(Eurasia Review-12/4/12) Tiến sĩ Marvin Ott: Mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc là một bài trắc nghiệm về sự thử thách mang tính chiến lược và lịch sử lâu dài mà Hà Nội đang phải đối mặt. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ cũng như tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là bằng chứng về sự khéo léo trong quan hệ đối ngoại của nước này.
Sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ đóng vai trò “siêu cường duy nhất” trên bình diện thế giới cùng sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc, một thế lực tại khu vực Đông Á, đã đưa Việt Nam vào thế khó xử. Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã mang lại mối đe dọa mang tính sống còn đối với Việt Nam, bất chấp việc chuyển hướng chiến lược quân sự của Hoa Kỳ đến Châu Á cũng mang đến những giải pháp đầy hứa hẹn.
Trong khi những thử thách đến từ phía Trung Quốc đang kiểm nghiệm tài đối ngoại chiến lược của các vị lãnh đạo Hà Nội thì những phản ứng từ phía Việt Nam đã mang tính đa dạng và theo chín đường lối rõ ràng.
Chín đường lối chỉ đạo
Điều đầu tiên là làm việc trực tiếp giữa hai Đảng để nuôi dưỡng mối quan hệ tốt với Bắc Kinh. Tín hiệu thành công trong nỗ lực này là sự đồng thuận về đường biên giới tranh cãi trên đất liền và trên phần lớn Vịnh Bắc Bộ – nhưng vẫn chưa đồng thuận về vấn đề Biển Đông.
Thứ hai là xây dựng sức mạnh của Việt Nam bằng việc cải cách và mở cửa nền kinh tế mang tên Đổi mới, nâng cấp lực lượng vũ trang trong đó chú trọng nâng cao sức mạnh quân sự hải quân.
Thứ ba là tham gia và xây dựng mối quan hệ tốt với ASEAN, từ đó những mối đe dọa với Việt Nam sẽ ngày càng được xem như mối quan hệ với toàn khu vực.
Thứ tư là tận dụng tất cả mọi cơ hội đến từ sự hiện diện chính thức của các nước, các tuyên bố chung, các cuộc tập trận, và “những bằng chứng trên thực tế” để xác nhận “quyền lãnh thổ” của Việt Nam ở Biển Đông.
Thứ năm là đẩy mạnh các cuộc thương thảo để xoa dịu những tranh chấp lãnh hải giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á về vấn đề Biển Đông, từ đó sẽ có một chính sách thống nhất khi đối mặt với Trung Quốc.
Thứ sáu là lôi kéo những công ty dầu mỏ quốc tế (bao gồm cả Ấn Độ) vào Biển Đông bằng những nhượng bộ hấp dẫn trong các hợp đồng khai thác.
Thứ bảy là phát triển một mối quan hệ thân mật hơn với Nhật Bản, đồng thời nâng cao hợp tác quân sự với Nga và Ấn Độ – trong đó có thể bao gồm cả quyền tiếp cận cảng Cam Ranh.
Thứ tám là tuyên bố với Bắc Kinh một cách thường xuyên và thẳng thắn rằng Việt Nam “không thể nào chấp nhận” những đòi hỏi chủ quyền trên biển của Trung Quốc.
Cuối cùng là phát triển hơn nữa mối quan hệ với Hoa Kỳ trên nhiều phương diện, bao gồm cả kinh tế, ngoại giao lẫn quân sự.
Việc phát triển mối quan hệ quân sự với Hoa Kỳ được xem là vô cùng quan trọng. Khởi đầu bằng vào những năm 1980 thế kỷ trước với sự hợp tác thận trọng trong vấn đề tìm kiếm các quân nhân Mỹ bị cầm tù và mất tích trong thời chiến tranh, sau đó mãi cho đến giữa thập niên 1990 thì các hợp đồng hợp tác quân sự mới được khởi động. Ngày nay, mối quan hệ này đã nảy nở mạnh mẽ bằng những chuyến viếng thăm hàng năm của lực lượng hải quân Hoa Kỳ đến các cảng Việt Nam, những “cuộc đối thoại chiến lược” có tổ chức giữa các lực lượng quốc phòng hai nước, và những ám chỉ của các bậc lão thành cách mạng về việc phát triển mối “quan hệ chiến lược” với Hoa Kỳ. Trong đó, động cơ rõ ràng nhưng không được tuyên bố là những lo ngại chung xung quanh vấn đề Trung Quốc.
Môi trường chiến lược của Việt Nam
Sức mạnh quân sự đang lên của Trung Quốc về cơ bản đã tạo ra một môi trường chiến lược bất đối xứng cho Việt Nam. Ngày nay sẽ chẳng có cơ hội nào cho Việt nam lặp lại thành công trong giao tranh quân sự với Trung Quốc như năm 1979 – và Hà Nội hiểu rõ điều này. Nếu như Trung Quốc tỏ ra cứng rắn – ví dụ như trục xuất các ngư dân Việt Nam tại phần lớn Biển Đông – thì Hà Nội có thể bất lực trong việc ngăn cản việc này. Nhưng những biến chuyển trong khu vực hiện nay lại đang mang lại lợi thế cho Việt Nam.
Đầu tiên phải kể đến là sự chuyển hướng tập trung chiến lược của Hoa Kỳ sang khu vực Đông Nam Á và Biển Đông. Hà Nội nhận thức rõ rằng chỉ có sức mạnh hải quân Hoa Kỳ mới có thể làm một đối trọng hiệu quả đối với sự hung hăng ngày càng gia tăng của Bắc Kinh.
Thứ hai là những lo ngại đang ngày càng gia tăng và hiện hữu trong khu vực Đông Nam Á về những tính toán của Trung Quốc, từ đó dẫn đến việc các nước trong khu vực lần lượt bày tỏ mối lo ngại chung với Hoa Kỳ về vấn đề Bắc Kinh. Trung Quốc lâu nay vẫn muốn giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông với các nước Đông Nam Á thông qua đối thoại song phương. Việt Nam lại muốn theo đuổi giải pháp ngược lại – đó là quốc tế hóa và công khai hóa vấn đề tranh chấp lãnh hải. Trong trường hợp đặc biệt này, những lợi thế lại đang nghiêng về phía Việt Nam chứ không phải là Trung Quốc.
Việt Nam có một lịch sử hào hùng trong công cuộc đấu tranh và gìn giữ nền độc lập với phương Bắc, cuộc chiến chống Pháp và sự can thiệp của Hoa Kỳ gần đây đem so sánh với nó chỉ là thứ yếu bởi ví gần cả nghìn năm trước đây, người Việt đã duy trì nền độc lập của họ với Trung Quốc (dù với một cái giá không hề nhỏ) cho đến khi hai cuộc chiến ấy xảy ra. Từ quan điểm ấy cho thấy, thời kỳ cai trị của thực dân Pháp, Đệ nhị Thế chiến và cuộc Chiến tranh Lạnh là những sai lầm lịch sử rất nổi bật.
Nhưng suốt quãng thời gian thù địch thì Việt Nam và Trung Quốc lại được hâm nóng và bao trùm bởi những mối đe dọa và các đòi hỏi khác. Trong suốt “cuộc kháng chiến chống Mỹ”, hai nước theo chủ nghĩa Mác-Lê này đã hợp tác với nhau với tư cách là đồng minh thân cận. Nhưng mối hòa hữu này lại nhanh chóng tan biến sau năm 1975, khi mà một Việt Nam thống nhất lại theo phe của Mát-cơ-va và chống lại Bắc Kinh trong mối quan hệ đối đầu thù địch Trung-Xô. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào năm 1979 khi Trung Quốc phản ứng lại việc Việt Nam xâm lược Campuchia (trả thù việc quân Khờ-me Đỏ tấn công các lãng xã gần biên giới Việt Nam) bằng việc điều động 30 sư đoàn Quân đội Nhân dân Trung Hoa (PLA) băng qua biên giới Việt Nam để “dạy cho Hà Nội một bài học”.
Sân chơi mới cho Việt Nam
Bài học căn bản học được là Quân đội Nhân dân Trung Quốc không tham chiến tốt theo tiêu chuẩn quân sự hiện đại. Nền độc lập của Việt Nam vẫn được bảo toàn. Trong hai thập niên sau đó, mối quan hệ Việt-Trung bước vào một giai đoạn trầm lắng có toan tính. Cả hai nước đều phải đối mặt với những nhiệm vụ lớn về phát triển kinh tế xã hội. Sự xụp đổ của khối Xô Viết vào đầu thập niên 1990 thế kỷ trước đã có ảnh hưởng lớn về tư tưởng đến cả hai nước. Về phía Việt Nam, Hà Nội đã mất đi một nước bảo trợ quan trọng, nước mà đã cung cấp và trang bị cho họ về cả an ninh lẫn viên trợ về kinh tế. Nó cũng đánh dấu sự chuyển đổi sang một giai đoạn có bối cảnh chiến lược hoàn toàn mới hiện hữu bởi hai thực tế là vị trí vốn có của Hoa Kỳ trên thế giới như một “siêu cường duy nhất” và sức mạnh trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực, nơi là bao gồm những lợi ích của Việt nam.
ASEAN và vị thế đang lên của nó trong khu vực là một minh chứng cho khả năng của Hà Nội trong việc giành một vị thế trung lập giữa lợi ích của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Việc ngày càng thắt chặt mối quan hệ với Hoa Kỳ, kẻ thù trước đây của Hà Nội, là một minh chứng rõ ràng nhất về sự khôn ngoan của Hà Nội trong việc giải quyết hài hòa những khó khăn cố hữu của nước này.
_________
* Tiến sĩ Marvin Ott là một chuyên gia Nghiên cứu Chính sách Công cộng tại Trung tâm Quốc tế Woodrow Wilson và là trợ giảng tại Đại học John Hopkins. Ông tặng bài viết này cho RSIS Commentaries.
© 2012 Bản tiếng Việt TCPT
http://phiatruoc.info/?p=7422
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét