩnh dám đặt ra và giải quyết những vấn đề lý luận có ý nghĩa thực tiễn. Vì mục tiêu trước sau như một là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân mà Hồ Chí Minh dám có quyết định táo bạo, cho dù đau đớn, là tuyên bố Đảng tự giải tán chính vào lúc giành được chính quyền vào năm 1945. Không kiên định tinh thần Tổ quốc trên hết, không thể có bản lĩnh để vạch ra quyết sách sáng suốt tuy hết sức đau đớn ấy.

Đúng là "Hồ Chí Minh là người linh hoạt, chủ động, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ tuổi thanh niên đến cuối đời. Có thể nói con người ấy có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn". Có được điều đó vì "Hồ Chí Minh có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu hiểu cuộc sống con người, có nhận thức sâu về vận mệnh dân tộc, về hướng đi của thời đại". Với những phẩm chất được hun đúc, trui rèn trong ngọn lửa chiến đấu hơn nửa thế kỷ, đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử, người thanh niên yêu nước, bằng bản lĩnh phi thường của mình đã trở thành Hồ Chí Minh. Đúng là không phải chiếc ghế nguyên thủ quốc gia mà chính là sự "nhạy cảm", sự "thấu hiểu", "sự nhận thức" đó khiến cho Người được lịch sử chọn lựa làm lãnh tụ của nhân dân ở vào thời điểm có ý nghĩa nhất, đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống đất nước cần bước vào quỹ đạo chung của thời đại. Trong dòng chảy bất tận của thời gian, có những thời điểm xuất hiện những con người đáp ứng một cách tuyệt vời đòi hỏi đã chín muồi của lịch sử, người ta gọi đó là sự xuất hiện của thiên tài.


Điều này cho thấy thiên tài không ra đời từ những cuộc tranh bá đồ vương để giành nhau chiếc ghế quyền lực. Đành rằng trong lịch sử không thiếu những nhân vật cũng đã bước vào lịch sử bằng con đường như vậy, những hôn quân, bạo chúa, những gian thần, nghịch tướng bán nước, bán chúa cầu vinh, muôn đời bị phỉ nhổ. Phải chăng sự bi hài của lịch sử là có sự trộn lẫn chính tà ấy để giúp cho nhân dân có dịp nhận ra chuyện vàng thau lẫn lộn ấy. Đó cũng là cách để cho nhân dân tự vượt lên chính mình, biết tự "xoay chung quanh mặt trời của chính mình" mà không để bị những ngón đòn lừa mị, ru ngủ của bọn thống trị mà C.Mác đã từng chỉ ra. Và đó cũng là lý do trong Di Chúc, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải "động viên toàn dân, tổ chức giáo dục toàn dân".

Vấn đề cần nói rõ là, thiên tài Hồ Chí Minh không đứng cao vời vợi tách khỏi cuộc sống bình thường của người dân mà ngược lại. Thiên tài Hồ Chí Minh, bản lĩnh Hồ Chí Minh được hun đúc từ cuộc sống của nhân dân mình. Mỗi người Việt Nam đều có thể nhìn thấy mình trong sự nghiệp Hồ Chí Minh, trong trái tim của Hồ Chí Minh. Cái làm nên thiên tài Hồ Chí Minh, rèn đúc nên bản lĩnh ấy là vì nhịp đập của trái tim "Người Yêu Nước Hồ Chí Minh" luôn gắn quyện với nhịp đập của cuộc sống đất nước, nơi mà người ấy gửi gấm một "ham muốn, ham muốn đến tộc bậc" là làm sao đem lại cuộc sống ấm no cho con người, đem lại tự do và hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân.

Không có trái tim ấy, không thể có bản lĩnh ấy. Vì rằng, "ở đâu nội dung của sự tất yếu phổ biến không nhất trí được với trái tim, thì sự tất yếu ấy - xét về nội dung- không là gì cả, và phải nhường chỗ cho quy luật của trái tim". Có lẽ thực chất của "quy luật trái tim" mà Hégel nói đây trước hết là sự trung thực với chính mình, là bản sắc cá nhân được thể hiện một cách chân thực. Vì nói cho đến cùng , quy luật của trái tim là sự phản ánh chân thực nhất biện chứng của cuộc sống với tất cả những sắc thái phong phú và phức tạp của nó. Cho nên, những gì mà trái tim thờ ơ thì mắt cũng không nhìn thấy được!

Cho nên, với Hồ Chí Minh,
"Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ
Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn"
nhưng
"Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là "đánh đẹp"
Con xóa chữ "đẹp" đi như xóa sự cạn hẹp trong lòng con
Thêm hiểu lòng người đối với quân thù như sắt thép
Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn".[ Việt Phương. nt]

Với Hồ Chí Minh, "tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn" ấy trước hết là thương dân, trọng dân vì nhận thức rõ sức mạnh bất tận của dân. Đây là điểm cốt lõi trong tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Nói học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà không trước hết vận dụng một cách thiết thực tư tưởng cơ bản này thì chỉ là nói suông.

Đặc biệt, cần lưu ý điều mà Hồ Chí Minh khẳng định rất dứt khoát: "nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân , tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ". Cần nhớ rằng, điều này được nhắc nhở vào năm 1947 khi Bác phê phán gay gắt lối "Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo...Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại!"

Việc "đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ" là điều tối kỵ đối với người cầm quyền. Có phải khi nói đến điều này, như vẫn thường làm, Bác đã nhắc đến luận điểm của Mạnh Tử: "Vua coi dân như cỏ rác thì dân coi vua như cừu thù" và lên án việc đẩy dân đến chỗ là "cừu thù" rồi dùng hình phạt hà khắc để trừng trị họ "khác nào đặt lưới bẫy dân" .
Mạnh Tử viết: "Nhà cầm quyền không thể bỏ lỡ việc sinh nhai của dân...thường tình của dân là có hằng sản mới có hằng tâm, không có hằng sản thì không có hằng tâm. Không có hằng tâm thì ... chẳng cái gì là chẳng làm, đến khi phạm pháp thì người cầm quyền vin vào đó mà chém giết họ, như vậy không khác gì đặt lưới mà bẫy họ. Bậc nhân đức... trị dân mà lại đặt lưới bẫy dân sao? Vậy cho nên bậc hiền quân phải khiêm cung, tiết kiệm, lễ độ đối với dân" ["Đằng văn công thượng"]. Vì vậy, Mạnh Tử giải thích: "Kẻ làm hại đức nhân là "tặc", kẻ làm hại đức nghĩa là "tàn". Kẻ tàn, kẻ tặc chỉ là một người thường thôi [không đáng gọi là vua]. Tôi nghe nói vua Võ Vương chỉ giết một người tên là Trụ chứ chưa nghe nói giết vua. ["Lương Huệ Vương hạ"]. Đây là đoạn nhà tư tưởng thời Chiến Quốc giảng cho học trò về mệnh trời và thuyết "nhất trị, nhất loạn": Trong chương "Thư Thái thệ" Mạnh Tử giải thích: Kinh Thư có câu: "Trời không có mắt có tai, dân nhìn tức là trời nhìn, dân nghe tức là trời nghe", cho nên theo ý dân tức là theo ý trời. "Trời nổi giận, sai ta xét tội của Trụ, ta phải kính sợ mệnh lệnh và uy của trời"! Ý dân là ý trời là theo nghĩa đó. Nói theo chữ nghĩa bây giờ là tuân theo quy luật vận động của cuộc sống.

Cho nên, không "đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ" cũng chính là "không đặt lưới mà bẫy họ" là điều đã được cảnh báo từ hơn hai nghìn năm trước. Vì vậy Hồ Chí Minh đòi hỏi "phải đưa chính trị vào giữa dân gian" phải "tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng".Làm được điều ấy chính là đi đúng vào quỹ đạo của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, điều mà hiện nay đang được thường xuyên rao giảng. Đi ngược lại chính là phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho nên, lắng nghe tiếng nói của dân, tiếp nhận nguồn sức mạnh từ dân chính là điều Hồ Chí Minh thiết tha căn dặn. Nói theo ngôn từ và hình tượng thơ thì như tác giả "Cửa Mở" đã viết từ những năm 60 thế kỷ trước, đó là chính là
"Nơi sự thật chỉ cần là sự thật
Nơi lương tâm đến gặp tấm gương soi
Lời hàn huyên có màu trời hương đất
Bỗng sáng bừng chân lý hiện tinh khôi"! [Việt Phương. Cửa Mở. "người như sự sống sinh sôi"].

Một khi mà cái "màu trời hương đất" ấy bị hoen ố, bị dẫm đạp thì chắc hẳn là lòng Bác quặn đau, và cùng với Bác, tim chúng ta như có ai bóp chặt lại. Hiểu thấu được điều ấy, Việt Phương viết những câu thấm thía :
"Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau".

Đã hơn bốn thập kỷ, câu thơ vẫn nóng bỏng tình thời sự. Mà có lẽ 'thời sự " nhất chính là điều mà Thủ tướng Chính phủ đã nghiêm cẩn nhắc nhở những người thi hành công vụ liên quan đến miếng cơm, manh áo của dân.
Chính vì vậy, khi Việt Phương viết:

"Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt"
thì mỗi người chúng ta đều cảm nhận được có mình trong đó.

Vì, đó là,những "...Giọt nước mắt thương dân, Dân mình phận long đong..." như người nhạc sĩ tài hoa nọ đã hát. Đó là những "dòng nước mắt trong tim. Chảy lai láng vào hồn..." [Trịnh Công Sơn.] của mỗi chúng ta.

Cho nên khi "Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau" thì ta hiểu được rằng đó chính là suối nguồn bất tận của tư tưởng và hành động thiết thực và mạnh mẽ khi nhớ đến, nghĩ đến sự nghiệp của Hồ Chí Minh đang cần được bảo vệ và phát huy trong những ngày kỷ niệm ý nghĩa này. Đó là cách học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh sâu sắc nhất!


Tham khảo

Hồ Chí Minh Toàn Tập. Tập 12. NXBCTQG. Hà Nội 1995, tr. 560, tr.505. Tập 5 . tr.294, tr. 293, tr. 298, tr.297
- Võ Nguyên Giáp. "Tổng tập Hồi Ký" NXBQĐND 2006, tr. 30
- "Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh" NXBQĐND. Hà Nội, 1990. tr.224
- Phạm Văn Đồng "Hồ Chí Minh, Quá khứ Hiện tại và Tương lai" Tập I. NXB ST. Hà Nội 1991,tr.29, tr.98
- G.W.F.Hegel. "Hiện tượng học tinh thần." Bùi văn Nam Sơn dịch. NXB Văn học 2006, tr.769.

http://nguoilotgach.blogspot.com/2012/05/cho-toi-lam-song-duoi-con-tau-ua-tien.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét